Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Bàn về trục lợi trong kinh doanh bảo hiểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 78 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT
KDBH : Kinh doanh bảo hiểm
KDTBH : Kinh doanh tái bảo hiểm
BHNT : Bảo hiểm nhân thọ
BHPNT : Bảo hiểm phi nhân thọ
SPBH : Sản phẩm bảo hiểm
DNBH : Doanh nghiệp bảo hiểm
TLBH : Trục lợi bảo hiểm.
BTC : Bộ tài chính
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Doanh thu BH PNT toàn ngành năm 2009 Error: Reference source not
found
Bảng 2. Bảng số liệu về tình hình trục lợi bảo hiểm ở VN giai đoạn 2007 -2009
Error: Reference source not found
LỜI MỞ ĐẨU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mọi quốc gia.
sự phát triển của bảo hiểm phụ thuộc vào tình hình kinh tế xã hội của mỗi
quốc gia. Kinh tế càng phát triển thì bảo hiểm cũng ngày càng phát triển. Nếu
như trước kia nói đến bảo hiểm là một cái gì đó xa lạ thì ngày nay, thuật ngữ
bảo hiểm đã trở nên quen thuộc ,nó trở thành một nhu cầu thiết yếu của mỗi
con người. Hiện tại, nước ta có khoảng 50 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực bảo hiểm. Tổng doanh thu phí bảo hiểm lên tới 26.000 tỷ đồng, đạt 2%
GDP, với tốc độ tăng bình quân trên 27%/năm; tổng số tiền các Doanh nghiệp
Bảo hiểm đã huy động đầu tư trở lại nền kinh tế gần 70 nghìn tỷ đồng. Tính
đến tháng 3/2010, tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực bảo
hiểm nói riêng lên đến hơn 1 tỷ USD.
Một thực tế là khi bảo hiểm càng phát triển thì những hành vi gian lận
trong kinh doanh bảo hiểm ngày nhiều và mức độ ngày càng tinh vi. Các hành
vi trục lợi diễn ra ở mọi đối tượng tham gia bảo hiểm, không chỉ có ở phía


bên được bảo hiểm mà còn có ở phía bên bảo hiểm hay cao hơn nữa là sự câu
kết giữa các bên để trục lợi, theo thống kê cho thấy có 90% các vụ trục lợi có
“ chân trong”- nói cách khác là sự tiếp tay của các cán bộ, công nhân
viêntrong ngành. Những hành vi này đã gây hậu quả nghiêm trọng đến sự
phát triển của thị trường bảo hiểm nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Vì
thế, công tác phòng chống tình trạng trục lợi bảo hiểm ngày càn được nhà
nước và các doanh nghiệp bảo hiểm quan tâm chú trọng.
Tuy nhiên, do hạn chế về nhiều mặt nên hiệu quả của các chính sách
này chưa cao, tình trạng trục lợi vẫn còn phổ biến ở hầu hết các nghiệp vụ.,
Do đó nhóm chúng tôi nghiên cứu đề tài “ Bàn về trục lợi trong kinh
doanh bảo hiểm” nhằm góp phần nhỏ bé vào công tác chống trục lợi bảo hiểm.
2. Mục tiêu nghiên cứu
+ Tìm hiểu về trục lợi bảo hiểm.
+ Tìm hiểu về trục lợi bảo hiểm từ phía nhân viên bảo hiểm .
+ Thực trạng về tình hình trục lợi bảo hiểm từ phía nhân viên bảo hiểm
ở Việt Nam.
+ Kinh nghiệm phòng chống trục lợi bảo hiểm ở nước Mỹ.
+ Đưa ra các giải pháp nhằm phòng chống tình trạng trục lợi bảo hiểm
từ phía nhân viên bảo hiểm.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+Đối tượng: chống trục lợi bảo hiểm từ phía nhân viên bảo hiểm.
+Phạm vi nghiên cứu: các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động trong lĩnh
vực bảo hiểm tài sản.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, nhóm chúng tôi đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau: phương pháp thống kê: thống kê các số liệu về tình hình
trục lợi bảo hiểm, thống kê các doanh nghiệp áp dụng công nghệ thông tin
vào kinh doanh bảo hiểm…phương pháp tổng hợp các vấn đề lý thuyết về
trục lợi bảo hiểm, phương pháp điều tra, phương pháp so sánh.
5. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài nghiên cứu được kết cấu gồm
4 chương như sau:
Chương 1:Những vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm và kinh doanh bảo hiểm.
Chương 2: Lý luận chung về trục lợi bảo hiểm.
Chương 3:Thực trạng chống trục lợi bảo hiểm từ phía nhân viên bảo
hiểm ở nước ta giai đoạn 2000-2010.
Chương 4:Giải pháp chống trục lợi bảo hiểm của nhân viên bảo hiểm
ở nước ta.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM VÀ
KINH DOANH BẢO HIỂM
1.1. Sơ lược về bảo hiểm
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm
Mặc dù ra đời khá sớm, song cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm
thống nhất về bảo hiểm. ở mỗi góc độ khác nhau có một cái nhìn khác nhau
về bảo hiểm:
- Dưới góc độ tài chính: Bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ tài chính
nhằm phân phối lại những chi phí mất mát không mong đợi.
- Dưới góc độ pháp lý: Bảo hiểm là một nghiệp vụ, qua đó, một bên là
người được bảo hiểm chấp nhận trả một khoản tiền ( phí bảo hiểm hay đóng
góp bảo hiểm) cho chính mình hoặc cho một người thứ ba khác để trong
trường hợp rủi ro xảy ra, sẽ được trả một khoản tiền bồi thường từ một bên
khác là người bảo hiểm, người chịu trách nhiệm bảo hiểm đối với toàn bộ rủi
ro, đền bù những thiệt hại theo luật thống kê.
- Dưới góc độ kinh doanh bảo hiểm: Bảo hiểm là một cơ chế, trong đó,
một người, một doanh nghiệp, một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho công ty
bảo hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho nguời được bảo hiểm các tổn thất
thuộc phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người
được bảo hiểm.
- Bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ tài chính, thông qua đó một cá

