Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

skkn một số biện pháp rèn kỹ năng đọc - hiểu qua phân môn tập đọc cho học sinh lớp 5a, trường tiểu học mỹ thủy - lệ thủy - quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.25 KB, 14 trang )

Phòng giáo dục và đào tạo lệ thủy
Trường tiểu học số 2 phong thủy

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU QUA PHÂN MÔN TẬP ĐỌC CHO HỌC
SINH LỚP 5A, TRƯỜNG TIỂU HỌC MỸ THỦY
- LỆ THỦY - QUẢNG BÌNH


Họ và tên: Bùi

Thị Ngọc Thủy

Chức vụ: Phó hiệu trưởng

Năm học 2009 - 2010


A. phần mở đầu
I/ Lý do chọn đề tài:

Môn Tiếng Việt ở trường phổ thơng có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt
động ngôn ngữ cho học sinh, tương ứng là bốn kỹ năng: nghe - nói - đọc - viết. Tập
đọc là một phân mơn của chương trình Tiếng Việt ở bậc Tiểu học. Đây là một phân
mơn có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình
thành và phát triển cho học sinh kỹ năng đọc - một kỹ năng quan trọng hàng đầu của
học sinh ở bậc học đầu tiên - bậc Tiểu học.
Biết đọc, con người sẽ có khả năng chế ngự một phương tiện văn hóa cơ bản,
giúp họ giao tiếp được với thế giới bên người khác; thông hiểu tư tưởng, tình cảm
của người khác. Đặc biệt khi đọc các tác phẩm văn chương, các em không chỉ được


thức tỉnh về nhận thức mà cịn rung động tình cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp,
được khơi dậy năng lực hành động, sức mạnh sáng tạo cũng như được bồi dưỡng
tâm hồn. Năng lực đọc của học sinh được tạo nên từ bốn kỹ năng bộ phận cũng là
bốn yêu cầu về chất lượng của “ đọc”: đọc đúng, đọc trơi chảy, đọc có ý thức ( đọc
hiểu) và đọc diễn cảm. Trong bốn kỹ năng đó, kỹ năng đọc hiểu được coi là một kỹ
năng cực kỳ quan trọng, nó là “ bậc thang cuối cùng” để giúp cho học sinh đạt được
yêu cầu và chất lượng cao nhất của việc đọc - đọc diễn cảm. Chỉ khi biết cách hiểu,
hiểu sâu sắc, thấu đáo các văn bản được đọc thì học sinh mới có cơng cụ hữu hiệu để
lĩnh hội những tri thức, tư tưởng, tình cảm của người khác chứa đựng trong văn bản,
có cơng cụ để lĩnh hội tri thức khi học các môn học khác trong nhà trường. Chính
nhờ biết cách đọc hiểu văn bản mà học sinh dần dần có khả năng đọc riêng để tự
học, tự bồi dưỡng kiến thức về cuộc sống, từ đó hình thành thói quen, hứng thú với
việc đọc sách, với việc tự học thường xuyên.
Trong khi đó, ở trường tiểu học nói chung, trường tiểu học Mỹ Thủy nói
riêng; việc dạy đọc bên cạnh những thành cơng cịn nhiều hạn chế. Học sinh của
chúng ta chưa đọc được như mong muốn. Học sinh đọc mà không nắm được điều gì
là cốt lõi trong văn bản. Kết quả đọc của học sinh chưa đáp ứng được yêu cầu của
việc hình thành một kỹ năng giao tiếp quan trọng. Một số giáo viên cũng còn lúng
túng khi dạy kỹ năng đọc hiểu: Làm thế nào để các em hiểu một cách chân thực và
sâu sắc văn bản được đọc, để những gì đọc được tác động vào chính cuộc sống của
các em? Vận dụng những phương pháp dạy học nào để nâng cao chất lượng kỹ năng
đọc hiểu? Dạy với thời lượng bao lâu là phù hợp?... Đó là những băn khoăn, trăn trở
của giáo viên trong mỗi giờ dạy Tập đọc. Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn đề
tài: “ Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc - hiểu qua phân môn Tập đọc cho học
sinh lớp 5A, trường tiểu học Mỹ Thủy - Lệ Thủy - Quảng Bình”.
II/ Mục đích nghiên cứu:

Đề tài nghiên cứu một số biện pháp rèn kỹ năng đọc hiểu qua phân môn Tập
đọc cho học sinh lớp 5; nhằm nâng cao chất lượng kỹ năng đọc hiểu - một kỹ năng
quan trọng của phân môn Tập đọc trong chương trình Tiếng Việt ở bậc Tiểu học.

III/ Nhiệm vụ nghiên cứu:

Để đạt được mục đích nghiên cứu, đề tài có những nhiệm vụ sau:
1. Nghiên cứu về cơ sở lí luận của việc dạy kỹ năng đọc hiểu trong phân mơn
Tập đọc lớp 5.
2. Tìm hiểu thực trạng việc dạy kỹ năng đọc hiểu qua phân môn Tập đọc 5 tại
trường Tiểu học Mỹ Thủy - Lệ Thủy.


3. Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đọc hiểu trong phân
môn Tập đọc 5 ở trường tiểu học.
IV/ Đối tượng nghiên cứu :

- Đề tài nghiên cứu một số biện pháp rèn kỹ năng đọc hiểu qua phân môn Tập
đọc 5 ở trường tiểu học Mỹ Thủy - Lệ Thủy.
V/ Phạm vi nghiên cứu:

- Trong phạm vi đề tài, tôi đề cập đến công tác giảng dạy kỹ năng đọc hiểu
trong phân môn Tập đọc 5.
VI/ Phương pháp nghiên cứu:

Để thực hiện được đề tài này, chúng tơi sử dụng hai nhóm phương pháp sau:
1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
- Nghiên cứu các khái niệm lý thuyết liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu các chỉ thị, hướng dẫn của Bộ Giáo dục - Đào tạo, tra cứu Tạp
chí giáo dục hàng tháng, SGK, SGV,... có liên quan đến đề tài.
2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Khảo sát thực tiễn.
- Quan sát, phỏng vấn, thống kê.
- Tổng kết kinh nghiệm.


