Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Khảo sát và xây dựng quy trình sấy gỗ bạch đàn trắng được trồng trên địa bàn lâm trường eakar

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.61 KB, 46 trang )

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Hiện trạng sử dụng gỗ hiện nay trên thế giới và ở Việt Nam
- Nhu cầu về gỗ trên thế giới cũng như ở Việt Nam không ngừng gia tăng để
phục vụ cho các nhu cầu về xây dựng, trang trí, các vật liệu dùng trong gia đình,
Mặc dù đã có rất nhiều vật liệu mới ra đời như nhựa, sắt, nhôm, kính, nhưng vẫn
không thể thay thế được vị trí của gỗ trong thị hiếu của người tiêu dùng bởi tính
thẩm mỹ và chất lượng của nó.
- Từ nhu cầu gỗ ngày càng gia tăng đã làm tăng áp lực đến nguồn tài nguyên
rừng mà đặc biệt là tài nguyên cây gỗ cả từ rừng tự nhiên và rừng trồng. Nó đã đặt
ra cho toàn xã hội nói chung và nghành Lâm nghiệp nói riêng đặc biệt là các ngành
khai thác, chế biến làm sao để cung cấp gỗ vừa đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả lại vừa
đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng cả về chất lượng lẫn số lượng.
- Việc nâng cao công nghệ khai thác, công nghệ xẻ mộc, sấy đã đem lại
nhiều thành công trong việc sử dụng gỗ cũng như làm tăng tỉ lệ thành khí trong việc
sử dụng gỗ.
- Trong các loại hình đó sấy là một công nghệ quan trọng trong việc nâng
cao năng suất và chất lượng gỗ. Sấy là một dạng công nghệ làm giảm độ ẩm của gỗ
đến mức cho phép đảm bảo tăng tính cơ lí của gỗ, rút ngắn thời gian phơi khô, tránh
mối mọt,… đem lại giá trị kinh tế và giá trị sử dụng cao. Do vậy việc khảo sát và
xây dựng quy trình sấy gỗ cho từng loại gỗ là một việc làm rất cần thiết và cần được
quan tâm phát triển.
1.1.2. Đặc tính riêng biệt của gỗ Bạch đàn trắng
Để giảm áp lực về nhu cầu gỗ từ rừng tự nhiên, việc đưa các loài cây gỗ có
giá trị về kinh tế cũng như về sử dụng đã và đang được quan tâm phát triển. Trong
những loài cây rừng trồng đó, Bạch đàn trắng (Eucalypus camaldulensis) đang được
nghành Lâm nghiệp gây trông ở nhiều vùng trong cả nước. Đây là loài cây nhập
nội, nhưng đặc biệt tỏ ra rất thích hợp với điều kiện sinh thái của Việt Nam. Bạch
đàn là loài cây có giá trị về nhiều mặt ngoài việc cung cấp gỗ có giá trị kinh tế cao,
rừng Bạch đàn còn góp phần vào việc phủ xanh đất trống đồi núi trọc và bảo vệ môi
1


trường sinh thái. Qua nghiên cứu và tìm hiểu các tài liệu liên quan, đề tài thấy gỗ
Bạch đàn trắng có các đặc tính chủ yếu sau:
- Gỗ có khối lượng, thể tích trung bình.
- Gỗ có tỉ trọng nhẹ, màu sáng, có tính chất cơ lí bền.
- Hiện nay người ta sử dụng gỗ làm trụ rào, nguyên liệu ván dăm, Do vậy
không khai thác được một cách có hiệu quả các đặc tính tốt của gỗ Bạch đàn trắng.
- Tuy Bạch đàn trắng có tốc độ tăng trưởng nhanh nhưng lại có ứng suất sinh
trưởng lớn, ứng suất tách thấp vì thế gỗ thường bị tách sau khi chặt hạ, kể cả khi
cưa xẻ đặc biệt là khi sấy ở nhiệt độ cao. Qua những phân tích đó ta thấy việc tìm ra
chế độ sấy thích hợp để tận dụng những đặc tính tốt đó của gỗ Bạch đàn trắng là rất
cần thiết.
Từ những vấn đề đã trình bày ở trên, để góp phần trong việc sử dụng gỗ
Bạch đàn trắng một cách có hiệu quả nhất, được sự phân công của khoa Nông lâm
và sự hướng dẫn của thầy giáo Thạc sĩ Trần Trọng Bắc, tôi thực hiện đề tài: "Khảo
sát và xây dựng quy trình sấy gỗ Bạch đàn trắng được trồng trên địa bàn Lâm
Trường Eakar, huyện Eakar, tỉnh Đăk Lăk".
1.2. Ý nghĩa của việc khảo sát và xây dựng quy trình sấy gỗ
- Việc khảo sát và xây dựng quy trình sấy gỗ sẽ làm tăng giá trị sử dụng và
kinh tế của gỗ Bạch đàn trắng.
2
2. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Các nghiên cứu về sấy gỗ Bạch đàn
2.1.1. Trên thế giới
Theo các tác giả Walter G.Kauman, Jean Geraro, Husiging, Wang HuaiJun:
các loại gỗ Bạch đàn chiếm tỷ lệ nhiều nhất trên thế giới là ở Australia, sau đó là
những địa danh có nguồn Bạch đàn và có đầu tư nghiên cứu sử dụng chúng từ năm
1788 là đảo Islands, Philippinnes, Australia, gỗ rừng trồng Bạch đàn đã mở rộng ra
khắp nơi trên thế giới. Sau đó nó được trồng ở các nước như Miến Điện, Bắc và
Nam Phi, Nam Mỹ và California với diện tích xấp xỉ 8 – 12 triệu ha, trong đó có
hơn 4 triệu ha ở Brazin.[1]

Những năm trước đây gỗ Bạch đàn chủ yếu được sử dụng để làm nguyên liệu
sản xuất giấy, các trụ cột điện tạm thời ở nông thôn,… Đến năm 1928, viện công
nghiệp rừng của Australia đã nghiên cứu công nghệ chế biến và sử dụng gỗ Bạch
đàn vào nhiều mục đích khác nhau, đặc biệt là sản xuất hàng mộc và dùng trong xây
dựng. Trong số hơn 500 loài Bạch đàn trên thế giới, đã nghiên cứu và đưa vào sử
dụng 200 loài theo khuyến cáo của Fao và của Australia, khối lượng thể tích của các
loài Bạch đàn biến động từ (450 – 1000) kg/m
3
.
Hiện nay có nhiều công trình nghiên cứu của một số tác giả về sấy gỗ đã được
đưa vào áp dụng thành công trong sản xuất:
- Tác giả R.L.Northway, khi nghiên cứu về gỗ Bạch đàn và gỗ Sồi năm 1996
đã đưa ra chế độ sấy cho hai loại gỗ nói trên ở hai cấp chiều dày (27 – 30) mm và
(50 – 55) mm. Ông đã đưa ra các thông số về nhiệt kế khô và độ ẩm tương đối của
chế độ sấy phù hợp các mức độ ẩm khác nhau của gỗ. Theo ông trong quá trình sấy
tuỳ theo diễn biến độ ẩm của gỗ mà điều chỉnh các thông số liên quan cho phù hợp
để giảm khuyết tật của gỗ đến mức thấp nhất.
- Các tác giả Paris Alexiou, John F.Marchant khi nghiên cứu về các loại ván
có kích thước (100 x 50) mm đã đưa ra những vấn đề cần chú ý trong quá trình sấy
đó là:
+ Mối quan hệ giữa độ ẩm của môi trường sấy và nhiệt độ sấy.
3
+ Kiểm tra độ ẩm và khuyết tật gỗ một cách định kì trong quá trình sấy để
tìm ra biện pháp khắc phục kịp thời.
+ Khi sấy được 1/2 thời gian sấy thì cần kiểm tra mẫu thí nghiệm.
+ Ở giai đoạn 2 của quá trình sấy,khi độ ẩm gỗ còn 63% thì kiểm tra khuyết tật
mo móp của gỗ.
+ Các tác giả cũng đề cập đến vấn đề sức căng, theo các ông thì chính sức
căng là nguyên nhân làm nứt bờ mặt gỗ. Đầu tiên là nứt ở dạng răn mặt, sau đó nếu
sức căng vẫn tiếp tục phát triển thì vết nứt sẽ sâu hơn.

