Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TƯ TƯỞNG MÁC – LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG ĐÓ TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.37 KB, 24 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA CHÍNH TRỊ HỌC
  
TIỂU LUẬN
MÔN: CHÍNH TRỊ HỌC NÂNG CAO
Đề tài:
TƯ TƯỞNG MÁC – LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ Ý NGHĨA
CỦA TƯ TƯỞNG Để TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY
Đề tài:
KHẢO SÁT VĐỀ BÁO CHÍ VỚI TRẺ EM
Học viên thực hiện: Nguyễn Thị Huyền Trang
Lớp: Cao học QLXH K17

Hà Nội – 2/2012
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt
Nam. Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HÐH đất nước, đổi mới, hội nhập kinh
tế quốc tế ngày càng sâu rộng trong điều kiện toàn cầu hóa, việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền đặt ra nhiều vấn đề cần có sự vận dụng sáng tạo quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước.
Tư tưởng về nhà nước có một vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống
lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, bởi nó không thuần túy là những lý thuyết
khoa học mà gắn bó chặt chẽ với quan điểm chính trị; nó không đơn giản là
những suy tư tinh thần mà gắn liền với những hoạt động thực tiễn sinh động
của các ông. Những tư tưởng ấy chứa đựng nhiều giá trị có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn sâu sắc. Chính vì vậy, tìm hiểu những tư tưởng của Mác - Lênin về
nhà nước và vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện
hoàn cảnh Việt Nam hiện nay có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhất là khi


chúng ta đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân và vì nhân dân.
Nhận thấy việc nghiên cứu, làm sáng tỏ những giá trị to lớn của tư
tưởng Mác – Lênin về nhà nước và vận dụng vào xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam hiện nay là vấn đề đặc biệt quan trọng và cấp bách,
người viết đã lựa chọn nội dung nghiên cứu với tên gọi: “Tư tưởng Mác –
Lênin về nhà nước và ý nghĩa của tư tưởng đó trong thời đại ngày nay”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời đại ngày nay, nhà nước có tác động vô cùng to lớn đến
sự phát triển kinh tế, của đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của con người.
Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang tiến hành sự nghiệp xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vấn đề nhà nước lại càng có ý
2
nghĩa hơn bao giờ hết. Vấn đề nhà nước luôn thu hút sự quan tâm nghiên cứu
của các nhà khoa học cũng như các nhà quản lý ở Việt Nam. Tính đến nay có
nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về nhà nước được công bố như sau:
- Luận văn Thạc sĩ Trương Thị Thu Hà “Thực chất và ý nghĩa quan
điểm của Ph.Ăngghen về nhà nước trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình,
của chế độ tư hữu và của nhà nước” đã phân tích nguồn gốc, bản chất của nhà
nước và làm sáng tỏ những giá trị của nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
- Bài viết “Một số quan điểm về nguồn gốc nhà nước” của TS.
Nguyễn Thị Hồi, đã đi vào phân tích một số quan điểm về nguồn gốc nhà
nước và đưa ra những nhận định, đánh giá của mình;
- Bài viết “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóá, hiện đại hóa đất nước” của
Nguyễn Văn Yểu, đã nêu lên những tư tưởng về nhà nước của Mác – Lênin
và vận dụng vào xây dựng nhà nước ở Việt Nam.
- Bài viết “Vận dụng tư tưởng “Nhà nước tiêu vong” của
Ph.Ăngghen trong điều kiện Việt Nam hiện nay” của PGS.TS. Ngô Đình Xây
đã nêu lên cách tiếp cận của Ph.Ăngghen về nhà nước tiêu vong và rút ra

những điều kiện để cho nhà nước tiêu vong.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là: những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin về vấn đề nhà nước và ý nghĩa của tư tưởng đó trong thời đại
ngày nay.
Để có thể hoàn thành mục tiêu trên, tác giả xác định cần thực hiện
những nhiệm vụ nghiên cứu dưới đây:
Một là, tìm hiểu những nội dung cơ bản trong tư tưởng của chủ nghĩa
Mác - Lênin về nhà nước.
Hai là, làm sáng tỏ những giá trị, ý nghĩa của tư tưởng đó trong thời đại
ngày nay và vận dụng vào xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
3
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản trong tư tưởng của
Mác - Lênin về vấn đề nhà nước (một tư tưởng có vị trí đặc biệt quan trọng
trong hệ thống lí luận của Mác - Lênin).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận là hệ thống những quan điểm cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nhà nước.
Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng, đề tài sử dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu khác nhau như: phân tích - tổng hợp, logic - lịch sử… trong
quá trình giải quyết các vấn đề nêu ra.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận
có kết cấu gồm 2 chương và 5 tiết.
4
NỘI DUNG
Chương 1: Tư tưởng Mác - Lênin về nhà nước
1.1. Các học thuyết phi Mác xít về nhà nước