nhân hay một tổ chức có quyền được hưởng bồi thường hoặc chi trả tiền bảo
hiểm nếu rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra nhờ vào khoản đóng góp phí bảo
hiểm cho mình hay người thứ ba. khoản tiền bồi thường hoặc chi trả này do
một tổ chức đảm nhận, tổ chức này có trách nhiệm trước rủi ro hay sự kiện
bảo hiểm và bù trừ chúng theo luật thống kê.
1.1.2. Bản chất của bảo hiểm:
Mục đích chủ yếu của bảo hiểm là góp phần ổn định cuộc sống và sản
xuất cho những người tham gia và kiến tạo nguồn vốn để phát triển kinh tế và
xã hội của đất nước. chính vì vậy, bản chất của bảo hiểm là quá trình phân
phối lại tổng sản phẩm quốc nội giữa những người tham gia bảo hiểm nhằm
đáp ứng các nhu cầu tài chính phát sinh khi rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra
với đối tượng bảo hiểm. tuy nhiên, phân phối trong bảo hiểm là phân phối
không đều và phần lớn không mang tính bồi hoàn trực tiếp( loại trừ bảo hiểm
nhân thọ và bảo hiểm tiền hưu trí).
Rủi ro và sự tồn tại của rủi ro là nguồn gốc của bảo hiểm. rủi ro là sự
không chắc chắn về hậu quả trong một tình huống cụ thể, là biến cố gây thiệt
hại và không mong đợi. để đối phó với rủi ro con người luôn phải tìm cách để
phòng vệ. tuy nhiên, các biện pháp phòng vệ dù có thực hiện tốt đến đâu thì
rủi ro vẫn cứ xảy ra và đó là điều không thể tránh khỏi. khi rủi ro xảy ra, thường
để lại những thiệt hại về tài chính. Để bù đắp những thiệt hại này, người ta có thể
sử dụng nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro: tích lũy để dành( tiết kiệm) , đi vay,
chuyển giao rủi ro( bảo hiểm). trong bảo hiểm hiện đại, bên cạnh rủi ro còn có
các sự kiện liên quan đến bảo hiểm như: sự kiện sinh đẻ của lao động nữ, người
lao động đến tuổi nghỉ hưu hay người được bảo hiểm còn sống đến một thời
điểm xác định trên hợp đồng bảo hiểm nhân thọ…
Cơ chế chuyển giao rủi ro trong bảo hiểm được thực hiện giữa bên
tham gia bảo hiểm và bên bảo hiểm thông qua các cam kết bảo hiểm. theo cơ
chế này, bên tham gia bảo hiểm phải nộp phí bảo hiểm và bên bảo hiểm cam
kết bồi thường hay chi trả tiền bảo hiểm khi đối tượng bảo hiểm hay người
được bảo hiểm gặp phải rủi ro hay sự kiện bảo hiểm. tuy nhiên rủi ro hay sự

kiện bảo hiểm chỉ được bảo hiểm khi thỏa mãn các yêu cầu sau:
 Rủi ro có tính chất bấp bênh, nghĩa là nó phải xảy ra ngẫu nhiên,
hoặc có chắc chắn xảy ra thì cũng không biết trước được khi nào.
 Rủi ro phải mang tính khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan của người được bảo hiểm.
 Rủi ro không thuộc phạm vi cấm của pháp luật.
 Các rủi ro phải được doanh nghiệp bảo hiểm muốn đảm bảo. trong
cuộc sống có rất nhiều rủi ro khác nhau, tuy nhiên không phải rủi ro nào cũng
được các doanh nghiệp bảo hiểm sẵn sàng tiếp nhận. chỉ những rủi ro không
mang tính chất thảm họa mới được các doanh nghiệp bảo hiểm bảo hiểm.
những rủi ro như ô nhiễm môi trường, chiến tranh… thông thường không
được bảo hiểm( trừ trường hợp có thỏa thuận khác giữa các bên tham gia bảo
hiểm…
Phí bảo hiểm mà bên tham gia nộp cho bên bảo hiểm phải được thực
hiện trước khi rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra. Ngược lại, khoản tiền mà
bên bảo hiểm trả cho bên tham gia hay cho người thứ ba chỉ được thực hiện
sau khi sự kiện bảo hiểm hay rủi ro xảy ra gây tổn thất. bên thứ ba trong bảo
hiểm là người mà có tài sản hay tính mạng bị thiệt hại trong sự cố bảo hiểm,
có quan hệ về mặt trách nhiệm dân sự với người được bảo hiểm và được
quyền nhận bồi thường từ doanh nghiệp bảo hiểm với tư cách là người thụ
hưởng .
Việc san sẻ rủi ro, bù trừ tổn thất trong bảo hiểm được bên bảo hiểm
tính toán và quản lý dựa vào số liệu thống kê rủi ro và tình hình tổn thất, cũng
như quỹ bảo hiểm mà họ thiết lập được dựa trên nguyên tắc số đông bù số ít
Bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ tài chính chứ không phải một hoạt
động sản xuất. hoạt động kinh doanh bảo hiểm có sự can thiệp sâu của nhà
nước. nhà nước đưa ra biểu phí tối thiểu buộc các doanh nghiệp bảo hiểm
phải thực hiện, ngoài ra còn thực hiện các hoạt động thanh tra, giám sát việc
kinh doanh bảo hiểm nhằm dảm bảo lợi ích cho người tiêu dùng…
1.1.3. Vai trò của bảo hiểm trong nền kinh tế thị trường.

Thị trường là nơi mua bán trao đổi các loại hàng hoá, dịch vụ; nói cách
khác đây là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu. Thị trường cũng là nơi tập trung
nhiều nhất các mâu thuẫn của nền kinh tế, là nơi khởi điểm và kết thúc của
quá trình kinh doanh.
Cùng với lịch sử phát triển của loài người thì kinh tế xã hội cũng có
bước tiến phù hợp. Hình thái kinh tế chuyển từ kinh tế tự nhiên lên hình thái
kinh tế cao hơn đó là kinh tế hàng hoá. Trong nền kinh tế hàng hóa, toàn bộ
các yếu tố đầu vào, đầu ra của quá trình sản xuất kinh doanh đều được mua
bán thông qua thị trường. Kinh tế hàng hoá ra đời đánh dấu sự phát triển của
nền kinh tế xã hội, tới nay nó đã phát triển và đạt tới trình độ cao đó là nền
kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó các quan
hệ kinh tế, phân phối sản phẩm , lợi ích đều do các quy luật của thị trường
điều tiết, chi phối. trong đó quy luật điển hình nhất là quy luật cung cầu.
1.1.3.1. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường.
Thứ nhất, thị trường và cơ chế thị trường là yếu tố khách quan, từng
doanh nghiệp không thể làm thay đổi thị trường mà họ phải tiếp cận và tuân
theo thị trường. Qua thị trường doanh nghiệp có thể tự đánh giá lại mình và
biết được mình làm ăn hiệu quả không.
Thứ hai, các chủ thể trong nền kinh tế thị trường có quyền tự chủ rất
cao. Nhà nước đưa ra những quy định về phương hướng, nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ và lợi ích của các chủ thể nhằm tạo những điều
kiện thuận lợi, đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất. quyền tự chủ kinh doanh
của của các chủ thể kinh tế được quy định tại luật kinh doanh, luật công ty,
luật doanh nghiệp nhà nước, luật doanh nghiệp tư nhân, luật tài chính, thuế.
các doanh nghiệp. theo quy định tại các điều luật này, các chủ thể trong nền
kinh tế thị trường được chủ động quyết định các hoạt động kinh doanh của
mình trong khuôn khổ pháp luật của nhà nước,tự quyết định mình kinh doanh
mặt hàng gì, phương thức kinh doanh như thế nào, kinh doanh ở đâu… và đặc
biệt họ phải tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh .Điều này tạo ra một

