Lời giới thiệu
Kể từ cuộc nội chiến dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Mao Trạch Đông, mà chiến
thắng đã dẫn đến sự thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1949, các
nhà lãnh đạo nước này đã không ngừng nỗ lực trải qua hàng loạt các giai đoạn quá
độ và chuyển hướng trong hoạch định chính sách khoa học và công nghệ (KH&CN)
để nhằm hiện đại hóa hệ thống KH&CN. Ngày nay, Trung Quốc đã tạo nên được
một hệ thống công nghệ điển hình bao gồm các lĩnh vực công nghệ cao như công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học, tự động hóa, vật liệu mới, năng lượng và công
nghệ vũ trụ, cũng như họ đã thiết lập được một đội ngũ các nhà khoa học đặt nền
móng cho sự phát triển công nghệ cao trong thế kỷ 21. Trong tất cả các nỗ lực cải
cách đó, Trung Quốc đang tuân theo một chiến lược phát triển KH&CN tiếp thu dần
dần để rồi cuối cùng tiến kịp, nếu không phải là vượt Mỹ và các nền kinh tế công
nghiệp hóa khác. Chiến lược KH&CN này đã giúp thúc đẩy nền kinh tế Trung Quốc
liên tục phát triển với tốc độ cao trong hơn 20 năm qua, đưa nước này trở thành một
trong những nền kinh tế mạnh nhất và một thị trường đang nổi lớn nhất thế giới.
Để giúp bạn đọc hiểu rõ về các động lực chính ẩn sau sự phát triển này và những
yếu tố nào đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển công nghệ cao ở Trung
Quốc, Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia xin giới thiệu cùng bạn đọc Tổng
quan: “Quá trình hình thành và phát triển các ngành công nghệ cao của Trung
Quốc”.
Xin giới thiệu cùng bạn đọc.
Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia
1
Quá trình hình thành và phát triển các ngành công nghệ cao của
Trung Quốc
Trung Quốc đang vươn lên để trở thành một cường quốc KH&CN toàn cầu.
I. Các chủ trương, đường lối, chiến lược của Trung Quốc liên quan đến phát triển công nghệ
cao
1. Các chủ trương, chiến lược chủ yếu liên quan tới phát triển công nghệ cao
Ngay từ những năm 50, Trung Quốc đã cam kết phát triển các công nghệ mới dựa trên cơ sở
khoa học, nhưng ý định này đã không thành do tác động của một giai đoạn lịch sử đầy sóng gió, với
nhu cầu đẩy mạnh phát triển nghiên cứu quốc phòng và còn do sự tàn phá của cuộc Cách mạng Văn
hóa diễn ra vào cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970. Công cuộc cải cách của Trung Quốc
khởi đầu vào năm 1978 đã được định hướng vào việc khôi phục lại sự cam kết ban đầu, coi trọng
vai trò của công nghệ dựa trên cơ sở khoa học như là những động lực của một nền kinh tế dân sự.
Năm 1978, tại Phiên họp lần thứ 3 của Đại hội Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ XI,
Đặng Tiểu Bình, Nhà lãnh tụ tối cao của Trung Quốc đã công bố chính thức kế hoạch thực hiện
“Bốn hiện đại hóa” nhằm đưa đất nước bước vào kỷ nguyên hiện đại. Đó là 4 lĩnh vực dưới đây
được sắp xếp theo mức độ ưu tiên:
- Công nghiệp,
- Nông nghiệp,
- KH&CN,
- Phòng thủ quốc gia/quân đội.
Sau khi đã tiến hành hai giai đoạn ban đầu của hiện đại hóa, Đặng Tiểu Bình đã để lại phần lớn
chương trình nghị sự còn lại cho những người kế tiếp ông. Trong khi viễn cảnh to lớn đó không lâu
sau đã trở thành lộ trình chính thức cho sự phát triển của Trung Quốc, hiện đại hóa thứ ba của Đặng,
là khoa học và công nghệ đã và vẫn được coi là một lĩnh vực ưu tiên cao đối với các nhà lãnh đạo
Trung Quốc.
Hội nghị Khoa học và Công nghệ Toàn quốc năm 1978 đã xác định 108 dự án then chốt trong 8
lĩnh vực ưu tiên, bao gồm: nông nghiệp, năng lượng, vật liệu, vi điện tử, laze, vũ trụ, vật lý năng
lượng cao và kỹ thuật di truyền. Chương trình đầy tham vọng này được đưa ra với quan điểm cho
rằng nghiên cứu cơ bản chính là nguồn xung lượng cho đổi mới (giống như mô hình của các nước
công nghiệp hóa đã trải qua) và bằng sự phục hồi lại các nhà khoa học, các kỹ sư và cải cách hệ
thống R-D sau cuộc Cách mạng Văn hóa. Các viện nghiên cứu mới đã được thành lập, dẫn đến tăng
chi tiêu từ ngân sách Nhà nước cho KH&CN (4,8%, 4,9% và 5,3% tổng chi tiêu của Chính phủ và
1,5%, 1,6% và 1,5% GDP trong các năm tương ứng 1978, 1979, và 1980).
Song có một điều nhanh chóng trở nên rõ ràng rằng, cách tiếp cận này không đem lại hiệu quả
trong tăng trưởng kinh tế ngắn hạn và cần có một cách tiếp cận mang tính thực dụng hơn để gắn kết
KH&CN với nền kinh tế. Chương trình Quốc gia Khắc phục các Vấn đề Công nghệ Then chốt
trong Kế hoạch 5 năm lần thứ VI (1980-1985) đã xác định các lĩnh vực liên quan, trong đó chỉ còn
có nông nghiệp được coi là lĩnh vực then chốt cùng với 4 lĩnh vực quan trọng khác, đó là:
- Phát triển các nguồn năng lượng và tập trung năng lượng;
- Các ngành công nghiệp nguyên liệu thô và thăm dò địa chất;
- Thiết bị điện, cơ và giao thông vận tải;
- Các công nghệ mới và phát triển xã hội.
Sự hỗ trợ cho công nghệ cao vẫn tiếp tục được duy trì trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 7 được
thông qua năm 1981 và cả trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 8, với sự chú trọng ngày càng tăng đến các
2
biện pháp cải cách nhằm dẫn đến thương mại hóa các hoạt động công nghệ và tìm ra các mô hình
hợp tác mới giữa các nhà sáng tạo và người sử dụng công nghệ.
Các đặc điểm quan trọng trong hệ thống KH&CN cũ (bắt nguồn từ những năm 50) cần phải cải
cách, đó là:
- Tồn tại một số lượng lớn các viện nghiên cứu và nhân lực KH&CN trực thuộc các cấp Chính
phủ;
- Thiếu một sự tác động lẫn nhau giữa các viện nghiên cứu và dẫn đến sự chồng chéo trong hoạt
động;
- Có sự ngăn cách với những người sử dụng tiềm năng trong các kết quả nghiên cứu.
Cụ thể là tại Trung Quốc vào thời điểm năm 1985, đã có tới hơn 4.900 các viện nghiên cứu R-D
độc lập trực thuộc các cấp chính quyền cao hơn cấp hạt (hạt là một đơn vị hành chính có khoảng 0,5
triệu dân) và khoảng hơn 3000 tổ chức trực thuộc các cấp hạt. Trong nhóm 4900, có hơn 2700 viện
nghiên cứu có các hoạt động liên quan đến công nghệ công nghiệp. Phần lớn các công việc thực
hiện tại các viện nghiên cứu này không phải là hoạt động R-D, mà chủ yếu được định hướng vào
việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước (SOE) vẫn còn yếu kém về phát triển năng
lực và ít có động cơ đổi mới.
Một nhóm lớn các viện nghiên cứu trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc (CAS) và
một số viện trực thuộc các bộ trung ương và các chính quyền tỉnh tham gia vào các hoạt động
nghiên cứu chiến lược. Đây được coi là bộ phận mũi nhọn trong các nỗ lực quốc gia nhằm đưa công
nghệ cao đến với các thị trường, và CAS có vai trò lãnh đạo.
Như vậy, vào giữa những năm 80, trong thực trạng phát triển năng lực công nghệ của Trung
Quốc nổi lên hai vấn đề cần khắc phục, đó là: Thứ nhất, các tài sản KH&CN của Trung Quốc chủ
yếu tập trung trong nội địa và Trận tuyến thứ Ba ngành công nghiệp quốc phòng đã trở thành vật
chướng ngại cho việc tiếp tục hiện đại hóa công nghệ trong cả hai khu vực, quốc phòng và dân sự.
Thứ hai, hoạt động khoa học và nghiên cứu của quốc gia cần định hướng chặt chẽ hơn với sự phát
triển và sản xuất công nghiệp. Trong giai đoạn phát triển này diễn ra hai xu hướng quan trọng chính,
đó là:
- Sự nhập khẩu ồ ạt công nghệ từ nước ngoài nhằm làm tăng nhanh năng lực sản xuất, một kết
quả trực tiếp của chính sách mở cửa;
- Tổng chi tiêu của Chính phủ cho R-D suy giảm liên tục, dẫn tới tỷ trọng chi tiêu R-D quốc gia
so với GDP (GERD) chỉ đạt 1,0% GDP vào năm 1988, 0,71% năm 1992 và 0,67% năm 1993.
Để giải quyết các vấn đề này, trong vòng thập kỷ sau đó các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã đề ra
một loạt các biện pháp cải cách quan trọng tác động tới sự phát triển khoa học và kinh tế cho đến tận
ngày nay.
Năm 1985 được coi là một bước ngoặt trong quá trình hoạch định chính sách KH&CN của
Trung Quốc. Vào tháng 3 năm này, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã
công bố: “Quyết định về cải tổ hệ thống quản lý KH&CN”. Đây là một văn kiện cải tổ chính sách
quan trọng, trong đó đã nêu rõ:
“KH&CN hiện đại là những yếu tố năng động và có tính quyết định trong các động lực tăng
trưởng mới... Chúng ta cần cải tổ hệ thống quản lý KH&CN một cách cương quyết và từng bước
một cho phù hợp với nguyên tắc chiến lược rằng, công cuộc xây dựng kinh tế của chúng ta cần dựa
vào KH&CN và hoạt động KH&CN cần định hướng vào xây dựng kinh tế...”
Quyết định này là một bước ngoặt trong chiến lược phát triển của Trung Quốc để từ đó sẽ chú
trọng chủ yếu vào sự phát triển nền công nghiệp dựa trên cơ sở công nghệ và mang định hướng thị
trường. Trong số các biện pháp cải cách được đặt ra trong Quyết định này có sự thay đổi về sự quản
lý của chính quyền trung ương đối với các hoạt động KH&CN, với một sự chuyển hướng trong việc
3
quy định vai trò giám sát vừa hạn chế hơn và vừa có hiệu quả hơn của chính quyền, trong khi cho
phép quyền ra quyết định lớn hơn ở các cấp địa phương và cấp viện. Vì vậy, vai trò của chính quyền
trung ương chủ yếu chỉ có tính “chỉ đạo”, chứ không còn là sự phân bổ một cách tự động các nguồn
lực tài chính cho R-D nữa. Điều này có nghĩa là, lần đầu tiên, các nhà nghiên cứu dân sự và quân sự
sẽ phải cạnh tranh để có được nguồn tài trợ R-D của Chính phủ. Quyết định này cũng kêu gọi sự
hợp tác và phối hợp chặt chẽ hơn giữa các viện nghiên cứu, các trường đại học với các xí nghiệp
công nghiệp và quốc phòng để nhằm thúc đẩy nhanh việc thương mại hóa và ứng dụng thực tiễn các
kết quả nghiên cứu KH&CN. Bên cạnh đó, chính sách cải cách cũng chủ trương cải thiện khả năng
của Trung Quốc trong việc tiếp thu bí quyết công nghệ nước ngoài bằng cách mở ra các kênh thu
hút các chuyên gia KH&CN và công nghệ của nước ngoài, cũng như bố trí lại một cách hợp lý số
nhân lực KH&CN trong nước (có nghĩa là bố trí các nhà nghiên cứu sao cho gần hơn với các xí
nghiệp sản xuất và các doanh nghiệp hơn). Chiến lược cải cách và tăng cường phát triển công nghệ
này đã đặt Trung Quốc vào một tiến trình hướng tới một nền kinh tế công nghệ cao, hiện đại hơn.
Chủ trương cắt giảm chi tiêu của Nhà nước cho KH&CN tuân theo Quyết định năm 1985 chính
là một công cụ để thúc đẩy nhanh tiến trình cải cách các viện nghiên cứu. Tỷ lệ chi tiêu của Chính
phủ cho R-D từ ngân sách Nhà nước đã giảm 14% trong các năm 1985 và 1986. Như vậy, từ năm
1985 trở đi, Chính phủ đã giảm sự phân bố ngân sách cho các viện nghiên cứu và buộc họ phải tiếp
cận gần hơn với thị trường. Sự cắt giảm chi tiêu này không phải là đồng nhất và phụ thuộc vào thể
loại của viện nghiên cứu và các chi nhánh của nó:
- Trong trường hợp viện nghiên cứu tham gia vào hoạt động R-D “hàng hóa công” (chăm sóc
sức khỏe, y học và kiểm soát dân số), tức là khả năng tìm kiếm nguồn tài trợ từ bên ngoài bị hạn
chế, thì tỷ lệ cắt giảm chỉ từ 10-20% (tính trên cơ sở ngân sách năm 1987);
- Nếu là trong nông nghiệp, một lĩnh vực có mức độ ưu tiên cao của đất nước và trong đó cũng
có các thành phần thuộc về hàng hóa công, thì tỷ lệ cắt giảm chỉ là 10%;
- Đối với các viện nghiên cứu thuộc CAS, là nơi Chính phủ chỉ cần duy trì một lực lượng các nhà
nghiên cứu tinh túy và cốt lõi để tham gia vào các hoạt động nghiên cứu cơ bản, thì tỷ lệ cắt giảm có
thể áp dụng tới 70%;
- Đối với các viện công nghệ công nghiệp, đặc biệt là các viện trực thuộc cấp tỉnh, tỷ lệ cắt giảm
có thể lên tới 100%.
Thời gian thực hiện những cắt giảm trên có thể khác nhau, nhưng các biện pháp được áp dụng
tương đối hà khắc và nhanh chóng.
Sự kết hợp giữa việc trao quyền tự chủ cho giám đốc các viện nghiên cứu và tăng tính lưu động
đối với các nhà nghiên cứu đã mang lại các kết quả đáng khích lệ, nó vừa làm thay đổi cách tư duy
trong các viện nghiên cứu và vừa làm tăng sự đóng góp của họ cho tăng trưởng kinh tế. Sự đóng
góp này tuy khó có thể đo được bằng giá trị do ảnh hưởng của công nghệ nhập khẩu, nhưng theo
các chuyên gia ước tính thì sự đóng góp của các ngành công nghiệp công nghệ cao vào sản lượng
công nghiệp đã tăng từ 2% năm 1985 lên đến khoảng 10% vào năm 1995 và 15% vào năm 2000.
Tiếp theo Quyết định cải tổ quan trọng năm 1985 là một loạt các kế hoạch phát triển KH&CN
dài hạn và đầy tham vọng. Các chương trình quốc gia này được thiết kế nhằm đưa các nỗ lực khoa
học và nghiên cứu của Trung Quốc thoát ra khỏi một hệ thống kế hoạch hóa tập trung, có thứ bậc và
do Nhà nước tài trợ để hướng tới một sự phát triển KH&CN có khả năng đáp ứng hơn trước các yêu
cầu về công nghiệp, thương mại và quốc phòng của Trung Quốc. Trong khi chính quyền trung ương
vẫn còn giám sát và tài trợ, nhưng các nhà lãnh đạo tại các địa phương đã áp dụng các chiến lược
khác nhau trong việc thực hiện chính sách dựa trên những lợi ích, yêu cầu công nghiệp và cơ sở hạ
tầng của từng vùng và địa phương. Những kế hoạch đó vẫn được thực hiện cho đến nay, bao gồm:
4
- Chương trình Tia chớp (1986): Đây là bước xúc tiến chú trọng vào phát triển kinh tế nông thôn
Trung Quốc bằng việc áp dụng các tiến bộ KH&CN trong lĩnh vực nông nghiệp thông qua các
chương trình thí điểm và sự thành lập các “Khu Tăng cường Công nghệ Tia chớp”.