b. phần nội dung
Chương I: Cơ sở lí luận của đề tài

I. Đọc hiểu và tầm quan trọng của việc dạy học đọc hiểu
1. Thế nào là đọc hiểu ?
Đọc hiểu là một cách đọc phân tích. Đọc hiểu là một hoạt động có tính q
trình rất rõ vì nó gồm nhiều hành động được trải ra theo tuyến tính thời gian :
- Hành động đầu tiên của quá trình đọc hiểu là hành động – “nhận diện ngôn
ngữ văn bản”, gồm:
+ Kĩ năng nhận diện từ mới và phát hiện các từ quan trọng(từ chìa khóa)
trong văn bản.
+ Kĩ năng nhận ra các câu khó hiểu, các câu quan trọng
+ Kĩ năng nhận ra các đoạn, ý của văn bản.
+ Kĩ năng nhận ra đề tài của văn bản.
- Hành động tiếp theo là hành động-“ làm rõ nghĩa” của các chuỗi tín hiệu
ngơn ngữ, gồm:
+ Kĩ năng làm rõ nghĩa từ
+ Kĩ năng làm rõ nội dung thông báo của câu.
+ Kĩ năng làm rõ ý của đoạn.
+ Kĩ năng làm rõ ý chính của văn bản
+ Kĩ năng làm rõ mục đích của người viết gửi vào văn bản, kĩ năng nhận biết
những ẩn ý của tác giả.
- Hành động cuối cùng là hành động –“ hồi đáp” lại ý kiến của người viết nêu
trong văn bản, gồm:
+ Kĩ năng đánh giá tính đúng đắn của nội dung văn bản
+ Kĩ năng đánh giá tính đầy đủ của văn bản
+ Kĩ năng đánh giá tính nguyên nhân, hiệu quả của văn bản
+ Kĩ năng đánh giá tính cập nhật của nội dung văn bản



+ Kĩ năng đánh giá tính hấp dẫn, thuyết phục của nội dung văn bản
+ Kĩ năng liên hệ cá nhân sau khi tiếp nhận văn bản
2. Tầm quan trọng của việc dạy đọc hiểu
Giáo sư - Tiến sĩ Lê Phương Nga đã viết: “ Đọc không chỉ là đánh vần lên
thành tiếng theo đúng các kí hiệu chữ viết mà quan trọng hơn, đọc cịn là một q
trình nhận thức để có khả năng thơng hiểu những gì được đọc. Đọc thành tiếng
không thể tách rời với việc hiểu những gì được đọc. Chỉ có thể xem là đứa trẻ biết
đọc khi nó đọc mà hiểu điều mình đọc. Đọc là phải hiểu nghĩa của chữ viết. Nếu trẻ
không hiểu những từ ta đưa cho chúng đọc, các em sẽ khơng hứng thú học tập và
khơng có khả năng thành cơng”.
Đích cuối cùng của việc dạy đọc là dạy cho học sinh có kĩ năng làm việc với
văn bản, chiếm lĩnh được văn bản. Biết đọc cũng là biết tiếp nhận, xử lí thơng tin.
Chính vì vậy, dạy đọc hiểu có vai trị đặc biệt quan trọng trong dạy đọc nói riêng và
trong dạy học ở tiểu học nói chung.
L.Tơnxtơi đã nói “ Mỗi quyển sách đều có số phận riêng của mình trong đầu
bạn đọc của nó”. Vì thế dạy đọc hiểu văn bản văn chương hay tiếp nhận văn chương
là quá trình biến văn bản thành tác phẩm của mỗi học sinh. Đây là một quá trình
phức tạp do tính đa nghĩa, hàm súc, tính đối thoại của ngơn từ, tính khơng nói hết
của hình tượng nghệ thuật cũng như do sự liên tưởng, tưởng tượng khám phá, sáng
tạo hết sức phong phú của người đọc. Vì vậy, vai trò đứng lớp của người giáo viên
trong việc dạy kĩ năng đọc hiểu lại càng được nhấn mạnh.
Hơn nữa, trong bốn kĩ năng, yêu cầu về chất lượng của “đọc”: đọc đúng, đọc
trôi chảy, đọc hiểu, đọc diễn cảm; thì đọc diễn cảm được coi là kĩ năng cuối cùng
cần đạt tới của “ đọc”, nó là hình thức đạt yêu cầu và chất lượng cao nhất của việc
đọc. Nhưng học sinh sẽ không thể đọc diễn cảm nếu như các em không thông hiểu
nội dung văn bản được đọc hoặc là đọc “ diễn” chứ không thể “ cảm”. Chính vì vậy,
tầm quan trọng của việc dạy kĩ năng đọc hiểu thêm một lần nữa được khẳng định.
Chương II:
Thực trạng của việc dạy học kĩ năng đọc hiểu trong phân môn Tập đọc 5, Trường tiểu học Mỹ Thủy Lệ Thủy - Quảng Bình


I. Về phía giáo viên:
Nhìn chung, giáo viên giàu lịng nhiệt tình, say mê công việc và làm việc với
tinh thần trách nhiệm cao. Sau mỗi giờ dạy Tập đọc, mỗi một giáo viên đều có băn
khoăn, trăn trở chung là làm thế nào để chất lượng đọc của học sinh ngày càng được
nâng cao. Đa số giáo viên có chất giọng tốt, kiến thức vững vàng, có khả năng biểu
đạt tình cảm qua giọng đọc. Một thuận lợi nữa là nhiều giáo viên đã trải qua nhiều
năm giảng dạy lớp 5, có kinh nghiệm rèn đọc nói chung và rèn kĩ năng đọc hiểu nói
riêng. Có giáo viên có ý thức, chú ý luyện tập để có ngơn ngữ chuẩn, trong sáng.
Tuy vậy, thực tế qua khảo sát chất lượng đầu năm học 2009 - 2010 cho thấy, chất
lượng đọc kĩ thuật, đặc biệt là kĩ năng đọc hiểu của học sinh lớp 5 chưa thực đạt kết
quả như mong muốn. Nguyên nhân của thực trạng trên là:
- Đối với một bài đọc trong sách giáo khoa bậc tiểu học, vấn đề hướng dẫn
đọc cịn chung chung.
- Dù khơng có một văn bản nào quy định chính thức nhưng trên thực tế do
khối lượng công việc liên quan phải thực hiện, thời lượng dành cho đọc thành tiếng
thường chiếm đến gần 1/2 tiết dạy, nếu kể cả luyện đọc diễn cảm. Điều này đồng
nghĩa rằng việc hướng dẫn tìm hiểu bài chiếm thời lượng ít trong tiết tập đọc hiện
nay. Thực tiễn dạy Tập đọc như trên cũng đã hình thành đậm nét trong nhận thức