Nhà nước là một hiện tượng cơ bản, phức tạp của mọi xã hội có giai
cấp, là tác nhân biến đổi của xã hội và phát triển kinh tế. Chính vì lẽ đó ngay
từ thời kì cổ đại, trung đại đã có nhiều nhà tư tưởng tiếp cận và đưa ra những
lý giải khác nhau về nguồn gốc, bản chất nhà nước.
Các nhà tư tưởng của thuyết thần học cho rằng Thượng đế là người sắp đặt
trật tự xã hội. Nhà nước cũng vậy, đều do Thượng đế sáng tạo ra để bảo vệ trật tự
chung. Vì thế, họ quan niệm nhà nước là lực lượng siêu nhiên, quyền lực nhà
nước là vĩnh cửu. Sự phục tùng quyền lực nhà nước là cần thiết và tất yếu.
Thuyết gia trưởng cho rằng, nhà nước là kết quả của sự phát triển lịch
sử gia đình, là hình thức tổ chức tự nhiên của cuộc sống con người, vì vậy nhà
nước có trong mọi xã hội và quyền lực nhà nước về cơ bản giống như quyền
của người đứng đầu gia đình.
Thuyết khế ước xã hội thì cho rằng, sự ra đời của nhà nước là sản phẩm
của một khế ước (hợp đồng) giữa những người sống trong trạng thái tự nhiên
không có nhà nước. Theo những nhà tư tưởng của thuyết này thì nhân dân có
thể lật đổ nhà nước và những người đại diện, nếu như họ vi phạm hợp đồng
(khế ước). Thuyết khế ước xã hội có tính cách mạng và giá trị lịch sử nhất
định. Nó trở thành cơ sở cho thuyết dân chủ cách mạng và cơ sở tư tưởng cho
cách mạng tư sản, lật đổ ách thống trị phong kiến.
Ngoài ra còn tồn tại một số quan điểm khác về nguồn gốc nhà nước. Chẳng
hạn, thuyết bạo lực cho rằng nhà nước xuất hiện trực tiếp từ việc sử dụng bạo lực
của thị tộc này đối với thị tộc khác mà kết quả là thị tộc chiến thắng “nghĩ ra” một
hệ thống cơ quan đặc biệt (nhà nước) để nô dịch kẻ chiến bại. Hoặc các học
giả của thuyết tâm lý cho rằng, nhà nước xuất hiện do nhu cầu về tâm lý của
5
con người nguyên thủy luôn muốn phụ thuộc vào các thủ lĩnh, giáo sĩ… Vì
vậy, nhà nước là tổ chức của những siêu nhân có sứ mạng lãnh đạo xã hội.
Những học thuyết và quan điểm trên do nhiều nguyên nhân chủ quan,
khách quan và hạn chế lịch sử nên chưa giải thích đúng nguồn gốc, bản chất
của nhà nước. Theo họ, nhà nước không thuộc giai cấp nào, nhà nước của tất

cả mọi người và xã hội văn minh mãi mãi cần có nhà nước.
1.2. Tư tưởng của chủ nghĩa Mác về nhà nước
1.2.1. Nguồn gốc nhà nước
Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác đã kế thừa có chọn lọc những
hạt nhân hợp lý của các nhà tư tưởng trước đó, lần đầu tiên đã giải thích đúng
đắn nguồn gốc xuất hiện nhà nước. Dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử đã chứng minh nhà nước không phải là hiện tượng vĩnh cửu,
bất biến. Nhà nước là phạm trù lịch sử, có quá trình phát sinh, phát triển, tiêu
vong. Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội loài người phát triển đến một giai
đoạn nhất định và sẽ tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại
của nó mất đi. Trong xã hội nguyên thủy, do kinh tế còn thấp kém, chưa có
điều kiện khách quan để dẫn đến sự phân hóa giai cấp nên nhà nước chưa xuất
hiện. Đứng đầu các thị tộc và bộ lạc là những tộc trưởng do nhân dân bầu ra;
việc điều chỉnh các quan hệ xã hội được thực hiện bằng các quy tắc chung
không cần đến các công cụ cưỡng bức đặc biệt.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự ra đời của chế độ tư
hữu. Đó là cơ sở kinh tế khách quan dẫn đến sự phân chia xã hội thành các
giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp không thể điều hòa được xuất
hiện. Để các giai cấp không tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội thì
một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời. Đó là nhà nước do giai cấp năm
quyền thống trị về kinh tế lập ra. Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước
chiếm hữu nô lệ, sau đó là nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản.
6
Theo quan điểm của Lênin, nguyên nhân trực tiếp của sự xuất hiện nhà
nước là mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được; và ngược lại, sự tồn tại của
nhà nước chứng tỏ những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được.
1.2.2. Bản chất nhà nước
Bản chất nhà nước là vấn đề quan trọng của các khoa học xã hội và nó
luôn là nội dung của cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt nhất. Các tư tưởng cổ
đại và tư sản cố tình làm rắc rối thêm vấn đề nhà nước nhằm che giấu bản

chất giai cấp của nhà nước, không coi nhà nước là công cụ thống trị của một
giai cấp, hoặc cùng lăm cũng chỉ coi nhà nước là cơ quan điều hòa lợi ích giai
cấp. Chỉ có học thuyết Mác – Lênin về nhà nước mới giải thích được một
cách đúng đắn về bản chất và ý nghĩa của nhà nước.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, “Nhà nước là sản phẩm và
biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được”. Vì vậy,
nhà nước chỉ sinh ra và tồn tại trong xã hội có giai cấp và bao giờ cũng thể
hiện bản chất giai cấp sâu sắc. Cho nên nhà nước trước hết là bộ máy cưỡng
chế đặc biệt nằm trong tay giai cấp cầm quyền, là công cụ sắc bén nhất duy trì
sự thống trị giai cấp.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, sự thống trị của giai cấp này đối với
giai cấp khác đều được thể hiện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng.
Muốn duy trì được sự thống trị này, giai cấp thống trị phải nắm giữ cả ba loại
quyền lực là quyền lực chính trị, quyền lực kinh tế, quyền lực tư tưởng. Trong đó,
quyền lực kinh tế giữ vai trò quyết định, là cơ sở để đảm bảo cho sự thống trị giai
cấp. Nhưng bản thân quyền lực kinh tế không thể duy trì được quan hệ bóc lột. Vì
vậy, cần phải có nhà nước, một bộ máy cưỡng chế đặc biệt để củng cố quyền lực
của giai cấp thống trị về kinh tế và để trấn áp sự phản kháng của các giai cấp bị
bóc lột. Nhờ có nhà nước giai cấp thống trị về kinh tế trở thành giai cấp thống trị
về chính trị. Nói cách khác, giai cấp thống trị đó trở thành chủ thể của quyền lực
kinh tế và quyền lực chính trị. Quyền lực chính trị “là bạo lực có tổ chức của một
giai cấp để trấn sáp giai cấp khác”, nhà nước là một bộ máy bạo lực do giai cấp
7
thống trị tổ chức ra để trấn áp các giai cấp đối địch. Với ý nghĩa đó, nhà nước
chính là một tổ chức đặc biệt về quyền lực chính trị. Thông qua nhà nước, ý chí
của giai cấp thống trị được thể hiện một cách tập trung nhất và hợp pháp hóa
thành ý chí nhà nước. Ý chí nhà nước có sức mạnh bắt buộc các giai cấp khác
phải tuân theo một trật tự do giai cấp thống trị đặt ra, phải phục vụ cho lợi ích của
giai cấp thống trị.
Để thực hiện sự chuyên chính giai cấp không thể chỉ đơn thuần dựa vào

