SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG HỌC TỐT MÔN
TẬP LÀM VĂN Ở LỚP 5"
I. PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
1/ SỰ CẦN THIẾT (Lí do nghiên cứu)
Phân môn Tập làm văn là một môn có tầm quan trọng trong tất cả các môn học vì
chúng quyết định về nhiều mặt. Trong tất cả các môn học đều phải sử dụng đến
hành văn để làm: Lịch sử, Địa lí, Toán, Chính trị và các phân môn khác của Tiếng
việt, … môn Tập làn văn nó còn có tầm quan trọng cho đến cả sau này khi học sinh
không còn học trong mái trường nữa thì môn Tập làm văn vẫn theo là hành trang để
đi vào đời cho các em như: học sinh có làm văn tốt thì ăn nói mới lưu loát được,
muốn có một bài “diễn thuyết” giỏi mang tính thuyết phục thì cũng phải có hành
văn tốt. Vậy có thể nói môn Tập làm văn có tầm ảnh hưởng rất lớn trong cả một thế
hệ con người. Vậy thì ngay trong nhà trường phải dạy như thế nào để các em có thể
lĩnh hội môn nay một cách tốt nhất, làm sao để phát huy khả năng của học sinh,
phát huy ngôn ngữ của học sinh đó là một vấn đề mà mỗi người giáo viên chúng ta
cần phải suy nghĩ dạy như thế nào để có chất lượng.
Qua vài năm được giảng dạy lớp 5 tôi nhận thấy rằng đa số khả năng học môn tập
làm văn của học sinh là quá kém. Học sinh không biết làm một bài văn hoàn chỉnh,
không biết dùng từ đặt câu, trong quá trình làm bài văn không biết dùng các biên
pháp tu từ so sánh, nhân hóa cả biện pháp liên tưởng vào làm các bài văn dạng miêu
tả.
Trong cách làm bài của học sinh không sử dụng câu mở đoạn cho một đoạn văn
mặc dù kiến thức này đã được học ở lớp 4. Các câu trong đoạn văn hay cả bài văn
không có sự liên kết chặt chẽ, không theo một trình tự nhất định. Chính vì vậy, bài
văn của học sinh thường luôn bị lộn xộn miêu tả lung tung, không theo một thể
thống nhất.
- Hiện nay, chúng ta đang có xu hướng nâng cao dần nâng cao mãi kết quả bài làm
văn của học sinh. Nghĩa là chúng ta đang hướng tới những bài văn hay của học sinh
trong khi việc dạy của thầy, cô giáo lại chưa đạt được yêu cầu hướng dẫn, dìu dắt
người học từng bước. Chấm bài thi dễ dàng tìm ra sai sót nhưng làm sao cho học
sinh khỏi sai sót thì nhiều khi phần lớn chúng ta lại không chỉ ra được một cách đầy
đủ đúng hướng cho học sinh.
2. Khó khăn và thuận lợi
Qua tìm hiểu và nghiên cứu tôi thấy có một số thuận lợi và khó khăn như sau :
2.1 Thuận lợi :
- Học sinh lớp 5 lớn hơn hết so với các lớp dưới nên nhận thức tốt hơn, có khả năng
tưởng tượng phông phú hơn, biết nhìn nhận và thâu tóm những hình ảnh vào tri
thức và nhớ có hệ thống hơn so với các em lớp dưới. Gần như đa số các em đã biết
sử dụng dùng từ đặt câu, viết như thế nào cho chọn vẹn ý, các em lĩnh hội nhanh và
biết sử dụng các biện pháp tu từ để đưa vào bài tập làm văn của mình.
- Giáo viên được học bồi dưỡng thường xuyên về phân môn Tập làm văn qua các
đợt học chuyên môn, được dự giờ thăm lớp để học hỏi qua đồng nghiệp, được Ban
giám hiệu trường tổ chức thao giảng, chuyên đề để rút ra kinh nghiệm cho bản thân.
Thực tế qua giảng dạy và kinh nghiệm của bản thân, tôi xin trình bày kinh nghiệm
về:
“Một số biện pháp rèn kĩ năng học tốt môn Tập làm văn ở lớp 5”
2.2 / Khó khăn
a.Nguyên nhân về phía người học .