của một bộ phận đông đảo giáo viên khi cho rằng “ dạy Tập đọc thì phải dạy học
sinh đọc”. Nên bất kì một tiết dạy nào thể hiện quan điểm nhấn mạnh việc đọc hiểu
với một hệ thống nhiều hoạt động đọc hiểu khác nhau( đồng thời cũng chiếm nhiều
thời lượng hơn bình thường) để giúp học sinh thồng hiểu văn bản, phát triển kĩ năng
đọc hiểu và hứng thú đọc đều bị nhìn nhận là “ lối dạy kì lạ”.
- Một số giáo viên trong khi dạy đọc hiểu chưa có định hướng, mục tiêu, kế
hoạch rõ ràng, chưa xác định được nội dung cần hướng dẫn cho học sinh là gì.
- Một ngun nhân nữa khơng thể khơng kể đến đó là do giáo viên chúng ta
cịn hạn chế về nội dung và phương pháp dạy học kĩ năng đọc hiểu nên cịn có

những cách hiểu và giải thích chưa đúng về một số bài đọc ở tiểu học, từ đó khơng
hướng dẫn được cho học sinh nắm được những điều cốt yếu trong văn bản được đọc.
II. Về phía học sinh:
Cũng như tiếp nhận văn học nói chung, tiếp nhận văn học ở trẻ em rất giàu
tính sáng tạo. Sự sáng tạo này đặc biệt bởi tính hồn nhiên, ngây thơ, ngộ nghĩnh của
trẻ em. Các em cảm thụ văn học không giống với cách cảm thụ văn học của người
lớn. Nhiều em thích được đọc, hứng thú khi được tìm hiểu nhân vật, nhập vai vào
nhân vật được tìm hiểu. Có em cịn có những phát hiện rất thơng minh và khá lí thú
khi giáo viên cho phép tự tìm định hướng, cách giải quyết của riêng mình, bắt đầu từ
gợi mở “ Nếu em là .... em sẽ làm gì? làm như thế nào?”
Tuy vậy, nhìn chung, chất lượng đọc kĩ thuật nói chung, kĩ năng đọc hiểu nói
riêng vẫn chưa cao. Các em quá lệ thuộc vào văn bản, thường chỉ diễn nôm từng câu
chữ của bài văn, bài thơ khi trả lời các câu hỏi tìm hiểu bài, thiếu tính sáng tạo,
nhiều em trả lời sai hoặc có cách hiểu sai về văn bản được đọc.
Qua tìm hiểu, tơi thấy ngun nhân của thực trạng này là:
- Do khả năng đọc và vốn sống của học sinh cịn hạn chế, từ đó ảnh hưởng
đến sự tiếp nhận văn học của trẻ. Vì vốn từ ngữ, vốn sống cịn ít nên nhiều khi các
em cắt nghĩa sai các từ, các cụm từ.
- Thực tế một số giáo viên chỉ nêu câu hỏi và chờ đợi những câu trả lời đúng
từ học sinh mà khơng biết, khơng quan tâm đến chuyện q trình đọc diễn ra như thế
nào, học sinh làm gì và cần làm gì để có được câu trả lời. Giáo viên chỉ quan tâm
đến kết quả - các nội dung kiến thức bài đọc đem lại mà không quan tâm đến
phương pháp để đạt được kết quả này.
- Nhiều giáo viên khi gặp những từ nào cần giải nghĩa cũng chỉ biết đưa từ ra
một cách cô lập, tách rời khỏi văn cảnh; học sinh không hiểu nghĩa của văn cảnh của
từ, từ đó khơng thể hiểu nội dung bài.
- Chính bản thân giáo viên gặp khó khăn khi hướng dẫn học sinh xác định nội
dung của bài tập đọc. Trong thực tế, cũng một bài tập đọc nhưng mỗi giáo viên lại
hướng dẫn học sinh nêu lên một nội dung khác nhau. Nhưng khi yêu cầu học sinh
tìm thì giáo viên thường chỉ chấp nhận một giải pháp đúng. Đó là nội dung bài với

những câu chữ mà giáo viên đã viết sẵn trong bài soạn, thường là chép lại từ sách
giáo viên, sách thiết kế,...
- Nhiều em không hứng thú lắm với tiết Tập đọc vì cho rằng cơ dạy khơ khan,
hay gị ép học sinh vào khn phép, buộc phải hiểu và nhớ theo những gì cơ đã dạy.
III. Quan điểm biên soạn sách giáo khoa và quy trình dạy Tập đọc:
Thực tế thực hiện kiểu “bám sát” quan điểm và quy trình dạy Tập đọc với ba
giai đoạn hiện nay (đọc thành tiếng, tìm hiểu bài, đọc diễn cảm) đang dẫn học sinh
tiểu học nói chung lĩnh hội “một kiểu năng lực đọc đặc thù” trong đó khả năng đọc


lớn nguyên văn bản một cách trơn tru, thông thạo chiếm một tỉ trọng lớn, còn các kĩ
năng đọc hoặc các trình độ đọc cụ thể thuộc năng lực đọc hiểu chiếm phần tỉ trọng
rất nhỏ.
Câu hỏi và bài tập trong sách giáo khoa chỉ yêu cầu học sinh tái hiện lại các
chi tiết của bài tập đọc, ít câu hỏi yêu cầu học sinh suy luận, khái quát, không hoặc
khó làm rõ được chủ đề, đề tài của văn bản. Những câu hỏi như vậy chỉ yêu cầu học
sinh đọc hiểu ở trình độ thấp, nặng về “đọc nhớ” mà không nâng cao khả năng cảm
thụ văn cho học sinh. Trong phần tìm hiểu bài trong sách giáo khoa thường có từ 3 5 câu hỏi nhưng chủ yếu là câu hỏi tái hiện lại bài đọc.
IV. Chất lượng đọc kỹ thuật nói chung và kĩ năng đọc hiểu nói riêng của
học sinh lớp 5A trường tiểu học Mỹ Thủy - Lệ Thủy đầu năm học 2009 - 2010.
phiếu Đánh giá chất lượng đọc kỹ thuật đầu Năm học 2009 – 2010
Họ và tên