bạo lực và cưỡng chế mà còn cần đến sự tác động tư tưởng nữa. Giai cấp thống trị
đã thông qua nhà nước để xây dựng hệ tư tưởng của giai cấp mình thành hệ tư
tưởng thống trị trong xã hội, bắt các giai cấp khác phải lệ thuộc mình về mặt tư
tưởng. Song nhà nước không chỉ có tính giai cấp mà còn có tính xã hội bởi lẽ nhà
nước được sinh ra không chỉ do nhu cầu thống trị giai cấp mà còn do nhu cầu tổ
chức và quản lý xã hội. Một nhà nước sẽ không tồn tại nếu chỉ phục vụ lợi ích của
giai cấp thống trị mà không tính đến lợi ích, nguyện vọng và ý chí của các giai
tầng khác trong xã hội. Bên cạnh đó, nhà nước phải đảm bảo các giá trị xã hội đã
đạt được, bảo đảm xã hội trật tự, ổn định và phát triển, thực hiện chức năng này
hay chức năng khác phù hợp với yêu cầu của xã hội. Điều đó nói lên rằng nhà
nước là một hiện tượng phức tạp và đa dạng, nó vừa mang bản chất giai cấp lại
vừa mang bản chất xã hội.
1.2.3. Dấu hiệu đặc điểm của nhà nước
So với các tổ chức của xã hội thị tộc – bộ lạc và với các tổ chức chính
trị - xã hội khác mà giai cấp thống trị thiết lập và sử dụng để quản lý xã hội,
thì nhà nước cú một số đặc điểm riêng sau đây:
Thứ nhất, nhà nước thiết lập một quyền lực công cộng đặc biệt không
còn hòa nhập với dân cư nữa. Để thực hiện quyền lực và để quản lý xã hội,
nhà nước có một lớp người chỉ chuyên hoặc hầu như chỉ chuyên làm nhiệm
vụ quản lý và cưỡng chế. Họ tham gia vào bộ máy nhà nước để hình thành
nên một hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến cơ sở.
8
Thứ hai, nhà nước phân chia dân cư theo lãnh thổ các đơn vị hành
chính và thực hiện sự quản lý đối với dân cư theo các đơn vị ấy chứ không tập
hợp dân cư theo mụch đích chính kiến huyết thống, nghề nghiệp hoặc giới
tính. Nhà nước thực thi quyền lực chính trị trên phạm vi toàn bộ lãnh thổ. Mỗi
nhà nước có lãnh thổ riêng, trên lãnh thổ ấy lại phân thành các đơn vị hành
chính nhỏ như tỉnh, huyện…
Thứ ba, nhà nước có chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia mang
nội dung chính trị, pháp lý, nó thể hiện quyền độc lập, tự quyết định những

vấn đề đối nội, đối ngoại của mình, không phụ thuộc vào yếu tố bên ngoài.
Thứ tư, nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lý bắt buộc
đối với mọi công dân. Nhà nước là một tổ chức duy nhất trong xã hội được
quyền ban hành pháp luật. Tất cả các quy định của nhà nước đối với mọi công
dân được thể hiện trong pháp luật do nhà nước ban hành. Và cũng chính nhà
nước bảo đảm cho pháp luật được thực thi trong cuộc sống.
Thứ năm, nhà nước quy định và thực hiện thu các loại thuế dưới hình
thức bắt buộc. Bộ máy nhà nước bao gồm một lớp người đặc biệt tách ra khỏi
sản xuất làm công tác quản lý sẽ không thể tồn tại nếu không có nguồn nuôi
dưỡng. Đồng thời việc xây dựng và duy trì các cơ sở vật chất kĩ thuật cho bộ
máy nhà nước cũng rất cần thiết. Thiếu thuế thì bộ máy nhà nước không thể
tồn tại được. Chỉ có nhà nước mới có quyền đặt thuế và thu thuế.
Từ những phân tích ở trên về nguồn gốc, bản chất và những dấu hiệu
của nhà nước, có thể đi đến một định nghĩa chung về nhà nước như sau: nhà
nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm
nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện chức năng quản lý xã hội nhằm duy trì, phát
triển trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị
trong xã hội.
9
1.3. Sự phát triển của tư tưởng V.I.Lênin về nhà nước - nhà nước
chuyên chính vô sản
Những đóng góp to lớn của V.I.Lê-nin đối với lý luận về nhà nước không
chỉ ở việc làm sáng tỏ những quan điểm căn bản của C.Mác và Ph.Ăng-ghen về
nhà nước, đem lại vũ khí lý luận sắc bén cho cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân, giành lấy, tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, cũng như đấu tranh
chống lại mọi âm mưu hòng xuyên tạc, bẻ cong và nhằm bác bỏ lý luận mác-xít
về nhà nước; mà còn thể hiện ở việc đi sâu, phát triển lý luận mác-xít về nhà
nước trên một số phương diện, phù hợp với trình độ phát triển mới của thực tiễn.
Nghiên cứu quan điểm của V.I.Lê-nin về nhà nước đặc biệt quan trọng đối với
việc xây dựng mô hình nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay, bởi lẽ những