+ Các tác giả cũng đã tìm ra được nguyên nhân của sức căng bề mặt là do dốc
sấy (U) quá lớn, sấy quá nhanh làm tăng sự chênh lệch độ ẩm giữa các lớp bên
trong so với lớp bên ngoài của ván.
- Tác giả Rodolfo J.Newman người Chi Lê đã đưa ra kết quả thí nghiệm của
việc sấy loại gỗ Bạch đàn Globulus còn non, tươi theo các chế độ sấy khác nhau. Nếu
ván dày 30mm, thời gian sấy 35 ngày thì phải sấy với chế độ nhiệt rất thấp mới có thể
hạn chế được khuyết tật của gỗ sấy, còn nếu hong phơi trong không khí, gỗ có chiều
dày 30mm thì thời gian hong phơi phải mất tới (8 – 15 ) tuần, tuỳ theo thời tiết.
Trên thế giới việc nghiên cứu sấy đặc biệt là các loại gỗ rừng trồng được quan
tâm từ lâu. Bước đầu tạo tiền đề, cơ sở vững chắc cho việc nghiên cứu, phát hiện và
ứng dụng sau này.
2.1.2. Ở Việt Nam
Việc nghiên cứu các quy trình sấy gỗ trên thế giới đã được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm phát triển từ khá lâu. Tuy nhiên ở Việt Nam việc nghiên cứu các quy
trình sấy gỗ rừng trồng, đặc biệt là gỗ Bạch đàn trắng thì vẫn là một vấn đề khá mới
mẻ, nó chỉ được quan tâm và phát triển trong một vài thập niên gần đây.
- Tác giả Hứa Thị Huần (tháng 3/2001), trong đề tài nghiên cứu cấp bộ của
mình tác giả đã tiến hành nghiên cứu quy trình sấy loại gỗ Bạch đàn trắng
(E.camaldulensis) tại Nông trường Sông Hậu. Quá trình thí nghiệm được thực hiện
như sau:
Gỗ Bạch đàn trắng sau khi chặt hạ được đem xẻ ở các cấp chiều dày (35 –
45) mm và (50 – 60) mm. Sau đó đưa vào sấy ở 4 cấp nhiệt độ (45 – 55)
o
C, ( 50 –
60)
o
C, ( 60 – 70)
o
C, ( 60 – 80)
o

C, thời gian sấy để đạt (8 – 12)% của cấp chiều dày
4
(35 – 45) mm lần lượt theo các cấp nhiệt độ trên là: 20 ngày, 17 ngày, 15 ngày và
10 ngày. Còn đối với cấp chiều dày (50 – 60) mm thì thời gian sấy tương ứng là 30
ngày, 25 ngày, 20 ngày và 15 ngày. Về việc đánh giá chất lượng gỗ sau khi sấy tác
giả kết luận rằng với cả 2 cấp chiều dày nói trên, khi sấy ở các cấp nhiệt độ cao (60-
70)
o
C và (70 – 80)
o
C thì độ ẩm gỗ sấy đảm bảo, thời gian sấy được rút ngắn nhưng
khuyết tật của gỗ sấy rất cao. Còn nếu sấy ở nhiệt độ (45 – 55)
o
C thì khuyết tật ít
hơn nhiều nhưng thời gian sấy dài ảnh hưởng tới sức sản xuất và tính kinh tế.
- Tác giả Hồ Xuân Các: đã có nhiều công trình nghiên cứu và cũng đã đưa ra
nhiều chế độ sấy cho rất nhiều loại gỗ khác nhau, bao gồm cả gỗ tự nhiên và gỗ rừng
trồng. Ông đã phân các loại gỗ thành các nhóm khác nhau. Theo ông, gỗ Bạch đàn
trắng được xếp vào nhóm 3 là loại gỗ có khối lượng riêng trung bình, tuy nhiên có
một đặc thù đó là rất dễ nảy sinh các khuyết tật sấy. Quy trình sấy gỗ Bạch đàn (đã
qua hong phơi 1 tuần) cho một số cấp chiều dày đã được tác giả đưa ra là: Từ (65 –
75) mm thì sấy ở nhiệt độ (40 – 50)
o
C thời gian sấy là 25 ngày, từ (50 – 60) mm thì
sấy ở nhiệt độ (40 – 60)
o
C thời gian sấy là 20 ngày, độ ẩm cuối cùng đạt (10 - 15)%.
- Tác giả Trần Trọng Bắc cũng đã thực hiện đề tài nghiên cứu giải pháp
công nghệ khắc phục khuyết tật do sấy gỗ Bạch đàn trắng. Cùng với việc khắc phục
các khuyết tật cho gỗ sau khi sấy, tác giả đã đưa ra các chế độ sấy khác nhau với

kích thước bề dày 25 mm ở các cấp nhiệt độ: (40 – 50)
0
C thời gian sấy là 15 ngày,
(50 – 60)
0
C thời gian sấy là 13 ngày, (60 – 70)
0
C thời gian sấy là 10 ngày.
- Tác giả Trần Tuấn Nghĩa trong bài “Nghiên cứu hoàn thiện chế độ sấy một
số loại gỗ rừng trồng” đăng trên tạp chí Nông Nghiệp va Phát Triển Nông Thôn
(tháng 1/2006) cũng đã đưa ra chế độ sấy cho một số loại gỗ Bạch đàn với cùng một
cấp chiều dày là 50mm nhưng sấy ở các thông số nhiệt độ, độ ẩm môi trường và
thời gian sấy khác nhau.
2.1.3. Ở Đăk Lăk
Việc nghiên cứu, kế thừa, ứng dụng các quy trình sấy gỗ cũng được các lâm
trường, công ty, xí nghiệp quan tâm thực hiện và phát triển mạnh trong những năm
gần đây. Hiện nay, trong địa bàn tỉnh có nhiều cơ sở chế biến và gia công gỗ trong
đó sấy là một công đoạn quan trọng được các cơ sở đặt lên hàng đầu. Đã có một số
cơ sở lắp ráp và vận hành các lò sấy gỗ hiện đại như Lâm trường Ma Đrăk được sự
5
hổ trợ của chương trình Lâm nghiệp Việt - Đức, đã xây dựng một lò sấy gỗ sử dụng
bằng năng lượng mặt trời với kinh phí 95 nghìn USD (khoảng 1,5 tỷ đồng). Đây là
lò sấy thuộc loại hiện đại thực hiện nguyên lý bức xạ nhiệt (hiệu ứng nhà kính) với
bảng điều khiển tự động. Tuỳ theo từng loại gỗ và độ dày của sản phẩm mà đặt
chương trình sấy khác nhau. Mỗi lần sấy được 50m
3
với thời gian 15 ngày, tiết kiệm
hơn 60% chi phí và thời gian. Trong trường hợp thiếu năng lượng mặt trời lò sấy sẽ
được nồi hơi cung cấp nước nóng để bổ sung năng lượng nhiệt giúp cho lò hoạt
động bình thường.