TT

Đ.tiếng
(1điểm)

Nguyễn Hữu Đức
Lê Thị Hà

Nguyễn Thị Huệ
Nguyễn Thị Huế
Lê Thị Minh Hiếu
Nguyễn Huy Hoàng
Nguyễn Trọng Hưng
Hoàng Thị Hương
Lê Hồng Khương
Hoàng Thị Việt Kiều
Hoàng Quảng Linh
Nguyễn Thị Mỹ Linh
Nguyễn Thị Lệ
Nguyễn Thị Ngọc Mai
Nguyễn Thị Trà My
Lê Đình Nam
Nguyễn Hữu Nam
Nguyễn Văn Nghĩa
Nguyễn Thị Hồng Nhị
Nguyễn Thị Nhung
Phạm Thị Hoài Phương
Phạm Phương Thảo
Nguyễn Hữu Thiết
Nguyễn Thị Quỳnh Trang
Nguyễn Thị Thanh Trang
Nguyễn Công Trọng
Nguyễn Hữu Tuấn
Thống kê cho thấy
Giỏi
Khá

1

2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27

SL

TL


SL

TL

1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1

1
1

N.Nghỉ
(1điểm)

Kết quả
Tốc độ
TLCH
Diễn cảm Điểm
(1 điểm) (1 điểm) (1điêm)

1
1
1
1
1
1
0.5
1
1
1
1
0.5
1
1
1
1
1
1

1
1
1
1
1
1
1
1
1

1
1
1
1
1
0.5
1
1
1
0.5
0.5
1
1
1
0.5
0.5
1
0.5
1


1
0.5
0.5

0.5
0.5

1
0.5

1
1

1
1
1
1

1

TB
SL

1
0.5
1

TL

0.5


Yếu
SL

TL

3
4
3
3.5
3.5
2.5
1.5
3.5
3.5
3
2.5
2
5
3.5
4.5
2.5
2.5
4
3.5
3
2
3
2
4.5

3
3
2


3
8
11
5
11.1
29.6
40.7
18.6
Kỹ năng đọc hiểu của học sinh lớp 5A - Trường tiểu học Mỹ Thủy - Lệ Thủy
Tốt
Khá
TB
Chưa đạt
SL

TL

5

18.5

SL

TL


SL

TL

5

18.5

SL

TL

17

63

Chương III:
Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc hiểu qua phân môn Tập đọc cho học sinh lớp 5, Trường tiểu học
Mỹ Thủy - Lệ Thủy.

I. Tập cho học sinh có thói quen đọc thầm văn bản - một hình thức đọc có
nhiều lợi thế để hiểu văn bản
Đây là hình thức đọc có ưu thế hơn hẳn đọc thành tiếng vì :
+ Nhanh hơn đọc thành tiếng từ 1,5 - 2 lần
+ Dễ tiếp nhận, thông hiểu nội dung văn bản vì học sinh khơng chú ý đến việc
phát âm mà chỉ tập trung để hiểu nội dung điều mình đọc.
Hai việc cần làm để dạy đọc thầm:
+ Chuẩn bị cho việc đọc thầm: tư thế ngồi đọc phải ngay ngắn, có khoảng
cách phù hợp giữa mắt và sách.
+ Tổ chức quá trình đọc thầm: Từ đọc to  đọc nhỏ  đọc mấp máy môi

( không thành tiếng)  đọc hồn tồn bằng mắt, khơng mấp máy mơi ( đọc thầm).
Giáo viên cần kiểm sốt q trình đọc thầm của học sinh bằng cách quy định
thời gian đọc thầm cho từng đoạn, bài. Yêu cầu học sinh báo cho giáo viên biết khi
đã đọc xong. Từ đó giáo viên nắm được và điều chỉnh tốc độ đọc thầm.
II. Các cơng việc cần làm để tổ chức q trình đọc hiểu cho học sinh
1. Hướng dẫn tìm hiểu đề tài của văn bản
Mục đích của việc này là: Hướng dẫn để học sinh nhận ra đề tài văn bản khi
trả lời được các câu hỏi: bài Tập đọc nói về cái gì? Về việc gì? Về ai?
Để xác định đề tài của văn bản nhiều khi cần hướng dẫn học sinh dựa vào chủ
điểm của bài tập đọc hoặc dựa vào tranh minh họa để đoán về đề tài.
Hướng dẫn học sinh thực hiện các thao tác để xác định được đề tài:
- Đọc lướt lại toàn bài: Hướng dẫn học sinh chỉ cần lướt mắt trên dòng ghi tên
bài, những dịng có tên người, tên cơng việc chính,...
- Phát biểu đề tài của bài: Cần cho các em phân biệt hai kiểu văn bản để sử
dụng các từ ngữ phát biểu cho phù hợp:
+ Đề tài của văn bản trữ tình thường được phát biểu mở đầu bằng các từ:
“ Bài này nói về tình cảm( cảm xúc, tâm trạng, lòng yêu thương,...)
+ Đề tài của các văn bản tự sự thường được phát biểu mở đầu bằng các từ:
“ Bài này kể về chuyện....”, “ Kể về việc....”
2. Hướng dẫn tìm hiểu tên bài:
Tên bài thường ngắn nhưng nói với người đọc nhiều điều. Nó giúp người đọc
xác định được đề tài văn bản và phần nào đoán được nội dung văn bản.
Trước hết, hướng dẫn học sinh chú ý bám sát vào câu chữ của tên gọi để hiểu
được nhiều điều về nội dung bài một cách nhanh chóng hơn.
VD: Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ( TV5/2)
Phần lớn tên bài được đặt theo chủ đề nên đọc tên bài có thể biết được bài văn
viết về cái gì.