sự khác biệt lớn so với nền sản xuất tập trung: các doanh nghiệp phải tuân thủ
chặt chẽ các quy định của nhà nước, thực hiện sản xuất kinh doanh theo kế
hoạch của nhà nước đề ra và không phải chịu trách nhiệm trước kết quả kinh
doanh của mình, lỗ đã có nhà nước chịu.
Thứ ba, mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế được tiền tệ hoá. Tiền tệ
trở thành thước đo hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thứ tư, vấn đề lợi ích được đặt ra rất nghiêm ngặt: mọi chủ thể kinh
doanh đều vì mục tiêu lợi nhuận. doanh nghiệp phải tìm mọi cách để kinh
doanh có hiệu quả để tránh trường hợp bị phá sản. lợi nhuận là nhân tố trung
tâm, là động lực thúc đẩy các chủ thể tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh.
Thứ năm, dung lượng thị trường lớn, sản phẩm đa dạng phong phú,
thỏa mãn các nhu cầu của người tiêu dùng . Khách hàng giữ vị trí trung tâm;
quyết định sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải
tìm mọi cách để thu hút thoả mãn nhu cầu của khách hàng với phương trâm
“khách hàng là thượng đế”.
Thứ sáu, cạnh tranh là tất yếu trong nền kinh tế thị trường, giá cả được
xác định ngay trên thị trường thông qua quy luật cung cầu: nếu như trước kia,
trong nền sản xuất tập trung, nhà nước thực hiện sản xuất, phân phối hàng hóa
theo chế độ tem phiếu thì ngày nay, các chủ thể kinh tế tự do kinh doanh,
người tiêu dùng có nhiều lựa chọn, cạnh tranh diễn ra trong mọi lĩnh vực:
cạnh tranh giữa người mua với người mua, người bán với người bán, người
mua với người bán. Giá cả được xác định ngay trên thị trường và được quyết
định bởi quan hệ cung cầu.
Thứ bảy, kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở có các hoạt động
mua và bán hàng hóa và dịch vụ trên thị trường sản phẩm thế giới; mua và
bán các tài sản vốn trên thị trường tài chính thế giới.
Như vậy, nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tự do cạnh tranh. Doanh
nghiệp muốn đứng vững được trên thị trường phải luôn luôn đổi mới về sản
phẩm, về tổ chức quản lý.

1.1.3.2. Ưu điểm của nền kinh tế thị trường:
Nền kinh tế thị trường có những ưu điểm vốn có của nó. sau đây tôi xin
trình bày một số ưu điểm mà chúng tôi tìm hiểu được:
Thứ nhất, kinh tế thị trường tạo ra môi trường kinh doanh tự do, cạnh
tranh lành mạnh, dân chủ , kích thích tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế,
đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có năng suất, chất lượng và hiệu quả, tăng
khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Thông qua đó quyền
lợi của người tiêu dùng cũng ngày càng được nâng cao. Trong nền kinh tế thị
trường, khách hàng trở thành trung tâm của mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Thị trường năng động và luôn luôn được đổi mới mặt hàng, công nghệ.
Thứ ba, kinh tế thị trường luôn tạo ra cơ hội cho mọi người sáng tạo,
luôn tìm cách để cải tiến lối làm việc và rút ra những bài học kinh nghiệm về
thành công hay thất bại để phát triển không ngừng.
Thứ tư, kinh tế thị trường tạo ra cơ chế đào tạo, tuyển chọn, sử dụng
người quản lý kinh doanh năng động, có hiệu quả và đào thải các nhà quản lý
kém hiệu quả.
1.1.3.3. Nhược điểm của nền kinh tế thị trường:
Bên cạnh những ưu điểm vốn có của nền kinh tế thị trường. Do là một
cơ chế tự điều chỉnh nên nó cũng có những hạn chế sau đây:
Thứ nhất, kinh tế thị trường chỉ chú trọng đến nhu cầu có khả năng
thanh toán, không chú trọng đến các nhu cầu cơ bản của xã hội. Các chủ thể
luôn luôn đặt lợi nhuận lên hàng đầu, cái gì có lãi thì làm, không có lãi thì
không làm nên rất nhiều ngành mang lại nhiều lợi ích cho xã hội , nhưng
không mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp thì doanh nghiệp không kinh
doanh. Một trong các sản phẩm đó chính là hàng hóa công cộng. Như vậy,
dẫn đến tình trạng cơ cấu kinh tế mất cân đối. Nhiều doanh nghiệp vì lợi
nhuận trước mắt đã làm cạn kiệt nguồn tài nguyên, ô nhiễm môi trường sinh
thái…. gây nhiều hậu quả không tốt đến sự phát triển.
Thứ hai, kinh tế thị trường tạo ra tâm lý sùng bái đồng tiền, coi tiền là