- Chương trình nghiên cứu và phát triển công nghệ cao/Chương trình 863 (có nghĩa là Chương
trình được thực hiện vào tháng 3 năm 1986): Chương trình này chú trọng vào các lĩnh vực R-D
chiến lược của Trung Quốc, tập trung vào nghiên cứu cơ bản và ứng dụng trong 8 lĩnh vực công
nghệ then chốt. Chương trình tiếp tục chú trọng vào sự phát triển công nghệ quốc phòng và dân sự
chiến lược và đặt ra mục tiêu đạt trình độ ngang hàng về công nghệ với các quốc gia công nghiệp
hóa.
- Chương trình Ngọn đuốc (1988): Chú trọng phát triển công nghiệp công nghệ cao và nghiên
cứu ứng dụng, đặc biệt là ứng dụng thương mại của các kết quả nghiên cứu đạt được từ Chương
trình 863;
- Chương trình sản phẩm mới quốc gia (1988): Chương trình này hỗ trợ cho các nỗ lực R-D đưa
đến các sản phẩm công nghệ cao mới, đặc biệt là các sản phẩm dựa trên tài sản trí tuệ mới, được chế
tạo chủ yếu bằng nội lực trong nước (các thành phần nội địa chiếm từ 80% trở lên), có tiềm năng
xuất khẩu cao hoặc đạt tiêu chuẩn quốc tế.
- Chương trình Phổ biến KH&CN quốc gia (1990): Chương trình này hỗ trợ cho các SOE trong
việc ứng dụng các kết quả R-D KH&CN để có thể thương mại hóa được. Chương trình cung cấp tài
chính thông qua các khoản vay của Nhà nước, tài trợ của các chính quyền địa phương và vốn đầu tư
của các doanh nghiệp.
- Chương trình các lĩnh vực nghiên cứu cơ bản ưu tiên quốc gia (1991): Chương trình này thúc
đẩy sự chú trọng hơn nữa đến nghiên cứu khoa học cơ bản.
- Chương trình phát triển các lĩnh vực ưu tiên nghiên cứu cơ bản quốc gia/Chương trình 973
(1997): đây là một chương trình có cách tiếp cận chiến lược, đa ngành và định hướng tương lai,
nhằm xác định và thúc đẩy các nhu cầu về R-D cơ bản, khoa học và giáo dục trong các lĩnh vực
phát triển kinh tế, phát triển công nghệ cao, các công nghệ môi trường và thân thiện sinh thái, các
nguồn năng lượng cải tiến và chăm sóc sức khỏe.
Qua sự phản ánh của các chương trình KH&CN trong thời kỳ cải cách cho thấy, cộng đồng khoa
học của Trung Quốc đã bị thúc đẩy để chuyển định hướng các nỗ lực của họ sang các nghiên cứu
nhằm đáp ứng thị trường và mang định hướng kết quả hơn. Các chương trình phát triển KH&CN
trên sẽ giúp dẫn hướng cho sự chuyển đổi này bằng cách tạo ra các biện pháp khuyến khích đổi mới
và tinh thần khởi sự doanh nghiệp, cũng như bằng việc hạn chế bớt sự phân bổ tài trợ của Nhà nước
đối với hầu hết các viện nghiên cứu và các doanh nghiệp, qua đó buộc các nhà nghiên cứu và các tổ
chức R-D phải cạnh tranh để có được các nguồn tài trợ của Nhà nước. Cho đến nay, các Chương
trình 863 và Chương trình Ngọn đuốc là những chương trình thành công nhất và có ảnh hưởng rộng
lớn đến sự phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao. Hai chương trình này sẽ được đề cập
chi tiết hơn ở dưới đây.
2. Chương trình R-D Công nghệ Cao Quốc gia (Chương trình 863)
Chương trình 863 là chương trình R-D công nghệ cao có tính chiến lược của Trung Quốc, được
thiết kế để: (1) Tập trung các nguồn lực công nghệ tốt nhất ở Trung Quốc cho mục tiêu đuổi kịp
trình độ công nghệ cao của thế giới trong các lĩnh vực lựa chọn, (2) Xóa bỏ khoảng cách giữa Trung
Quốc và các nước khác và (3) Tạo các đột phá trong một số lĩnh vực quan trọng.
Các nguyên tắc chủ đạo của Chương trình 863 như sau: đề ra các mục tiêu có giới hạn, xác định
các lĩnh vực ưu tiên, theo dõi sát sao tiến bộ công nghệ toàn cầu, cố gắng tạo đột phá ở các lĩnh vực
có thể và kết hợp R-D dân sự với quân sự đồng thời chú trọng vào R-D dân sự.
5
Chương trình tập trung các nỗ lực vào 8 lĩnh vực ưu tiên: (1) Công nghệ sinh học và nông nghiệp
hiện đại, (2) Thông tin, (3) Chế tạo tiên tiến và tự động hóa, (4) Năng lượng, (5) Vật liệu tiên tiến,
(6) Tài nguyên và môi trường, (7) Biển, (8) Hàng không vũ trụ và lade. 6 ưu tiên đầu là R-D dân sự,
do CMOST quản lý và thực hiện. Các chương trình ưu tiên về biển, hàng không vũ trụ và lade được
thực hiện trên cơ sở giữ bí mật.
Các báo cáo của Chương trình 863 thường thể hiện chi tiêu về dân sự, các thành tựu và các kế
hoạch chi tiêu trong tương lai. Không có dữ liệu về R-D quốc phòng trong Chương trình 863. Giữa
năm 2001 và 2005, Trung Quốc dự định chi 15 tỷ NDT (1,81 tỷ USD) cho 6 lĩnh vực R-D dân sự,
cao gần gấp 2,7 lần so với tổng chi tiêu trong 15 năm từ 1986 đến 2001. Trong giai đoạn 1986-
2001, tổng chi tiêu của Chương trình 863 là 11 tỷ NDT (1,33 triệu USD); 6 lĩnh vực R-D dân sự
chiếm 5,7 tỷ NDT (689 triệu USD), khoảng 52% của tổng số. Từ các con số này, cho thấy R-D
quân sự của Chương trình 863 trong giai đoạn 1986 - 2001 khoảng 5,3 tỷ NDT (641 triệu USD) và
chiếm 48% ngân sách của Chương trình 863.
Một nghiên cứu cho thấy, 15 năm sau khi Chương trình 863 bắt đầu, Trung Quốc đã thu hẹp
đáng kể khoảng cách tổng thể về công nghệ với các nước tiên tiến. 60% các công nghệ của Trung
Quốc bắt đầu từ vạch xuất phát đã đạt hoặc gần bằng trình độ của thế giới; 11% đạt trình độ tiên tiến
của quốc tế.
Một trong những thành công của Chương trình 863 là tiêu chuẩn TD-SCDMA của Hãng Datang.
Sự tham gia của Hãng Siemen AG rất quan trọng đối với khả năng của Hãng Công nghiệp và Công
nghệ Viễn thông Datang để phát triển công nghệ. Hãng Siemen AG đã chi hơn 200 triệu USD kể từ
khi cộng tác với Datang năm 1998 để phát triển TD-SCDMA. Datang là một cơ sở nghiên cứu
thuộc sở hữu Nhà nước, trực thuộc Bộ Thông tin và Công nghiệp khi bắt đầu nghiên cứu hợp tác
với Siemens. Chuẩn TD-SCDMA được Hiệp hội Thông tin Viễn thông Quốc tế chấp nhận là một
trong ba tiêu chuẩn công nghệ viễn thông di động thế hệ 3. Siemens phát triển điện thoại 3G với
Huawei trên cơ sở tiêu chuẩn mới này. Tiêu chuẩn 3G có thể có ảnh hưởng lớn ở Trung Quốc và
ngoài Trung Quốc, nếu Trung Quốc quyết định sử dụng tiêu chuẩn này làm chuẩn 3G quốc gia.
3. Chương trình Ngọn đuốc (1988) và sự hình thành các khu phát triển công nghệ cao
Được Hội đồng Nhà nước phê chuẩn tháng 8 năm 1988 và do Bộ KH&CN Trung Quốc
(MOST) thực hiện, Chương trình Ngọn đuốc là một chương trình chỉ đạo đối với sự phát triển
ngành công nghiệp công nghệ cao và mới của Trung Quốc. Nhiệm vụ cốt lõi của Chương trình là
phát huy tất cả các thế mạnh và tiềm năng của các lực lượng KH&CN của Trung Quốc và thúc đẩy
nhanh thương mại hóa các thành tựu công nghệ cao và mới, công nghiệp hóa các sản phẩm công
nghệ cao và mới và quốc tế hóa ngành công nghiệp công nghệ cao và mới với định hướng vào thị
trường. Trọng tâm của Chương trình Ngọn đuốc là tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự phát triển
ngành công nghiệp công nghệ cao và mới, trong đó bao gồm các xúc tiến như hình thành các chính
sách, luật pháp và các quy định liên quan, thiết lập nên một hệ thống điều hành và quản lý thích hợp
đối với ngành công nghiệp công nghệ cao, khai thác các kênh cung cấp tài chính mới trong đó có cơ
chế đầu tư vốn mạo hiểm, phát triển các nguồn thông tin trong nước và nước ngoài, xây dựng các
mạng lưới thông tin và thiết kế các kế hoạch phát triển trung và dài hạn, cũng như các kế hoạch thực
hiện.
Chương trình Ngọn đuốc là một thành công về tăng cường xây dựng cơ sở công nghiệp công
nghệ cao của Trung Quốc và dường như đã thực hiện rất tốt việc tiến hành công nghiệp hóa một số
kết quả R-D thành công. Chương trình đã được bàn thảo nhiều vì sự phát triển các ngành công
nghiệp công nghệ cao ở Trung Quốc có thể có ảnh hưởng lớn đến cả Trung Quốc và nhiều đối tác
thương mại chính của nước này.
6
Chương trình Ngọn đuốc có mục tiêu tăng tốc thương mại hóa các kết quả R-D và công nghiệp
hóa công nghệ cao. Thông qua Chương trình Ngọn đuốc, 53 Khu Phát triển Công nghiệp Công
nghệ cao (HTIDZ) đã được thiết lập.
Các khu HTIDZ tuân theo 7 chức năng sau:
(1) Làm cơ sở cho sự phát triển các công nghệ cao/mới;
(2) Là nguồn cung cấp các sản phẩm và công nghệ cao/mới cho các ngành công nghiệp truyền
thống;
(3) Là cửa sổ mở ra thế giới bên ngoài;
(4) Các khu thử nghiệm về sự kết hợp chặt chẽ hơn giữa KH&CN với nền kinh tế và thúc đẩy
sự chuyển hóa các thành tựu KH&CN và đổi mới kỹ thuật;
(5) Các khu trình diễn về sự phối hợp chặt chẽ giữa KH&CN với nền kinh tế và thúc đẩy sự
chuyển hóa các thành tựu KH&CN và đổi mới kỹ thuật;
(6) Là các khu đô thị mới với nền văn minh hiện đại xã hội chủ nghĩa;
(7) Là trường đào tạo các nhà công nghiệp công nghệ cao.
HTIDZ được thiết kế như là các cụm bao gồm trường đại học, các viện nghiên cứu, các doanh
nghiệp công nghiệp và đang ngày càng gặt hái được nhiều thành công: các cụm càng phát triển càng
mời được nhiều công ty tham gia mỗi năm. Ví dụ, nhiều hãng công nghệ cao của Trung Quốc như
Levono Group và Huawei đều là các hãng có trụ sở tại HTIDZ. Các trung tâm nghiên cứu của các
hãng công nghệ cao nước ngoài như Microsoft, Motorola, IBM, Nokia, Samsung Electronics và LG
cũng là các hãng cư ngụ ở HTIDZ.
Sự phát triển của HTIDZ quả đúng là một phép màu. Cụ thể là từ 1992 đến 2003, tốc độ tăng
trưởng bình quân hàng năm về doanh thu, xuất khẩu và lợi nhuận ròng tương ứng là 51%, 55% và
42%. Sự tăng trưởng mạnh chủ yếu là do sự phát triển nhanh chóng số lượng các hãng vào HTIDZ
hoạt động hoặc các hãng mới được thành lập ở đây. Năm 2003, HTIDZ có 33000 hãng hoạt động
với 3,95 triệu nhân công. Tổng doanh thu của các hãng có mặt tại HTIDZ đạt 253 tỷ USD, trong đó
xuất khẩu là 51 tỷ USD.
Với sự phát triển nhanh về khối lượng doanh thu và xuất khẩu lớn và số nhân công làm việc ở
HTIDZ, không khó hiểu khi HTIDZ được coi là một thành công lớn đóng góp vào sự phát triển
kinh tế nhanh cả ở quy mô quốc gia lẫn khu vực. Tuy nhiên, lợi nhuận của khu vực này không gây
ấn tượng mạnh như vậy. Năm 2003, tỷ số lợi nhuận ròng so với doanh thu trung bình của các hãng
ở HTIDZ là 5,4% và tỷ số của tổng lợi nhuận trung bình trước thuế so với doanh thu là 10,1%. Con
số này không lớn hơn nhiều so với tỷ số tổng lợi nhuận trước thuế của toàn bộ ngành chế tạo ở
Trung Quốc, năm 2001 là 9,4%.
Chương trình Ngọn đuốc cũng thiết lập các khu ươm tạo công nghệ và các Trung tâm Thúc đẩy
Năng suất để tạo thuận lợi cho quá trình chuyển giao công nghệ, phát triển các hãng công nghệ cao,
khuyến khích tinh thần kinh doanh công nghệ cao và cung cấp dịch vụ đào tạo. Các Khu ươm tạo
công nghệ là các cơ sở trung gian củng cố các mối liên kết chặt chẽ giữa các hãng mới khởi sự và
các bên tham gia vào NIS khác, như các trường đại học, cơ sở R-D, các cơ quan Chính phủ, các cơ
quan tài chính và đội ngũ cán bộ KH&CN.
Rõ ràng là Chính phủ Trung Quốc đặt mục tiêu xây dựng các cụm công nghiệp và các hệ thống
đổi mới theo khu vực trên cơ sở khung Hệ thống Đổi mới Quốc gia (NIS) để thúc đẩy thương mại
hóa các kết quả R-D và công nghiệp hóa các công nghệ cao. Tác dụng sức mạnh đòn bẩy của một
thị trường nội địa lớn và nguồn nhân lực dồi dào của Trung Quốc đã đóng góp đáng kể vào sự thành
công của cách tiếp cận này.
Một thập kỷ sau khi “Quyết định về cải cách hệ thống quản lý KH&CN” được công bố vào năm
1985, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã khẳng định lại các mục tiêu KH&CN của đất nước trong
một Quyết định chung của ủy ban Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc và Hội đồng Nhà nước
7
mang tên “Quyết định về việc thúc đẩy nhanh tiến bộ khoa học và công nghệ”, ban hành vào tháng 5
năm 1995 tại Hội nghị Toàn quốc về KH&CN. Văn kiện mới này đã đánh dấu sự khởi đầu của giai
đoạn hai trong nỗ lực cải tổ được thực hiện dựa trên các chương trình KH&CN hiện tại song song
với việc tiến hành “tiếp thêm sinh lực cho đất nước bằng khoa học và giáo dục”.