VD: Lập làng giữ biển, Phân xử tài tình, Luật tục xưa của người Ê- đê, Vì

cuộc sống thanh bình, Nghĩa thầy trò, Hội thổi cơm thi ở làng Đồng Vân,...
Có những bài Tập đọc được đặt tên một cách kín đáo hơn, tên bài có thể chỉ là
một hình ảnh gợi tả: “ Tiếng rao đêm, Cửa sông,...; tên bài có thể chỉ là tên một nhân
vật: út Vịnh, Thái sư Trần Thủ Độ,...
Có những tên bài khơng những cho biết chủ đề mà còn cho biết cách đánh giá,
tình cảm của tác giả. Đó là những tên gọi như: Nếu trái đất thiếu trẻ con, Bầm ơi,...
Với những bài có tên gọi khơng gợi ra chủ đề, giáo viên có thể hướng dẫn học
sinh đặt lại tên bài khác phù hợp với nội dung mà các em được hướng dẫn tìm hiểu.
Với những tên bài có tên gọi phù hợp với chủ đề, tên bài hay, có nhiều ý nghĩa thì
giáo viên yêu cầu học sinh chỉ ra những ý nghĩa này bằng cách đặt tên bài đã có
trong thế đối lập với những tên bài khác. Việc này sẽ giúp học sinh nhận ra cái hay,
điều thú vị trong những cái tên.
VD: Khi học bài Tập đọc “ Một vụ đắm tàu” học sinh lớp 5A tỏ ra rất hứng
thú khi giáo viên đưa ra yêu cầu “ Hãy đặt tên khác cho bài tập đọc”. Học sinh tranh
luận sơi nổi và có nhiều cách đặt tên khác nhau: Tình bạn, Vĩnh biệt Ma-ri-ơ, Sự hi
sinh cao cả,...
3. Hướng dẫn tìm hiểu từ ngữ trong bài:
a, Hướng dẫn học sinh phát hiện ra từ mới và từ ngữ quan trọng của bài:
- Mục đích: Học sinh phải có kĩ năng nhận ra từ nào cần tìm hiểu - từ mới.
Để hướng dẫn học sinh tìm từ mới, giáo viên đặt vấn đề: “ Em hãy chỉ ra
những từ em chưa hiểu nghĩa”. Về phương diện này, người giáo viên phải có hiểu
biết về từ địa phương, về vốn từ để chọn từ cho thích hợp, chuẩn bị sẵn sàng để giải
đáp cho học sinh bất cứ từ nào trong bài mà học sinh đưa ra.
Để hiểu văn bản, không cần phải hiểu nghĩa của tất cả các từ trong bài mà
phải hướng dẫn học sinh xác định được các từ quan trọng, từ “chìa khóa”. Bởi vì
những từ “ chìa khóa” có quan hệ trực tiếp với đề tài, chủ đề. Nếu bỏ những từ này
thì tính liên kết, tính mạch lạc của nội dung văn bản bị đứt qng. Cách tìm từ “chìa
khóa” trong các kiểu loại văn bản có khác nhau. Giáo viên cần có các biện pháp để
giúp học sinh phát hiện ra những từ có tín hiệu nghệ thuật. Đó là những từ giàu màu
sắc biểu cảm như các từ láy, những từ đa nghĩa, những từ chuyển nghĩa, những từ

bộc lộ cảm xúc,... Vì vậy khi soạn bài, giáo viên cần có ý thức sắp xếp thứ bậc ưu
tiên các từ cần dạy.
* Các thao tác hướng dẫn học sinh tìm từ mới, từ ngữ quan trọng trong bài:
- Yêu cầu học sinh đọc to hoặc đọc thầm toàn bài.
- Đánh dấu các từ chưa biết nghĩa trong từng câu
- Chọn đánh dấu vào những từ quan trọng trong bài
- Tìm các từ ngữ, hình ảnh có giá trị nghệ thuật ( dành cho các văn bản văn
chương).
b, Làm rõ nghĩa của từ ngữ :
Giáo viên nên lựa chọn từ ngữ chính, từ ngữ có tính nghệ thuật cần hướng dẫn
để học sinh hiểu và nắm được nội dung, cảm thụ tốt bài đọc. Do vậy, giáo viên cần
giảng nghĩa và nêu được tác dụng của nó trong văn cảnh cụ thể, hướng vào chủ đề
bài học, tránh giảng quá rộng, quá sâu.
Giáo viên cần sử dụng nhiều biện pháp giải nghĩa khác nhau, lựa chọn biện
pháp giải nghĩa cho phù hợp với từng từ, phù hợp với vai trò của từ trong văn bản
như:


- Đọc phần giải nghĩa (chú giải) trong sách giáo khoa.
- Dùng lời nói, động tác hoặc cử chỉ để miêu tả sự vật, đặc điểm được biểu thị
ở từ cần được giải nghĩa.
- Sử dụng đồ dùng dạy học, trực quan như: hiện vật, mơ hình, tranh vẽ, vật
thật để giải nghĩa từ.
- Đặt câu với từ cần giải nghĩa
- Tìm từ đồng nghĩa hoặc từ trái nghĩa với từ cần giải nghĩa.
Lưu ý: Trong văn bản có giá trị nghệ thuật, khi hướng dẫn học sinh làm rõ
nghĩa các từ, cần chú ý làm rõ nghĩa đen và nghĩa bóng. Vì vậy cần chú ý đến
phương thức chuyển nghĩa của các từ.
c, Làm rõ cái hay của việc dùng từ ngữ, hình ảnh:
Biện pháp này chỉ sử dụng khi hướng dẫn tìm hiểu các tác phẩm nghệ thuật.