trên hết. vì tiền có thể trà đạp lên nhân phẩm, đạo đức con người tiêu biểu
cho vấn đề này là những tệ nạn xã hội: tham nhũng, tội phạm, bạo lực. có thể
nói chính cơ chế thị trường đã kích thích lòng tham lợi, dẫn đến khai thác cạn
kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như sức lực của người lao động, kích
thích chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá nhân cực đoan, lối sống chạy theo
đồng tiền bất chấp đạo lý. Đặc biệt, đối với những nước mới bước vào kinh tế
thị trường, sự đụng độ giữa kinh tế thị trường và các giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc cũng trở thành một vấn đề nan giải.
Thứ ba, kinh tế thị trường hoạt động qua bốn giai đoạn: khủng hoảng,
tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh. Trong giai đoạn khủng hoảng và tiêu điều,
giá cả giảm sút, lợi nhuận giảm, các doanh nghiệp thu hẹp sản xuất làm cho
sản xuất đình đốn, người lao động bị thất nghiệp, không có việc làm do đó
không có thu nhập dẫn đến cuộc sống của bản thân, gia đình gặp khó khăn.
Trong giai đoạn phục hồi và hưng thịnh, các doanh nghiệp kinh doanh thu
được nhiều lợi nhuận hơn, họ mở rộng sản xuất. Và đương nhiên việc làm
tăng, thu nhập cua người dân cũng tăng. Nhưng thu nhập của người dân tăng
rất ít so với thu nhập của các chủ doanh nghiệp. Do đó, khoảng cách giàu
nghèo ngày càng gia tăng. Từ đó các mâu thuẫn trong xã hội cũng ngày càng
tăng theo.
Là một hoạt động dịch vụ tài chính, bảo hiểm ra đời như một tất yếu
khách quan, cung cấp cho con người một mạng lưới bảo vệ, đem lại sự an
tâm về tinh thần, thoải mái về tâm lý, từng bước giải quyết các vấn đề xã hội,
và mang lại nhiều lợi ích khác nữa cho người tham gia bảo hiểm, cũng như
cho toàn xã hội, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế thị trường. chúng ta sẽ xem
xét vai trò của bảo hiểm trên hai khía cạnh: kinh tế và xã hội.
1.1.3.4. Vai trò của bảo hiểm trong nền kinh tế thị trường
1.1.3.4.1. Về mặt kinh tế:
a. Góp phần ổn định tài chính và đảm bảo cho các hoạt động đầu tư.
• Thứ nhất, bảo hiểm có vai trò góp phần ổn định tài chính:
Trên cơ sở luật số lớn, các doanh nghiệp bảo hiểm tính xác suất rủi ro,

đưa ra biểu phí đối với từng loại sản phẩm bảo hiểm. người tham gia bảo
hiểm sẽ thực hiện mua bảo hiểm trên cơ sở đóng phí bảo hiểm cho doanh
nghiệp bảo hiểm. đổi lại, họ sẽ nhận được một cam kết bồi thường cho những
tổn thất khi rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra.
Sau khi mua bảo hiểm, nếu rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra với đối
tượng bảo hiểm gây tổn thất cho người được bảo hiểm, các cơ quan bảo hiểm
sẽ tiến hành, xác định nguyên nhân xảy ra rủi ro, giám định tổn thất, xác định
trách nhiệm bồi thường của mình và tiến hành đền bù một phần hoặc toàn bộ
chi phí của tổn thất, giúp người tham gia nhanh chóng khắc phục hậu quả,
giúp họ trở về vị trí ban đầu ngay trước khi có tổn thất xảy ra. Cụ thể, người
tham gia bảo hiểm được Ổn định về thu nhập khi tham gia bảo hiểm xã hội và
bảo hiểm thất nghiệp; ổn định về tài chính nếu tham gia bảo hiểm y tế và bảo
hiểm thương mại.
• Thứ hai, Bảo hiểm có vai trò đảm cho các khoản tiền đầu tư.
Hầu hết các dự án đầu tư hiện nay đều đòi hỏi phải có bảo hiểm. chủ
đầu tư không thể mạo hiểm nhìn số tiền đầu tư của mình “tan thành mây
khói” khi rủi ro xảy ra mà không được đền bù. Trong nền kinh tế hiện đại, bảo
hiểm đã trực tiếp đảm bảo cho các khoản tiền đầu tư. Nhà kinh tế học người
Pháp đã viết “ không phải các kiến trúc sư mà là các nhà bảo hiểm đã xây lên
New York, chỉ có các nhà bảo hiểm mới giám đảm bảo điều đó nhờ cơ chế
bảo hiểm”. điều này đúng với hầu hết các loại hình đầu tư như đầu tư giàn
khoan dầu khí, đầu tư thiết kế và sản xuất các loại vệ tinh, đầu tư xây dựng
siêu thị…nếu không có sự đảm bảo của bảo hiểm thì chủ đầu tư, mà nhất là
các ngân hàng liên quan sẽ không dám mạo hiểm đầu tư vốn cho dự án. ở
nước ta, một số ngân hàng thương mại khi cung cấp vốn vay cho các dự án
đầu tư họ cũng đòi hỏi phải có bảo hiểm( ngân hàng Agribank, ngân hàng
công thương, ngân hàng BIDV). Bởi vậy bảo hiểm là một hoạt động kích
thích đầu tư rất hiệu quả.
b. Bảo hiểm là một kênh huy động vốn rất hữu hiệu để đầu tư phát
triển kinh tế- xã hội.

Nguồn quỹ của bảo hiểm được huy động chủ yếu từ các cá nhân, doanh
nghiệp tham gia bảo hiểm thông qua các khoản phí bảo hiểm.
Nguồn quỹ của bảo hiểm rất lớn, cần được quản lý chặt chẽ để đảm bảo
quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm. Nguồn quỹ này có một khoảng thời
gian nhàn rỗi rất lâu, cần được đầu tư sinh lời. Quỹ bảo hiểm dùng để chi 4
khoản chủ yếu: chi trả rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm; chi phí các hoạt động
của công ty, chi trả lãi cho khách hàng, lợi nhuận giữ lại để phát triển công ty.
Hơn nữa, Kinh tế thị trường đặc biệt quan tâm đến lợi nhuận, những
ngành không tạo ra nhiều lợi nhuận sẽ không được chú trọng, quy mô sẽ bị
thu hẹp; có thể bị tẩy chay khỏi thị trường. Muốn có lợi nhuận cao trong hoạt
động bảo hiểm nhất định phải thực hiện đầu tư.
Theo số liệu thống kê năm 2009, riêng số dư của bảo hiểm xã hội của
nước ta có tới 80.000 tỷ, một trong những nguồn vốn quan trọng trong nền
kinh tế. Tuy nhiên, nguồn vốn này chưa được nước ta khai thác một cách có
hiệu quả, cần được quan tâm nhiều hơn nữa.
c. Góp phần ổn định và tăng thu cho ngân sách nhà nước, đồng thời
thúc đẩy phát triển kinh tế đối ngoại giữa các nước.
Góp phần ổn định cho ngân sách: Khi rủi ro hoặc sự kiện bảo hiểm xảy
ra, các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trợ cấp hoặc bồi thường kịp thời để ổn định
đời sống và sản xuất. Do đó nhà nước không cần phải chi các khoản tiền trợ
cấp cho các thành viên, doanh nghiệp khi gặp rủi ro.
Tăng thu cho ngân sách nhà nước: Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực
bảo hiểm thương mại có trách nhiệm đóng góp vào ngân sách nhà nước thông
qua các khoản thuế.
Thúc đẩy mối quan hệ kinh tế đối ngoại giữa các nước: Thông qua các
hoạt động tái bảo hiểm hoặc đồng bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm tăng
cường mối quan hệ ngoại giao với nhau, kể cả trên phạm vi nước ngoài→thúc
đẩy mối quan hệ trong nước và quốc tế.
1.1.3.4.2. Về mặt xã hội
a. Bảo hiểm giúp ngăn ngừa , đề phòng, hạn chế tổn thất, giúp cho