Ngoài ra còn có một số cơ sở sấy như Xí nghiệp chế biến gỗ Buôn Mê Thuột
sử dụng lò sấy nhiệt đã thực hiện các quy trình sấy Tràm bông vàng, Cao su,… Công
ty chế biến gỗ Tây Nguyên sử dụng lò sấy hơi nư cớ đã thực hiện quy trình sấy Cao
su, Tếch, Dầu,… Tuỳ theo yêu cầu của khách hàng cũng như mục đích gia công của
gỗ mà người ta quyết định kích thước, thời gian và độ ẩm cuối cùng mà sản phẩm đạt
được như gỗ Tếch dày 30mm với nhiệt độ 58
o
C thời gian sấy là 30 ngày.
Như vậy việc thực hiện các quy trình sấy gỗ hiện nay trong tỉnh ta rất đa
dạng, không chỉ tập trung sấy các loại gỗ từ rừng tự nhiên như truớc đây mà còn
quan tâm, nghiên cứu các quy trình sấy gỗ rừng trồng. Đây là một minh chứng cho
ta thấy việc gây trồng, kinh doanh các cây gỗ rừng trồng đã được người dân, công
ty, lâm trường quan tâm phát triển. Trong đó Bạch đàn trắng với nhiều ưu thế như
mọc nhanh, thân thẳng, ít sâu bệnh, thích hợp với nhiều loại đất đặc biệt là đất đồi
núi đang được gây trồng nhiều nơi. Do đó việc nghiên cứu, vận dụng các quy trình
sấy gỗ rừng trồng mà đặc biệt là quy trình sấy gỗ Bạch đàn trắng đang là một hướng
đi đúng và cần được quan tâm phát triển.
2.2. Cơ sở lí luận về sấy gỗ
2.2.1. Qúa trình di chuyển nước bên trong gỗ
Khi sấy gỗ thì phần nước trong gỗ chuyển dịch dần ra ngoài lớp mặt, rồi sau
đó từ lớp mặt ngoài của gỗ nước tiếp tục bay hơi đi và làm giảm ẩm trong gỗ.
Nhưng tốc độ chuyển dịch và tốc độ bay hơi này không giống nhau, tốc độ chuyển
dịch của nước từ bên trong gỗ ra ngoài thường chậm hơn hơn nhiều so với tốc độ
bay hơi của nước ở ngoài mặt gỗ. Chính vì vậy mà ta thấy lớp ngoài mặt của gỗ
thường nhanh khô hơn lớp gỗ bên trong. Nếu nhiệt độ của không khí xung quanh
6
càng cao (nhiệt độ của môi trường sấy), độ ẩm tương đối của không khí càng thấp
thì tốc độ bay hơi của nước ở lớp gỗ bề mặt càng nhanh, lớp gỗ ngoài càng chóng
khô. Mặt khác, do cấu tạo của gỗ cũng hạn chế sự di chuyển của nước từ bên trong
gỗ ra ngoài mặt. Do đó trong giai đoạn đầu của quá trình sấy, hình thành nên sự

chênh lệch về độ ẩm của các lớp gỗ bên trong và lớp gỗ bên ngoài. Mức độ chênh
lệch đó càng lớn thì sự di chuyển nước tứ bên trong ra bên ngoài mặt càng mạnh và
gỗ sẽ càng chóng khô.
Như vậy sự chênh lệch về độ ẩm trong tấm gỗ là động lực của tốc độ di chuyển
nước bên trong gỗ ra ngoài mặt. Mức độ chênh lệch này càng lớn thì tốc độ di chuyển
của nước càng nhanh. Mặt khác, khi gỗ khô xuống dưới điểm bão hoà thớ gỗ thì gỗ sẽ
bắt đầu co rút, trong giai đoạn này nước trong gỗ bay hơi nhanh dẫn đến co rút lớn và
hay xảy ra không đồng đều giữa các lớp trong gỗ dễ sinh ra hiện tượng nứt nẻ và cong
vênh. Vì vậy trong suốt quá trình sấy ta cần phải chú ý giai đoạn này đây là giai đoạn
mà độ ẩm của lớp gố ngoài xuống dưới điểm bảo hoà của thớ gỗ.
Ngoài ra sự chênh lệch của nhiệt độ giữa lớp gỗ trong và lớp gỗ ngoài là
động lực thứ hai thúc đẩy tốc độ di chuyển nước trong gỗ. Dưới điều kiện chênh
lệch nhiệt độ như vậy, nước sẽ di chuyển từ lớp gỗ có nhiệt độ cao đến lớp gỗ có
nhiệt độ thấp, tức là di chuyển cùng hướng với hướng chuyển dịch của nhiệt độ.
Nhưng khi sấy theo phương pháp sấy bình thường, hướng di chuyển của
nhiệt lại ngược với hướng di chuyển của nước làm mất tác dụng của động lực này
dẫn đến hạn chế sự di chuyển của nước. Để tận dụng hiệu quả động lực thứ hai này,
người ta tiến hành phương pháp sấy cao tần, dưới tác dụng của nó gỗ sẽ được làm
nóng dần lên tránh được sự chênh lệch về nhiệt độ làm cản trở sự di chuyển của
nước ra phía ngoài.
Cuối cùng sự chênh lệch của sử áp suất giữa áp suất hơi nước bên trong gỗ vào
áp suất của môi trường không khí là động lực thứ ba thúc đẩy tốc độ di chuyển của
nước từ lớp gỗ bên trong ra lớp gỗ ngoài mặt. Sấy chân không và sấy trong môi trường
chất lỏng có nhiệt độ lớn hơn 100
0
C là phương pháp phát huy triệt để động lực này.
2.2.2. Qúa trình bay hơi nước bên trên bề mặt gỗ
Hiện tượng bay hơi nước trên bề mặt nước hoặc trên bề mặt một vật ướt chỉ
xảy ra khi xung quanh chưa đạt đến trạng thái bão hoà, tức là khi ϕ < 100% (ϕ là độ
7

ẩm không khí) độ ẩm của không khí xung quanh càng bé thì quá trình bay hơi càng
dễ dàng, nước bay hơi càng nhanh, càng mạnh.
Tuy thế dưới điều kiện không khí bảo hoà (ϕ = 100%) nước cũng có khả
năng bay hơi, nhưng với điều kiện là nhiệt độ của nước hoặc của vật ướt phải lớn
hơn nhiệt độ của không khí xung quanh.
Tốc độ bay hơi của nước trên bề mặt nước tự do còn phụ thuộc vào mức độ
chênh lệch áp suất hơi của lớp sát trên bề mặt nước tự do (thường ở trạng thái bão
hoà hơi nước) và áp suất của không khí tương ứng với độ ẩm của không khí hiện
tại. Tức là phụ thuộc vào ∆P = P
h
- P
n
. Bên trên bề mặt nước tự do luôn luôn phủ
một lớp không khí mỏng bão hoà hơi nước, lớp đó dày hay mỏng là do tốc độ luân
hồi và di chuyển của không khí quyết định. Nếu như lớp tiếp cận với bề mặt nước bị
gió làm di chuyển đi (gió gây nên sự chuyển động tuần hoàn), thì bề dày của lớp
không khí ấy sẽ mỏng đi, nồng độ hơi nước trong lớp ấy sẽ loảng đi, do đó tạo điều
kiện thuận lợi cho hơi nước từ bề mặt nước đi vào không khí xung quanh dễ dàng
hơn. Tốc độ tuần hoàn của không khí trên bề mặt nước hoặc trên bề mặt vật ướt
càng nhanh thì nước bay hơi càng mạnh.
Từ đó ta thấy rằng, tốc độ chuyển động của không khí là nhân tố thứ hai
quyết đinh cường độ bay hơi trên bề mặt nước tự do cũng như trên bề mặt gỗ ướt.
Dưới áp suất của không khí bình thường, lượng nước bay hơi trong một giờ
trên diện tích 1m
2
có thể tính bằng công thức sau:
m = b( P
h
- P
n