Làm rõ cái hay của việc dùng từ ngữ, hình ảnh chính là một nội dung của dạy cảm
thụ văn học trong trường tiểu học. Tức là dạy học sinh cảm nhận những giá trị nổi
bật; những điều tế nhị sâu sắc, đẹp đẽ của từ ngữ, câu văn, câu thơ, đoạn văn, đoạn
thơ, câu chuyện,...
Các thao tác hướng dẫn học sinh là:
- Phát hiện các tín hiệu nghệ thuật
- Chuyển từ cách diễn đạt nghệ thuật về lời nói thường
- Chỉ ra tác dụng của việc diễn đạt nghệ thuật và cách diễn đạt không nghệ
thuật trong việc biểu đạt nội dung.
4. Hướng dẫn tìm hiểu câu, đoạn - giúp học sinh nhanh chóng chiếm lĩnh
văn bản
a, Xác định những câu quan trọng và đoạn ý:
Để giúp học sinh phát hiện ra những câu phức hợp, những câu quan trọng của
bài, giáo viên cần hướng dẫn học sinh:
- Đọc lướt tồn văn bản
- Tìm câu dài, đánh dấu điểm mở đầu và kết thúc từng câu (văn xi). Tìm
câu thơ có nhiều cách hiểu, khó hiểu (đối với thơ).
- Đọc thầm từng câu, đánh dấu chỗ phân định ý như trong câu.
- Đọc to cả câu, thể hiện sự tách ý bằng những chỗ ngắt hơi
Hướng dẫn học sinh nhận ra đoạn, ý của bài, tạo cơ sở để các em hiểu nội
dung văn bản. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh:
- Đọc lướt toàn bài
- Nhận ra dấu hiệu, hình thức của đoạn
- Để nhận diện đoạn, ý trong văn bản, cần hướng dẫn học sinh chú ý:
+ Đối với tác phẩm tự sự mà các sự kiện được trình bày theo thời gian, cần
hướng dẫn học sinh thực hiện thao tác tìm hiểu các từ ngữ chỉ thời gian như: sau đó,
tiếp theo, cuối cùng, trước tiên, ngày xưa, một hơm, vào một buổi sáng,... để tìm
đoạn ý
+ Đối với tác phẩm trữ tình, học sinh cần căn cứ vào các câu văn, câu thơ có
sự chuyển đổi cảm xúc, tâm trạng để xác định đoạn, ý.

b, Hướng dẫn học sinh làm rõ nội dung câu đoạn:
* Làm rõ nghĩa của câu: Cần hướng dẫn học sinh làm các cơng việc:
- Xác định các bộ phận chính, bộ phận phụ của câu, nhất là những câu dài,
những câu ghép, những câu đảo cú pháp, những câu có cấu trúc ngữ pháp phức tạp
mà học sinh không dễ dàng nhận ra các quan hệ ngữ pháp.


- Xác định câu đó tác giả nói về ai, về cái gì, về việc gì.
- Đặc biệt với những câu có ẩn ý, cần hướng dẫn học sinh tìm ra nghĩa hàm
ẩn, hàm ngôn chứa trong câu. Để hiểu được những câu này, cần hướng dẫn học sinh
tìm được những mối liên hệ bên trong của văn bản để hiểu ý nghĩa hàm ẩn của nó
chứ khơng phải chỉ có ý nghĩa biểu hiện.
- Một thao tác có tác dụng giúp học sinh hiểu nghĩa câu là thao tác đọc diễn
cảm câu (ngắt giọng chỗ cần tách ý; nhấn giọng ở những từ ngữ mang thông báo;
lên giọng, xuống giọng, kéo dài giọng để thể hiện tình cảm, cảm xúc của tác giả).
Nhờ sự hỗ trợ của âm thanh diễn ý, diễn cảm, học sinh có thể hiểu sâu sắc thêm ý
nghĩa của câu
* Làm rõ nghĩa đoạn, ý:
- ở những bài có phân đoạn, đoạn là yếu tố trực tiếp cấu tạo thành bài. Để hiểu
bài phải hiểu đoạn. Để hiểu đoạn, phải xác định được kiểu cấu trúc của đoạn. Vì nếu
xác định được cấu trúc của đoạn ta sẽ tìm ra được câu quan trọng, câu chủ đề trong
đoạn.
- Hướng dẫn học sinh đọc câu chủ đề, tiếp theo các em phải diễn đạt nội dung
của câu chủ đề bằng lời mình chứ khơng phải đọc nguyên văn cả câu.
- Hướng dẫn học sinh biết đặt tên cho đoạn. Đây chính là một thao tác tưởng
tượng - thao tác rất khó đối với học sinh tiểu học. Vì đa số học sinh chỉ biết đọc lại
nguyên văn văn bản mà không biết diễn đạt theo một cách khác bằng lời của mình.
Học sinh chưa có kĩ năng tách ý ra khỏi lời, chưa biết đi từ lời rút ra ý. Vì vậy giáo
viên phải luyện tập cho học sinh rất kĩ kĩ năng tổng hợp khi luyện đọc hiểu.
- Đọc diễn cảm cũng là một thao tác giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn ý của

đoạn. Lúc này, nhờ âm thanh, các ý tình của tác phẩm sẽ đựoc vang lên, học sinh sẽ
hứng thú hơn với nội dung của đoạn và hiểu đoạn để muốn biểu đạt điều gì. Nhờ
biết đọc diễn cảm, học sinh sẽ hiểu sâu sắc hơn và cảm nhận được nhiều điều tinh tế
của văn bản.
* Khi dạy đọc hiểu văn bản khoa học, cần hướng dẫn học sinh:
- Phân tích, liệt kê các sự kiện chính có trong đoạn.
- Xác định mối quan hệ giữa các sự kiện nêu trong đoạn, cần chú ý các từ ngữ
liên kết câu trong đoạn.
- Tóm tắt đoạn thành một hoặc một vài câu, có thể đặt tên cho đoạn.
* Để làm rõ ý của một đoạn trong văn bản tự sự, cần luyện cho học sinh thao
tác:
- Gọi tên người, vật, tên sự việc được nêu trong đoạn.
- Phân tích để làm rõ người, vật hoặc sự vật đó được trình bày ở những mặt
nào? Sự trình bày đó nhằm mục đích gì?
- Đọc diễn cảm toàn đoạn.
- Tổng hợp các kết quả của sự phân tích trên thành ý chung của đoạn và phát
biểu ý chung này thành lời.
* Để tìm ý chung cho một đoạn văn, một khổ thơ trữ tình, giáo viên cần
hướng dẫn học sinh làm những việc sau:
- Tìm các câu, đoạn trong đoạn văn, khổ thơ cùng thể hiện cảm xúc của tác
giả về một đối tượng nào đó rồi nhóm chúng lại thành từng nhóm. Sau đó, đọc diễn
cảm từng câu đã tìm được. Xác định mục đích chung của việc thể hiện cảm xúc ở
các nhóm câu nói trên.