Văn kiện này được dựa trên 11 nguyên tắc chủ đạo chính như sau:
1. Thực hiện quan điểm cho rằng, KH&CN là lực lượng sản xuất chính trong mọi lĩnh vực;
2. Tích cực đẩy mạnh tiến bộ KH&CN trong lĩnh vực nông nghiệp và các vùng nông thôn;
3. Nâng cao chất lượng và hiệu quả tăng trưởng công nghiệp bằng những tiến bộ về KH&CN;
4. Phát triển công nghệ cao và các ngành công nghiệp công nghệ cao;
5. Thúc đẩy tiến bộ KH&CN phục vụ phát triển xã hội;
6. Kiên quyết đẩy mạnh nghiên cứu cơ bản;
7. Tiếp tục cải tổ quản lý KH&CN và thiết lập một hệ thống quản lý KH&CN mới phù hợp
với hệ thống kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và luật pháp về phát triển KH&CN;
8. Đào tạo một đội ngũ nhân lực KH&CN có trình độ cao và nâng cao trình độ KH&CN của
toàn bộ quốc gia;
9. Tăng đầu vào KH&CN thông qua các kênh khác nhau và ở các mức độ khác nhau;
10. Mở cửa hơn nữa Trung Quốc ra với thế giới bên ngoài và tích cực tham gia hợp tác và trao
đổi quốc tế về KH&CN;
11. Tăng cường một cách có hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ đối với công tác
KH&CN.
Hướng tới viễn cảnh năm 2010, Quyết định năm 1995 đã đề ra một loạt các mục tiêu, trong đó
chú trọng đến giáo dục và đào tạo; thành lập các liên doanh (với các đối tác trong nước hoặc nước
ngoài) và thúc đẩy đầu tư vốn mạo hiểm trong nước; hợp tác với các chuyên gia nước ngoài và các
đối tác liên doanh nhằm tiếp thu công nghệ và bí quyết; tăng cường chi tiêu Chính phủ cho
KH&CN (lên đến 1,5% GDP vào năm 2000, như đã nêu rõ trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 9); thúc
đẩy các chương trình và công nghệ phát triển bền vững; tăng cường đổi mới trong nước tại các
ngành công nghiệp then chốt; và phát triển các năng lực công nghệ tiên tiến nhằm “đuổi kịp các
nước tiên tiến trong một số lĩnh vực”.
Năm 1999, Hội nghị Đổi mới Công nghệ Toàn quốc đã được tổ chức và kể từ đó chính sách
KH&CN của Trung Quốc tập trung chủ yếu vào thực hiện 3 mục tiêu chính sau đây:
- Tăng cường đổi mới công nghệ;
- Phát triển công nghệ cao;
- Hỗ trợ công nghiệp hóa nền kinh tế Trung Quốc.
Kế hoạch 5 năm lần thứ X (2001-2005) đã đề ra mục tiêu chung: "Tiếp thêm sinh lực cho đất
nước bằng khoa học và giáo dục". Đó là chủ trương cho rằng KH&CN là lực lượng sản xuất cao
nhất với giáo dục là nền tảng, KH&CN và giáo dục cần được đặt vào vị trí nổi bật trong sự nghiệp
phát triển kinh tế và xã hội, cần nâng cao năng lực KH&CN của đất nước và khả năng chuyển hóa
năng lực đó thành năng suất lao động thực thụ, nâng cao nhận thức KH&CN và trình độ văn hóa
của cả dân tộc, chuyển đổi tiến trình xây dựng kinh tế theo hướng dựa vào tiến bộ KH&CN và hiệu
quả lao động.
Theo đó các ưu tiên chiến lược đối với KH&CN là: 1) Đẩy mạnh nâng cấp công nghệ trong
ngành công nghiệp; và 2) Tăng cường năng lực đổi mới KH&CN. Ưu tiên thứ nhất liên quan đến
việc làm cho các doanh nghiệp trở thành nguồn lực đổi mới công nghệ chính, trong khi ưu tiên thứ
hai đòi hỏi tăng cường vai trò của các trường đại học trong nghiên cứu khoa học.
Để thực hiện mục tiêu nêu trên Chính phủ Trung Quốc theo đuổi ba tập hợp biện pháp chính
sách sau:
Cải thiện R-D khu vực doanh nghiệp và phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao:
8
- Thành lập các khu phát triển công nghiệp công nghệ cao mới nhằm thúc đẩy các ngành công
nghiệp công nghệ cao;
- Hỗ trợ phát triển các hình thức doanh nghiệp công nghệ ngoài quốc doanh khác nhau;
- Phát triển các dịch vụ công nghệ bằng cách chuyển các tổ chức R-D thích hợp thành các doanh
nghiệp dịch vụ công nghệ và bằng cách tạo điều kiện cho việc khởi sự các doanh nghiệp.
Tiến hành sâu hơn nữa công cuộc cải tổ hệ thống KH&CN và tối ưu hóa sự phân bổ nguồn lực
cho R-D:
- Chuyển các viện nghiên cứu ứng dụng và thiết kế công nghiệp thành các doanh nghiệp
KH&CN;
- Cải cách hành chính trong việc bổ nhiệm, phong chức danh và tuyển dụng nhân lực KH&CN
theo các nguyên tắc thị trường;
- áp dụng việc xét duyệt công bằng (peer review) và sử dụng các cơ quan thẩm định được công
nhận nhằm cải tiến việc đánh giá các kết quả KH&CN;
- Tăng cường quản lý và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Đẩy mạnh cung cấp tài chính cho R-D:
- Tăng nguồn đầu vào KH&CN của Nhà nước từ mọi cấp chính quyền lên mức 1,5% GDP vào
năm 2005;
- Phát triển các thị trường vốn và cho phép khai thác các phương thức có hiệu quả cung cấp tài
chính cho các ngành công nghiệp công nghệ cao và các doanh nghiệp công nghệ;
- Thành lập Quỹ Đổi mới công nghệ của Chính phủ để hỗ trợ cho các doanh nghiệp KH&CN
vừa và nhỏ;
- Sử dụng các biện pháp khuyến khích thuế và chính sách thu mua Nhà nước để hỗ trợ KH&CN
và cung cấp tín dụng xuất khẩu nhằm thúc đẩy xuất khẩu công nghệ cao.
Năm 2002, Chính phủ Trung Quốc đề ra mục tiêu dài hạn đầy hoài bão tăng GDP lên gấp 4 lần,
tức là đạt 4 000 tỷ USD, với GDP tính theo đầu người lên tới 3 000 USD vào năm 2020. Chính phủ
lập kế hoạch đạt mục tiêu này bằng cách "thực hiện con đường công nghiệp hóa mới” với KH&CN
và giáo dục là hai trụ cột phát triển nền kinh tế đất nước.
Báo cáo của Chủ tịch Giang Trạch Dân tại Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ XVI năm
2002 vạch ra các hướng dẫn thực thi mục tiêu chiến lược trên như sau:
- Chú trọng hơn nữa cải thiện chất lượng và hiệu quả tăng trưởng kinh tế bằng cách dựa vào
KH&CN và nâng cao trình độ lực lượng lao động,
- Củng cố nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu công nghệ cao và thúc đẩy đổi mới các công nghệ
chủ chốt và tích hợp hệ thống để KH&CN Trung Quốc có thể phát triển với bước tiến lớn,
- Mua quyền sở hữu trí tuệ độc lập trong các lĩnh vực chủ chốt của KH&CN tiên tiến,
- Cải cách cơ bản các hệ thống quản lý KH&CN và giáo dục,
- Tích hợp KH&CN và giáo dục vào nền kinh tế và tăng tốc chuyển đổi các thành tựu nghiên
cứu thành nguồn lực sản xuất thực tiễn,
- Thúc đẩy xây dựng hệ thống đổi mới quốc gia,
- Quản lý hoạt động vốn mạo hiểm hợp lý để hướng các nguồn vốn và nhân lực vào các hãng
mới khởi sự và đổi mới KH&CN,
- Cải tiến hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Báo cáo của Chủ tịch Giang Trạch Dân nhấn mạnh rằng phát triển kinh tế của Trung Quốc
không phải là quá trình tách biệt. Trung Quốc cần mở cửa hơn nữa ra thế giới bên ngoài để "tham
gia tích cực vào hợp tác cũng như là cạnh tranh quốc tế về kinh tế và công nghệ".
Từ chiến lược và các định hướng nêu trên, cho thấy rõ tầm quan trọng của chiến lược mở cửa
hướng ra bên ngoài của Trung Quốc, bên cạnh đó tiến bộ KH&CN và giáo dục được coi là hai trụ
cột chính trong sự nghiệp phát triển một nền kinh tế thịnh vượng trong tương lai.
9
4. Những cải cách về thể chế nhằm nâng cao năng lực công nghệ
Song song với những thay đổi về chính sách được nêu ở phần trên, Trung Quốc còn tiến hành
một số cải cách quan trọng về thể chế mà cho đến nay vẫn tiếp tục tác động tới các nỗ lực phát triển
công nghệ tiên tiến bản xứ. Năm 1986, Trung Quốc đã thành lập Quỹ Khoa học Tự nhiên Quốc gia
(NNSF). Học tập theo mô hình Quỹ Khoa học Quốc gia của Mỹ, mục đích của NNSF cũng là để
thúc đẩy nghiên cứu cơ bản trong các lĩnh vực mới và quan trọng, nhằm điều phối các chương trình
nghiên cứu KH&CN và tăng cường tính chuyên sâu của cộng đồng khoa học Trung Quốc. Lần đầu
tiên NNSF đã áp dụng hình thức xét duyệt và đánh giá công bằng (peer review) đối với các kiến
nghị nghiên cứu và cấp học bổng hay thưởng công dựa trên cơ sở thành tích đạt được.
Một cải cách quan trọng khác về thể chế là sự thành lập vào năm 1992 các Trung tâm Nghiên
cứu Kỹ thuật Quốc gia (NERC). Các trung tâm này thúc đẩy nghiên cứu ứng dụng và áp dụng kỹ
thuật trong các lĩnh vực công nghiệp ưu tiên vốn được coi là “các ngành công nghiệp trụ cột” và các
lĩnh vực công nghệ cao và mới khác. Trong số các lĩnh vực này có điện tử, viễn thông, chế tạo máy,
công nghiệp nhẹ và ngành dệt, luyện kim, y tế, vật liệu tiên tiến và các ngành công nghiệp then chốt
khác. Mục đích chủ yếu đằng sau các trung tâm này là để liên kết (hay “Spin-off”) hoạt động nghiên
cứu được thực hiện chủ yếu tại các viện nghiên cứu trực thuộc CAS với các quá trình chế tạo và sản
xuất. Ngoài ra, các kỹ sư của NERC được kỳ vọng là sẽ nhập khẩu, lĩnh hội và tiếp thu các công
nghệ nước ngoài để sao cho có thể hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao năng lực công nghệ và điều
chỉnh về cơ cấu. Chính vì mục tiêu này mà NERC có thể nhập khẩu miễn thuế các thiết bị và công
nghệ.
Mục tiêu chương trình tổng thể của NERC là nhằm chuyển hóa R-D một cách nhanh chóng hơn
nữa thành các sản phẩm đổi mới trong khi sử dụng các nỗ lực kết hợp và áp dụng các kỹ thuật quản
lý mới để đạt được mục tiêu này. Bộ Khoa học và Công nghệ (MOST) có vai trò giám sát các
chương trình của NERC và đánh giá theo chu kỳ sự tiến bộ của từng trung tâm, một số các trung
tâm này còn được nhận tài trợ của Ngân hàng Thế giới (WB). Các trung tâm này được tài trợ trong
3 năm đầu, sau thời hạn đó mỗi một trung tâm cần đạt được các mục tiêu đề ra theo kế hoạch phát
triển đã được Nhà nước phê chuẩn. Những trung tâm nào chưa thực hiện đúng theo tiến độ sẽ được
gia hạn để đạt bằng được các mục tiêu của mình. Nhưng không giống như thời gian trước cải tổ,
nếu các trung tâm không đạt được các mục tiêu chính của mình trong khoảng thời gian gia hạn đó,
hoặc là sau hai lần xét duyệt liên tục, thì danh định và cả nguồn tài trợ của trung tâm đó sẽ bị hủy
bỏ.
Tuy nhiên, trên thực tế quy trình đăng ký quá phức tạp và tệ quan liêu đã gây khó khăn cho các
nhà khoa học muốn xin tài trợ để thực hiện nghiên cứu của mình. Nhiều nhà khoa học phàn nàn
rằng chính quyền trung ương cung cấp kinh phí cho NERC không đúng thời hạn, buộc các trung
tâm này phải dựa vào các nguồn kinh phí khác để trang trải cho việc xây dựng các phòng thí nghiệm
hay các chi tiêu vận hành khác. Hay việc nhập khẩu thiết bị của nước ngoài cũng không được xuôn
sẻ do các thủ tục hải quan và những vấn đề kiểm soát xuất khẩu khác. Chính do hậu quả của những
khó khăn trên mà mức độ thành công của NERC không được đồng đều.
Trong thời gian gần đây, các trung tâm này đang được cải tổ để trở thành các doanh nghiệp tự
lập về tài chính, bằng con đường thương mại hóa các sản phẩm mới hay thu lệ phí từ các dịch vụ tư
vấn công nghệ. Những trung tâm nào được vay tiền có bảo lãnh của chính quyền sẽ phải hoàn trả
sau một thời hạn nhất định. Bằng biện pháp này, Chính phủ hy vọng rằng các trung tâm NERC sẽ
trở nên độc lập về tài chính bằng cách xuất khẩu các sản phẩm của mình. Ngoài ra các trung tâm
này còn được khuyến khích phát triển các tiêu chuẩn công nghiệp công nghệ cao mới và của bản xứ.
Ngoài việc thành lập các trung tâm NERC, Chính phủ Trung Quốc còn xây dựng hơn 150
“Phòng thí nghiệm then chốt Nhà nước” với ý định để nâng cao tiêu chuẩn nghiên cứu và đào tạo
10
trong các trường đại học và các viện nghiên cứu công. Các phòng thí nghiệm này được quản lý tuân
theo từng chuyên ngành khoa học và dựa trên các quy định và thủ tục về thưởng công xứng đáng.
Cũng trong giai đoạn cải cách, Viện hàn lâm Khoa học Trung Quốc (CAS) đã trải qua những
thay đổi quan trọng về thể chế. Các nhà khoa học và nghiên cứu thuộc CAS cũng phải đối mặt với
một giai đoạn xiết chặt nguồn tài trợ của Nhà nước và các chương trình khuyến khích thương mại
hóa giống như các viện nghiên cứu công khác. Trước những áp lực đó, nhiều phân viện và các nhà
nghiên cứu thuộc CAS đã bắt đầu thành lập các doanh nghiệp vệ tinh (Spin-off), mà một số sau này
đã phát triển thành các công ty công nghệ cao hàng đầu của Trung Quốc. Trong số đó có Legend,
hãng chế tạo máy tính cá nhân hàng đầu của Trung Quốc. Kể từ khi tiến hành cải tổ, các doanh
nghiệp công nghệ cao phi Chính phủ đã bắt đầu phát triển nhanh trên khắp đất nước và trở thành
một bộ phận có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển công nghệ của Trung Quốc.