- Bản chất của làm văn không phải la sự bắt trước máy móc, bắt trước mãi, không
còn gì là của riêng mình thì sẽ trở thành người máy. Một lớp toàn người máy thì
không còn là lớp học. Lớp mà như vậy thì việc dạy và học đã đi chệch con dường
dạy tốt học tốt.
- Được học như vậy, được đọc như vậy, học sinh càng thấy môn văn nói chung,
môn tập làm văn nói riêng là lĩnh vực không thể nào chiếm lĩnh được. Có chăng, chỉ
một tỉ lệ phần trăm ít ỏi là có may mắn học giỏi môn này mà thôi .
b. Nguyên nhân về phía cha mẹ học sinh:
- Một nét tâm lý khá phổ biến của cha mẹ học sinh là muốn cho con học thêm về
toán, về các môn tự nhiên, rất ít cha mẹ muốn cho con học làm văn nếu không có
yêu cầu của giáo viên.
- Cha mẹ học sinh cũng còn nhược điểm là ít mua sách môn tập làm văn cho các em
đọc, thường chiều theo ý thích của con. Hiếm thấy nhữ gia đình xây dựng cho con
tủ sách phục vụ tốt cho việc học môn văn ở tiểu học.
PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Nội dung cơ bản của sáng kiến:
1. Cơ sở để cải tiến sáng kiến.
a) Thực ra điều này không mới. Giáo viên nào cũng phải làm. Riêng tôi nghĩ,
sau ít nhất một tháng tôi phải xác định được học sinh tôi dạy có những điều tốt,
những điều chưa tốt như thế nào về làm văn.
Tất nhiên nhận xét kết luận ấy còn phải được bổ xung thường xuyên trong
suốt học kỳ, suốt năm học.
Yêu cầu đặt ra là giáo viên phải hiểu thực sự trình độ người học: Em nào loại giỏi,
loại khá, loại trung bình, loại yếu kém về làm văn của lớp mình (chứ không phải lớp
khác).
Điều đó làm cơ sở, làm điểm xuất phát cho bài soạn, cho lượng kiến thức,
cho phương pháp dạy mỗi bài.
b) Ở lớp tôi đã dạy và đang dạy, học sinh có những điểm yếu làm văn cụ thể như
sau:
- Các em đều biết một bài văn có ba phần:
Mở bài, thân bài, kết bài. Nhưng viết từng phần như thế nào thì lại lúng túng, tôi
giúp các em bằng cách mỗi dạng bài, chọn một bài văn chuẩn để tập phân tích. Từ
đó xác định cho mình có ý từng phần, diễn đạt từng phần.
Trên đây tôi đã nói ở phần nguyên nhân về nhược điểm của sách tham khảo. Hiện
nay rất may mắn, chúng ta đã có cuốn “Tiếng Việt nâng cao lớp 4, lớp 5. Riêng tôi,
tôi thấy 2 cuốn sách đó đúng là sách tốt cho môn tập làm văn, dạy Tiếng Việt về nội
dung, còn có những điều bàn bạc nhưng các tác giả đã nêu ra quan điểm đúng đắn.
2. Rèn kĩ năng làm văn cho học sinh.
2.1. Rèn cách nghe và cảm thụ bài văn.
* Rèn kĩ năng cho học sinh cảm thụ cái hay của một đoạn văn hay một bài văn.
- Trước tiên tôi đọc bài văn thật hay.
- Cho một vài em đọc thật tốt đọc lại toàn bộ đoạn văn. Ví dụ bài văn “Hoàng hôn
trên sông Hương” hay bài “Nắng trưa”
- Tôi lần lượt cho học sinh phân tích bài văn bằng hệ thống câu hỏi để khai thác bài.
* Tìm câu mở bài:
- Câu mở bài diễn tả nhận xét gì của tác giả?
- Tác quan sát cảnh vật ở vị trí nào?
- Tác giả quan sát cảnh vật và tả vào thời điểm nào trong ngày?