quan điểm ấy đã được hiện thực hóa, trở thành một thực thể sống động trong
thực tiễn đời sống.
Nhất quán với tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng-ghen, V.I.Lê-nin tiếp tục
khẳng định rằng, nhà nước là một hiện tượng lịch sử, sự tồn tại và tiêu vong của
nó là tùy thuộc vào những điều kiện cụ thể; “nhà nước chỉ là một tổ chức thống
trị của một giai cấp” và “bất cứ nhà nước nào cũng là một bộ máy để một giai
cấp này trấn áp giai cấp khác”.
Đối với V.I.Lê-nin, khái niệm “nhà nước” là để chỉ bộ máy nhà nước
trong xã hội có giai cấp. Ông viết: “đặc trưng của nhà nước là sự tồn tại của một
giai cấp đặc biệt, tập trung quyền lực trong tay. Dĩ nhiên, không ai có thể dựng
hai tiếng nhà nước để gọi một cộng đồng, trong đó tất cả mọi thành viên đều
thay phiên nhau quản lý “tổ chức của trật tự’”. Chính sự tập trung quyền lực
chính trị trong tay một giai cấp đặc biệt là đặc trưng để phân biệt nhà nước với
mọi hình thức tổ chức xã hội khác. V.I.Lê-nin vạch rõ: “Nếu quyền lực chính trị
trong nước nằm trong tay một giai cấp có quyền lợi phù hợp với quyền lợi của
đa số, thì mới có thể thực hiện việc điều khiển công việc quốc gia thực sự theo
đúng nguyện vọng của đa số. Nhưng nếu quyền lực chính trị nằm trong tay một
giai cấp có quyền lợi khác với quyền lợi của đa số, thì việc điều khiển công việc
10
quốc gia theo nguyện vọng của đa số không khỏi trở thành một sự lừa gạt, hoặc
đưa đến chỗ đàn áp đa số ấy”. Ông giải thích:“Quyền chính trị là gì, nếu không
phải là cách diễn đạt, là việc ghi nhận so sánh lực lượng?”. Đây chính là sự phát
triển quan điểm: quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó, là bạo lực có tổ
chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác của C.Mác và Ph.Ăng-ghen.
Về bản chất giai cấp của nhà nước, V.I.Lê-nin khẳng định: “Nhà nước là
sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được.
Bất cứ đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn
giai cấp không thể điều hòa được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn
tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa
được”.

Nếu như xã hội đã từng tồn tại không cần có nhà nước, thì cùng với sự
phát triển của sản xuất, xã hội loài người sớm muộn cũng sẽ đạt tới trình độ loại
bỏ nhà nước. V.I.Lê-nin viết: “Mục đích cuối cùng mà chúng ta theo đuổi, là thủ
tiêu nhà nước, nghĩa là thủ tiêu mọi bạo lực có tổ chức và có hệ thống, mọi bạo
lực, nói chung, đối với con người. Chúng ta không mong có một chế độ xã hội
mà trong đó nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số sẽ không được tuân theo.
Nhưng khi hướng đến chủ nghĩa xã hội, chúng ta tin chắc rằng chủ nghĩa xã hội
sẽ chuyển thành chủ nghĩa cộng sản, và do đó, nói chung sẽ không còn cần thiết
phải dựng bạo lực đối với con người, không cần thiết phải buộc người này phục
tùng người khác, bộ phận dân cư này phục tùng bộ phận dân cư khác, vì người ta
sẽ quen tuân theo những điều kiện thông thường của đời sống tập thể, mà không
cần có bạo lực và không cần có phục tùng”. Nghĩa là, khi đó nhà nước sẽ tự tiêu
vong.
Tuy nhiên, để nhà nước có thể tự tiêu vong, cần có nhiều điều kiện, trong
đó, quan trọng nhất là, nhà nước phải trải qua một hình thức tồn tại đặc biệt của
nó: Nhà nước chuyên chính vô sản. Nhưng để có được nhà nước chuyên chính
vô sản, tất yếu phải dùng đến bạo lực cách mạng. V.I.Lê-nin chỉ rõ: “Không có
cách mạng bạo lực thì không thể thay nhà nước tư sản bằng nhà nước vô sản
11
được. Việc thủ tiêu nhà nước vô sản, nghĩa là việc thủ tiêu mọi nhà nước, chỉ có
thể thực hiện được bằng con đường “tiêu vong” thôi”. Bạo lực cách mạng là
phương thức duy nhất để một giai cấp mới, tiến bộ giành lấy quyền lực chính trị.
Điều đó đúng đối với giai cấp vô sản và hơn thế, với giai cấp vô sản, bạo lực
cách mạng còn phải thực hiện một nhiệm vụ quan trọng nữa, đó là đập tan bộ
máy nhà nước cũ trước khi bắt tay xây dựng nhà nước kiểu mới.
Tính chất đặc biệt của nhà nước chuyên chính vô sản với tư cách hình
thức chuyển tiếp trước khi đạt đến trạng thái tự tiêu vong của nhà nước được
V.I.Lê-nin làm rõ trong việc phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tính chuyên
chính và tính dân chủ của nhà nước.
Trước hết, V.I.Lê-nin khẳng định, “trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư

bản lên chủ nghĩa cộng sản, sự trấn áp vẫn còn tất yếu, nhưng nó đã là sự trấn áp
của đa số bị bóc lột đối với thiểu số bóc lột. Cơ quan đặc biệt, bộ máy trấn áp
đặc biệt là “nhà nước” vẫn còn cần thiết, nhưng nó đã là nhà nước quá độ, mà
không còn là nhà nước theo đúng nghĩa của nó nữa” và nhà nước vô sản phải là
một công cụ, một phương tiện; đồng thời, là một biểu hiện tập trung trình độ dân
chủ của nhân dân lao động. Dân chủ trong xã hội xã hội chủ nghĩa chính là nhân
dân tham gia vào mọi công việc của nhà nước. Người viết: “Điều cần thiết
không phải chỉ là cơ quan đại biểu theo kiểu chế độ dân chủ, mà là toàn bộ việc
quản lý nhà nước từ dưới lên phải do bản thân quần chúng tổ chức, quần chúng
thực sự tham gia vào từng bước của cuộc sống và đóng vai trị tích cực trong việc
quản lý”.
V.I.Lê-nin cho rằng, nếu tính giai cấp là bản chất của mọi nhà nước, thì
dân chủ hay chuyên chính cũng chỉ là hai mặt của bản chất đó mà thôi. “Bất cứ
một nhà nước nào cũng đều có nghĩa là dựng bạo lực; nhưng toàn bộ sự khác
nhau là ở chỗ dựng bạo lực đối với những người bị bóc lột hay đối với kẻ đi bóc
lột, ở chỗ có dựng bạo lực đối với giai cấp những người lao động và những
người bị bóc lột không”. Đối với V.I.Lê-nin: “Chuyên chính cách mạng của giai
12
cấp vô sản là một chính quyền do giai cấp vô sản giành được và duy trì bằng bạo
lực đối với giai cấp tư sản ”.
Chuyên chính vô sản không hề đối lập với dân chủ, mà là phần bổ sung, là
hình thức thể hiện của dân chủ. “Chuyên chính vô sản, nghĩa là việc tổ chức đội
tiền phong của những người bị áp bức thành giai cấp thống trị để trấn áp bọn áp
bức, thì không thể giản đơn đóng khung trong việc mở rộng chế độ dân chủ
được. Đồng thời với việc mở rộng rất nhiều chế độ dân chủ - lần đầu tiên biến
thành chế độ dân chủ cho người nghèo, chế độ dân chủ cho nhân dân chứ không
phải cho bọn nhà giàu - chuyên chính vô sản còn thực hành một loạt biện pháp
hạn chế quyền tự do đối với bọn áp bức, bọn bóc lột, bọn tư bản”.
Điều cần quan tâm là, trong xã hội xã hội chủ nghĩa - lực lượng đóng vai
trị thống trị trong xã hội, và vì thế nắm quyền chuyên chính, dân chủ và pháp

luật là đại đa số nhân dân lao động. “Dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân và
trấn áp bằng vũ lực bọn bóc lột, bọn áp bức nhân dân, nghĩa là tước bỏ dân chủ
đối với bọn chúng: đó là sự biến đổi của chế độ dân chủ trong thời kỳ quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản”.
Như vậy, sự phát triển của V.I.Lê-nin đối với quan điểm của C.Mác và
Ph.Ăng-ghen về nhà nước, điểm quan trọng nhất chính là ở chỗ, đặc tính phổ
biến của mọi nhà nước đó là giai cấp. Như thế, biểu hiện về mặt lịch sử trong
suốt quá trình phát triển của xã hội loài người là mối quan hệ biện chứng của hai
mặt chuyên chính và dân chủ. Rõ ràng, trên phương diện này, nhà nước là một
cách thức tổ chức đời sống xã hội, một giai đoạn trong tiến trình phát triển của
xã hội, là một vòng khâu của sự phát triển. Đây chính là quan niệm duy vật và
biện chứng có tính nguyên tắc trong việc lý giải đời sống xã hội nói chung, vấn
đề nhà nước nói riêng và gắn liền với những cố gắng to lớn của V.I.Lê-nin trong
sự phát triển chủ nghĩa Mác.
13
Chương 2:
Ý nghĩa của tư tưởng Mác – Lênin về nhà nước
trong thời đại hiện nay
2.1. Ý nghĩa của tư tưởng Mác - Lênin trong thời đại ngày nay
2.1.1. Ý nghĩa lí luận
Tư tưởng về nhà nước có một vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống
lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, bởi nó không thuần túy là những lý thuyết
khoa học mà gắn bó chặt chẽ với quan điểm chính trị; nó không đơn giản là những
suy tư tinh thần mà gắn liền với những hoạt động thực tiễn sinh động của các ông.
Chính vì vậy, tìm hiểu những tư tưởng của Mác - Lênin về nhà nước có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong thời đại hiện nay, nhất là đối với Việt Nam khi chúng ta
đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân và vì nhân dân.
Thứ nhất, nhà nước là một hiện tượng lịch sử nó được hình thành từ
những xã hội xác định và bị quy định bởi xã hội đã sản sinh ra nó