Một trong những lĩnh vực cải tổ nổi bật nhất, đó là việc các trường đại học của Trung Quốc đã
trải qua một giai đoạn cải tổ về thể chế đẩy ấn tượng. Phục hồi lại từ sau những thanh trừng của
Cuộc cách mạng Văn hóa, các viện nghiên cứu trực thuộc các trường đại học được hưởng một vị trí
nổi bật trong việc cấp kinh phí R-D và ký kết các hợp đồng nghiên cứu, đặc biệt là thông qua các tài
trợ từ NNSF. Cũng giống như các viện nghiên cứu công, các nhà nghiên cứu của các trường đại học
cũng bị chi phối bởi các chính sách của Nhà nước để trở nên độc lập hơn trong tài trợ R-D. Điều này
dẫn đến có nhiều nhà khoa học hơn đã ký kết các hợp đồng cung cấp dịch vụ với các viện nghiên
cứu khác, với các doanh nghiệp và cả với các nhà đầu tư nước ngoài. Vào giai đoạn giữa những
năm 1990, các trường đại học ngày càng tham gia nhiều hơn vào các chương trình R-D, các trung
tâm hay các phòng thí nghiệm do các công ty đa quốc gia (MNC) công nghệ cao tài trợ. Các chương
trình này thường tập trung tại các trường đại học có uy tín của Trung Quốc tại Bắc Kinh và Thượng
Hải, nhưng cũng có thể tìm thấy tại các trường khác, đặc biệt là các trường liên kết với các công
viên khoa học và các khu phát triển công nghệ cao.
5. Vai trò của CAS trong việc thúc đẩy phát triển công nghệ cao
Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc (CAS) là trung tâm nghiên cứu và phát triển nổi tiếng và có
uy tín trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ và đổi mới công nghệ cao ở Trung
Quốc. Thành lập năm 1949, Viện được coi tương đương với Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Mỹ
hoặc Hội Hoàng gia của Anh. Tuy nhiên, không giống như Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia và
Hội Hoàng gia, CAS điều hành các viện nghiên cứu riêng của mình, với chức năng là những công
cụ nghiên cứu của Chính phủ.
Giữa năm 1999 và 2000, CAS đã thực hiện một cuộc cải cách, gọi là Chương trình Đổi mới Tri
thức (KIP) để điều chỉnh lại trọng tâm nghiên cứu và tái cơ cấu tổ chức. Việc quản lý các cơ sở
nghiên cứu được hợp lý hóa; xóa bỏ nhiều ngành khoa học và lĩnh vực nghiên cứu lạc hậu lỗi thời;
chuyển đổi một số viện nghiên cứu thành doanh nghiệp hoặc các thực thể pháp nhân độc lập và bãi
bỏ chế độ đương nhiệm suốt đời.
Năm 2003, CAS có tổng số cán bộ hơn 50.000 người trong các cơ sở nghiên cứu và các cơ sở hỗ
trợ, trong số đó có khoảng 30000 là cán bộ nghiên cứu và 5000 người là cán bộ quản lý. Các nhà
nghiên cứu của CAS là các nhà khoa học và kỹ sư giỏi nhất ở Trung Quốc; năm 2002, có 5000 Tiến
sĩ, 5100 Thạc sĩ Khoa học và 6700 Cử nhân Khoa học. Tổng thu nhập của CAS năm 2003 là 10,04
tỷ NDT (1,21 tỷ USD). Tài trợ của Chính phủ Trung Quốc chiếm 52% thu nhập của CAS; 48% còn
lại là từ nguồn phi Chính phủ.
Với nguồn lực trí tuệ và các cơ sở của mình, CAS là lực lượng R-D chính. Năm 2003, CAS chịu
trách nhiệm 6 trong số 26 chương trình nghiên cứu cơ bản quốc gia mới được giao (chiếm 23%).
Trong số 333 dự án nghiên cứu cơ bản chủ chốt của quốc gia, CAS chịu trách nhiệm 92 dự án, bằng
27,6% tổng số dự án. Cũng trong năm này, 58 trong số 160 nhà nghiên cứu trẻ xuất sắc của quốc gia
11
(36% tổng số) là các nhà nghiên cứu của CAS. CAS chiếm phần lớn (46%) nguồn tài trợ của Quỹ
Khoa học Tự nhiên Quốc gia (NSFC) cho các dự án chủ chốt năm 2003.
CAS cũng là cơ sở đào tạo sinh viên tốt nghiệp chính. Năm 2002, CAS có 22497 sinh viên tốt
nghiệp đăng ký, trong đó 9736 là ứng cử viên Tiến sĩ và 12761 là học viên Thạc sĩ Khoa học.
CAS với các phân ban khoa học là những tổ chức tư vấn cao nhất ở Trung Quốc về vấn đề chính
sách và phát triển KH&CN của quốc gia và có ảnh hưởng lớn đến các vấn đề chính sách KH&CN.
Ví dụ, Chương trình R-D Công nghệ Cao 863 được bắt đầu năm 1986 có xuất xứ từ đề nghị của
CAS.
CAS cũng duy trì mối quan hệ hợp tác tích cực với khu vực công nghiệp. Đến cuối năm 2003,
CAS đã đầu tư vào 336 hãng, 158 trong số đó thuộc toàn quyền kiểm soát của CAS (tức là, CAS
chiếm hơn 50% cổ phần của hãng). Có lẽ một trong các hãng vệ tinh nổi tiếng nhất phát triển từ
CAS là Hãng Lenovo Group (tên cũ là Legend Group). Hãng Legend bắt đầu hoạt động năm 1984
với vốn do CAS đầu tư là 200.000 NDT và đã phát triển thành một lực lượng chủ chốt của ngành
công nghiệp máy tính Trung Quốc.
Mới đây, CAS đã tạo được các bước đột phá lớn về công nghệ cao. Ví dụ, CAS đã thiết lập Siêu
Máy chủ "Dawning 3000", máy tính này từ đó đã trở thành yếu tố cạnh tranh chính với các sản
phẩm của nước ngoài. CAS cũng hoàn thành việc sắp xếp trình tự và lập bản đồ bộ gen cây lúa, là
một đột phá được thế giới công nhận rộng rãi. CAS còn được coi là tổ chức thực hiện R-D mạnh về
ống nanô cacbon và các vật liệu mới khác. Nếu tính về số các bài báo được xếp vào hạng mục trích
dẫn SCI (Chỉ số trích dẫn khoa học), số lượng xuất bản phẩm của CAS tương đương với tổng số các
bài báo của 20 trường đại học hàng đầu của Trung Quốc. Số sáng chế do CAS nộp đơn đăng ký
cũng tăng mạnh. Khoảng 60% sáng chế đăng ký được phân loại là phát minh, là tỷ lệ phần trăm cao
nhất trong số tất cả các tổ chức nghiên cứu ở Trung Quốc.
CAS đã bắt đầu chú trọng thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp công nghệ cao vào năm 1980,
khi Viện Vật lý thuộc CAS đã thành lập một đơn vị công nghệ đầu tiên không phải do Nhà nước
khởi xướng, không được cung cấp tài trợ và không thuộc sở hữu Nhà nước, đó là Tập đoàn Hệ
thống Thông tin Huaxia Guigu Bắc Kinh (nay là một liên doanh Trung - Mỹ). Tiếp theo đó, các
doanh nghiệp khác theo hình thức này đã được hình thành tại Bắc Kinh; hầu hết đều nhỏ nhưng đã
phát triển nhanh chóng thành các doanh nghiệp độc lập, đặc biệt là trong lĩnh vực vi điện tử.
Các doanh nghiệp công nghệ này ban đầu có xu hướng co cụm tại Bắc Kinh. Trong một sự phát
triển song song, năm 1985 CAS đã chính thức hóa sự co cụm này bằng cách thành lập Công viên
Công nghiệp và Khoa học Thẩm Quyến trong một nỗ lực phối hợp với Chính quyền Thành phố
Thẩm quyến. Mục tiêu là để tạo nên một cơ sở, là nơi mà các công nghệ cao từ CAS và các viện
nghiên cứu khác có thể kết hợp với công nghệ và đầu tư nước ngoài để mở ra con đường cho
thương mại hóa các sản phẩm công nghệ cao. Khái niệm này đã được đề cao và từ đó đã hình thành
được 53 khu phát triển công nghệ cao trên cả nước Trung Quốc.
CAS và các viện nghiên cứu trực thuộc cho đến nay đã thành lập trên 900 doanh nghiệp công
nghệ, trong số đó có khoảng 500 doanh nghiệp mang định hướng công nghệ cao và hơn 400 định
hướng vào cung cấp dịch vụ. Hầu hết các doanh nghiệp còn có quy mô nhỏ nhưng có tiềm năng
phát triển nhanh, theo điều tra có khoảng 10% số doanh nghiệp này được đánh giá là hoạt động rất
có hiệu quả, 30% được coi là thành đạt, 30% ở mức độ khá tốt và số còn lại kém hiệu quả. Số doanh
nghiệp công nghệ này của CAS có số nhân lực khoảng 20.000 người, trong đó có khoảng 10.000
thuộc các viện của CAS, số còn lại làm việc theo chế độ hợp đồng. Đây chính là một chuyển biến
lớn trong việc điều động nhân lực, và sự thay đổi trong nền văn hóa nghiên cứu có thể được coi như
một kết quả thành công của quá trình đổi mới.
Để đẩy mạnh nghiên cứu cơ bản, CAS đã sớm sử dụng một phần trong nguồn kinh phí của mình
để thúc đẩy nghiên cứu cơ bản các trường đại học thông qua một loạt các biện pháp mà sau đó dẫn
12
đến sự thành lập NNSF (Quỹ Khoa học Tự nhiên Quốc gia) vào năm 1986. Bằng một hệ thống trợ
cấp nghiên cứu thông qua cạnh tranh công bằng, NNSF đã kích thích nghiên cứu tại các trường đại
học và còn tạo ra cơ chế buộc các nhà khoa học thuộc CAS muốn nhận được sự hỗ trợ từ NNSF thì
cũng phải được đánh giá công bằng trên một thị trường mở. Hiện tại, các nhà khoa học thuộc CAS
được nhận khoảng 30% trị giá các tài trợ.
Các phân viện nghiên cứu thuộc CAS tại một số tỉnh như Thượng Hải và Quảng Châu đã sớm
chuyển định hướng các nỗ lực của mình vào giải quyết các vấn đề của địa phương và hỗ trợ cho các
lĩnh vực ưu tiên của địa phương. Tại Quảng Châu, Viện Hàn lâm Khoa học Quảng Đông đã hợp
nhất 10 phân viện CAS ở địa phương để thành lập Chi nhánh CAS tại Quảng Đông cùng với các
viện nghiên cứu địa phương khác. Một sự hợp nhất như vậy là ví dụ điển hình cho các nơi khác, bởi
vì sự tồn tại một số lượng lớn các viện nghiên cứu độc lập có thể dẫn đến sự trùng lặp và sử dụng
kém hiệu quả các nguồn lực nghiên cứu. Cũng như vậy, Viện Hàn lâm Khoa học Thượng Hải, bao
gồm các viện nghiên cứu trực thuộc trung ương và chính quyền địa phương đã được thành lập để có
được một sự tiếp cận phối hợp chặt chẽ trong nghiên cứu.
6. Sự hình thành các doanh nghiệp công nghệ
Trong những năm gần đây, ở Trung Quốc hình thành một nhóm các doanh nghiệp phát triển dựa
trên cơ sở công nghệ, hay còn gọi là các doanh nghiệp công nghệ. Số doanh nghiệp này chủ yếu là
các đơn vị khai thác và sử dụng các thành quả R-D (Spin-off) của các viện nghiên cứu công và các
doanh nghiệp mới được khởi sự bởi các cán bộ R-D. Các doanh nghiệp này được hình thành trước
hết do kết quả của việc thực hiện thí điểm các chính sách cải tổ các viện nghiên cứu công. Từ trước
khi diễn ra công cuộc cải tổ hệ thống KH&CN, vào những năm 1980 Chính phủ Trung Quốc đã tiến
hành thí điểm cho phép các viện nghiên cứu công một số hướng tự do liên kết với các doanh nghiệp.
Do các doanh nghiệp này được khởi sự dưới hình thức liên kết với các viện nghiên cứu công, nên
chúng vừa không phải là các viện nghiên cứu chính thức của Chính phủ, vừa không phải là các
doanh nghiệp tư nhân hoàn toàn. Tình trạng nhập nhằng về danh nghĩa đó cho phép họ có thể phát
triển trong một môi trường tương đối tự do, bởi vì lúc đó chưa có các chính sách và qui định rõ ràng
đối với loại hình doanh nghiệp này.
Hiện nay, chính sách của Nhà nước Trung Quốc đang hỗ trợ tích cực đối với việc phát triển loại
hình doanh nghiệp công nghệ này. Chính phủ Trung Quốc đã lên kế hoạch chuyển đổi 4 000 viện
nghiên cứu khoa học thành các công ty trong một nỗ lực không ngừng nhằm đẩy mạnh thương mại
các kết quả R-D và tăng cường phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao. Chính sách của
Chính phủ còn khuyến khích các tổ chức giáo dục đại học có năng lực về kỹ thuật có thể thành lập
các công ty con. Để tạo điều kiện cho sự phát triển hơn nữa các doanh nghiệp công nghệ mới khởi
sự, các cơ quan điều hành thị trường chứng khoán Trung Quốc cùng với Uỷ ban Điều hành Chứng
khoán Trung Hoa (CSRC) đã tích cực thúc đẩy việc mở cửa một thị trường chứng khoán cấp hai về
công nghệ cao.
Các doanh nghiệp công nghệ chủ yếu tham gia vào các hoạt động thương mại hóa các kết quả R-
D, chuyển giao công nghệ, tư vấn và dịch vụ công nghệ. Tính đến năm 1998, số doanh nghiệp này
đã lên đến hơn 70 000 với tổng doanh thu đạt 1 046 tỷ NDT năm 1999, trong đó có 130,4 tỷ NDT
(15,9 tỷ USD) thu nhập từ xuất khẩu. Theo số liệu thống kê, các doanh nghiệp này mang nhiều loại
hình sở hữu khác nhau: thuộc sở hữu Nhà nước có 12%; sở hữu tập thể 29%; sở hữu tư nhân 21%;
sở hữu nước ngoài 6%; và các hình thức công ty cổ phần chiếm 30%. Có 4 334 doanh nghiệp công
nghệ liên kết với các viện nghiên cứu công, vào năm 1997 đạt doanh thu 17,5 tỷ NDT, tăng gấp 2,4
lần so với năm 1992. 2 564 doanh nghiệp công nghệ khác trực thuộc các trường đại học Trung
Quốc đạt doanh thu 18,5 tỷ NDT, thu lợi nhuận 1,8 tỷ NDT vào năm 1997. Các doanh nghiệp này
13
còn tạo ra một môi trường thực tập nội trú cho các sinh viên đại học và cao học, trang bị cho họ các
kỹ năng kinh doanh và khởi sự doanh nghiệp.
Đặc biệt ở Trung Quốc, các doanh nghiệp công nghệ được hưởng một số lợi thế so với các tổ chức
thực hiện R-D khác, như họ có thế mạnh về công nghệ và có khả năng tuân theo các nguyên tắc quản lý
định hướng thị trường. Về khía cạnh thế mạnh công nghệ, họ có các mối quan hệ chặt chẽ với các viện
R-D và thường có được các kết quả nghiên cứu có thể thương mại hóa được vào đúng thời điểm chúng
được hình thành. Sự định hướng công việc kinh doanh của họ tập trung vào giai đoạn cuối của đổi mới,
có nghĩa là phát triển sản phẩm mới và thương mại hóa. Các doanh nghiệp công nghệ còn được hưởng
quyền tự chủ cao hơn so với các doanh nghiệp truyền thống trong quá trình ra quyết định kinh doanh.
Hiện nay nhóm doanh nghiệp này đang ngày càng trở thành một lực lượng quan trọng trong hệ thống
đổi mới quốc gia của Trung Quốc.
