ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN CAO HỌC
Học viên: Ông Thị Thái Hằng
Líp: K14 GDTH
Tên đề tài: “Vận dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề vào dạy
học môn khoa học lớp 4”
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, nhân loại đang bước vào “nền văn minh của làn sóng thứ
ba” mà một trong những đặc điểm cơ bản là cuộc cách mạng khoa học –
công nghệ đang phát triển như vũ bão. Sự “bùng nổ thông tin” làm cho khối
lượng tri thức của các ngành khoa học ngày một tăng lên nhanh chóng. Các
thành tựu của khoa học kĩ thuật cũng làm thay đổi cuộc sống của con người
nhanh chóng nh vậy, đặc biệt là trẻ em. Con người ngày càng được tiếp xúc
nhiều hơn với những thành tựu của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là sự phát
triển của khoa học công nghệ thông tin. Chính vì vậy mà trẻ em tiếp nhận
được tri thức từ nhiều nguồn thông tin khác nhau chứ không chỉ giới hạn bởi
những tri thức trong nhà trường do thầy cô cung cấp như trước kia nữa.
Thông qua các phương tiện đa dạng khác nhau, trẻ em có thể biết được
những thông tin từ khắp nơi trên thế giới. Vì thế, lúc này mục đích dạy học
không phải chỉ ở những kết quả cụ thể của quá trình học tập, ở tri thức và kĩ
năng bộ môn, mà điều quan trọng hơn là ở bản thân việc học, ở cách học, ở
khả năng đảm nhiệm, tổ chức và thực hiện những quá trình học tập một
cách có hiệu quả…Để có thể sống và hoạt động suốt đời thì phải học suốt
đời. Để học được suốt đời thì phải có khả năng tự học. Vì vậy mục đích
quan trọng của quá trình dạy học hiện nay là phải hình thành ở học sinh khả
năng tự học. Việc dạy tự học đương nhiên chỉ có thể thực hiện được trong
một cách dạy học mà người học là chủ thể, tự họ hoạt động để đáp ứng nhu
cầu của xã hội đã chuyển hoá thành nhu cầu của chính bản thân họ.
(Nguyễn Bá Kim)
1
Hoà vào xu thế chung của toàn nhân loại, đất nước ta cũng đang bước
vào thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Nền kinh tế
nước ta đang chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước. Công cuộc đổi mới này đòi hỏi ngành
giáo dục và đào tạo phải đào tạo và bồi dưỡng những “mẫu người” có những
năng lực cơ bản như: năng lực phát hiện và giải quyết những vấn đề nảy
sinh trong thực tiễn cuộc sống, khoa học công nghệ, trong tổ chức quản lý
quy trình sản xuất hiện đại, trong cơ chế thị trường…; năng lực tham gia
tích cực các hoạt động xã hội, chính trị; năng lực tự học và tự nghiên cứu
khoa học; … Để đáp ứng được những yêu cầu đó, Nghị quyết hội nghị lần
thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam khoá VII đã chỉ
rõ, hệ thống giáo dục phải xác định lại mục tiêu, thiết kế lại chương trình,
kế hoạch, nội dung, phương pháp giáo dục và đào tạo. Nh vậy, dạy và học
trong nhà trường đang đứng trước yêu cầu đổi mới căn bản về nội dung,
phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học. Tinh thần đổi mới này
đã được phản ánh trong nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII, được thể chế
hoá trong điều 24 của Luật giáo dục (12/1998):“Phương pháp giáo dục phổ
thông phải phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học
sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương
pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động
đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Đứng trước những đòi hỏi đó, các nhà giáo dục học đã và đang nghiên
cứu áp dụng một số phương pháp dạy học mới nhằm phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của học sinh trong đó có phương pháp dạy học giải quyết
vấn đề. Dạy học giải quyết vấn đề là một phương pháp dạy học tích cực, có
tác dụng nâng cao tính tích cực hoạt động nhận thức của học sinh cũng như
năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề. Nhờ việc tích cực giải
quyết tình huống vấn đề mà học sinh tìm ra kiến thức mới, khắc sâu chúng
và dần hình thành được năng lực tự giải quyết vấn đề. Có năng lực giải
2
quyết vấn đề tức là các em có được khả năng thích ứng cao trong xã hội hiện
đại ngày nay với nhiều vấn đề phức tạp và cấp thiết đòi hỏi phải giải quyết.