cuộc sống của con người an toàn hơn, xã hội trật tự hơn:
Tuyên truyền, hướng dẫn các biện pháp phòng tránh tai nạn, vệ sinh an
toàn lao động
Xây dựng các biển báo và các con đường lánh nạn để giảm bớt tai nạn
giao thông( ví dụ: hệ thống gương cầu lồi và các con đường lánh nạn).
Tư vấn, hỗ trợ một phần tài chính thực hiện các phương án phòng cháy
chữa cháy( tư vấn, hỗ trợ một phần tài chính thực hiện phòng cháy chữa cháy
tại các khu dân cư)
Tiêm chủng, chăm sóc y tế cộng đồng: ở các nước phát triển, thường tổ
chức các cuộc điều tra sức khỏe định kỳ do các công ty bảo hiểm y tế thực
hiện. Ở nước ta, tại các trường học cũng có những cuộc khám sức khỏe sinh
viên đầu năm.
b. Tạo công ăn việc làm cho người lao động, nếp sống tiết kiệm trên
phạm vi toàn xã hội:
Tạo công ăn việc làm: là một ngành dịch vụ, bảo hiểm cần một đội ngũ
đông đảo nhân viên. Do đó tạo công ăn việc làm trước hết cho những người
lao động trong ngành. Ngoài ra, chế độ bảo hiểm thất nghiệp có tác dụng tư
vấn giới thiệu việc làm cho người lao động thất nghiệp→giảm thất nghiệp
tạm thời
Tạo nếp sống tiết kiệm trong phạm vi toàn xã hội: xây dựng kế hoạch
tiết kiệm từ nội bộ gia đình, cơ quan, doanh nghiệp. với những khoản tiền rất
nhỏ, có thể tiết kiệm được thông qua các loại hình bảo hiểm nhân thọ( hay cả
bảo hiểm xã hội khi người lao động về hưu)→tạo dựng nếp sống tốt đẹp trong
phạm vi toàn xã hội
c. Bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần cho mọi người dân, mọi tổ chức kinh
tế xã hội
Chỉ với một khoản tiền bảo hiểm rất nhỏ, mọi người có thể yên tâm
rằng nếu mình có gặp rủi ro thì các công ty bảo hiểm sẽ đền bù các chi phí
thuộc phạm vi bảo hiểm, giúp mình vượt qua khó khăn thử thách. Do đó bảo
hiểm chính là chỗ dựa để mỗi người yên tâm hơn, tin tưởng hơn vào cuộc

sống tương lai.
Wisston Clurcholl- một chính khách đã nói “nếu có thể, tôi sẽ viết từ
BẢO HIỂM trong mỗi nhà và trên trán mỗi người. càng ngày tôi càng tin
chắc chắn rằng, với một giá trị khiêm tốn bảo hiểm có thể giải phóng các gia
đình ra khỏi thảm họa không lường trước được”.
1.2. Kinh doanh bảo hiểm
1.2.1. Sản phẩm bảo hiểm
Tuy đã có mặt trên thị trường từ rất lâu, nhưng hiện nay vẫn chưa có
một khái niệm thống nhất nào cho sản phẩm bảo hiểm. đứng trên những góc
độ khác nhau chúng ta có những khái niệm khác nhau về sản phẩm bảo hiểm.
- Xét trên giác độ những thứ mà khách hàng nhận được:
SPBH là một lời cam kết của doanh nghiệp bảo hiểm với khách hàng về việc
sẽ bồi thường hay trả tiền bảo hiểm khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra, với
điều kiện khách hàng phải tham gia đóng phí bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo
hiểm. sản phẩm bảo hiểm được biểu hiện dưới dạng hợp đồng bảo hiểm. nội
dung của nó bao gồm:
 Đối tượng bảo hiểm
 Phạm vi bảo hiểm
 Số tiền bảo hiểm, giá trị bảo hiểm
 Thời hạn bảo hiểm
 Phí bảo hiểm, phương thức nộp phí
 Các quy định về giải quyết bồi thương và xử lý tranh chấp nếu có
- Xét trên giác độ quản trị kinh doanh bảo hiểm.
SPBH là sản phẩm mà doanh nghiệp bảo hiểm bán nhằm thu lợi
nhuận. theo các lĩnh vực kinh doanh là doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ hay
phi nhân thọ mà các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ bán các sản phẩm thuộc các
nghiệp vụ khác nhau: bảo hiểm tử kỳ, bảo hiểm sinh kỳ thuần túy,bảo hiểm
hỗn hợp, bảo hiểm trả tiền định kỳ, bảo hiểm nhân thọ trọn đời, bảo hiểm sức
khỏe, bảo hiểm tai nạn con người, bảo hiểm hàng không, bảo hiểm xe cơ giới,
bảo hiểm cháy nổ, bảo hiểm nông nghiệp…

- Xét trên giác độ Marketing:
Sản phẩm bảo hiểm là tất cả những gì mà người mua nhận được trong
quá trình marketing chứ không đơn thuần là những gì doanh nghiệp bán. Sản
phẩm bảo hiểm cũng như những sản phẩm thông thường khác, bao gồm ba cấp
độ sản phẩm:
 Sản phẩm cốt lõi( sản phẩm theo ý tưởng): đây là các đảm bảo bảo
hiểm, những lợi ích cơ bản mà khách hàng nhận được khi mua sản phẩm
 Sản phẩm hiện thực: đó là những yếu tố như tên gọi của sản phẩm,
đặc tính nổi trội của sản phẩm… các yếu tố này phản ánh sự có mặt trên thực
tế cuả sản phẩm và nhờ các yếu tố này , người mua có thể tìm đến doanh
nghiệp để mua sản phẩm cũng như phân biệt được sản phẩm của doanh nghiệp
bảo hiểm này với doanh nghiệp bảo hiểm khác
 Sản phẩm bổ sung: bao gồm các yếu tố thuộc về dịch vụ trong và sau
khi bán như thái độ phục vụ, phương thức thanh toán, uy tín của sản phẩm
trong khách hàng, các dịch vụ đề phòng, hạn chế tổn thất…
1.2.2. Doanh nghiệp bảo hiểm
Doanh nghiệp là những tổ chức kinh tế độc lập, cơ bản của nền kinh tế,
có tư cách pháp nhân, hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường vì mục
tiêu tối đa hóa lợi nhuận và sự phát triển của xã hội.
Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và
hoạt động theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm và các quy định khác
của pháp luật có liên quan để kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm.
1.2.2.1. Điều kiện thành lập doanh nghiệp bảo hiểm
Điều 63 Luật KDBH quy định:
• Đối với các doanh nghiệp trong nước.
1. Có số vốn điều lệ đã góp không thấp hơn mức vốn pháp định theo
quy định của Chính phủ: đối với doanh nghiệp BHNT, vốn pháp định là 600
tỷ; doanh nghiệp BHPNT, vốn pháp định là 300 tỷ.
2. Có hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động.
Theo quy định của điều luật 64- luật kinh doanh bảo hiểm. Hồ sơ xin