Sự hình thành các trung tâm chuyển giao công nghệ quốc gia
Để tạo nên các mối quan hệ bền chặt hơn nữa giữa ngành công nghiệp, các trường đại học và các
viện nghiên cứu, thúc đẩy sự kết hợp các nguồn lực KH&CN của các trường đại học và ngành công
nghiệp, khuyến khích chuyển giao các công nghệ tiên tiến cho khối công nghiệp, một số đơn vị chuyển
giao công nghệ, được thành lập trước đây bởi các trường đại học có thế mạnh về KH&CN và có nguồn
kinh phí KH&CN dồi dào đã được lựa chọn để hình thành các trung tâm chuyển giao công nghệ quốc
gia. Các trung tâm này đóng một vai trò tích cực trong việc thúc đẩy xây dựng hệ thống đổi mới công
nghệ với cốt lõi là ngành công nghiệp, bên cạnh đó làm tối ưu hóa các cơ cấu công nghiệp và nâng cao
công nghệ sản xuất. Được coi là một cơ sở hạ tầng nhằm tổ chức và củng cố các nguồn lực KH&CN của
các trường đại học, một trung tâm chuyển giao công nghệ quốc gia thực hiện các nhiệm vụ như: phát
triển và phổ biến các công nghệ thông thường, thúc đẩy và cải tiến việc xây dựng các trung tâm công
nghệ công nghiệp, thúc đẩy việc chuyển hóa các kết quả nghiên cứu của các trường đại học và chuyển
giao công nghệ, đẩy mạnh hợp tác đổi mới công nghệ quốc tế và cung cấp các dịch vụ toàn diện cho
ngành công nghiệp. Bên cạnh đó là các công viên KH&CN được chính thức khởi xướng năm 2000,
được coi là đầu mối liên kết giữa những cải cách về KH&CN, giáo dục và kinh tế cũng đã đạt được
những bước tiến bộ đáng kể dưới sự hỗ trợ của chính quyền các cấp. Các công viên này chính là cơ sở
cho việc chuyển hóa các kết quả KH&CN của các trường đại học, các vườn ươm tạo các ngành công
nghệ cao và là một mũi nhọn phát triển kinh tế mới.
7. Những cải tổ về luật pháp nhằm thúc đẩy KH&CN và thương mại hóa công nghệ
Một điểm đặc trưng khác của thời kỳ cải cách sau năm 1985 đó là sự cải cách về luật pháp.
Những cải tổ này đã giúp thúc đẩy đầu tư công nghệ cao của nước ngoài và tạo ra những sự bảo hộ
cần thiết về luật pháp đối với đổi mới của bản xứ. Trong vòng hai thập kỷ gần đây, Trung Quốc đã
ban hành (và cập nhật) nhiều bộ luật mới chi phối sự sản xuất, chuyển giao và bảo hộ đối với nghiên
cứu khoa học, công nghệ và tài sản trí tuệ. Những cải cách chính về luật pháp liên quan đến công
nghệ bao gồm:
. Luật Nhãn hiệu thương mại (thông qua năm 1982, sửa đổi năm 1993, cập nhật năm 2001 và
2002): Luật này quy định về thẩm quyền nhãn hiệu thương mại, các thủ tục và việc sử dụng nhãn
hiệu thương mại cùng với quy trình phân xử.
. Luật Hợp đồng Công nghệ (1987): Luật này quy định tiêu chuẩn hóa các hợp đồng công nghệ
liên quan đến việc thương mại hóa các kết quả nghiên cứu và thời hạn chấm dứt hợp đồng sau đó.
Bộ luật này chỉ áp dụng đối với các hợp đồng giữa các cá nhân và doanh nghiệp trong nước.
. Luật phát minh sáng chế (thông qua lần đầu tiên năm 1984, sửa đổi năm 1993, cập nhật năm
2000 và 2001): Bộ luật này quy định các thủ tục đăng ký sáng chế, các hướng dẫn giải quyết tranh
chấp và quyền sở hữu hợp pháp đối với các nhà phát minh, hiện nay được kéo dài đến 20 năm.
. Luật Bản quyền (thông qua năm 1990, cập nhật năm 2001): áp dụng đối với các đăng ký bản
quyền của cả trong nước lẫn nước ngoài, bộ luật này bảo hộ cả phần mềm máy tính. Ngoài ra còn
14
đưa ra một loạt các quy định về ký kết hợp đồng, quyền sở hữu, thủ tục đăng ký bản quyền và cả
trách nhiệm pháp lý.
. Luật chất lượng sản phẩm (1993): Luật này liên quan đến cả hai công đoạn sản xuất và bán
sản phẩm tại Trung Quốc, quy định về trách nhiệm pháp lý và quy cách quản lý chất lượng.
. Luật Thúc đẩy Chuyển hóa các thành tựu KH&CN (1996): Các quy định của luật liên quan
đến các hoạt động tiến hành thử nghiệm, triển khai, ứng dụng và phổ biến các thành tựu KH&CN
có giá trị thực tiễn, được thực hiện thông qua phát triển công nghệ và nghiên cứu khoa học, có liên
quan tới việc phát triển các sản phẩm mới, các kỹ thuật và vật liệu mới và sự hình thành các ngành
công nghiệp mới ...
Một số bộ luật của Trung Quốc đã được cập nhật trong vòng vài năm gần đây cho phù hợp với
quá trình gia nhập WTO của Trung Quốc. Các bộ luật liên quan đến vốn liên doanh với nước ngoài,
các doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sở hữu nước ngoài, đầu tư vốn mạo hiểm, thu thuế ... đều đã được
xem xét lại và sửa đổi cho phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế. Liên quan đến sự cam kết của Trung
Quốc đối với WTO, gần đây Trung Quốc đã ban hành các quy định mới liên quan đến sự phát triển
phần mềm máy tính và thiết kế vi mạch tích hợp.
8. Chiến lược phát triển công nghệ cao nhằm vào hiện đại hóa quân sự và định hướng đầu tư
trực tiếp nước ngoài
Chính phủ Trung Quốc có một tầm nhìn phát triển KH&CN bền vững và được phối hợp. Nhiều
phát triển công nghệ cao của Trung Quốc được thúc đẩy bằng các chính sách xuất phát từ chủ
trương của Chính phủ, chú trọng thúc đẩy tăng trưởng trong các lĩnh vực mà Chính phủ tin rằng qua
đó có thể hỗ trợ thúc đẩy phát triển toàn bộ nền kinh tế.
Từ cuối những năm 1970, các nhà lãnh đạo Trung Quốc cho rằng hiện đại hóa rộng khắp toàn bộ
nền kinh tế sẽ củng cố hiện đại hóa quân sự về lâu dài. "Tại Đại hội Đảng lần thứ 16 (năm 2002),
các nhà lãnh đạo Trung Quốc khẳng định lại cam kết phát triển kinh tế và tiếp tục ủng hộ hiện đại
hóa quân sự". Trong thực tế, chính sách này được biến thành sự phát triển đồng thời giữa công nghệ
phục vụ dân sự và quân sự. Ví dụ, Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc tiến hành nghiên cứu hợp
tác với các viện khác nhau về xây dựng, cảm biến từ xa, vật liệu bán dẫn và lade tại các thành phố
có cơ sở công nghiệp quốc phòng mạnh ở Trung Quốc. Kết quả là dẫn đến sự hợp tác chặt chẽ với
ngành quân sự về "nghiên cứu ứng dụng, với các sản phẩm được tài trợ hoặc phát triển để sử dụng
trong quân sự".
Tháng 3 năm 1986, Trung Quốc đề ra Chương trình Nghiên cứu và Phát triển Công nghệ cao
Quốc gia (Chương trình 863). Nhiệm vụ của chương trình này tập trung vào công nghệ cao có tính
chiến lược, dự báo sẽ là các công nghệ mũi nhọn, hữu ích cho sự phát triển trung hạn và dài hạn của
Trung Quốc. Chương trình 863 tác động đến các lĩnh vực chính như công nghệ sinh học, công nghệ
hàng không vũ trụ, công nghệ thông tin, công nghệ lade, công nghệ tự động hóa, công nghệ năng
lượng và vật liệu tiên tiến. Chương trình này ban đầu do các nhà khoa học về vũ khí chiến lược của
Trung Quốc đề xuất và nhấn mạnh trọng tâm tiếp tục là "phát triển công nghệ dân sự và quân sự có
tính chiến lược và mục tiêu được công bố là đạt sự ngang bằng về công nghệ với các quốc gia công
nghiệp hóa". Tài trợ R-D cho dự án thuộc Chương trình 863 thường từ các kênh khác nhau, như của
Chính phủ, ngành công nghiệp và các thực thể tư nhân.
Chương trình 863 tạo ra một dạng tài trợ mới thông thoáng hơn, cho phép Chính phủ Trung
Quốc đặt ra các mục tiêu cụ thể thông qua tài trợ cho R-D có chỉ đạo. Tài trợ theo Chương trình 863
được phân bổ trực tiếp cho các chuyên gia 863, không qua hệ thống quan liêu giấy tờ. Do vậy,
Chính phủ có thể giám sát nhanh các ưu tiên về KH&CN của mình. Ví dụ, các tiến bộ công nghệ
hàng không vũ trụ của các tiểu ban chuyên gia 863 đã đóng góp vào thành công mới đây của
chương trình hàng không vũ trụ có người điều khiển của Trung Quốc. Ngoài Chương trình 863, tài
trợ cho R-D chính thức của Trung Quốc được thực hiện thông qua các khoản mục cho KHCN thông
15
thường trong ngân sách của các Bộ hoặc của Nhà nước; tài trợ một cục được phân bổ cho các thực
thể này; và thông qua các liên doanh tăng tài trợ thương mại được thiết lập giữa các phòng thí
nghiệm và các doanh nghiệp.
Sự phát triển nội lực R-D của Trung Quốc cũng được củng cố bởi chiến lược của Chính phủ
khuyến khích FDI vào các vùng và khu vực. Ví dụ, các hãng máy tính và viễn thông nước ngoài đã
thiết lập các trung tâm, các chương trình và phòng thí nghiệm ở Trung Quốc, được hỗ trợ bởi chính
sách thuế và các biện pháp khuyến khích đặc biệt khác của Chính phủ để thu hút các ngành công
nghiệp này. Ngoài ra, các hãng của Trung Quốc trong các ngành công nghiệp này đã theo đuổi
chiến lược tạo lập đối tác với nhiều hãng nước ngoài để phát triển hết mức năng lực công nghệ của
tất cả các hãng có liên quan.
Đầu tư cho R-D công nghệ cao của nước ngoài vào Trung Quốc có sự chuyển đổi nhanh trong
những năm 1990. Từ những năm đầu đến giữa 1990, đầu tư R-D nước ngoài có đặc điểm là đầu tư
có tính chiến lược, thăm dò. Đến giữa thập kỷ, thị trường công nghệ thông tin của Trung Quốc được
mở cửa hơn nữa cho đầu tư nước ngoài và phát triển ngày càng có tính cạnh tranh hơn. Trong giai
đoạn sau khi Trung Quốc gia nhập WTO năm 2001, nhiều hãng đã quan tâm đến việc thúc đẩy dây
chuyền sản xuất có giá trị gia tăng và tìm kiếm cơ sở R-D ở Trung Quốc.
Theo đánh giá của các nhà chuyên gia, tiến bộ công nghệ của Trung Quốc hiện nay bao gồm
nguồn lực dồi dào các nhà khoa học và kỹ sư đang dốc sức vào việc đạt được các tiến bộ về công
nghệ. Khi nghiên cứu về R-D công nghệ cao của Trung Quốc, không thể không thấy rõ tốc độ phát
triển và chiều sâu của các tiến bộ này. Cho đến nay, Trung Quốc đã thể hiện các bước nước rút có
tính chu kỳ về tăng trưởng công nghệ trong giai đoạn phát triển R-D, tuy nhiên về lâu dài, Trung
Quốc cần tăng trưởng ổn định, có chất lượng hơn để có thể tăng cường vị thế công nghệ trên thế
giới. Trung Quốc chỉ dành 5% chi tiêu R-D cho nghiên cứu cơ bản, tập trung phần còn lại vào R-D
ứng dụng nhằm mục tiêu phát triển kinh tế tức thời. Ngoài ra, phát triển lĩnh vực R-D của Trung
Quốc bị hạn chế một phần do Nhà nước không có khả năng làm cho việc bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ có hiệu lực. Thất bại của Trung Quốc không bảo hộ được quyền sở hữu trí tuệ đã hạn chế các
quyết định đầu tư và chuyển giao công nghệ của một số hãng nước ngoài vào lĩnh vực công nghệ.
Ví dụ như, ngành công nghiệp dược phẩm, theo một số đánh giá Trung Quốc hiện đang là nhà
sản xuất và cung cấp thành phần dược phẩm lớn thứ hai trên thế giới, tuy nhiên hầu hết các sản
phẩm này cho đến nay chỉ là các dược phẩm thông thường. Để tạo được tiến bộ đích thực trong lĩnh
vực dược phẩm, ngành công nghiệp dược phẩm của Trung Quốc cần mở rộng R-D để phát triển các
sản phẩm riêng của mình, nâng cao hiệu quả và tăng cường kiểm tra chất lượng. Trong khi các sản
phẩm do các hãng dược của Trung Quốc sản xuất chủ yếu là các dược phẩm thông thường, đầu tư
nước ngoài, chuyển giao công nghệ và hệ thống quản lý đi kèm theo đầu tư này đang thúc đẩy sự
tăng trưởng của ngành công nghiệp dược ngày một tinh tế hơn. Các nhà sản xuất dược phẩm nước
ngoài đang bắt đầu thiết lập các cơ sở R-D ở Trung Quốc. Sau Hồng Kông, Mỹ là nước đầu tư lớn
thứ hai vào ngành công nghiệp dược của Trung Quốc.
Ngành công nghệ sinh học của Trung Quốc cũng đang phát triển và Chính phủ Trung Quốc hỗ
trợ sự phát triển của ngành này. Một nhà điều hành của ngành công nghiệp công nghệ sinh học của
Mỹ cho biết, Chính phủ Trung Quốc hỗ trợ ngành công nghệ sinh học bằng việc đầu tư hàng năm
hơn 600 triệu USD cho các trường đại học, trung tâm nghiên cứu, phòng thí nghiệm và khuyến
khích người Trung Quốc có bằng tiến sĩ về lĩnh vực các khoa học sự sống ở Mỹ trở về Trung Quốc,
thông qua các biện pháp khuyến khích họ, như làm giáo sư đại học, trao đổi hợp tác...
Trung Quốc cũng thu hút đầu tư R-D vào công nghệ sinh học từ Đài Loan. Trong lúc ngành
công nghiệp công nghệ sinh học của Đài Loan tương đối mạnh, ngày càng có nhiều đầu tư hơn của
Chính quyền và khu vực tư nhân của Đài Loan hiện đang chảy vào lục địa. Đầu tư này, cùng với
đầu tư của Chính phủ Trung Quốc vào công nghệ sinh học đã hỗ trợ ngành công nghiệp công nghệ
sinh học Trung Quốc phát triển mạnh với tỷ lệ tăng trưởng 30%/năm và tốc độ này ngày một gia
16
tăng, trong khi ngành công nghiệp công nghệ sinh học của Đài Loan tăng khoảng 25%/năm trong 5
năm qua và đang giảm dần.