Nhà nước không phải là một hiện tượng vĩnh cửu, bất biến càng không
phải là lực lượng siêu nhiên, nhà nước là một phạm trù lịch sử có quá trình
phát sinh, phát triển và tiêu vong. Nó là một lực lượng nảy sinh từ chính đời
sống xã hội, khi mà xã hội đã phát triển tới một giai đoạn nhất định và sẽ mất
đi khi những điều kiên khách quan tồn tại của nó mất đi. Mác – Lênin đã trả
lời một cách khoa học nhà nước là gì, nó xuất hiện như thế nào và trên cơ sở
nào và tại sao trong các thời kì lịch sử khác nhau, nhà nước lại có những hình
thức và vai trò khác nhau. Từ việc chỉ ra nguồn gốc xuất hiện nhà nước, bản
chất giai cấp của nhà nước và tính chất bóc lột, áp bức giia cấp của các nhà
nước chủ nô, phong kiến và tư sản. Chủ nghĩa Mác – Lênin nêu lên quan
điểm về nhà nước kiểu mới – nhà nước của giai cấp vô sản khác về chất so
với các kiểu nhà nước áp bức bóc lột và bác bỏ những quan điểm phản khoa
14
học về vấn đề nhà nước. Họ xem nhà nước là một cái gì thần bí siêu tự nhiên,
bởi các luận điểm ấy gắn liền mật thiết với lợi ích của giai cấp, nó bào chữa cho
sự bóc lột của giai cấp thống trị, bào chữa cho sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản.
Đa số họ, khi xem xét sự ra đời của nhà nước đều tách khỏi những điều kiện vật
chất của xã hội, tách rời những nguyên nhân kinh tế và chứng minh rằng nhà
nước là một thiết chế tồn tại tròn xã hội, một lực lượng đứng trên xã hội, đứng
ngoài xã hội để giải quyết tranh chấp, điều hòa mâu thuẫn xã hội, nhằm đảm bảo
sự ổn định và phồn vinh xã hội.
Thứ hai, nhà nước pháp quyền dù là một mô hình nhà nước, một cách thức
tổ chức quyền lực nhà nước, hay một nhà nước mang những tính chất xác định,
thì đã là nhà nước đều mang tính giai cấp - kể cả nhà nước pháp quyền
Đó là một quy định lịch sử. Việc không nhận thấy bản chất giai cấp của
nhà nước pháp quyền là một biểu hiện của nhận thức ấu trĩ, mơ hồ, hay cơ hội
về chính trị. Không thể có một nhà nước siêu giai cấp. Lênin đã chỉ ra rằng:
“Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể
điều hòa được. Bất cứ đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan,
những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, thì nhà nước xuất hiện.

Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai
cấp là không thể điều hòa được”. Vì vậy nhà nước chỉ sinh ra và tồn tại trong
xã hội có giai cấp và bao giờ cũng thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc. Mác –
Lênin cũng đã chỉ rõ nhà nước không phải là một cơ quan có tính chất trọng
tài, điều hòa các xung đột giai cấp. Nói chính xác hơn, nhà nước “điều hòa”
xung đột giai cấp xong điều hòa trong khuôn khổ lợi ích và phù hopự với ý
chí của giai cấp thống trị. Như vậy, với quan điểm về vấn đề nhà nước, Mác –
Lênin đã đập tan luận điểm của các nhà tư sản nhằm che đậy bản chất bóc lột
và áp bức của giai cấp thống trị đối với giai cấp bị trị. Đồng thời, những luận
điểm về nhà nước của Mác – Lênin còn góp phần to lớn vào việc giáo dục và
trang bị cho giai cấp công nhân trên toàn thế giới vũ khí tư tưởng sắc bén
trong cuộc đấu tranh chống lại hệ tư tưởng tư sản và các trào lưu mác xít,
15
hướng giai cấp công nhân đoàn kết lại trong một khối thống nhất, cso tổ chức,
đấu tranh vì một xã hội tương lai – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa.
Thứ ba, nền tảng và nội dung của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam phải là dân chủ. Thực ra nhà nước ấy, cần phải được hiểu đó là một
phương thức thực hiện dân chủ một cách hữu hiệu trong lĩnh vực chính trị, và nó
được hình thành cùng với sự trưởng thành của xã hội dân chủ. Nhà nước pháp
quyền là một khái niệm dựng để chỉ xã hội được tổ chức theo cách quyền lực
của nhân dân được luật hóa và được đảm bảo thực thi bằng hệ thống chính trị,
trong đó trước tiên và trực tiếp là bộ máy nhà nước.
2.1.2. Ý nghĩa thực tiễn
Tư tưởng Mác – Lênin về nhà nước không chỉ có ý nghĩa lý luận mà
còn có ý nghĩa thực tiễn to lớn.
Khi tìm hiểu về nguồn gốc nhà nước thì cũng đồng thời hiểu rõ về nguồn
gốc xuất hiện chế độ tư hữu. Nếu sự xuất hiện của chế độ tư hữu là ngyên nhân
trực tiếp dẫn đến xuất hiện giai cấp, thì sự xuất hiện giai cấp, đấu tranh giai cấp
chính là nguyên nhân làm xuất hiện nhà nước. Trong xã hội cộng sản nguyên