VD: nhóm câu để bộc lộ cảm xúc để bày tỏ tình u những vẻ đẹp của q
hương; nhóm câu bộc lộ cảm xúc để bày tỏ tình yêu những con người trên quê
hương.
Phát biểu thành lời mục đích trên. Đây chính là ý chính của đoạn.
5. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung chính của bài đọc

Từ phạm vi những nội dung cần tìm hiểu các văn bản văn chương khác nhau,
có thể tìm hiểu nội dung, ý nghĩa bài đọc bằng cách:
- Hướng dẫn học sinh dựa vào hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa để giúp
học sinh tái hiện nội dung bài đọc (câu hỏi tái hiện), sau đó mới đặt ra những câu hỏi
giúp các em nắm được những vấn đề thuộc tầng sâu hơn như ý nghĩa, nội dung của
bài đọc, thái độ của tác giả, tính cách nhân vật (câu hỏi suy luận).
Ngồi hệ thống câu hỏi và bài tập phần tìm hiểu bài trong sách giáo khoa
(phần cứng), thì giáo viên có thể linh động đưa thêm một số câu hỏi gợi mở, dẫn dắt
(phần mềm) chính xác, sát thực, đúng trọng tâm bài đọc, phù hợp với các đối tượng
học sinh trong lớp để nâng dần mức độ cảm thụ văn học cho các em. Thơng qua các
hình thức dạy học đa dạng: cá nhân, nhóm, lớp thảo luận rồi báo cáo kết quả. Làm
sao mỗi học sinh đều được làm việc, đều được suy nghĩ để tự nắm được nội dung,
kiến thức bài đọc.
Trong quá trình tìm hiểu bài, giáo viên cũng cần rèn luyện cho học sinh cách
trả lời câu hỏi, diễn đạt ý bằng câu văn ngắn gọn, rõ ràng bằng ngơn ngữ của mình,
khơng trình bày nguyên vẹn lại câu văn, câu thơ trong sách. Việc làm này sẽ tích
cực hóa được hoạt động của học sinh khi đọc hiểu văn bản, phát triển ở các em năng
lực sáng tạo bằng các câu hỏi: Em hiểu điều đó như thế nào? Em cảm nhận được
điều gì? Em có tình cảm gì sau khi đọc? Sau khi học sinh nêu ý kiến, học sinh khác
bổ sung, nhận xét; giáo viên nên tiểu kết để khắc sâu, nhấn mạnh ý chính và ghi
bảng nếu thấy cần thiết.
6. Rèn kĩ năng hồi đáp văn bản cho học sinh
Đây là kĩ năng giữ vai trị hồn thiện q trình đọc hiểu. Rèn kĩ năng hồi đáp
văn bản sẽ tạo cho học sinh khả năng chủ động và sáng tạo trong việc lĩnh hội văn
bản; từ đó hình thành cho các em tư duy phê phán và tư duy sáng tạo.
Thông thường, giáo viên thực hiện hướng dẫn rèn kĩ năng này thơng qua tiết
Ơn luyện vào buổi thứ hai bằng các công việc sau:
- Nêu những thu hoạch của bản thân về hiểu biết , về thái độ, về hành động
sau khi đọc văn bản.
- Nêu một vài dự kiến thực hiện điều mà bài đọc gợi ra hoặc yêu cầu


Chương IV: Những kết quả bước đầu và bài học kinh nghiệm

I. Kết quả đạt được:
Trải qua một quá trình học hỏi và rèn luyện, hiện nay bản thân tôi đã rất tự tin
trong việc vận dụng những biện pháp trên để luyện kĩ năng đọc hiểu cho học sinh
lớp 5 trong các giờ dạy qua phân môn Tập đọc; cũng như công tác chỉ đạo giáo viên
trong việc tổ chức các hình thức, phương pháp dạy học phân mơn này khi đã là một
phụ trách chuyên môn kể từ giữa tháng 3 của năm học 2009 - 2010. Kĩ năng đọc


hiểu của học sinh được nâng cao rõ rệt. Rất nhiều em tỏ ra biết làm chủ văn bản
được đọc, được học. Các em nắm chắc nội dung bài bằng rất nhiều cách khác nhau,
đáng mừng là trong đó có rất nhiều ý phát biểu sáng tạo, trả lời câu hỏi, diễn đạt ý
bằng câu văn ngắn gọn, rõ ràng bằng ngơn ngữ của mình, khơng trình bày ngun
vẹn lại câu văn, câu thơ trong sách; nhiều em đọc và thể hiện cảm xúc rất “thật”, từ
đó kĩ năng đọc diễn cảm cũng được nâng lên; các em biết làm chủ ngữ điệu, biểu đạt
đúng ý nghĩ và tình cảm của tác giả đã gửi gắm trong bài đọc, biểu hiện được sự
thông hiểu, cảm thụ của người đọc đối với tác phẩm.
1. Kết quả đọc kĩ thuật của học sinh lớp 5A – Trường tiểu học Mỹ Thủy qua
KTĐK đợt 3 năm học 2009 - 2010.
Kết quả
Họ và tên

Đ.tiếng
(1
điểm)

N.Nghỉ
(1điểm)


Tốc độ
(1 điểm)