- Từ đó tôi kết luận: Câu mở bài phải giới thiệu được vị trí quan sát, giới thiệu vị trí
quan sát bằng cách thể hiện được cảm xúc người viết. Tác giả đã giới thiệu được
nơi mà mình định tả vào thời điểm nào đó trong ngày.
* Tìm thân bài có mấy ý lớn?
- Xác định trong phần thân bài gồm có mấy đoạn, mỗi đoạn miêu tả những gì.
- 2 ý lớn: + Cảnh sắc lúc hoàng hôn buông xuống.
+ Cảnh sắc lúc con người hoạt động lúc trời tối hẳn trên bờ và dưỡi
mặt nước của dòng sông.
+ Xác định câu mở đoạn của từng đoạn
+ Cho học sinh tìm hiểu sự liên kết giữa các câu trong đoạn văn, sự chuyển ý của
các câu, quá trình miêu tả về không gian, thời gian trong bài văn.
* Tìm câu kết thúc bài văn:
Tôi kết luận: Kết thúc vừa tả cảm xúc của mình vừa gây ra truyền cảm cho người
đọc, và kết bài theo kiểu mở rộng khiến người đọc cần phải suy nghĩ về cảnh mình
tả, nơi mình tả.
2.2. Rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh.
a. Viết đoạn văn:
- Muốn viết được một bài văn hay thì người giáo viên cần hướng và rèn luyện cho
học sinh viết câu, đoạn cho tốt sau đó mới có thể viết được bài văn. Ở đây học sinh
đã được rèn luyện viết câu rất kĩ, kế đó là viết đoạn văn. Chính vì vậy trong lớp 5
giáo viên chú trọng vào viết đoạn văn cho học sinh.
- Khi viết giáo viên cần chú ý rèn kĩ năng viết được câu mở đoạn cho học sinh, từ
câu mở đoạn mới có thể triển khai viết thành một đoạn văn. Trong đoạn văn cần
chú ý cho học sinh cách tả theo trình tự lô gic nhất định, tránh tình trạng tả đi tả lại
chỉ một vấn đề.
- Khi viết đoạn văn cần chú ý nhắc học sinh tránh lỗi lặp từ, nhiều học sinh đã mắc
rất nhiều lỗi đó là lỗi lặp từ, lặp ý trong cùng một đoạn văn. Cần nhắc học sinh khi
miêu tả chúng ta cần tả kĩ các chi tiết để tránh tình trạng học sinh mới viết được 5
đến 7 câu là đã tả xong cảnh vật đó mà không còn biết tả gì nữa. Tức là học sinh
miêu tả một cách rất chung chung đại khái không đi sâu vào nội dung chi tiết cảnh
vật tả.
- Học sinh viết đoạn văn theo yêu cầu của giáo viên:
- Học sinh viết bài, sau đó cho học sinh đọc bài của mình giáo viên cùng cả lớp
nhận xét về bài làm đó.
- Mỗi lần học sinh viết giáo viên nên gợi ý cho học sinh thấy đâu là câu mở đoạn
trong đoạn văn. Từ câu mở đoạn đó triển khai viết từ câu mở đoạn đó. Ví dụ: Câu
mở đoạn là: “Quê hương em rất đẹp.” Vậy quê em đẹp như thế nào thì phân tích và
miêu tả ra trong các câu tiếp theo. Khi hết đoạn cần có câu kết đoạn.
b. Viết cả bài văn.
- Dựa trên quá trình viết đoạn văn thì học sinh có thể viết được cả bài văn, giáo viên
lưu ý cho học sinh viết bài văn có đủ ba phần. Mở bài, thân bài, kết bài.
* Phần mở bài:
- Để viết một bài văn hoàn chỉnh có ý văn tốt giáo viên rèn cho học sinh cách mở
bài. Cũng có thể rèn cho học sinh cách mở bài theo kiểu dán tiếp, hay trực tiếp tùy
theo khả năng tiếp thu làm việc của học sinh. Nhưng tốt nhất giáo viên nên rèn cho
học sinh viết mở bài theo kiểu dán tiếp tức là tả vòng vo loanh quanh sau đó đi vào
ý chính cần tả.