Chính phủ Trung Quốc có vai trò quan trọng trong sự phát triển công nghệ cao của Trung Quốc
và chính sách công nghệ sử dụng các tiêu chuẩn làm đòn bẩy để xây dựng ngành công nghiệp này
nói chung. Trung Quốc đã "áp dụng các tiêu chuẩn công nghệ riêng để làm cho các điều khoản
cạnh tranh trở nên thuận lợi cho công nghệ Trung Quốc". Một khi các hãng nước ngoài chấp nhận
các tiêu chuẩn do Trung Quốc ban hành để tiếp cận vào thị trường đang gia tăng của Trung Quốc,
các hãng này sẽ hỗ trợ xây dựng một nền kinh tế thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu từ Trung Quốc với
các tiêu chuẩn mới này. Chính phủ Trung Quốc cũng sử dụng quyền lực của mình đối với các
doanh nghiệp sở hữu nhà nước và các doanh nghiệp cần có giấy phép để sản xuất hoặc cung cấp
dịch vụ, để tổ chức các các-ten thỏa thuận mua bán với các tập đoàn nước ngoài nhằm khuyến khích
chuyển giao công nghệ vào Trung Quốc. Việc sử dụng các tiêu chuẩn công nghệ riêng đã trở thành
một biện pháp mới cưỡng bức chuyển giao công nghệ, thay cho các quy trình chuyển giao công
nghệ thông thường mà Trung Quốc đã nhất trí ngừng áp dụng trong thỏa thuận với WTO.
Ngoài việc thúc đẩy năng lực R-D ở trong nước, đầu tư nước ngoài vào công nghệ cao của Trung
Quốc còn có tiềm năng đóng góp vào sự phát triển các công nghệ có tầm quan trọng lớn về quân sự.
Trọng tâm của Trung Quốc hiện nay về phương tiện chiến tranh thông tin trong học thuyết quân sự
của mình, là làm thế nào để thu hút đầu tư phục vụ cho mục đích sử dụng kép của mình, tức là cùng
một lúc phát triển cả công nghệ dân sự lẫn quân sự.
II. Quá trình hình thành và phát triển hoạt động R-D công nghệ cao ở Trung Quốc
1. Quá trình hình thành và tiến hóa của hoạt động R-D công nghệ cao
R-D công nghệ cao của nước ngoài bắt đầu nổi lên ở Trung Quốc vào giữa thập kỷ 90. Kể từ đó,
xu hướng này đã tiến hoá theo mô thức gần giống với xu hướng R-D ở các nơi khác trên toàn cầu.
Đặc biệt, ngành máy tính và truyền thông (MT-TT) đang là động lực cho đầu tư R-D ở Trung Quốc.
Cả 2 ngành này đều phụ thuộc rất nhiều vào R-D để đổi mới; chúng có chu kỳ sản xuất nhanh và
ngày càng có quy mô quốc tế. Cả 2 ngành này cũng thâm nhập vào Trung Quốc với số lượng lớn.
Dưới đây, ta sẽ đề cập tới quá trình nổi lên và tiến hoá của hoạt động R-D CNT ở Trung Quốc,
trong đó chú trọng đến 2 ngành này.
Một số năm trước đây, các công ty máy tính Mỹ đã thâm nhập vào Trung Quốc. Năm 1985,
IBM là Hãng máy tính đầu tiên xây dựng xí nghiệp tại Trung Quốc. Cũng trong năm 1985, Hewlett-
Packard (HP) cũng nhập cuộc, với việc thành lập công ty liên doanh công nghệ cao chính thức đầu
tiên của Trung Quốc với nước ngoài. Kể từ đó, các công ty đa quốc gia này đã liên doanh với một
số công ty công nghệ cao khác ở trên khắp thế giới mà cũng có cùng mơ ước dành được thị phần ở
Trung Quốc.
Ngày nay, các công ty đa quốc gia ở khắp thế giới đang thành lập một số lượng ngày càng tăng
các trung tâm, chương trình và phòng thí nghiệm R-D ở Trung Quốc. Vào giữa thập kỷ 90, HP đã
thành lập một trung tâm công nghệ cao lần đầu tiên thực sự được nước ngoài tài trợ. Tương tự, năm
1995, IBM cũng xây dựng một Phòng thí nghiệm nghiên cứu, với sự chú trọng ban đầu là phát triển
các phần mềm ứng dụng có liên quan đặc biệt tới Trung Quốc, bao gồm thư viện số, nhận dạng lời
nói, phiên dịch, xử lý tiếng Trung, đa phương tiện và Internet. Thường đi kèm theo các chương trình
R-D này và các loại hình đầu tư khác là các hình thức chuyển giao công nghệ truyền thống, chẳng
hạn như chương trình giáo dục và đào tạo, cấp phép sử dụng, hợp đồng nghiên cứu và cung cấp thiết
bị.
Nhưng điều gì đã tạo động lực cho các công ty đa quốc gia nước ngoài đầu tư vào R-D ở Trung
Quốc và hoạt động này có gì khác so với các thực tiễn đầu tư và chuyển giao công nghệ trước đây.
Việc xem xét quá trình tiến hoá của hoạt động đầu tư, chuyển giao công nghệ và R-D do nước ngoài
17
đầu tư sẽ phản ánh được phần nào tác động của xu hướng gia tăng R-D có thể đem lại cho công
cuộc phát triển và quan hệ quốc tế của Trung Quốc.
R-D: Bước cuối cùng trong chuỗi giá trị đầu tư nước ngòai
Như các ví dụ ở trên cho thấy, chuyển giao công nghệ nếu xét ở một số hình thức thì không phải
là một hiện tượng hoàn toàn mới đối với Trung Quốc. Một thời gian không lâu sau những khoản
đầu tư ban đầu, IBM và các công ty máy tính khác cũng bắt đầu thành lập các trung tâm đào tạo để
hỗ trợ cho các chương trình cho các đối tác Trung Quốc. Đây là một hình thức phổ biến trong hoạt
động thâm nhập đầu tiên của các công ty công nghệ cao khi đầu tư ra nước ngoài.
Các trung tâm R-D hiện nay biểu thị một bước tiến tiếp theo trong quá trình tiến hoá của công
cuộc đầu tư công nghệ cao ở Trung Quốc. Như đã được mô tả bởi các nhà quản lý R-D, các chuyên
gia công nghiệp và các nhà nghiên cứu đã quen thuộc với thị trường Trung Quốc cũng như các thực
tiễn đầu tư công nghệ cao trên toàn cầu, sự tăng trưởng của việc đầu tư R-D nước ngoài ở Trung
Quốc chỉ là pha cuối cùng nằm trong một số pha thường có khi đầu tư công nghệ cao ra thị trường
nước ngoài. Do vậy, thị trường Trung Quốc cũng kinh qua những động thái đã từng xảy ra ở các nơi
khác trên thế giới dưới tác động của toàn cầu hoá. ở Trung Quốc, R-D là pha cuối cùng trong số 4
pha đầu tư công nghệ cao của nước ngoài (mặc dù tất cả các pha này diễn ra liên tiếp khi một nhà
đầu tư mới thâm nhập vào thị trường):
Pha I: Bán hàng, Marketing, cấp giấy phép sử dụng và hỗ trợ dịch vụ kỹ thuật.
Pha đầu, bao gồm việc mở văn phòng đại diện hoặc kinh doanh, thường ở các thành phố lớn
hoặc trung tâm công nghiệp thích hợp. Mục đích đặt ra là tạo sự có mặt ở thị trường, tạo ra một địa
điểm để quan sát, theo dõi nhằm cung cấp thêm thông tin cho việc phân tích tình hình thị trường,
Chính phủ và ngành công nghiệp và bước đầu tăng cường danh tiếng cho công ty, đồng thời để
quảng bá nhãn hiệu hàng hoá. Các nhà đầu tư cũng có thể lập các dịch vụ trợ giúp kỹ thuật cho các
sản phẩm được bán ra ở nước ngoài và cấp quyền sử dụng công nghệ. Loại hình hoạt động này
được phổ biến rộng nhất ở Trung Quốc vào thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước.
Pha II: Chế tạo và sản xuất
Sau khi thiết lập được sự hiện diện của mình, bước tiếp theo là công ty nước ngoài lập ra xí
nghiệp để chế tạo và sản xuất. Thông thường, đây là xí nghiệp liên doanh, hoặc là do luật định, hoặc
là ý muốn. Thường là do cả hai, vì nếu có được đối tác địa phương thì sẽ có thể bổ sung thêm những
đối tượng nhập cuộc mới để dẫn hướng thị trường, hệ thống quan chức và pháp lý ở nước ngoài. ở
pha này, công nghệ, đào tạo, know-how và thiết bị thường được chuyển giao cho đối tác địa phương
để đào tạo công nhân bản địa về quy trình sản xuất và đảm bảo chất lượng. Các nhà đầu tư nước
ngoài cũng có thể phải thay đổi quy trình sản xuất để đáp ứng các thách thức về thiết kế công nghệ
nảy sinh ra do điều kiện môi trường hoặc kết cấu hạ tầng của địa phương.
Pha III: Thiết kế sản phẩm, “nội địa hoá” và tái phát triển
ở pha này (thường là chồng chập lên pha trước) thường cần đến R-D ở dạng phát triển để làm
cho sản phẩm hoặc quy trình sản xuất đáp ứng được thị hiếu, khẩu vị của bản địa, tình hình thị
trường, các quy định và tiêu chuẩn của ngành. Hoạt động này thường được hưởng lợi ích từ sự hợp
tác với các kỹ sư Trung Quốc và những đối tác nào có thể giúp làm cho sản phẩm/công nghệ thích
ứng nhanh với điều kiện thị trường bản địa. Hoạt động này cũng có thể bao hàm các công việc tinh
xảo hơn, chẳng hạn như kết hợp hệ thống hoặc tiêu chuẩn và đôi khi được tiến hành với những
khách hàng thuộc bên thứ ba (chẳng hạn như bộ, ngành hoặc trường đại học). Các nhà đầu tư nước
ngoài đôi khi thuê các nhà nghiên cứu ở trường đại học bản địa thực hiện các hoạt động này theo
hợp đồng ký kết. Tất cả các hoạt động này diễn ra rõ rệt tại Trung Quốc vào cuối thập kỷ 90. Cũng
ở chính pha này, các trung tâm R-D đầu tiên của nước ngoài đã được thành lập.
18
Pha IV: R-D
Theo thời gian, các nhà đầu tư nước ngoài ở Trung Quốc và những nơi khác cần phải nâng cấp
dây chuyền sản xuất để tiến kịp với thị trường và duy trì được khả năng cạnh tranh, do những sản
phẩm bán ra lúc đầu đã trở thành lạc hậu. Ngoài ra, khi các công ty đa quốc gia tiếp tục mở rộng
hoạt động kinh doanh ra khắp toàn cầu thì các công ty con của họ sẽ trở nên tự lập hơn và đóng góp
nhiều hơn vào xí nghiệp toàn cầu của công ty mẹ- không chỉ xét về mặt lợi nhuận, mà còn về đổi
mới (đặc biệt là ở ngành MT-TT). Chính ở pha này, các trung tâm R-D của nước ngoài được mở
mang hoặc củng cố để cho phép tiến hành tại chỗ các hoạt động R-D tiên tiến; sự việc này hiện đang
bắt đầu được chứng kiến ở Trung Quốc.
Theo sự mô tả ở trên, R-D công nghệ cao ở Trung Quốc cũng diễn ra theo tiến trình thông
thường của chu trình đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, mô hình tổng quát này vẫn còn thiếu một số
khâu và động lực quan trọng đặc thù đối với thị trường Trung Quốc, như được đề cập ở dưới đây.
Sự năng động trong đầu tư công nghệ cao ở thị trường Trung Quốc
Kể từ khi Đặng Tiểu Bình tuyên bố Chính sách “Mở cửa” vào cuối thập kỷ 70, Trung Quốc đã
hoan nghênh sự đầu tư, chuyển giao công nghệ và bí quyết nước ngoài vào Trung Quốc. Đặc biệt,
các quan chức và doanh nghiệp hàng đầu của Trung Quốc quan tâm thu hút nhiều nhất những công
ty công nghệ cao hàng đầu và nằm trong số 500 công ty được Tạp chí Fortune bình chọn. Cho đến
nay, họ đã đạt được sự thành công to lớn: 400 trong số 500 công ty được nêu trong Tạp chí Fortune
đã có mặt ở thị trường Trung Quốc. Lợi ích mà Trung Quốc đạt được không chỉ là dòng vốn chảy
vào, mà còn học được những gì tốt nhất của thế giới để giúp Trung Quốc đi tắt, đón đầu trong sự
nghiệp hiện đại hoá. Quả thật, các quan chức và giám đốc điều hành doanh nghiệp Trung Quốc đã
không ngại ngần khi công bố đây chính là mục tiêu của họ. Do tiềm năng thị trường và các nhà đầu
tư liên tục lao vào Trung Quốc nên các nước khác trong khu vực chỉ có thể “ghen tỵ” với vị thế
mạnh của cường quốc này. Tuy nhiên, cũng vào thời gian này, Trung Quốc cũng đã học được bài
học rằng nếu chỉ đơn giản tiếp nhận công nghệ nước ngoài thì không có nghĩa là biến được chúng
thành các know-how công nghệ cần thiết phục vụ cho sự phát triển công nghệ dân sự và quân sự
tiên tiến và lâu dài. Đây là lý do chủ yếu đem lại sự chú trọng mới đây đối với R-D công nghệ cao
của Trung Quốc, kể cả ở các chương trình KH&CN trong nước lẫn ở các hình thức đầu tư nước
ngoài và chuyển giao công nghệ.
Sự chú trọng đến R-D đã đặc biệt rõ rệt ở hai ngành MT-TT, những lĩnh vực được Trung Quốc
coi là các ngành trụ cột (Pillar Industries). Ví dụ, chính sách công nghiệp phần mềm mới đây (giai
đoạn 2002-2005), đã nêu: “Khuyến khích thành lập các cơ sở R-D giữa Trung Quốc với nước ngoài
về những công nghệ phần mềm then chốt”. Cũng như vậy, ở ngành viễn thông, các nhà đầu tư nước
ngoài cũng được khuyến khích thành lập trung tâm R-D, chứ không còn bị đòi hỏi phải thực hiện
công việc đó. Bằng cách này hay cách khác, mỗi ngành đều đã áp dụng các chiến lược phát triển
giống nhau. Nhưng những chiến lược này cũng có những khía cạnh khác nhau quan trọng, do
những thách thức về công nghệ mà mỗi ngành phải đối mặt.
Chiến lược phát triển chung: Thu hút nhiều đối tác nước ngoài cùng một lúc
Điểm giống nhau cơ bản trong các chiến lược phát triển ở cả 2 ngành MT-TT là cố gắng lập
quan hệ với một số đối tác cùng một lúc để tăng tốc độ và mở mang các năng lực công nghệ. Các
quan hệ đối tác bao hàm toàn bộ các hoạt động: Từ phân phối các sản phẩm do nước ngoài sản xuất
ở thị trường nội địa- một hình thức hợp tác quốc tế ban đầu thường diễn ra- cho tới toàn bộ công tác
thiết kế. Ví dụ, một công ty viễn thông hàng đầu ở Nam Trung Quốc đã tự hào liệt kê ra nhiều loại
hình đối tác khác nhau mà doanh nghiệp này đã phát triển với hơn một tá các công ty viễn thông
nước ngoài riêng rẽ. Các quan hệ đối tác này có phạm vi từ mức đơn giản như được phép bán và
phân phối sản phẩm, cho tới liên kết sản xuất rồi đến thiết kế và phát triển.
19
Quan hệ đối tác được thiết lập chủ yếu với các công ty đa quốc gia nổi tiếng là những đối tượng
có khả năng chuyển giao một số công nghệ, thiết bị và know-how mà có tiềm năng giúp phía Trung
Quốc hiện đại hoá các xí nghiệp sản xuất. Theo ý kiến của các Giám đốc điều hành của Trung
Quốc, doanh nghiệp của họ đã học được nhiều điều về các thực tiễn kinh doanh hiện đại nhờ lập đối
tác với các công ty nước ngoài khác nhau. Như vậy, chiến lược thiết lập nhiều đối tác công nghệ đã
chứng tỏ là một cách tiếp cận hiệu quả cho một số doanh nghiệp Trung Quốc để nhanh chóng phát
triển được nhiều năng lực hơn.