) (kg/m
2
h)
Trong đó:
b: hệ số bay hơi bề mặt.
b = 0,00168 + 0,00128 ω
ω: là tốc độ tuần hoàn của không khí chuyển động dọc theo bề mặt bay hơi.
P
h
: áp suất hơi nước của lớp sát trên bề mặt nước tự do.
P
n
: áp suất hơi nước trong không khí.
2.2.3. Qúa trình sấy
Trong quá trình sấy, tốc độ biến đổi của hàm lượng nước trong gỗ không
giống nhau trong từng giai đoạn của quá trình sấy. Nó được thể hiện ở hai đồ thị sau:
8
Tốc độ sấy nói lên sự biên thiên độ ẩm của gỗ trong từng đơn vị thời gian
sấy. Nhìn vào hai đồ thị ta thấy:
+ Đoạn OA: biểu thị thời gian làm nóng nguyên liệu của quá trình sấy, đây là
giai đoạn khởi lò, nước trong gỗ hầu như không bay hơi ra ngoài môi trường không
khí. Trong giai đoạn này nhiệt lượng cung cấp chủ yếu làm cho gỗ nóng lên đến
một nhiệt độ nhất định đảm bảo sự thoát hơi nước sau khi này dễ dàng hơn. Do đó
tốc độ thoát hơi nước trong giai đoạn này bằng 0.
+ Đoạn AB: biểu thị giai đoạn sấy đẳng tốc, tốc độ sấy đồng đều như nhau.
Trong giai đoạn sấy đẳng tốc, nước tự do trong gỗ thoát ra ở lớp bề mặt gỗ, độ ẩm
của nó giảm dần và đạt đến độ ẩm của điểm bão hoà thớ gỗ. Trong giai đoạn này
nước tự do trong gỗ còn đủ và kịp thời di chuyển từ những lớp gỗ gần lớp gỗ ngoài
đi ra bề mặt gỗ và giữ được mức nước liên tục đủ để bù lại cho lượng nước trên bề
mặt gỗ đã bay hơi đi.

Tốc độ sấy giữ đều và liên tục mãi cho đến khi độ ẩm của gỗ đạt đến độ ẩm
giới hạn W
K
.
Điểm uốn trên đồ thị hình 2.1 và điểm gãy trên đồ thị hình 2.2 tương ứng với
độ ẩm giới hạn ấy gọi là điểm giới hạn K.
Do sự phân bố của độ ẩm theo bề dày của ván không đồng đều, độ ẩm giới hạn
W
K
thường lớn hơn điểm bão hoà thớ gỗ và khi độ ẩm của các phần của ván càng
không đồng đều thì giá trị của W
K
sẽ càng lớn và lớn hơn nhiều so với điểm bão hoà
W
p
W%
W
k
W
l
A
B
C
K
Hình 2.1. Sự thay đổi độ ẩm của gỗ
sấy theo từng thời gian sấy
dM/dﺡ=const
dW/dﺡ
dW/d ﺡ=0
dW/d ﺡ=0

A
B
C
Hình 2.2. Tốc độ sấy trong từng
giai đoạn sấy khác nhau
9
thớ gỗ của độ ẩm theo bề dày của ván không đồng đều, độ ẩm gới hạn W
K
thường lớn
hơn điểm bão hoà thớ gỗ. Khi độ ẩm trong các thành phần của ván càng không đồng
đều thì giá trị của W
K
sẽ càng lớn và lớn hơn nhiều so với điểm bão hoà thớ gỗ.
+ Đoạn BC: biểu thị giai đoạn sấy giảm tốc đây là giai đoạn chủ yếu của quá
trình sấy gỗ, nó là giai đoạn dài nhất và có tính chất quyết định đến thời gian và
chất lượng gỗ sấy. Độ ẩm của gỗ ngoài mặt ván trong giai đoạn này giảm dần
xuống thấp hơn điểm bão hoà thớ gỗ. Tốc độ bay hơi trong giai đoạn này phần lớn
phụ thuộc vào lượng nước từ bên trong di chuyển ra ngoài mặt gỗ và phụ thuộc
vào tốc độ của quá trình khuyếch tán hơi nước (nước thấm) ở lớp gần lớp ngoài
mặt và lớp ngoài mặt. Do cấu tạo của gỗ mà quá trình mao dẫn của nước bị đứt
làm hạn chế sự di chuyển của nước từ bên trong ra và không kịp để bù đắp lại
được lượng nước bay hơi trên bề mặt. Do đó tốc độ sấy trong giai đoạn này giảm
dần và đạt đến giá trị bằng không, khi độ ẩm của gỗ đạt đến độ ẩm thăng bằng của
môi trưòng tương ứng như điểm C trên đồ thị. Vì gỗ đã đạt đến độ ẩm thăng bằng
với môi trường sấy bên ngoài và sự bay hơi dưới điều kiện ấy sẽ không xảy ra nữa
và quá trình bay hơi kết thúc.
Trong thực tế sản xuất, quá trình sấy kết thúc tương đối sớm hơn một ít và khi
sấy độ ẩm của gỗ sẽ cao hơn độ ẩm thăng bằng W
tb
khoảng vài phần trăm, vì tốc độ

sấy càng về sau càng chậm. Vì vậy muốn gỗ đạt đến độ ẩm thăng bằng thì sẽ mất
một thời gian khá dài làm tăng chi phí sản xuất ảnh hưởng đến giá trị kinh tế. Tức là
nếu muốn sấy gỗ khô, ví dụ đến 10% thì ta phải khống chế chế độ sấy trong lò sấy ở
giai đoạn cuối tương ứng với độ ẩm thăng bằng 8% để khi kết thúc quá trình sấy
sớm hơn vài phần trăm sẽ lợi hơn về mặt thời gian và vẫn đảm bảo sấy đến độ ẩm
cuối cùng mong muốn là 10%.

10
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quy trình sấy gỗ Bạch đàn trắng được
trồng trên địa bàn Lâm Trường Eakar, huyện Eakar, tỉnh Đăk Lăk.
3.1. Điều kiện tự nhiên của khu vực nghiên cứu
Khu vực tiến hành lấy mẫu nghiên cứu là đồi Chư Cúc thuộc sự quản lý của
lâm trường Ea Kar, huyện Ea Kar, tỉnh Đăk Lăk.
3.1.1. Vị trí địa lí
Phía Đông giáp xã CưNi và thị trấn EaKar.
Phía Tây giáp thị trấn EaKar và huyện Krông Păk.
Phía Nam giáp thị trấn EaKar.
Phía Bắc giáp xã EaÔ.
3.1.2. Các điều kiện khác: đất đai, khí hậu, thuỷ văn,
Đất đai: tình hình phân bố đất tương đối đồng nhất, loại đất chính là đất
feralit màu vàng đỏ phát triển trên đá granit, tầng đất dày, có lẫn nhiều đá sỏi.
Thực bì: chủ yếu là cây lau lách, cây bụi, cây gỗ nhỏ mọc rải rác.
Khí hậu: được chia làm hai mùa rõ rệt. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến
tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau.
+ Chế độ nhiệt: nhiệt độ của vùng có sự giao động khá lớn với mức biến
động từ 7
0
- 13
0