Nguyễn Hữu Đức
Lê Thị Hà
Nguyễn Thị Huệ
Nguyễn Thị Huế
Lê Thị Minh Hiếu
Nguyễn Huy Hoàng
Nguyễn Trọng Hưng
Hoàng Thị Hương
Lê Hồng Khương
Hoàng Thị Việt Kiều
Hoàng Quảng Linh
Nguyễn Thị Mỹ Linh
Nguyễn Thị Lệ
Nguyễn Thị Ngọc Mai
Nguyễn Thị Trà My
Lê Đình Nam
Nguyễn Hữu Nam
Nguyễn Văn Nghĩa
Nguyễn Thị Hồng Nhị
Nguyễn Thị Nhung
Phạm Thị Hoài Phương
Phạm Phương Thảo
Nguyễn Hữu Thiết
Nguyễn Thị Quỳnh Trang
Nguyễn Thị Thanh Trang
Nguyễn Công Trọng

Nguyễn Hữu Tuấn

1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1


1
1
1
1
1
1
0.5
1
1
1
1
0.5
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1

1
1

1
1
1
0.5

TT

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23

24
25
26
27

1
1
1
0.5
0.5
1
1
1
0.5
0.5
1
0.5
1
1
1
1
1

Diễn
Điểm
TLCH
cảm
(1 điểm)
(1điêm)


1
1
1
0.75
1
1
1
1
1
0.5
1
1
1
1
0.75
1
1
1
0.5
0.5
0.5
1
1
1
0.5
0.5

0.5
1
1

0.5

1
0.5

1
0.5
1

0.5
0.5

0.5
0.5

4
4.5
5
4.75
4.5
3.5
2.5
5
4.5
3.5
3.5
3
5
4.5
4.75

3.5
2.5
4.5
4.0
3.5
2.5
3.5
3
4.5
4.5
3.5
2.5

Thống kê cho thấy
SL

TL

Giỏi
Giảm

Tăng

SL TL

Khá
Giảm

Tăn


SL TL

TB
Giả

Tăn

S

TL

Yếu
Giảm

Tăn


g
12

44.4

33.3

9

33.3

m


3.7

6

22.2

g

18.5

L
0

g
0

18.6

Trong đó chất lượng đọc hiểu của học sinh lớp 5A - Tiểu học Mỹ Thủy
SL

TL

18

Tốt
Giảm

SL TL


48.2

66.7

Tăng

2

Khá
Giảm

SL TL

7.4

7.4

Tăn
g

6

TB
Giả
m

S
L

3.7


22.2

Tăn
g

1

Chưa đạt
TL Giảm
3.7

Tăn
g

59.3

2. Kết quả kĩ năng đọc hiểu toàn trường tiểu học số 2 Phong Thủy - Lệ
Thủy
Từ giữa tháng 3 năm học 2009 - 2010, tôi được bổ nhiệm làm PHT, phụ trách
chuyên môn của trường tiểu học số 2 Phong Thủy, với những kinh nghiệm được đúc
rút trong suốt quá trình dạy học và tự học hỏi tơi đã tự tin sử dụng những biện pháp
nêu trên trong công tác chỉ đạo chun mơn nói chung và chỉ đạo dạy học phân mơn
Tập đọc nói riêng, kết quả thống kê tồn trường như sau:
Kỹ năng đọc hiểu trong phân mơn Tập đọc của học trường tiểu học số 2
Phong Thủy - Lệ Thủy
Tốt

Khá


TB

Chưa đạt

SL

TL

SL

TL

SL

TL

120

45,1

115

43,2

31

SL

11,7


TL

II. Bài học kinh nghiệm:
Qua thời gian giảng dạy, tuy kinh nghiệm chưa nhiều song tôi cũng xin mạnh
dạn nêu ra một số ý kiến trong quá trình rèn luyện kĩ năng đọc hiểu cho học sinh lớp
5 qua phân môn Tập đọc để các bạn đồng nghiệp tham khảo đó là:
- Phải biết kết hợp các biện pháp, phương pháp một cách khéo léo, phù hợp,
phát huy hết khả năng sáng tạo của học sinh.
- Người giáo viên phải nắm được các đặc điểm của học sinh, hình dung thấy
hết những khó khăn của các em khi học đọc, đặc biệt là học kĩ năng đọc hiểu để
bình tĩnh trước những sai sót của các em khi đọc, không ca thán trước những lỗi của
các em.
- Giáo viên cần chú ý luyện tập để có ngơn ngữ chuẩn, trong sáng, dễ hiểu
- Phải biết thu hút học sinh, tạo hứng thú học tập cho các em trong mọi hoạt
động học tập.
- Trong mỗi giờ dạy, để học sinh hình thành được kĩ năng, năng lực đọc hiểu
tốt thì giáo viên phải dạy đọc hiểu có định hướng, có mục tiêu và kế hoạch dạy học
rõ ràng. Điều quan trọng là phải xác định được nội dung đọc hiểu: Trước hết phải
thực hiện tốt kĩ năng đọc thành tiếng; kết hợp và tìm hiểu từ, ngữ trong bài, tìm
được từ “chìa khóa” trong bài. Tóm tắt được nội dung của đoạn, bài; phát hiện ra
những yếu tố văn và giá trị của chúng trong việc biểu đạt nội dung.

c. phần kết luận
Tập đọc là một phân môn chiếm nhiều thời lượng trong chương trình Tiếng
Việt ở bậc tiểu học. Đây là một phân môn được nhiều giáo viên quan tâm và băn
khoăn trăn trở trong quá trình giảng dạy. Dựa trên nội dung, chương trình và sách


giáo khoa, phương pháp giảng dạy đặc trưng của phân mơn, bài viết này chỉ có một
vài kinh nghiệm nhỏ để bàn về biện pháp rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh lớp 5

qua phân môn Tập đọc.
Do khả năng và thời gian cịn hạn chế, bài viết khơng tránh khỏi những sai
sót. Rất mong sự góp ý quý báu từ các đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Đánh giá, xếp loại của Hội đồng khoa học trường

Người viết

Bùi Thị Ngọc Thủy

Đánh giá, xếp loại của Hội đồng khoa học Phòng GD&ĐT Lệ Thủy



×