Khác với hồi đầu thập kỷ 90, khi ở Trung Quốc chỉ có một số ít công ty MT-TT hàng đầu mà các
doanh nghiệp nước ngoài có thể- hoặc mong muốn- được thiết lập đối tác, hiện nay họ có thể cân
nhắc một số lượng ngày càng tăng các công ty cạnh tranh nhau để hợp tác. Do những ngành này vẫn
tiếp tục phát triển, nên sự cạnh tranh ngày càng mạnh hơn và số đối tượng để lựa chọn ngày càng
nhiều, giúp giảm việc phải tập trung vào một doanh nghiệp. Hơn thế nữa, do các cải cách liên quan
đến WTO, các công ty nước ngoài không còn bị yêu cầu phải có đối tác liên doanh để đầu tư vào
những ngành công nghệ cao. Bởi vậy, nhiều nhà đầu tư hiện nay có xu hướng thiết lập các xí nghiệp
do nước ngoài sở hữu toàn bộ. Đây cũng là chiến lược mà nhiều nhà đầu tư nước ngoài theo đuổi
khi thành lập các cơ sở R-D ở Trung Quốc: những cơ sở này ngày càng do nước ngoài sở hữu hoặc
quản lý toàn bộ.
Ngoài ra, chiến lược thu hút nhiều đối tác nước ngoài đã đem lại lợi ích cho một số doanh nghiệp
Trung Quốc, đặc biệt là một số doanh nghiệp công nghệ mới (NTE) thành công nhất. Ví dụ, chiến
lược này đã đóng vai trò rất lớn trong sự phát triển và lớn mạnh nhanh chóng của 4 doanh nghiệp
công nghệ cao thành công nhất, bao gồm Legend, Stone, Founder và Great Wall. Thông qua quan
hệ với nhiều đối tác, những doanh nghiệp này không chỉ thịnh vượng mà còn học tập được nhiều về
cách thức quản lý, cũng như các phương pháp tiếp thị, tài chính- là những lĩnh vực mà các doanh
nghiệp Trung Quốc thường yếu kém. Mặc dù các nhà đầu tư nước ngoài hiển nhiên là có được lợi
ích nhờ lập quan hệ đối tác với doanh nghiệp Trung Quốc, nhưng phía Trung Quốc có thể nhận
được nhiều hơn khi có quan hệ với nhiều đối tác cùng một lúc. Điều này càng đặc biệt đúng với
trường hợp R-D. Như một Báo cáo gần đây của Chính phủ Mỹ về toàn cầu hoá R-D đã nhận xét:
“Mặc dù R-D của Mỹ ở nước ngoài có thể chuyển giao công nghệ trở lại cho công ty mẹ của Mỹ,
nhưng phần lớn những lợi ích trực tiếp mà chi phí R-D ở nước ngoài mang lại- việc làm và hiệu ứng
lan toả- lại có tác dụng cho các nước sở tại”.
Vai trò của các nhà tài trợ Chính phủ và trường đại học
Khu vực Chính phủ và trường đại học của Trung Quốc cũng đóng vai trò nổi bật trong việc thu
hút đầu tư công nghệ cao của nước ngoài, kể cả R-D. Như Adam Segal đã nêu trong một công trình
khảo sát chi tiết gần đây về các doanh nghiệp CNC của Trung Quốc, thì mối quan hệ giữa Chính
phủ và những doanh nghiệp công nghệ cao trong nước này thường có tính chất cộng sinh. Những
nhà đầu tư nước ngoài nếu lập đối tác với các doanh nghiệp mà được sự hậu thuẫn hoặc có mối
quen biết với những quan chức Chính phủ thì có được lợi ích đáng kể về mặt quan hệ. Họ cũng có
thể nhận được thông tin về các chính sách chiến lược công nghiệp, chính trị, pháp lý và công nghệ
mà trước đây khó biết được do sự thiếu minh bạch trong việc hoạch định chính sách ở Trung Quốc.
Việc định vị này cũng có thể hữu ích để đảm bảo những hợp đồng ký kết với các bộ khác nhau,
trong đó mỗi bộ được uỷ nhiệm mua sắm các hạng mục nhất định. Bởi vậy, các đối tác công nghiệp
trên cơ sở đã được lựa chọn kỹ lưỡng có thể có tác dụng để giúp tận dụng các cơ hội đang nổi lên,
cũng như để nắm bắt được những động thái về chính sách và công nghệ ở Trung Quốc. Một số
trường hợp, các nhà đầu tư nước ngoài cũng lựa chọn những đối tác có các chương trình R-D được
Chính phủ tài trợ, nhằm thúc đẩy phục vụ cho mục đích của họ.
20
Chiến lược này cũng được áp dụng đối với các trường đại học hàng đầu mà các nhà đầu tư nước
ngoài đã lập quan hệ đối tác, không chỉ là do ở đó các khoa CNTT hoặc KH&CN mạnh, cũng như
để nhằm mục đích thuê tuyển cán bộ và ký kết một số hợp đồng nghiên cứu, mà còn do các trường
đó có các mối quan hệ mật thiết với những bộ Chính phủ. ở ngành viễn thông, điều này xem ra là lý
do chủ chốt, ít nhất là của một số hợp đồng chuyển giao công nghệ và các chương trình hợp tác R-D
mà các công ty đa quốc gia ký với trường đại học Bưu chính viễn thông Bắc Kinh (BUPT). BUPT
đảm trách công tác giáo dục và đào tạo nhân lực cho ngành viễn thông, đứng ở vị trí 31 trong số các
trường đại học Trung Quốc và là cơ quan đầu mối của mạng Internet quan trọng trong nước - Mạng
Nghiên cứu và Giáo dục Trung Quốc (CERNET). Tuy nhiên, lý do quan trọng hơn là BUPT nằm
trong Bộ Giáo dục và do đó là “cánh cửa” để các nhà đầu tư nước ngoài có thể tiếp cận được với
các Uỷ viên Trung ương của Trung Quốc và những người đứng đầu các bộ then chốt khác. Đối với
nhiều quan hệ đối tác nước ngoài với BUPT, R-D trong trường hợp tốt nhất, cũng chỉ là mục tiêu
thứ cấp.
Các trường đại học Trung Quốc cũng thu hút đầu tư R-D nước ngoài do danh tiếng lâu nay của
họ về nền giáo dục chất lượng cao hoặc do họ có địa điểm và các mối liên kết với các khu công
nghệ cao. Đặc biệt, các trường đại học Bắc Kinh và Thanh Hoa, cả hai đều nằm ở thủ đô Bắc Kinh,
là những đối tác được tìm đến nhiều. Tuy nhiên, trong thời gian trước đây, các quan chức Trung
Quốc hăng hái thu hút đầu tư R-D nước ngoài ở mức cao đã công khai đề xuất những trường mà các
nhà đầu tư nước ngoài phải tiếp cận để thành lập trung tâm R-D. Một số trường hợp, các trường này
là những trường không mạnh và nằm ở ngoài các vùng được ưu tiên hơn ở Bắc Kinh và Thượng
Hải. Ngẫu nhiên, những việc làm này phần lớn đều diễn ra trước khi Trung Quốc trở thành thành
viên của WTO; thời gian sau đó, tình trạng này có giảm bớt. Tuy nhiên, các Bộ và trường đại học
Trung Quốc vẫn là những đối tượng then chốt để lập đối tác đầu tư R-D của nước ngoài.
2. Trung Quốc vươn lên để trở thành một siêu cường công nghệ cao trên thế giới
Trải rộng trên 300 mẫu Anh xanh bóng cây và được tô điểm bởi những chiếc hồ xinh xắn nằm ở
phía Tây Bắc của trung tâm thành phố Bắc Kinh, Công viên Phần mềm Zhongguancun là nơi đặt trụ
sở của 120 công ty, gồm những công ty công nghệ cao mới nổi lên nhanh chóng của Trung Quốc
như Harbour Networks, cùng với những công ty lớn của Phương Tây như Microsoft, Oracle và
Siemens, tập trung trên một khu đất mà cho mãi tới gần đây chỉ là nơi có một vườn ươm thực vật và
một làng nhỏ.
Khu ươm tạo doanh nghiệp phần mềm này chỉ là một phần nhỏ của Công viên Khoa học
Zhongguancun có tuổi đời 6 năm và có diện tích rộng hơn. Đây là một liên hợp rộng lớn dành cho
các ngành khoa học về sự sống, công nghệ nano và 14 chuyên ngành khác. Quan tâm tới tiềm năng
của việc liên kết những đổi mới công nghệ khi các doanh nghiệp công nghệ cao hoạt động với vị trí
kề cận nhau, Chính phủ Trung Quốc đã khuyến khích các công ty nước ngoài lẫn các công ty trong
nước mở các cơ sở R-D ngay trong công viên bằng cách áp dụng các biện pháp khuyến khích như
các khoản trợ cấp tiền thuê đất, những mức thuế thấp và nới lỏng việc kiểm soát tiền tệ.
Quan trọng nhất, vị trí nằm ngay cạnh các trường Đại học Bắc Kinh và Thanh Hoa, hai trung tâm
đào tạo giáo dục bậc cao nổi tiếng của Trung Quốc, cùng với 37 trường Đại học khác ở khu vực
xung quanh, đã mang lại cho Công viên Khoa học Zongguancun một nguồn cung cấp những nhân
tài hầu như vô tận. Hàng năm, có khoảng 70.000 nam và nữ thanh niên tốt nghiệp cử nhân chuyên
ngành khoa học và kỹ thuật ở các trường Đại học này. Yingqui Xia, Phó Giám đốc của ủy ban quản
lý công viên cho rằng công viên khoa học nên nằm chung quanh các trường Đại học. Đó là một
nguồn cung vững chắc.
21
Không chỉ đơn thuần là một nỗ lực nhằm phát triển doanh nghiệp ở địa phương, Zhongguancun
phản ánh ước vọng muốn trở thành một siêu cường công nghệ cao của Trung Quốc. Trong bài phát
biểu vào tháng 4, Thủ tướng Trung Quốc, Ôn Gia Bảo đã thể hiện tham vọng lâu dài của đất nước
này qua tuyên bố “Khoa học và công nghệ là những nhân tố quyết định tạo ra sức cạnh tranh cho
sức mạnh toàn diện của đất nước”.
Kathleen Walsh, cố vấn thuộc Trung tâm tư vấn Stimson có trụ sở tại Washington và là tác giả
của một ấn phẩm mới được xuất bản gần đây về R-D công nghệ cao của Trung Quốc cho biết, mục
tiêu của chính phủ Trung Quốc là nhằm chuyển đổi nền kinh tế của Trung Quốc từ một nền kinh tế
được biết tới dưới cái nhãn là “Sản xuất tại Trung Quốc” (Made in China) thành một nền kinh tế
được biết đến với khái niệm “Do Trung Quốc sản xuất” (Made by China).
Trung Quốc đã có rất nhiều bước tiến hướng tới mục tiêu đó. Trong thập kỷ vừa qua, Trung
Quốc đã dành hơn gấp đôi chi tiêu của nước này cho R-D. Tới cuối thập kỷ này, các trường Đại học
Trung Quốc sẽ có số tiến sỹ chuyên ngành khoa học kỹ thuật nhiều hơn Mỹ. Đầu tư và giáo dục đã
tạo ra thành quả, trong đó có những cú đột phá trong công nghệ nano, một con chíp máy tính kiểu
Pentium do Trung Quốc thiết kế và việc khai trương những trung tâm thiết kế linh kiện bán dẫn. Kết
quả là, xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao của Trung Quốc, đặc biệt là xuất khẩu sang Mỹ, tăng rất
nhanh.
Sự phát triển vượt bậc của Trung Quốc phần nào đã gây ra cho Mỹ một số lo ngại. Tuy nhiên, đa
phần vẫn là những hoài nghi về khả năng đạt được những mục tiêu công nghệ cao của Trung Quốc.
Những chỉ số truyền thống thể hiện sức mạnh khoa học và công nghệ, ví dụ, số lượng các đơn xin
cấp patent của các nhà phát minh Trung Quốc hay các trích dẫn nghiên cứu của Trung Quốc trên
các báo quốc tế, thể hiện một nền tảng khoa học vẫn còn thua xa so với Mỹ. Hơn nữa, rất nhiều
người từng làm việc ở Trung Quốc cho rằng bản chất theo tôn ti trật tự của xã hội Trung Quốc và sự
kiểm soát của chính phủ vẫn cản trở sự đổi mới trong kinh doanh và nghiên cứu.
Một số nhà quan sát cho rằng Trung Quốc là một mối đe dọa tiềm tàng đối với vị trí dẫn đầu toàn
cầu về KH&CN của Mỹ. Nhưng một số nghi ngờ về tham vọng công nghệ cao của chính phủ Trung
Quốc hay nói đúng hơn là sự phát triển các thành quả trong những năm gần đây của Trung Quốc.
Hiện nay, Washington nhất trí rằng phản ứng tốt nhất là phải nhanh chân hơn Trung Quốc: Đào tạo
thêm nhiều nhà khoa học và kỹ sư người Mỹ, dành thêm nhiều chi tiêu cho R-D và đổi mới. Đồng
thời, các chuyên gia Mỹ yêu cầu cần trừng trị thẳng tay sự vi phạm quyền sở hữu trí tuệ công nghệ
cao của Trung Quốc và tạo ra áp lực để đảm bảo rằng Bắc Kinh không thể phát triển những tiêu
chuẩn kỹ thuật của mình như một cách thức hỗ trợ không lành mạnh cho các ngành công nghiệp nội
địa của mình. Một số quan chức nhà Trắng cũng cho rằng nên hạn chế chuyển giao công nghệ cho
Trung Quốc, không phải là hạn chế sức cạnh tranh của nước này mà là để hạn chế sức mạnh quân
sự của nước này. Họ kêu gọi, các tập đoàn Mỹ cũng nên hạn chế thực hiện R-D ở Trung Quốc vì lợi
ích của nước Mỹ. Ernest H. Preeg, tác giả của quyển sách mới xuất bản, có tiêu đề “Trung Quốc-
cường quốc công nghệ tiên tiến mới”, cho rằng “Mỹ phải coi vấn đề này là một mục tiêu quốc gia”.
Không còn là một nước dựa vào sức lao động của công nhân
Nhận thức của thế kỷ 20 về một nước Trung Quốc bóc lột số đông công nhân có tay nghề kỹ
thuật thấp, được trả lương thấp để sản xuất đồ chơi, quần áo và những sản phẩm rẻ tiền khác đã lỗi
thời. Trung Quốc của thế kỷ 21 đang nổi lên nhanh chóng với vai trò là một nhà sản xuất các sản
phẩm công nghệ tiên tiến tầm cỡ thế giới: linh kiện bán dẫn, dược phẩm, sợi cáp quang học, nước
này đang xây dựng được một sức mạnh quốc gia ngày càng lớn mạnh trong lĩnh vực khoa học và kỹ
thuật để tạo ra những thách thức cạnh tranh lớn đối với Mỹ.
Sự chuyển đổi nhanh chóng từ một nước dựa vào nhân công thành một nước dựa vào công nghệ
cao của Trung Quốc thể hiện rõ ràng trên thị trường toàn cầu. Theo số liệu của Tổ chức Hợp tác và
22
Phát triển Kinh tế (OECD), năm 1992, Mỹ là nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu công nghệ cao.
Xuất khẩu công nghệ cao của Trung Quốc chỉ tương đương với khoảng 8% tổng xuất khẩu của Mỹ.