C. Nhiệt độ bình quân tháng thấp nhất là có thể xuống (14 – 15)
0
C,
tháng cao nhất có nhiệt độ là (34 – 35)
0
C. Nhiệt độ bình quân năm là 23,4
0
C.
+ Chế độ mưa: lượng mưa tập trung chủ yếu vào các tháng của mùa mưa,
đặc biệt là các tháng 8, 9, 10. Lượng mưa bình quân là 1800 mm/năm.
+ Chế độ gió: tại khu vực đồi Chư Cúc có hai hướng gió chính tương ứng
với hai mùa trong năm. Gió mùa Đông Bắc trong mùa khô và gió Tây Nam trong
mùa mưa.
Thủy văn: tại khu vực lấy mẫu nghiên cứu nằm cạnh hồ Ea Kar với trữ lượng
nước lớn, đặc biệt là vào các tháng có lượng mưa lớn, có nhiều sông suối nhỏ đổ về.
Vì địa hình tại khu vực này có độ dốc khá lớn nên mùa mưa hay xảy ra xói mòn đất
và mùa khô có nhiều tháng không mưa hoặc mưa với một lượng rất ít. Do đó dễ xảy
ra cháy rừng đặc biệt là tại khu vực đỉnh đồi.
11
3.2. Mục đích của lô rừng
Đồi Chư Cúc với vị thế một phần tiếp giáp thị trấn Ea Kar, một phần lớn lại
tiếp giáp với đất nông nghiệp của các xã lân cận. Do đó, nó được trồng với mục
đích chủ yếu là làm rừng phòng hộ chống xói mòn đất, rừng cảnh quan. Với loại
cây trồng chủ yếu là Bạch đàn trắng chiếm khoảng 70% tổng diện tích với độ tuổi
từ 8 đến 16 tuổi. Ngoài ra, tại khu vực này còn trồng các loài Keo, Xà cừ, Đây là
khu vực được bảo vệ nghiêm ngặt và cấm khai thác dưới mọi hình thức đối với tất
cả các loại cây gỗ có trong lô rừng.
Biện pháp kỹ thuật tác động chính ở đây là tỉa cành nhánh và phát quang
thực bì vào đầu mùa khô để phòng chống cháy rừng.
3.3. Các đặc trưng của lô rừng

Diện tích: khoảng 2500 ha.
Trữ lượng: khoảng 20000 m
3
(chủ yếu là Bạch đàn trắng)
Tuổi của khu rừng: từ 8 đến 16 tuổi.
Đặc điểm của lô rừng: có một số khu vực đã khép tán, một số khu vực còn
trong giai đoạn rừng sào. Mật độ tương đối đồng đều, tuy nhiên một số chỗ mật độ
vẫn còn thưa do cây chết vì sâu bệnh hoặc ngã đổ do gió bão, tại những chỗ này
thảm thực bì mọc dày chủ yếu là lau lách. Vì vậy, cần phải tiến hành trồng dặm và
phát quang cây bụi.
3.4. Điều kiện kinh tế - xã hội của khu vực lấy mẫu nghiên cứu
Thành phần dân tộc sinh sống: các cộng đồng dân tộc sinh sống xung quanh
khu vực lấy mẫu nghiên cứu rất đa dạng gồm 11 cộng động dân tộc khác nhau chủ
yếu là Kinh, Ê Đê, Tày, Nùng,
Số hộ: khoảng 600 hộ, bình quân 5 khẩu/hộ.
Mức thu nhập: thu nhập bình quân còn thấp, 700 đến 800 ngàn
đồng/năm/người. Tình trạng thiếu ăn vào các tháng giáp hạt vẫn còn, mỗi năm thiếu
ăn từ 2 đến 3 tháng.
Trình độ văn hóa: còn thấp, mới chỉ phổ cập hết cấp I, do trình độ nhận thức
của người dân còn hạn chế, đặc biệt là các hộ đồng bào dân tộc thiểu số.
Y tế: đã có trạm y tế xã, mỗi trạm có từ 5 đến 10 giường bệnh, cán bộ y tế và
thuốc men còn thiếu.
12
Giao thông: khu vực đồi Chư Cúc nằm tiếp giáp với tuyến quốc lộ 26, thuận
tiện cho việc đi lại. Nhưng ở các xã thì đường đất là chính, về mùa mưa thường lầy
lội trơn trượt gây khó khăn cho việc đi lại.
Qua đây ta thấy, đời sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn, đó cũng là
một nguyên nhân quan trọng làm ảnh hưởng đến nguồn tài nguyên của khu rừng.
Do đó, một mặt cần nâng cao dân trí, một mặt cần tiến hành giao đất giao rừng cho
người dân quản lý và chăm sóc bảo vệ dưới sự giám sát của lâm trường để tạo công

ăn việc làm, tăng thu nhập, giảm áp lực đến nguồn tài nguyên của khu rừng, đặc
biệt là nguồn tài nguyên cây gỗ.
13
4. MỤC TIÊU, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Mục tiêu
- Khảo sát và xây dựng quy trình sấy gỗ Bạch đàn trắng có chất lượng gỗ sấy
đảm bảo dung làm gỗ dân dụng. (các thanh của tủ Gacmarê, dùng để làm rải bàn
Salông, các thanh ở hai đầu giường,…)
4.2. Giới hạn của đề tài
- Loại gỗ: Bạch đàn trắng với độ tuổi khoảng (10- 11) tuổi.
- Gỗ Bạch đàn trắng dùng để làm đồ mộc dân dụng trồng tại Lâm trường
EaKar, huyện EaKar, tỉnh Đăk Lăk.
- Kích thước gỗ sấy dày 20 mm, rộng 40 mm, dài 460 mm (20x40x460) mm.
- Phương pháp điều hành sấy: đề tài sử dụng phương pháp diều hành sấy hai
cấp, cấp đầu sấy ở nhiệt độ thấp, cấp sau sấy ở nhiệt độ cao.
4.3. Nội dung
4.3.1. Khảo sát một số quy trình sấy tại Công ty Chế biến gỗ Tây Nguyên
4.3.2. Xây dựng biểu đồ giảm ẩm của 3 quá trình sấy
- Sau khi lựa chọn, lấy mẫu, xẻ mẫu phù hợp với mục đích, xác định kích
thước thích hợp. Tiến hành sấy 30 mẫu có kích thước (10x25x25) mm để xác định
độ ẩm ban đầu (được thực hiện ở phòng thí nghiệm bộ môn Cơ Khí – CNSTH). Sau
đó đưa các thanh gỗ nghiên cứu có kích thước (20x40x460) mm sấy tại Công ty
Chế biến gỗ Tây Nguyên sau khi đã xác định được chế độ nhiệt của 3 quy trình sấy.
Sấy đến khi nào độ ẩm các thanh gỗ đạt từ (10 – 12)% là đạt yêu cầu.
- Dùng phương pháp đồ thị để vẽ biểu đồ ở 3 quy trình.
4.3.3. Xác định các quá trình sấy gỗ Bạch đàn trắng
- Dựa trên kiến thức tham khảo tài liệu, thực tế cơ sở sấy gỗ để từ đó xác
định các thông số công nghệ cho từng quá trình sấy cụ thể.
4.3.4. Đánh giá chất lượng gỗ sấy
Đánh giá riêng trong từng quy trình sấy, chủ yếu đánh giá ở hai dạng khuyết tật:

- Mức độ nứt (đơn vị tính %).
- Độ móp (đơn vị tính mm).
14
4.4. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài sử dụng phương pháp thực nghiệm và phương pháp lí thuyết kết hợp
kế thừa những tài liệu đã có, để thực hiện phương pháp nghiên cứu này, chúng tôi
tiến hành như sau:
4.4.1. Trang thiết bị và dụng cụ thí nghiệm
- Cân kỹ thuật, độ chính xác 0,01g dùng để cân gỗ trong phòng thí nghiệm
nhằm xác định độ ẩm ban đầu của gỗ.
- Tủ sấy dùng để sấy 30 mẫu có kích thước (25x25x10)mm để xác định độ
ẩm ban đầu của gỗ.
- Lò sấy: Dùng để sấy 30 thanh gỗ nghiên cứu có kích thước (20x40x460) mm.
+ Loại lò sấy: Lò sấy hơi đốt.
+ Dung tích: 24m
3

+ Sơ đồ cấu tạo:

+ Nguyên lý hoạt động: Lò đốt (1) đốt nhiên liệu, cung cấp nhiệt cho lò sấy
trong toàn bộ quá trình sấy. Khi nhiệt từ lò đốt được truyền vào lò sấy qua hệ thống
ống dẫn ruột gà (3) (hệ thống này thường được làm bằng những hợp kim có khả
năng toả nhiệt lớn) và nhiệt sẽ được hệ thống quạt (2) quạt và lượng nhiệt đó sẽ
được đưa vào buồng sấy (5) và gỗ nhận nhiệt (quá trình giảm ẩm của gỗ sấy bắt đầu
5 4
1
3
2
Hình 4.1. Sơ đồ cấu tạo lò sấy (theo hình chiếu đứng)
15

diễn ra từ đây). Trong suốt quá trình sấy tuỳ thuộc vào từng giai đoạn mà người ta
điều chỉnh các bộ phận hoạt động cho phù hợp. Trong lò sấy, hệ thống thoát dẫn khí
(4) được điều chỉnh một cách hợp lý, giai đoạn sấy đầu, để hâm nóng gỗ, tăng nhiệt
độ cho lò sấy người ta đóng thoát dẫn khí lại, nhằm mục đích ổn định độ ẩm gỗ sau
khi ra lò. Trong lò sấy, hệ thống quạt dùng để điều chỉnh tốc độ gió (lưu thông khí)
trong lò sấy, giai đoạn sấy đầu người ta không bật quạt mục đích làm cho nhiệt độ
lò sấy nhanh nóng hơn sau đó một ngày người ta mới bắt đầu bật quạt và điều chỉnh
tốc độ theo thời gian. Quạt gió còn có tác dụng quạt nhiệt làm cho nước chuyển
trạng thái lỏng thành khí trong các thời kỳ phun ẩm trong suốt qua trình sấy.
4.4.2. Phương pháp lấy mẫu gỗ sấy
Gỗ Bạch đàn trắng được lấy tại Lâm trường EaKar, huyện EaKar, tỉnh Đăk
Lăk. Chặt một cây có đường kính D1.3 là 18cm ở độ tuổi 10.
Chặt cây tại vị trí 1.3m, cắt bỏ 1m ngọn tính từ cành đầu tiên trở xuống. Ta
được phần còn lại dùng để làm mẫu. Sau đó cắt thành các khúc có chiều dài 1m,
đánh dấu cắt khúc theo thứ tự từ gốc đến ngọn là 1, 2, 3.
Sau khi có các khúc gỗ tròn như trên ta tiến hành xẻ thành các tấm ván có bề
dày 20 mm. Trung tâm các tấm ván này nằm trên các vòng năm như nhau. Như vậy
4 thanh lấy ra từ một khúc cơ bản có cấu tạo cùng vòng năm và 4 thanh này lấy ở 4
góc xoay đều quanh trục khúc gỗ.
D 1 2 3 4 5 6 7 8
16
Rộng 40mm
Dày 20mm
Hình 4.2. Sơ đồ lấy mẫu trên mặt cắt ngang khúc gỗ
C 2 3 4 5 6 7 8 1
B 3 4 5 6 7 8 1 2
A 4 5 6 7 8 1 2 3
Hình 4.3. Cách lấy mẫu xác định độ ẩm ban đầu.
Ta lấy các tấm ván của các khúc gỗ ở các vị trí khác nhau xẻ ra thành các
thanh có kích thước dày 10 mm, rộng 25 mm, dài 460 mm (10x25x460) mm. Sau

đó dùng cưa tay cắt thành các mẫu có kích thước (10x25x25) mm. Tiến hành cắt 30
mẫu có kích thước như trên để xác định độ ẩm ban đầu tại phòng thí nghiệm bộ
môn Cơ Khí – CNSTH. Dùng bút lông đánh số theo thứ tự từ 1 đến 30.
Các tấm ván còn lại ta cũng cắt thành các thanh có các kích thước
(20x40x450) mm. Ta cũng tiến hành cắt 30 mẫu, sau đó chia các mẫu này thành 3
nhóm ngẫu nhiên, mỗi nhóm đều có các thanh gỗ ở các vị trí khác nhau của các
khúc gỗ ban đầu. Dùng bút lông đánh số thứ tự từ 1 đến 30: Nhóm 1 gồm các thanh
từ 1 đến 10; Nhóm 2 gồm các thanh từ 11 đến 20; Nhóm 3 gồm các thanh từ 21 đến
30, để sấy ở 3 quy trình khác nhau.
4.4.3. Phương pháp xử lý số liệu
Dùng các công thức lý thuyết có liên quan để xác định các thông số cần quan
tâm thông qua số liệu đã thu thập được trong suốt quá trình nghiên cứu bao gồm:
4.4.3.1. Độ ẩm ban đầu của mẫu sấy
Mẫu dùng để xác định độ ẩm ban đầu có kích thước (10x25x25) mm được
thực hiện tại phòng thí nghiệm bộ môn Cơ Khí – CNSTH.
Trước khi đem 30 mẫu này vào sấy ta dùng cân kỹ thuật với sai số 0.01 gam
để xác định khối lượng ban đầu của các mẫu. Ứng với 30 mẫu sấy ta có 30 khối
lượng ban đầu khác nhau. Sau đó cho vào lò sấy ở nhiệt độ (85-90)
0
C và tiến hành
theo dõi. Sau khi tiến hành sấy 24 giờ thì cứ 2 tiếng cân định kỳ một lần và ghi lại
số liệu đã cân được ứng với từng mẫu. Đến khi nào cân 3 lần liên tiếp nhau mà khối
lượng của từng mẫu gỗ sấy không thay đổi thì ta coi như gỗ khô kiệt. Chọn khối
lượng tại thời điểm gỗ khô kiệt là m
0
. Ứng với 30 mẫu ta có 30m
0
khác nhau.
Sau khi đã có khối lượng ban đầu, khối lượng gỗ khô kiệt của 30 mẫu khác
nhau ta dùng công thức sau để xác định độ ẩm ban đầu của từng mẫu gỗ:

W
Bđ1
= (m
Bđ1
- m
01
)*100/m
01
(%) (1)
17
Trong đó:
W
Bđ1
là độ ẩm ban đầu của mẫu gỗ thứ nhất (%)
m

là khối lượng gỗ trước khi đem sấy của mẫu gỗ thứ nhất (g)
m
0
là khối lượng gỗ khô kiệt của mẫu thứ nhất (g)
Tương tự, ta cũng dùng công thức trên đối với các mẫu gỗ còn lại để xác
định độ ẩm ban đầu của từng mẫu. Sau đó ta tiến hành xác định độ ẩm ban đầu
chung cho cả 30 mẫu sấy với công thức sau:
W

= (W
Bđ1
+ W
Bđ2
+ + W

Bđ30
)/30 (%) (2)
Trong đó:
W

là độ ẩm ban đầu trung bình cho cả 30 mẫu sấy. Đây là độ ẩm mà
ta cần nghiên cứu.
W
Bđ1
, W
Bđ2
, theo thứ tự là độ ẩm ban đầu của 30 mẫu sấy.
4.4.3.2. Xác định khối lượng gỗ khô kiệt (m
0
) thông qua W