cấp giấy phép thành lập và hoạt động bao gồm:
 Đơn xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động.
 Dự thảo điều lệ doanh nghiệp.
 Phương án hoạt động năm năm đầu, trong đó nêu rõ phương thức
trích lập dự phòng nghiệp vụ, chương trình tái bảo hiểm, đầu tư vốn, hiệu quả
kinh doanh, khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm và lợi ích kinh tế
của việc thành lập doanh nghiệp.
 Danh sách, lý lịch, các văn bằng chứng minh năng lực, trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ của người quản trị, người điều hành doanh nghiệp.
 Mức vốn góp và phương thức góp vốn, danh sách những tổ chức, cá
nhân chiếm 10% số vốn điều lệ trở lên; tình hình tài chính và những thông tin
khác có liên quan đến các tổ chức, cá nhân đó.
 Quy tắc, điều khoản, biểu phí, hoa hồng bảo hiểm của loại sản phẩm
bảo hiểm dự kiến tiến hành.
3. Có loại hình doanh nghiệp và điều lệ phù hợp với quy định của Luật
kinh doanh bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật.các loại hình doanh
nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam bao gồm công ty cổ phần bảo hiểm, tổ chức
bảo hiểm tương hỗ, doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh, doanh ngiệp bảo hiểm
100% vốn đầu tư nước ngoài.
4. Người quản trị, người điều hành có năng lực quản lý, chuyên môn,
nghiệp vụ về bảo hiểm.
•Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài,
doanh nghiệp lên doanh với Việt Nam phải đáp ứng các điều kiện sau:
a) Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài được cơ quan có thẩm quyền của nước. .
ngoài cho phép hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong lĩnh vực dự kiến tiến
hành tại Việt Nam.
b) Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài đang hoạt động hợp pháp ít nhất
10 năm theo quy định của nước nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính tính tới
thời điểm nộp hồ sơ xin cấp Giấy phép.
c) Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài có tổng tài sản tối thiểu tương

đương 2 tỷ đô la Mỹ vào năm trước năm nộp hồ sơ xin cấp Giấy phép.
d) Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài không vi phạm nghiêm trọng
các quy định về hoạt động kinh doanh bảo hiểm và các quy định pháp luật
khác của nước nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính trong vòng 3 năm liền kề
năm nộp hồ sơ xin cấp giấy phép
1.2.2.2. Nội dung hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm
DNBH được phép hoạt động trong các lĩnh vực sau:
Thứ nhất, kinh doanh bảo hiểm và kinh doanh tái bảo hiểm
KDBH là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh
lời, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo
hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để DNBH trả tiền bảo
hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy
ra sự kiện bảo hiểm.
Để thực hiện hoạt động KDBH, doanh nghiệp sẽ sử dụng các lực lượng
lao động nhất định, tổ chức thành các bộ phận, các phòng ban thực hiện các
công việc:
 Nghiên cứu, tìm hiểu nhu cầu thị trường.
 Nghiên cứu các quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm.
 Thiết kế các sản phẩm bảo hiểm phù hợp với nhu cầu của thị trường
và tuân thủ các quy định của pháp luật.
 Tiến hành chào bán sản phẩm, thực hiện các biện pháp hỗ trợ công
tác khai thác.
 Quản lý hợp đồng, giải quyết khiếu nại, tiến hành bồi thường, chi trả
cho khách hàng.
Kinh doanh tái bảo hiểm: KDTBH là việc DNBH chuyển nhượng bớt
phí bảo hiểm cho doanh nghiệp khác để được các doanh nghiệp nhận tái tiến
hành bồi thường theo phần trách nhiệm đã nhận hoặc doanh nghiệp nhận phí
của các doanh nghiệp khác chuyển giao sang, tiến hành quản lý rủi ro bồi
thường các trách nhiệm đã nhận
Thứ hai, đề phòng, hạn chế tổn thất: doanh nghiệp bảo hiểm có trách

nhiệm thực hiện các hoạt động tư vấn, hỗ trợ vật chất, tài chính cho việc đề
phòng hạn chế rủi ro thiệt hại.
Thứ ba, giám định tổn thất: doanh nghiệp bảo hiểm phải thực hiện các
biện pháp nghiệp vụ nhằm xác định nguyên nhân, mức độ thiết hại, trách
nhiệm của các bên có liên quan làm cơ sở cho việc giải quyết bồi thường, chi
trả bảo hiểm.
Thứ tư, đại lý giám định tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu
người thứ ba bồi hoàn.
Thứ năm, quản lý quỹ và đầu tư vốn: doanh nghiệp bảo hiểm thu phí
bảo hiểm trước, thực hiện bồi thường sau. Khoản tiền phí thu được có một
khoảng thời gian nhàn rỗi khá lâu. Do đó doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện
các hoạt động đàu tư nhằm làm tăng lợi nhuận, tăng khả năng tài chính của
doanh nghiệp
Thứ sáu, các hoạt động khác theo quy định của pháp luật.
1.2.2.3. Nguyên tắc hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm:
Nguyên tắc số đông bù số ít
Là nguyên tắc thông qua việc huy động đủ số phí cần thiết của một số
đông người để giải quyết chi bồi thường cho các tổn thất của một số ít người
có thể xảy ra trong cộng đồng những người tham gia bảo hiểm, doanh nghiệp
bảo hiểm đã thực hiện việc bù trừ theo qui luật số lớn.
Hoạt động bảo hiểm thương mại chính là một hoạt động kinh doanh
nhằm mục đích sinh lời. Từ đó, doanh nghiệp bảo hiểm nhận được một khoản
tiền được gọi là phí bảo hiểm từ người yêu cầu bảo hiểm, và có khả năng phải
trả một khoản tiền cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo
hiểm khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra. Khoản bồi thường thường lớn hơn
rất nhiều lần so với số phí phải nộp. Để làm được điều này, hoạt động bảo
hiểm thương mại cần phải dựa trên nguyên tắc số đông bù số ít.
Nguyên tắc rủi ro có thể được bảo hiểm
Hoạt động BHTM cung cấp các dịch vụ bảo hiểm cho những các
nhân, những tổ chức có nhu cầu. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường

hợp, doanh nghiệp bảo hiểm đều chấp nhận các yêu cầu bảo đảm.
Theo nguyên tắc này, các rủi ro đã xảy ra, chắc chắn hoặc gần như
chắc chắn sẽ xảy ra thì bị từ chối bảo hiểm : hao mòn vật chất tự nhiên, các
bênh sẵn có, cố ý gây thương tích hoặc tự tử …Các nguyên nhân gây ra rủi ro
để được bảo hiểm phải là nguyên nhân khách quan, không cố ý, và các rủi ro
phải là bất ngờ, không lường trước được.
Nguyên tắc này nhằm tránh cho doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi
thường cho những tổn thất thấy trước mà với nhiều trường hợp có thể dẫn tới
phá sản.
Nguyên tắc phân tán rủi ro
Mặc dù quĩ bảo hiểm là một quĩ tài chính lớn, được lập ra bởi sự
đóng góp của nhiều người theo nguyên tắc số đông, và như vậy, với tư cách là
người huy động và quản lý quĩ, các doanh nghiệp bảo hiểm có khả năng thực
hiện nhiệm vụ chi trả bảo hiểm. Nhưng trên thực tế, không phải lúc nào doanh
nghiệp bảo hiểm cũng đảm bảo được khả năng này nhất là khi quỹ huy động
được chưa nhiều ( các doanh nghiệp có qui mô nhỏ hoặc mới thành lập) trong
khi giá trị bảo hiểm rất lớn hay rủi ro xảy ra liên tiếp. Và để tránh điều tối kị
là phải từ chối đơn bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm cần thực hiện
nguyên tắc :phân tán rủi ro.
Có hai hình thức phân tán rủi ro : đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm
Đây là một trong những nguyên tắc khá quan trọng với các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm thương mại.
Nguyên tắc trung thực tuyệt đối.
Nguyên tắc này yêu cầu cả hai bên là doanh nghiệp và khách hàng
cùng trung thực khi cung cấp thông tin:
+Doanh nghiệp: DNBH cần phải cung cấp những thông tin chính xác
về hợp đồng bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm, giá cả sản phẩm bảo hiểm, quyền
lợi của khách hàng….
+Khách hàng: phải trung thực khi khai báo rủi ro khi tham gia bảo
hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm xác định được mức phí đúng và phù hợp với

rủi ro mà họ đảm nhận
Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm
Nguyên tắc này yêu cầu người tham gia bảo hiểm phải có lợi ích
tài chính bị tổn thất nếu đối tượng được bảo hiểm rủi ro. Nói cách khác,
người tham gia bảo hiểm phải có một số quan hệ với đối tượng được bảo
hiểm và được pháp luật công nhận.Mối quan hệ có thể biểu hiện qua quyền
sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền và nghĩa vụ
nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm.
Ngoài các nguyên tắc cơ bản trên, trong mỗi một loại hình BHTM
sẽ có thêm các nguyên tắc khác phù hợp với từng loại : nguyên tắc bồi
thường, nguyên tắc khoán …
CHƯƠNG II
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỤC LỢI BẢO HIỂM
2.1. Trục lợi bảo hiểm
2.1.1. Khái niệm, bản chất của trục lợi bảo hiểm
Có thể hiểu trục lợi bảo hiểm là hành vi cố ý gian dối, lừa đảo có thể có
chủ ý ngay từ khi tham gia bảo hiểm hoặc phát sinh sau khi đã xảy ra rủi ro
nhằm chiếm đoạt một số tiền từ doanh nghiệp bảo hiểm hay từ phía khách
hàng tham gia bảo hiểm mà đáng lý ra họ không được hưởng.
Tại Việt Nam, hành vi trục lợi được quy định tại Thông tư 31/2004/TT-
BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 118 về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, cụ thể như sau: “Trục
lợi bảo hiểm là hành vi cố ý lừa dối của tổ chức, cá nhân nhằm thu lợi bất
chính khi tham gia bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm và giải
quyết khiếu nại bảo hiểm”.
Xét dưới góc độ pháp lý, trục lợi/gian lận bảo hiểm là hành vi vi phạm
pháp luật. Do đó, tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà người thực hiện
hành vi vi phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự, hoặc bị xử phạt vi
phạm hành chính.
Hiện tượng trục lợi bảo hiểm hay gian lận bảo hiểm được biết đến như

là một vấn đề nhức nhối đối với các doanh nghiệp bảo hiểm. Nhiều doanh
nghiệp bảo hiểm đã phải bỏ ra khá nhiều tiền để khắc phục vấn đề trục lợi bảo
hiểm, song số vụ gian lận vẫn tăng theo thời gian và hình thức ngày càng đa
dạng, thủ đoạn ngày càng tinh vi. Trục lợi bảo hiểm diễn ra ở hầu hết các
nghiệp vụ bảo hiểm và bất cứ nước nào đã triển khai bảo hiểm thương mại.
2.1.2. Đối tượng
Đối tượng của trục lợi bảo hiểm: bên mua bảo hiểm, bên được bảo
hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm, đại lý bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo
hiểm. Ở mức độ cao hơn là sự câu kết, liên minh giữa các bên để trục lợi.
Các hình thức biểu hiện của trục lợi bảo hiểm rất đa dạng và phong
phú. Tuy nhiên, bên được bảo hiểm muốn thực hiện thành công những hành vi
trục lợi bảo hiểm trên, thông thường phải có sự tiếp tay từ phía nhân viên bảo
hiểm, những người có trình độ và hiểu biết về bảo hiểm. Thực chất cho thấy có
trên 90% các vụ trục lợi bảo hiểm có sự tiếp tay của nhân viên bảo hiểm.
Ở đề tài này chúng ta sẽ chỉ tìm hiểu trục lợi bảo hiểm từ phía nhân
viên bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ.
2.2. Trục lợi bảo hiểm từ phía nhân viên bảo hiểm
2.2.1. Khái niệm
Trục lợi bảo hiểm từ phía nhân viên bỏa hiểm là hành vi cố ý là hành vi
cố ý lừa dối của tổ chức, cá nhân kinh doanh bảo hiểm nhằm thu lợi bất chính
khi bán bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm và giải quyết khiếu
nại bảo hiểm”.
2.2.2. Các hình thức trục lợi bảo hiểm của nhân viên bảo hiểm
Thứ nhất, nhân viên bảo hiểm không trung thực khi cung cấp thông
tin cần thiết về hợp đồng bảo hiểm.
Các doanh nghiệp bảo hiểm thường áp dụng hình thức hoa hồng bảo
hiểm đối với các đại lý và nhân viên bảo hiểm nhằm khuyến khích các nhân
viên, đại lý bảo hiểm của mình tích cực hơn trong hoạt động khai thác, tăng
số lượng các hợp đồng bảo hiểm, tăng doanh thu, mở rộng thị trường …Do
đó, các nhân viên, đại lý bảo hiểm tìm mọi cách để nhanh chóng ký được