Theo số liệu thống kê của Preeg, chỉ 12 năm sau, tới năm 2004, xuất khẩu công nghệ cao của Trung
Quốc đã tương đương với một nửa tổng xuất khẩu của Mỹ. Mặc dù máy tính và thiết bị viễn thông
chiếm phần lớn thương mại xuất khẩu, nhưng đáng lưu ý rằng xuất khẩu điện tử và khoa học sự
sống (các công nghệ và thiết bị y tế) của Trung Quốc đã tăng gấp đôi và xuất khẩu quang-điện tử
(các máy in laze, các máy quay đĩa quang học) tăng gấp 3 lần trong giai đoạn từ 2000 đến 2004.
Preeg dự đoán “Việc tái cơ cấu hướng lên trên cùng với mức tăng trưởng nhanh hơn của Trung
Quốc trong tổng xuất khẩu hàng chế tạo công nghiệp, sẽ đẩy Trung Quốc lên ngang hàng với Mỹ
và Liên minh châu Âu trong lĩnh vực xuất khẩu công nghệ cao chỉ trong vòng 5 tới 10 năm”.
Sự biến đổi rõ rệt tương tự còn thể hiện rõ trong thương mại của Trung Quốc với Mỹ. Các sản
phẩm công nghệ tiên tiến chiếm 27,2% nhập khẩu của Mỹ từ Trung Quốc trong 3 tháng đầu năm
2005, tăng từ 16,1% của cả năm 2002, mốc đầu tiên thể hiện những cú đột phá như vậy.
Nhập khẩu công nghệ cao của Mỹ tăng lên đã dẫn tới khoản thâm hụt thương mại trị giá 36 tỷ
USD của Mỹ với Trung Quốc ở những hàng hóa nêu trên trong năm 2004. Và sự thâm hụt công
nghệ này chiếm tới gần toàn bộ sự mất cân đối công nghệ tiên tiến của Mỹ với toàn bộ thế giới.
Trong quý đầu của năm 2005, thâm hụt công nghệ cao của Mỹ tăng thêm tới 34% và nó có thể tăng
tới 50 tỷ USD năm 2005. Sự suy giảm rõ nét trong cán cân thương mại của Mỹ trong lĩnh vực công
nghệ tiên tiến là một tín hiệu báo động cho một hệ quả lớn mà không thể làm ngơ được.
Có thể nói, những tiến bộ của Trung Quốc đặc biệt là trong những công nghệ đỉnh cao, nhạy cảm
cũng gây ra những báo động đỏ. Bản báo cáo gần đây về nguồn cung ứng microchip hiệu suất cao
của Lực lượng Đặc nhiệm Hội đồng Khoa học Quốc Phòng, Mỹ, kết luận rằng, sự di chuyển rõ rệt
của việc sản xuất vi điện tử chủ chốt từ Mỹ tới các nước khác đang và sẽ tiếp tục diễn ra. Mức độ
của việc di chuyển công nghệ này rất đáng báo động do tầm quan trọng chiến lược của công nghệ
này đối với nền kinh tế của nước Mỹ. Trong hai thập kỷ vừa qua, Mỹ đã từng trong trạng thái đề cao
cảnh giác hai lần, lần thứ nhất là do sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp bán dẫn có tính
cạnh tranh của Nhật Bản, sau đó là sự xuất hiện của các nhà sản xuất chip máy tính tầm cỡ thế giới
của Đài Loan và Hàn Quốc. Ngày nay, thách thức trong lĩnh vực bán dẫn lại phát sinh từ Trung
Quốc.
Trong số 21 cơ sở chế tạo linh kiện bán dẫn hiện đang hoạt động ở nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa, 9 cơ sở đã được xây dựng trong 4 năm qua. Chất lượng của những cơ sở này được cải
thiện một cách đều đặn. Năm 2000, Trung Quốc chỉ có một nhà máy sản xuất chíp có khả năng chế
tạo các miếng wafer silic dày 8 inch; ngày nay, nước này đã có tới 9 nhà máy. Trong khi Trung
Quốc dự kiến xây dựng được 30 nhà máy sản xuất linh kiện bán dẫn mới trong 3 năm tới, thì Mỹ có
lẽ chỉ xây dựng được 6 nhà máy. George Scalise, Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp Bán dẫn Mỹ, dự
đoán rằng tới năm 2007, phần lớn 10% năng lực sản xuất bán dẫn toàn cầu sẽ là ở Trung Quốc, tăng
từ mức chỉ chiếm có 2% chỉ trong vài năm trước. Thomas T. Howell, tác giả của công trình nghiên
cứu “Ngành công nghiệp bán dẫn mới nổi của Trung Quốc” do Hiệp hội Công nghiệp Bán dẫn xuất
bản cho rằng có thể dễ dàng nhận thấy một sự chuyển dịch trọng tâm của cơ sở chế tạo chip.
Cho đến nay, ngành sản xuất microchip của Trung Quốc vẫn chưa đáp ứng được mức độ phức
tạp của những microchip do các nước địch thủ toàn cầu chế tạo. Nhưng vào tháng 4 năm nay, Trung
Quốc đã tuyên bố phát triển GodsonII, một cơ sở sản xuất nội địa tương đương với cơ sở sản xuất
chip Petium III của Intel. Dạng chip này sẽ rất lý tưởng để sử dụng cho việc chạy DVD và Internet.
Và với mỗi một thế hệ chip mới, các chuyên gia công nghiệp cảnh báo rằng ngành chế tạo bán dẫn
của Trung Quốc đang thu hẹp khoảng cách với các địch thủ như Mỹ, Nhật Bản và Đài Loan.
23
William T. Archey, chủ tịch Hiệp hội Điện tử Mỹ, cho rằng, Trung Quốc đang ngày càng tiến gần
tới những lĩnh vực cao cấp như: các cơ sở chế tạo chip và các chip ứng dụng đặc biệt.
Một trong những cơ sở chế tạo chip đó có tên là Vimicro, một công ty có trụ sở ở Bắckinh được
thành lập vào năm 1999 bởi những nhà khoa học Trung Quốc trẻ tuổi được đào tạo tại trường Đại
học Stanford, trường Đại học California (Berkeley) và trường Đại học Rochester ở NewYork. Với
nhân công hơn 300 người, Vimicro đang chế tạo ra những chip video và hình ảnh để sử dụng cho
camera kỹ thuật số, webcam và camera của điện thoại di động. Công ty này sử dụng chung một
phòng thí nghiệm R-D với Microsoft. Mike Yu, Phó tổng Giám đốc 36 tuổi của Vimicro, cho biết,
khả năng tương tác của các kỹ sư trong công ty với những xưởng chế tạo chip ở Trung Quốc là một
ích lợi thiết thực, cho phép công ty bán công nghệ có ích với đúng giá trị.
Theo nhiều nhận định, thách thức thật sự mà ngành công nghiệp bán dẫn của Trung Quốc tạo ra
đó là “sức hút ngày càng lớn của Trung Quốc sẽ thu hút vốn, nhân tài và cuối cùng là những hoạt
động thiết kế và R-D đỉnh cao ra khỏi Mỹ”. Trong bản báo cáo của mình, Howell đã viết: “Mỹ đang
phải đương đầu với sự mai một của cơ sở hạ tầng gồm nhân tài và cơ quan nghiên cứu cần thiết để
duy trì vị thế đứng đầu thế giới trong lĩnh vực điện tử (nano)”.
Công nghệ nano-công nghệ sử dụng những nguyên tử hoặc phân tử đơn để chế tạo ra các linh
kiện và mạch điện tử-được coi là khối đơn vị kiến tạo điện tử của tương lai. Yu cho biết họ không
có sức mạnh tài chính hay bí quyết công nghệ để tạo nên những cú đột phá trong lĩnh vực công nghệ
nano. Nhưng Trung Quốc đã đi trước Mỹ trong một số lĩnh vực nano chủ chốt. Hiện nay, các nhà
khoa học Trung Quốc có thể sản xuất ra các ống nano cácbon nhanh gấp 60 lần so với các nhà khoa
học Mỹ thực hiện. Những ống này, thực chất là những phân tử hình trụ cácbon, có thể hình thành
nên một chất cứng hơn thép và dẫn điện tốt hơn đồng. Mặc dù còn cần nhiều năm nữa để thương
mại hóa, nhưng các ống nano cácbon có thể được sử dụng để tạo ra những hình ảnh vô tuyến sáng
và màu sắc sống động hơn hoặc tạo ra các thiết bị cảm ứng sinh học cấy ghép được, có thể thực hiện
được những phép đo ngay tức thì về các thành phần trong máu.
Trung Quốc cũng nhanh chóng tạo ra được những tiến bộ mới trong lĩnh vực dược phẩm và công
nghệ sinh học. Mặc dù ngành công nghiệp bào chế dược phẩm công nghệ sinh của Trung Quốc vẫn
còn rất non trẻ, nhưng chúng đã phát triển rất nhanh. Và những nhà bào chế dược phẩm Trung Quốc
đang mở rộng sản xuất của họ lên tới 20% một năm. Thậm chí khi các hãng dược phẩm của Mỹ
đang để mắt cảnh giác tới các địch thủ từ ấn Độ, thì các chuyên gia ở những hãng này cũng kín đáo
thừa nhận rằng họ rất lo sợ về một cuộc cạnh tranh trong tương lai với Trung Quốc. Những cuộc
xâm nhập của nước này vào thị trường đang được thể hiện rõ trong số liệu thương mại của Mỹ.
Nhập khẩu các sản phẩm công nghệ sinh học từ Trung Quốc của Mỹ đã tăng 23 % trong vòng 4
năm qua và nhập khẩu các sản phẩm khoa học sự sống cũng tăng lên 33%.
James C. Hsiao, một nhà công nghệ nano và Kenneth Fong, nhà tư bản đầu tư viết trên một bài
báo đăng trên tạp chí Nature năm 2004, cho rằng, họ tin rằng Trung Quốc sẽ dẫn đầu thế giới trong
lĩnh vực công nghệ nano lẫn công nghệ sinh học.
Tạo ra một môi trường đổi mới
Những thay đổi trong số liệu cán cân thương mại đối với các sản phẩm công nghệ cao là một
trong những phép đo cho sự tăng trưởng của Trung Quốc. Nhưng để cạnh tranh trên toàn cầu về lâu
dài, Trung Quốc sẽ phải duy trì một môi trường đổi mới. Môi trường này sẽ xoay quanh một mối
tương tác phức tạp giữa việc cung cấp vốn đầu tư hiện có, mức độ chi tiêu R-D, số lượng và chất
lượng những người tài trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật và kích thước của thị trường nội địa
Trung Quốc đối với những sản phẩm mới. ở đây, một lần nữa, Trung Quốc dường như lại tạo ra
24
được một nỗ lực vượt trội nữa trong việc tạo ra những nhân tố cần thiết để duy trì một môi trường
để công nghệ tiên tiến có thể phát triển được. Trung Quốc càng thành công trong việc duy trì được
môi trường đổi mới này, thì nước này càng trở nên một thách thức trong việc duy trì được vị thế
đứng đầu thế giới trong lĩnh vực công nghệ cao của Mỹ.
Nhu cầu nội địa định hướng cho sự đổi mới và sản xuất. Trung Quốc là thị trường máy điện thoại
di động lớn nhất thế giới và là thị trường máy tính cá nhân lớn thứ nhì thế giới. Nước này là nhà sản
xuất tivi lớn nhất. Nhu cầu nội địa đối với 3 sản phẩm này tạo ra một nhu cầu không thể thỏa mãn
được đối với linh kiện bán dẫn. Bản báo cáo của Howell dự đoán rằng thị trường chip máy tính của
Trung Quốc sẽ tăng trưởng với tỷ lệ 21,5% một năm từ năm 2002 tới 2008, hiện nay thị trường này
đang tăng trưởng với tỷ lệ 7,3% một năm.
Sức hút của thị trường nội địa Trung Quốc, hiện nay thể hiện rõ trong ngành công nghiệp bán
dẫn quốc tế, không phải là một hiện tượng riêng biệt. Denis Fred Simon, Hiệu trưởng của Viện
Thương mại và Quan hệ Quốc tế Levin Graduate thuộc trường Đại học New York tại phiên điều
trần của ủy ban Đánh giá An ninh và Kinh tế Mỹ-Trung tổ chức vào tháng 4/2005 (đây là một hội
đồng do Nghị viện thành lập để giám sát tầm quan trọng của việc Trung Quốc đang nổi lên với vai
trò là một siêu cường thế giới đối với Mỹ), cho rằng ngày càng có nhiều công nghệ được chuyển
giao cho Trung Quốc ở một giai đoạn rất sớm trong chu kỳ vòng đời của chúng hơn là đã xảy ra ở
bất cứ một nền kinh tế đang phát triển nào kể từ khi Chiến tranh lần thứ hai kết thúc.
Sự chuyển hướng sản xuất theo định hướng thị trường tạo ra những đe dọa về lâu dài đối với nền
tảng đổi mới của Mỹ. Trung Quốc và những nền kinh tế mới nổi khác đánh giá cao việc sản xuất
công nghệ cao không đơn giản chỉ ở chính hoạt động mà còn ở tiềm năng tạo ra những doanh
nghiệp con của nó. Ron Hira, Giáo sư trợ giảng chuyên ngành chính sách nhà nước ở Viện Công
nghệ Rochester cho biết, phương hướng quản lý phổ biến của Mỹ là tập trung R-D gần với sản xuất
công nghiệp nhất có thể. Vì vậy, có thể thấy rằng khi sản xuất công nghiệp chuyển ra hải ngoại, thì
hoạt động kỹ thuật và R-D sẽ đi theo, cụ thể trong trường hợp này là tới Trung Quốc. Hơn nữa, hiện
nay sản xuất phụ thuộc vào sự đổi mới liên tục. Nếu các xí nghiệp công nghệ cao ở Trung Quốc, thì
năng lực sản xuất mới sẽ được lĩnh hội ở đó trước tiên.
Quan trọng nhất vẫn là các công ty công nghệ cao thu hút những người có tham vọng với những
ý tưởng mới. Nếu những công ty này ở Trung Quốc, thì những nhà kinh doanh này cũng sẽ là người
Trung Quốc và những xí nghiệp mới mà họ thành lập cũng sẽ ở Trung Quốc. Vì R-D và các bộ
phận khác của sản xuất chuyển ra hải ngoại, nên hiệu ứng lan tỏa cũng xảy ra ở hải ngoại. Thể hiện
rõ xu hướng này, Trung Quốc đang nhanh chóng trở thành một điểm đến thu hút mới của các nhà
đầu tư công nghệ cao. Phần đầu tư trực tiếp lớn nhất gần đây của Mỹ vào Trung Quốc là vào các
công ty chế tạo máy tính, các bộ phận và trang thiết bị điện tử.
Tăng cường đầu tư cho R-D
Tuy vậy, thị trường nội địa phát triển và thậm chí lượng vốn đầu tư được tăng lên sẽ chẳng có
nghĩa mấy nếu không có những sản phẩm mới. Và những sản phẩm mới thì đòi hỏi phải có R-D.
Năm 2005, Bắc Kinh dự tính chi 1,5% GDP cho R-D, tăng từ một mức khiêm tốn là 0,6% năm
1996. (Năm 2003, Mỹ chi 2,6% GDP vào R-D). Theo ước tính, ngay cả khi nếu mức tăng trưởng
trong chi tiêu cho R-D của Trung Quốc giảm xuống chỉ bằng 2/3 của mức tăng này trong những
năm trước đây, thì Trung Quốc cũng sẽ đạt mức chi 2,1% GDP cho nghiên cứu vào năm 2010. Tính
theo đôla, số lượng này sẽ chiếm chỉ bằng một nửa chi tiêu của Mỹ, nhưng nó sẽ bằng 80% mức chi
tiêu R-D của Liên minh châu Âu và cao hơn 40% chi tiêu R-D của Nhật Bản. Trung Quốc có lẽ