thủy, khi lực lượng sản xuất còn thấp kém, mọi người trong thị tộc đều làm
chung hưởng chung, họ sống nhờ săn bắt, hỏi lượm. Vì thế năng suất lao động
thấp, trong xã hội chưa xuất hiện chế độ tư hữu tài sản.
Tuy nhiên sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, công cụ lao
động, con người cũng phát triển về thể lực và trí tuệ, họ tích lũy được nhiều kinh
nghiệm. Năng suất lao động đã tạo tiền đề làm thay đổi phương thức sản xuất
cộng sản nguyên thủy và đòi hỏi sự phân công lao động xã hội. Sản phẩm lao
động dồi dào, của dư thừa xuất hiện làm phát sinh khả năng chiếm đoạt của cải
dư thừa và chế độ tư hữu hình thành. Chế độ tư hữu được hình thành từ sự tiến
hóa của sự phát triển của chế độ sở hữu tập thể và trong quá trình biến đổi hợp
quy luật của chế độ sở hữu tập thể thành chế độ sở hữu trên cơ sở kinh tế của các
16
giai cấp đối kháng trong thời đại văn minh. Nó hình thành trong quan hệ sản
xuất “con người – thiên nhiên và công cụ lao động”.
Với sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy, sở hữu tư nhân xuất
hiện làm nảy sinh hiện tượng bóc lột người. Sở hữu tư nhân là sở hữu kinh tế
của quan hệ xã hội đối với chiếm hữu nô lệ và xã hội phong kiến.
Sang chế độ tư bản chủ nghĩa, chế độ tư hữu cùng với nền kinh tế thị
trường đã đạt tới tỉnh cao. Nền sản xuất của xã hội tư bản đã biến toàn bộ con
người thành hàng hóa, thành một thực thể mất hết tính người cả về tinh thần
lẫn thể xác. Đây chính là tai họa lớn nhất, khủng khiếp nhất mà chế độ tư
hữuu trong xã hội tư bản đưa đến cho con người.
Như vậy, tư tưởng về nhà nước của Mác – Lênin có một giá trị thực
tiễn giúp làm cơ sở lý luận để xóa bỏ chế độ tư hữu. Muốn xóa bỏ tận cùng
những bất bình đẳng trong xã hội thì phải xóa bỏ chế độ tư hữu, xác lập chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất.
Ở Việt Nam, sự “xóa bỏ chế độ tư hữu” phải xét tới tính chất của chế
độ tư hữu, tức là phải xem tư nhân trong chế độ tư hữu là người lao động hay
không lao động. Bởi vì, quyền tư hữu của người lao động đối với tư liệu sản
xuất của mình là cơ sở của nền sản xuất nhỏ, mà nền sản xuất nhỏ lại là điều

kiện tất yếu để phát triển nền sản xuất xã hội và cá tính tự do của bản thân
người lao động. Theo đó, sở hữu tư nhân của người lao động là một giá trị.
Xóa bỏ chế độ tư hữu thực chất là xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa là để
khôi phục lại chế độ sở hữu cá nhân trên cơ sở những thành tựu của thời đại
chủ nghĩa tư bản: trên cơ sở hiệp tác và chiếm hữu công cộng đối với ruộng
đất và những tư liệu sản xuất do chính người lao động làm ra.
Trong thời kỳ quá độ chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều trình độ phát triển
khác nhau của lực lượng sản xuất, tự cung, tự cấp, du canh du cư của một bộ
phận dân cư ở miền núi cao và sản xuất hàng hóa nhỏ, đến sản xuất lớn hiện đại
của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hay các tập đoàn kinh tế lớn của
17
nước ta… Tương ứng với những trình độ khác nhau ấy của lực ưlợng sản xuất,
tất yếu còn tồn tại nhiều loại hinh và hình thức sở hữu.
Không có một hình thái xã hội nào diệt vong mà tất cả lực lượng sản
xuất của hình thức xã hội đó chưa tạo được địa bàn đầy đủ cho sự phát triển.
Những quan hệ sản xuất mới, cao hơn cũng không bao giờ xuất hiện trước khi
những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong
lòng bản thân xã hội cũ. Bởi vậy, từ Đại hội VI của Đảng đến nay, quan điểm
của Đảng ta về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã có
nhiều biến đổi và sáng tạo, phù hợp với phát triển của thời đại. Mặc dù còn
nhiều khó khăn những việc Đảng ta khẳng định và tạo điều kiện cho sở hữu tư
nhân có một vị trí thích đáng trong nền kinh tế thị trường XHCN là một hoạch
định và chỉ đạo chiến lược cần thiết, đúng đắn và phù hợp với quy luật vận
động và phát triển của xã hội. Từ đó, có thể khẳng đinh vai trò to lớn của
Đảng và chúng ta cũng có thể thấy, chủ nghĩa Mác – Lênin trong thời đại
ngày nay vẫn là bất diệt.
2.2. Vận dụng tư tưởng Mác – Lênin về nhà nước vào xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay
2.2.1. Đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống luật pháp và tổ
chức thực hiện pháp luật là nhiệm vụ hết sức quan trọng trong việc xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, một trong những yêu cầu cấp bách đặt ra hiện nay là tiếp tục đổi mới và
hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách và thủ
tục hành chính để phát huy tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho sản
xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác
nhau. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật với chất lượng tốt sẽ tạo ra
môi trường pháp lý bình đẳng, thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế tồn tại và
phát triển, đồng thời thực hiện được các chủ trương của Đảng về phát huy nội
lực, tăng nhanh vồn đầu tư trong nước và nước ngoài; nâng mức tăng trưởng
18
kinh tế cao và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân. Mặt khác, hệ thống luật
pháp hoàn chỉnh còn có vai trò bảo đảm phát triển bền vững nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Pháp luật sẽ hạn chế và tiến tới loại
bỏ các yếu tố tự phát, tuỳ tiện, góp phần ngăn ngừa mặt tiêu cực của kinh tế
thị trường. Bên cạnh đó, trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế, chủ trương xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phù hợp với yêu cầu Nhà nước
quản lý xã hội bằng pháp luật.
2.2.2. Xây dựng bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước
trong sạch, vững mạnh
Bộ máy Nhà nước phải tinh gọn, hoạt động có hiệu quả. Sử dụng mọi
cơ chế chính sách để đào tạo, tuyển chọn đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là
cấp chủ chốt, thật sự có đức - tài gánh vác các công việc của Nhà nước. Ðó là
những người biết coi trọng lợi ích quốc gia, lợi ích của nhân dân, không tham
nhũng, lãng phí, quan liêu và tích cực chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
Xây dựng cơ chế và thực hiện cơ chế miễn nhiệm, từ chức đối với những đại
biểu của nhân dân không làm tròn nhiệm vụ. Văn hóa chính trị trong hoạt
động của bộ máy Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam giai đoạn hiện nay
càng cần được đề cao và thực thi một cách nghiêm túc. Trách nhiệm công