nhiều hợp đồng bảo hiểm, chạy theo doanh thu mà hạ thấp điều kiện, bỏ qua
nguyên tắc khi ký kết hợp đồng, như: kê khai giấy yêu cầu bảo hiểm hộ khách
hàng, không trực tiếp gặp người tham gia bảo hiểm hoặc người được bảo
hiểm để kiểm tra tình trạng của đối tượng bảo hiểm, phản ánh sai tình trạng
của đối tượn bảo hiểm trong báo cáo đại lý, chuyển về công ty giấy yêu cầu
bảo hiểm không đúng chữ ký của khách hàng, không hướng dẫn khách hàng
kê khai đầy đủ, trung thực giấy yêu cầu bảo hiểm, không hướng cung cấp đầy
đủ thông tin cho khách hàng…
Tất cả các hành vi trên đã vi phạm khoản 1 điều 19 luật KDBH:
“Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có trách
nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, giải thích
các điều kiện, điều khoản bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm; bên mua bảo hiểm
có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến đối tượng bảo hiểm
cho doanh nghiệp bảo hiểm. Các bên chịu trách nhiệm về tính chính xác,
trung thực của thông tin đó. Doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm giữ bí
mật về thông tin do bên mua bảo hiểm cung cấp”.
Sau khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, nếu có vấn đề gì không bình thường
đối với hợp đồng bảo hiểm( những thay đổi về các điều khoản trong hợp đồng,
thay đổi trong phí bảo hiểm hay khi hợp đồng bảo hiểm vô hiệu) thì các nhân
viên, đại lý bảo hiểm chịu trách nhiệm cung cấp những thông tin này cho khách
hàng. Cụ thể khi phí bảo hiểm thay đổi thì doanh nghiệp bảo hiểm có trách
nhiệm thông báo với bên mua bảo hiểm để thảo thuận lại mức phí bảo hiểm.
điều này được quy định rõ trong khoản 2 điều 20 luật KDBH như sau:
“ Khi có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn
đến tăng các rủi ro được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền tính
lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm. Trong trường
hợp bên mua bảo hiểm không chấp nhận tăng phí bảo hiểm thì doanh nghiệp
bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm, nhưng
phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên mua bảo hiểm”
Thứ hai, nhân viên, đại lý bán bảo hiểm sau khi ký hợp đồng bảo hiểm

thì “ẵm” luôn tiền phí bảo hiểm:
Nhân viên bảo hiểm sau khi ký kết hợp đồng bảo hiểm thì không trình
hợp đồng bảo hiểm lên cho công ty bảo hiểm khiến hợp đồng bảo hiểm vô
hiệu. Trường hợp này có thể xảy ra ngay cả khi các cá nhân tham gia bảo
hiểm đã hiểu rõ các đặc tính về sản phẩm bảo hiểm, các nhân viên bảo hiểm
đã cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết về hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên, sau
khi ký kết hợp đồng bảo hiểm thì các nhân viên này lại không trình lên doanh
nghiệp bảo hiểm, mà chiếm dụng luôn số tiền phí bảo hiểm thu được. Trong
trường hợp này, nếu bên mua bảo hiểm chứng minh được mình đã mua bảo
hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm cho rủi ro xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm
sẽ phải chịu toàn bộ chi phí bồi thường tổn thất cho người được bảo hiểm, sau
đó có quyền yêu cầu nhân viên bảo hiểm bồi hoàn lại toàn bộ chi phí mình đã
bỏ ra. Trong trường hợp nếu bên mua bảo hiểm không chứng minh được mình
đã mua bảo hiểm cho sự kiện bảo hiểm hay rủi ro xảy ra thì bên mua bảo
hiểm phải chịu toàn bộ thiệt hại xảy ra mà không được bồi thường từ bất cứ
ai. Như vậy doanh nghiệp bảo hiểm sẽ bị mất uy tín, lòng tin đối với khách
hàng… gây nhiều hậu quả xấu cho xã hội.
Điều 88 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 quy định như sau :
“ Trong trường hợp đại lý bảo hiểm vi phạm hợp đồng đại lý bảo hiểm,
gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người được bảo hiểm thì doanh
nghiệp bảo hiểm vẫn phải chịu trách nhiệm về hợp đồng bảo hiểm do đại lý
bảo hiểm thu xếp giao kết;
Đại lý bảo hiểm có trách nhiệm bồi hoàn cho doanh nghiệp bảo hiểm các
khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm đã bồi thường cho người được bảo hiểm”
Thứ ba, nhân viên bảo hiểm lợi dụng chức vụ, thực hiện các hành vi
tham ô, nhận hối lộ trong các hợp đồng bảo hiểm, tiếp tay cho bên mua bảo
hiểm thực hiện hành vi gian lận nhằm trục lợi bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm
trái pháp luật:
Muốn thục hiện các hành vi gian lận bảo hiểm thành công, bên mua bảo
hiểm thường phải tìm cách móc nối với các cán bộ, nhân viên trong ngành

bảo hiểm. Những cán bộ nhân viên bảo hiểm này lợi dụng chức quyền, sự
hiểu biết của mình vạch “đường đi nước bước” cho khách hàng, lợi dụng kẽ
hở về giấy tờ, thủ tục giám định thực hiện bồi thường trái pháp luật. Sau đó
cùng nhau ăn chia số tiền bồi thường từ bảo hiểm.
Trường hợp này xảy ra tương đối phổ biến. Thông thường, sau khi rủi
ro xảy ra gây thiệt hại với tài sản của mình thì bên mua bảo hiểm mới tìm đến
cán bộ, nhân viên bảo hiểm để thỏa thuận mua bảo hiểm, hợp thức hóa ngày
và hiệu lực hợp đồng…Các nhân viên bảo hiểm vì tư lợi cho mình nên đồng ý
“cùng khách hàng” thống nhất hành động để thu lợi từ bảo hiểm.
Không những thế, một số cán bộ nhân viên bảo hiểm còn yêu cầu bên
được bảo hiểm phải “ lót tay” cho họ thì họ mới nhanh chóng giải quyết khiếu
nại bồi thường, nếu không thì họ cứ trì trệ, kéo dài thời gian gây khó dễ cho bên
tham gia bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm vì muốn nhanh chóng được bồi thường

×