- Giáo viên cho học sinh tập viết phần mở bài sau đó cho học sinh đọc và các bạn
khác nhận xét bài viết của học sinh xem đã đúng theo chủ đề chưa, mở bài vậy đã
hay chưa. Nếu học sinh viết chưa được giáo viên nên cho học sinh viết lại, lúc này
các bạn viết tốt hơn làm tư vấn cho bạn mình hoàn thiện bài viết. Giáo viên là người
cuối cùng đưa ra nhận xét và kết luận.
* Thân bài:
Phần thân bài cũng có thể hướng cho học sinh viết thành nhiều đoạn, mỗi đoạn là
một ý khác nhau, tả một cảnh vật và đi chi tiết của canh vật đó.
- Trong mỗi đoạn khi miêu tả cần chú ý chi học sinh về sử dụng các hình ảnh so
sánh, nhân hóa trong văn miêu tả. Hướng cho học sinh vận dụng các giác quan tham
gia vào việc miêu tả như mắt, mũi, tai, xúc giác, …
- Giáo viên cho học sinh viết phần thân bài sau đó đọc cho cả lớp cùng nghe rồi
nhận xét, đánh giá các ý mà học sinh viết. Những bài đạt chất lượng là những bài có
cách viết trôi chôi chảy, các ý diễn ra một cách tư nhiên. Học sinh biết sử dụng các
biện pháp so sánh, nhân hóa, liên tưởng một cách phù hợp. Bài viết có vận dụng các
giác quan vào việc miêu tả một cách linh hoạt và khoa học. Bài viết phải có hồn khi
đọc bài lên thì hình ảnh phải được hiện lên trước mắt người đọc. Nếu đạt được như
thế thì đó là bài văn thành công.
- Nếu bài viết chưa đạt đạt các ý trên, thì giáo viên phải động viên các em đó viết
lại, có thể tham khảo những bạn có bài văn thành công. Nếu như học sinh viết vẫn
chưa được thành công lắm thì giáo viên nên đưa ra các hình ảnh, tranh ảnh minh
họa hay một đoạn video về phong cảnh và chỉ dẫn cho học sinh miêu tả từng bước
một. (Về hình ảnh, video giáo viên có thể sử dụng trình chiếu).
* Kết bài:
- Đây cũng là một phần rất quan trọng trong bài văn, nó đóng một phần thành công
hay thất bại của bài văn mà minh đã làm.
- Giáo viên nên hướng cho học sinh cách kết bài mở rộng, cũng tập cho học sinh
cách kết bài mở rộng. Cũng tương tự như phần trên giáo viên nên cố gắng rèn cho
học sinh viết bằng được phần này. Khi học sinh viết tốt thì giáo viên nên động viên
khích lệ tinh thần học sinh.
3. Dạy thu hút học sinh học văn, làm văn bằng những biện pháp hỗ trợ như
cảm thụ văn học:
a. Học sinh tiểu học có đặc điểm tâm lý là thích học say sưa và ngược lại.
Những bài văn được chọn lọc trong SGK hiện nay có nhiều ưu điểm nhưng nhìn
chung còn người lớn quá, chất trẻ con trong bài còn quá ít, mặt khác chất văn
chương trong nhiều bài cũng còn ít, chúng ta vẫn đang nặng nề nội dung mà còn coi
nhẹ văn chương. Cho nên học những bài đó có thể đạt kết quả cao về tinh thần, tư
tưởng nhưng sẽ không cao về tâm hồn nghệ thuật, càng ít kết quả về sáng tạo, thông
minh hồn nhiên ngây thơ.
b. Như vậy bài văn thiếu tính hấp dẫn. Học sinh tiểu học không thích những bài đó.
Đó cũng là nguyên nhân dạy làm văn khó đạt kết quả cao.
c. Tôi chọn dạy thêm những bài văn như trên đây. Đặc biệt chọn những bài thơ phù
hợp với tuổi các em để dạy cảm thụ, dạng viết từ cảm thụ cái đẹp, cái hay, cái lạ của
thơ văn.