chức và trách nhiệm cán bộ Nhà nước phải được thực thi một cách đầy đủ và
theo cơ chế thưởng phạt nghiêm minh như tinh thần của V.I.Lê-nin trong xây
dựng chính quyền Xô-viết.
2.2.3. Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế XHCN, đảm
bảo thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân
Trong điều kiện khó khăn và phức tạp của tình hình hiện nay thì mở
rộng dân chủ là một nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết để khai thác được sức
mạnh vô tận của nhân dân ta trong sự nghiệp đổi mới, mở cửa, hội nhập với
thế giới. Qua thực tế hơn 20 năm đổi mới, Đảng ta đã chỉ ra rằng nơi nào thực
hiện được dân chủ, phát huy được trí tuệ của đông đảo cán bộ và nhân dân, thì
19
nhất định thành công. Ngược lại, nơi nào để mất dân chủ, gây ra sự bất mãn
trong quần chúng thì nơi đó không tránh khỏi khó khăn và dẫn đến hậu quả
đáng tiếc.
Để người dân được hưởng quyền dân chủ trong thực tế, không chỉ xác
nhận quyền đó trong Hiến pháp và pháp luật mà còn phải tạo điều kiện vật
chất và văn hóa để người dân nâng cao năng lực làm chủ: nâng cao dân trí,
bồi dưỡng văn hóa chính trị, phát triển tính tích cực công dân, mở mang kinh
tế, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, khuyến khích nhân
dân tham gia giám sát công việc của các cơ quan nhà nước, từ dưới lên.
Phát huy dân chủ phải kết hợp chặt chẽ với tăng cường pháp chế
XHCN, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật. Nhà nước
tiếp tục phải thể chế hóa bằng pháp luật các quyền dân chủ của người dân trên
các lĩnh vực của đời sống xã hội.
2.2.4. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam; sự giám sát của nhân dân và sự phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên
Trong suốt quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất
nước của nhân dân ta đã có một thời kỳ ở nước ta tồn tại nhiều đảng chính trị
hoạt động trong đời sống xã hội. Qua thử thách của cuộc đấu tranh giải phóng

dân tộc và trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, nhân dân Việt Nam
đã thừa nhận vị trí, vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam
đối với Nhà nước và xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng được chính thức ghi nhận
trong Hiến pháp.
Sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng Cộng sản Việt Nam là điều kiện tiên
quyết cho thành công của việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền Việt Nam
giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của Ðảng là nhiệm vụ then chốt không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân Ðảng
mà còn là quan trọng đối với sự tồn tại hoạt động của Nhà nước pháp quyền.
Vấn đề là phải luôn luôn đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà
20
nước để sao cho vừa bảo đảm sự lãnh đạo của Ðảng, vừa phát huy vai trò
quản lý, điều hành của Nhà nước để tập trung mọi quyền lực vào tay nhân
dân. Ðảng vừa không được bao biện nhưng Ðảng không được buông lỏng sự
lãnh đạo đối với hệ thống chính trị, trong đó đặc biệt là đối với Nhà nước.
Trong điều kiện một đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội nhưng chúng ta
có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận hoạt
động tích cực để đoàn kết rộng rãi và đại diện cho tiếng nói của tất cả các giai
cấp, các tầng lớp trong xã hội.



21
KẾT LUẬN
Với mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ
cương và đồng thuận, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã tiếp tục khẳng
định quyết tâm đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, hoàn thiện
các thể chế nhằm bảo đảm và phát huy các quyền con người, quyền công dân,
chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người, trong đó, nhân dân

thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống
chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện. Trong bối cảnh
đó, lý luận về nhà nước của Mác – Lênin chứa đựng nhiều giá trị có ý nghĩa
lý luận và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
Lý luận về Nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam đã thực sự tìm
được mảnh đất để nảy mầm, phát triển khi nước ta thực hiện chính sách đổi
mới, đẩy mạnh tiến trình dân chủ hoá, đổi mới tư duy kinh tế, tư duy pháp lý. Ở
nước ta hiện nay, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không
chỉ còn là một nguyện vọng, cũng không đơn thuần là một chủ trương, một
quyết sách mà nó đang dần dần đi vào cuộc sống. Để thành công, chúng ta vừa
phải đứng vững trên lập trường lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vừa
phải kế thừa được những thành quả xây dựng nhà nước pháp quyền đã có trên thế
giới, vừa phải xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đồng thời, nó đòi hỏi
sự quyết tâm của Đảng, của Nhà nước và của toàn thể nhân dân ta trong sự nghiệp
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
nhằm đáp ứng sự phát triển của đất nước và yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước.
22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. V.I.Lênin [1929]: Bàn về Nhà nước, Báo Sự thật, số 15/1929.
2. Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Khoa Chính trị [2011]: Chính trị
học nâng cao, Hà Nội.
3. Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Khoa Chính trị học [2008]:
Chính trị học đại cương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Khoa Nhà nước và pháp luật
[2008]: Thể chế chính trị, Hà Nội.
5. Dương Thị Hưởng (chủ biên) [2003]: Lý luận về Nhà nước và Pháp
luật, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
6. Dương Văn Thi [2010]: Tư tưởng của Lênin về Nhà nước với sự
vận dụng của Đảng ta vào xây dựng và bảo vệ Nhà nước pháp quyền XHCN,

Báo Bắc Ninh, ngày 22/04/2010.
7. Đặng Xuân Kỳ (chủ biên) [2003], Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam [2011]: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Một số website:
Diendankienthuc.net
Tailieu.vn
23
MỤC LỤC
24

×