đã tìm ở trên của
từng thanh gỗ trước khi đem vào lò sấy
Ta tiến hành cân khối lượng gỗ ban đầu của các thanh gỗ có kích thước
(20x40x460) mm. Ghi lại khối lượng của từng mẫu đã cân được theo thứ tự.
Sau đó đem các mẫu sấy trên vào sấy tại Công ty Chế biến gỗ Tây Nguyên
với các quy trình sấy khác nhau, cứ 2 ngày ta lại đo độ ẩm một lần để theo dõi sự
giảm ẩm của gỗ theo thời gian, rồi đối chiếu với độ ẩm ban đầu được thực hiện tại
phòng bộ môn.
Đến khi nào độ ẩm trung bình của các mẫu sấy trong từng quy trình đạt (10 –
12)% là kết thúc quá trình sấy.
Cách xác định m
o
như sau: Ta cân riêng các mẫu của ba nhóm gỗ sấy cho 3
quy trình ta được m


và từ công thức (1) ta suy ra:
m
o
= 100*m

/(100+ W

) (g) (3)
Trong đó:
m
o
là khối lượng gỗ khô kiệt của mỗi thanh sấy (g).
m

là khối lượng gỗ trước khi đem sấy (g).
Từ công thức này ta xác định được tất cả các m
o
của các thanh sấy làm cơ sở
cho việc xác định độ ẩm tức thời của các thanh sấy theo thời gian.
4.4.3.3. Xác định độ ẩm tức thời tại thời điểm kết thúc quá trình sấy
18
Từ m
0
của mỗi thanh sấy ta tiến hành xác định độ ẩm tức thời thông qua việc
cân các mẫu sấy định kỳ 2 ngày cân một lần và được tính như sau:
W
tt
= (m
tt

– m
0
)*100/m
0
(%) (4)
Trong đó:
W
tt
là độ ẩm tức thời của gỗ tại thời điểm ta xét (%)
m
tt
là khối lượng của gỗ ta cân được tại thời điểm đang xét (g)
Dựa vào công thức trên kết hợp với việc cân định kỳ khối lượng mỗi thanh
gỗ m
1
, m
2
, m
3
, , m
n
trong suốt quá trình sấy ta suy ra được độ ẩm tương ứng của
mỗi thanh là W
tt1
, W
tt2
, W
tt3
, , W
ttn

. Đây là cơ sở để xác định biểu đồ giảm ẩm trong
suốt quá trình sấy.
Cũng dựa vào công thức (4) xác định tại thời điểm độ ẩm tức thời trung bình
của các thanh gỗ sấy đạt (10 – 12)% thì kết thúc quá trình sấy và ta tính được thời
gian của quá trình sấy đó.
4.4.4. Phương pháp xác định khuyết tật của gỗ sấy
Theo các tài liệu nghiên cứu của nhiều tác giả cũng như qua tìm hiểu nghiên
cứu thực tế về sấy gỗ thì gỗ Bạch đàn trắng là loại gỗ khó sấy. Khi sấy thường mắc
phải những khuyết tật như nứt (nứt mặt, nứt đầu), mo móp, Mức độ mỗi loại
khuyết tật được xác định theo các tiêu chí sau:
4.4.4.1. Xác định mức độ nứt của gỗ trong quá trình sấy
Gỗ Bạch đàn trắng sau khi sấy thường xảy ra 2 loại nứt đó là nứt đầu và nứt mặt.
L
N
m
Hình 4.4. Cách xác định mức độ nứt mặt
L
19

Hình 4.5. Cách xác định mức độ nứt đầu
 Nứt mặt: bao gồm các vết nứt xuất hiện trên bề mặt thanh gỗ sấy. Mức độ
nứt mặt được tính bằng cách đo chiều dài vết nứt dài nhất so với chiều dài
thanh gỗ sấy:
MĐNM = (N
m
/L)*100 (%) (5)
Trong đó:
MĐNM là mức độ nứt mặt (%).
N
m

là vết nứt dài nhất trên mặt (mm)
L là chiều dài thanh gỗ sấy (mm)
 Nứt đầu: bao gồm các vết nứt xuất hiện trên đầu thanh gỗ. Được tính bằng
chiều dài của vết nứt dài nhất so với chiều dài thanh gỗ sấy:
MĐNĐ = (Nđ / L)* 100 (%) (6)
Trong đó:
MĐNĐ là mức độ nứt đầu (%).
Nđ là vết nứt dài nhất trên đầu thanh gỗ (mm).
L là chiều dài thanh gỗ sấy (mm).
4.4.4.2. Xác định độ mo móp
Mức độ mo móp của thanh gỗ được tính theo công thức:
MĐMM = H
MAX1
+ H
MAX2
(mm) (7)
Trong đó:
H
max1
H
max2
Hình 4.6. Cách xác định mức độ mo móp
20
MĐMM là mức độ mo móp của thanh gỗ(mm).
H
MAX1
, H
MAX2
là độ sâu lớn nhất của 2 vết mo móp sâu nhất trên thanh
gỗ (mm).

Gỗ không bị mo móp là gỗ có mức độ mo móp bé hơn 0.5mm
4.4.4.3. Xác định tổng khuyết tật
Sau khi đã xác định từng loại khuyết tật, ta tính tổng khuyết tật của mỗi
thanh của từng quy trình sấy:
Tổng khuyết tật = (nứt mặt + nứt đầu)(%)+ mo móp (mm) (8)
Trong suốt tiến trình sấy, mức độ nứt và mức độ mo móp được phát hiện đo
đếm kịp thời để làm tài liệu và tính toán các khuyết tật của gỗ thông qua các công
thức trên.
21
5. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THẢO LUẬN
5.1. Khảo sát một số quy trình sấy gỗ tại Công ty chế biến gỗ Tây Nguyên
5.1.1. Quy trình sấy gỗ Tếch
- Loại gỗ sấy: gỗ Tếch.
- Tuổi cây: 60 – 80 tuổi.
- Bề dày ván: 30 mm.
- Độ ẩm ban đầu: 65%.
- Độ ẩm cuối: 4 – 6%.
- Thời gian sấy: 30 ngày.

Thời gian
(ng
Nhiệt độ
T
o
k
(
o
C) T
o
ư

(
o
C)
1 - 3 58 56 2 Gia nhiệt phun
ẩm
4 58 55 3 Gia nhiệt tăng
tốc sấy
5 58 54 4
6 58 53 5
7 58 52 6
8 – 9 58 50 8
10 – 11 58 48 10
12 – 15 58 46 12
16 - 19 58 45 13
20 – 25 58 43 15
26 - 30 56 41 15 Làm nguội
Nhận xét: Đây là loại gỗ khô nhanh, khuyết tật sấy ít, gỗ sau khi sấy đạt chất
lượng tốt. Nhưng gỗ được sấy với chế độ sấy ở cùng một cấp nhiệt độ do đó thời
gian sấy dài. Theo đề tài nhận thấy đây là một nhược điểm cần được khắc phục để
rút ngắn thời gian đến mức có thể mà vẫn đảm bảo được chất lượng gỗ sấy mong
muốn. Vì vậy để rút ngắn thời gian sấy nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao thì ta có
thể tăng nhiệt độ sấy lên (70 – 80)
0
C khi độ ẩm gỗ xuống dưới 25% (do gỗ khi độ
ẩm xuống dưới mức này thì các tính chất cơ lí tương đối ổn định, khuyết tậ sấy hình
thành ít).
5.1.2. Quy trình sấy gỗ Dầu
- Loại gỗ sấy: Dầu
- Tuổi gỗ: 40 tuổi
- Bề dày ván: 19mm.