* Hoặc cho học sinh cảm thụ thấy được cái hay, sự xúc động và những nét giản dị
của Bác.
Học sinh xẽ cảm thụ, phân tích được cái hay cái đẹp về nghệ thuật miêu tả của tác
giả trong thơ hoặc trong văn.
Qua đó, dần dần các em không sợ làm văn nữa, yêu thích và viết văn được.
PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN
1. Hiệu quả đạt được:
- Từ khi áp dụng sáng kiến thì thấy rằng chất lượng vượt lên hẳn, học sinh nhớ bài
chắc chắn hơn, hệ thống hơn; luôn thích học mỗi khi đến bộ môn này. Chính vì vậy
mà sau một năm thực hiện sáng kiến kết quả đạt được như sau:
THI KHẢO SÁT ĐẦU NĂM HỌC 2012 – 2013
Lớp TSHS
Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL % SL % SL % SL %
5A 27 3 11 4 14.8 18 66,6 2 7.6
5B 28 4 14.2 5 17,8 16 57.1 3 10,9
5C 26 3 11,5 4 15,3 16 61.5 3 11,9
THI KHẢO SÁT CUỐI NĂM HỌC 2012 – 2013
T
2. Bài học kinh nghiệm:
Lớp TSHS
Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL % SL % SL % SL %
5A 27 10 37 8 29,6 9 33,4
5B 28 11 39,2 9 32,1 8 28,7
5C 26 9 34,6 9 34,6 8 30,8
-Việc tạo hứng thú học tập, yêu thích môn học Tập làm văn, và rèn kĩ năng
học tốt môn này là một việc tất cả giáo viên khối 4 + 5 cần phải kiên trì, bền bỉ,
không được nóng vội. Bởi vì có những học sinh tiến bộ ngay trong vài tuần nhưng
cũng có những học sinh thì sự tiến bộ diễn ra rất chậm, không phải vài tuần, có khi
vài tháng, thậm chí cả một học kỳ. Nếu giáo viên không biết chờ đợi, nôn nóng thì
chắc chắn sẽ thất bại.
- Giáo viên cần thường xuyên học hỏi đồng nghiệp, tự bồi dưỡng, đọc sách
báo, truy cập Internet để nắm vững, để tìm hiểu thêm về môn Tập làm văn, các
phương pháp dạy học để rút kinh nghiệm giảng dạy cho bản thân từ đó có những
kinh nghiệm hay áp dụng tốt cho việc dạy phân môn Tập làm văn nói riêng và các
môn học khác nói chung.
- Nhìn chung trong quá trình thực hiện, tuy đã đạt hiệu quả đáng kể song vẫn
không tránh khỏi một vài hạn chế. Cũng chính vì vậy bản thân tôi rất mong sự đóng
góp của các cấp lãnh đạo và đồng nghiệp để trong mỗi tiết dạy môn Tập làm văn
đạt hiệu quả hơn, lí thú hơn nữa đối với cả giáo viên và học sinh. Cuối cùng tôi xin
chân thành cảm ơn.
3. Phạm vi áp dụng của đề tài:
Đề tài này đã được áp dụng từ đầu năm học 2012-2013 cho học sinh lớp 5.
Qua kiểm tra đánh giá, lãnh đạo nhà trường đồng ý cho triển khai áp dụng trong
toàn khối 5 cho đến nay, đạt kết quả tốt trong năm học 2012 - 2013.
Mặc dù đã cố gắng nhưng do điều kiện công tác ở vùng sâu, vùng xa, trong
quá trình nghiên cứu và thực hiện không tránh khỏi thiếu sót, mong sự góp ý của
các cấp lãnh đạo và đồng nghiệp để đề tài này hoàn thiện hơn, được áp dụng rộng
rãi hơn, góp phần vào việc nâng cao hiệu quả giờ dạy môn này ở tiểu học, giúp các
em học sinh học tốt phân môn Tập làm văn.
Sông Đốc, ngày 25 tháng 5 năm 2013
Người thực hiện
Bùi Mạnh
Hùng