- Độ ẩm ban đầu: 60%.
- Độ ẩm cuối: 6%.
- Giai đoạn sấy đầu: 50
o
C.
- Giai đoạn sấy sau: 60
o
C.
- Thời gian sấy: 12 ngày
22
Thời gian
(ngày)
Nhiệt độ ∆t (
o
C) Ghi chú
T
o
k
(
o
C) T
o
ư
(
o
C)
1 – 3 50 48 2 Phun ẩm mạnh
4 50 47 3
5 50 46 4
6 – 7 50 45 5

8 55 49 6 Gia nhiệt
9 60 45 15
11 60 44 16
12 55 48 7 Phun ẩm
Nhận xét:
Qua tìm hiểu thực tế tại cơ sở sấy thì đây là loại gỗ khó sấy, dễ sản sinh
khuyết tật sấy, lâu khô. Gỗ được sấy với chế độ sấy hai cấp do đó thời gian sấy
ngắn nhưng chất lượng gỗ sấy vẫn được đảm bảo đem lại hiệu quả kinh tế cao
Từ việc tham khảo một số tài liệu liên quan, đề tài nhận thấy:
+ Gỗ này có thể bít được hình thành nhiều. Khi sấy dễ nảy sinh hiện tượng
chai cứng bề mặt
+ Co rút lớn.
+ Có hàm lượng các chất tan trong dung môi hữu cơ và hàm lượng chất vô
cơ rất lớn.
Do vậy ta cần sấy chậm, sấy với nhiệt độ tương đối thấp, hạn chế bay hơi bề
mặt gỗ nhất là ở giai đoạn sấy đầu bằng cách klhống chế giá trị ∆t thấp (∆t = 4 – 6).
Tuy nhiên cả ở hai quy trình sấy trên thì cơ sở sấy chưa thực hiện việc đo độ
ẩm cho gỗ theo thời gian, chưa có dốc sấy, độ ẩm tương đối của không khí và độ ẩm
thăng bằng của gỗ. Vì vậy theo đề tài thì đây là một khó khăn cho việc điều khiển
các quy trình sấy thuận lợi và chính xác.
Qua hai quy trình sấy mà đề tài đã thu thập tại cở sấy cộng với việc tham
khảo các tài liệu về cấu tạo, tính chất của gỗ Bạch đàn trắng cùng với các quy trình
sấy gỗ, đề tài đã xây dựng một số quy trình sấy gỗ Bạch đàn như sau:
5.2. Xây dựng biểu đồ giảm ẩm
5.2.1. Cấu tạo và tính chất cơ lí của gỗ Bạch đàn trắng
5.2.1.1. Đặc điểm cấu tạo thô đại của gỗ Bạch đàn trắng
23
Theo nghiên cứu của tác giả Phạm Thị Nhàn trường Đại học Nông Lâm Thành
phố Hồ Chí Minh cùng với qua nghiên cứu quan sát thực tế, tôi thấy gỗ Bạch đàn
trắng có các đặc điểm sau:

− Vỏ của cây gỗ Bạch đàn trắng có màu xám trắng, nhẵn, bong ra từng mảng
vỏ như vỏ cây ổi, phía gần gốc vỏ bị nứt dọc thân nhưng không bong ra.
− Quan sát trên mặt cắt ngang gỗ có các phần giác, lõi phân biệt, gỗ giác có
màu trắng, gỗ lõi có màu đỏ nhạt, vòng năm không rõ lắm, khó phân biệt
bằng mắt thường, bề mặt gỗ mịn, vòng sinh trưởng rộng hẹp không đều
nhau.
− Sau khi chặt hạ trên mặt cắt ngang thường có hiện tượng nứt theo hình tia,
đôi khi có vết tuỷ chạy theo hình vành khăn. Tia gỗ nhỏ không nhìn thấy
bằng mắt thường. Thớ gỗ khá thẳng không vặn thớ.
5.2.1.2. Tính chất cơ lý của gỗ Bạch đàn trắng
 Sức hút ẩm và hút nước của gỗ Bạch đàn trắng
Khi gỗ đặt trong môi trường không khí ẩm hay môi trường nước thì gỗ sẽ hút
nước vào và làm thay đổi hình dạng kích thước gỗ. Gỗ càng khô thì sức hút ẩm hay
thấm nước càng mạnh.
Thông thường khối lượng thể tích tỷ lệ nghịch với mức độ hút nước và hút
ẩm của gỗ khô. Nghĩa là, gỗ càng có tỷ trọng nhẹ thì sức hút ẩm, hút nước càng lớn
và ngược lại gỗ càng có tỷ trọng lớn thì sức hút ẩm và hút nước càng kém.
Gỗ Bạch đàn trắng thuộc loại gỗ nhóm nhẹ nên sức hút nước và hút ẩm rất mạnh.
Chính vì đặc tính cơ lý này mà khi bảo quản ta cần làm sao để tránh hoặc hạn chế
sức hút ẩm, hút nước của gỗ Bạch đàn trắng đến mức thấp nhất nhằm giảm tình
trạng thay đổi kích thước và hình dạng của gỗ, từ đó làm giảm các thay đổi không
mong muốn.
Mặt khác, sức hút ẩm, hút nước mạnh cũng cho ta thấy khả năng thoát nước
giảm ẩm của gỗ cũng càng mạnh, do vậy giúp ta ứng dụng, điều chỉnh thay đổi yếu
tố trong lò sấy như dốc sấy, nhiệt độ sấy, tốc độ sấy, từ đó làm giảm khuyết tật
của gỗ trong quá trình sấy.
24
 Khối lượng thể tích
Khối lượng thể tích là tỷ lệ giữa khối lượng gỗ trên một đơn vị thể tích gỗ.
Căn cứ vào khối lượng thể tích có thể đánh giá được một phần công nghệ và giá trị

công nghệ của gỗ. Vì vậy, nghiên cứu khối lượng là vấn đề quan trọng và cần thiết
trong việc nghiên cứu quy trình sấy hay sử dụng gỗ. Theo một số tài liệu mà đề tài
nghiên cứu thì gỗ Bạch đàn trắng có khối lượng thể tích là D = 0.66 g/cm
3
đối chiếu
với bảng phân nhóm gỗ theo khối lượng thể tích gỗ Bạch đàn trắng thuộc nhóm III
(thuộc nhóm gỗ nhẹ).[3]
 Tỷ lệ co giãn theo chiều dài và thể tích
Co rút và giãn nở là một đặc điểm lớn của gỗ. Đây chính là nguyên nhân gây
nên sự cong vênh, nứt nẻ trong quá trình chế biến và bảo quản gỗ, đặc biệt là trong
quá trình sấy. Vì vậy việc nghiên cứu tính chất co giãn của gỗ nhằm để tìm ra biện
pháp khắc phục tốt nhất.
Khi phơi sấy gỗ, nước từ gỗ bốc hơi ra ngoài, lúc đầu nước tự do thoát ra,
kích thước gỗ vẫn chưa thay đổi. Khi nước tự do thoát ra hết và nước thấm bắt đầu
bốc hơi, kích thước gỗ bắt đầu thu nhỏ lại. Hiện tượng đó gọi là sự co rút của gỗ.
Nước thấm thoát ra càng nhiều, gỗ co rút càng mạnh. Đến khi nước thấm thoát hết
hoàn toàn, kích thước gỗ là nhỏ nhất và sự co rút đạt giá trị tối đa.
Ngược lại, gỗ khô kiệt hút nước, khi nước thấm xuất hiện kích thước gỗ bắt
đầu tăng lên, hiện tượng giãn nở sản sinh. Nước thấm càng tăng lên, gỗ giãn nở
càng mạnh đến khi nước thấm đạt giá trị tối đa (độ ẩm bão hoà) thì hiện tượng giãn
nở đạt cực đại. Sau đó nước tự do xuất hiện và tăng lên, kích thước gỗ vẫn không
thay đổi.
Trong quá trình sấy ở các cấp nhiệt độ khác nhau ta thấy gỗ Bạch đàn
trắng là loại gỗ dễ bị cong vênh, nứt nẻ. Đây là do sự biến đổi về chiều dài và thể
tích, cấp nhiệt càng cao thì tỷ lệ cong vênh và và nứt nẻ càng nhiều làm ảnh
hưởng đến chất lượng và thẩm mỹ của gỗ. Vì vậy, việc nghiên cứu tính chất co
giãn theo chiều dài và thể tích là một khâu rất quan trọng trong chế biến bảo
quản cũng như tính toán kích thước gỗ hợp lý trong quá trình gia công tạo sản
phẩm cuối cùng.
25

×