Phương pháp giải quyết vấn đề cũng phù hợp với đặc điểm tâm lý của
học sinh tiểu học. Học sinh tiểu học ưa tìm tòi, thích phát hiện cái mới. Khi
tự các em tìm ra “cái mới”, phát hiện được một điều gì mới lạ các em sẽ thấy
rất sung sướng, phấn khởi và ghi nhớ rất lâu, từ đó tạo ra động cơ và động lực
thúc đẩy quá trình học tập. Vì vậy trong quá trình dạy học phải làm thế nào để
luôn tạo ra tình huống mới, tình huống mâu thuẫn để lôi cuốn sự chú ý, thúc
đẩy tính tích cực, tự giác hoạt động của các em, đảm bảo học sinh có thể được
tự tìm tòi để tạo động lực học tập tích cực. Phương pháp dạy học giải quyết vấn
đề là một trong những phương pháp dạy học có thể đạt được yêu cầu đó.
Trong nhà trường nói chung và trường tiểu học nói riêng, việc sử
dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề đã được đề cập từ lâu. Các tên
gọi “dạy học nêu vấn đề”, “dạy học giải quyết vấn đề” đã quen thuộc với đa
số giáo viên, song bản chất cũng như cách thức tiến hành phương pháp này
trong giờ học quả vẫn còn khá mới đối với họ. Một số giáo viên đã thấy
được những ưu điểm và sự cần thiết của việc sử dụng phương pháp dạy học
giải quyết vấn đề, nhưng việc xác định được những bài học nào xuất hiện
tình huống có vấn đề hay khi tiến hành các bước lên lớp bằng phương pháp
dạy học giải quyết vấn đề thì họ vẫn còn lúng túng.
Khoa học là môn học về các sự vật, hiện tượng tự nhiên, về cơ thể
và sức khoẻ của con người. Vì đây là những sự vật, hiện tượng gần gũi
với học sinh nên các em có nhiều kinh nghiệm và vốn sống để tham gia
xây dựng bài học. Trong học tập môn học này, với khả năng phát triển tư
duy của học sinh líp 4, 5, các em thường nảy sinh những thắc mắc. Nội
dung học tập môn Khoa học dễ khơi dậy và đưa học sinh vào các tình
huống mâu thuẫn, tình huống có vấn đề. Cho nên phương pháp giải quyết
vấn đề là phương pháp đặc biệt có hiệu quả trong dạy học môn Khoa học.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về việc áp dụng dạy học giải quyết
3
vấn đề trong môn Khoa học còn Ýt. Xuất phát từ những lÝ do trên, chúng
tôi chọn vấn đề “Vận dông phương pháp dạy học giải quyết vấn đề vào
dạy học môn Khoa học lớp 4” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Về mặt thuật ngữ, trong hệ thống các phương pháp dạy học không
truyền thống (tức là những phương pháp dạy học hiện đại) có một phương
pháp dạy học được các tác giả gọi bằng các tên khác nhau như “dạy học nêu
vấn đề”, “dạy học giải quyết vấn đề”, “dạy học gợi vấn đề”… . Vì vậy cần
có sự giải thích về khái niệm này. Theo GS. Nguyễn Bá Kim thì thuật ngữ
“dạy học nêu vấn đề”, “dạy học gợi vấn đề” có nhược điểm là: nó có thể
được hiểu rằng kiểu dạy học này chỉ dừng lại ở việc nêu ra vấn đề chứ
không nói rõ vai trò của học sinh trong quá trình giải quyết vấn đề. Mà sự
thành đạt trong cuộc đời của mỗi con người không chỉ tuỳ thuộc vào năng
lực phát hiện kịp thời những vấn đề nảy sinh mà quan trọng hơn là giải
quyết hợp lý những vấn đề được đặt ra. Do đó, ngày nay trên thế giới, người
ta có xu hướng dùng thuật ngữ “dạy học giải quyết vấn đề” hoặc “dạy học
đặt và giải quyết vấn đề”. Vì vậy, chúng tôi chọn thuật ngữ “phương pháp
dạy học giải quyết vấn đề” trong đề tài nghiên cứu này.
Theo I.IA Lecne thì: “Thuật ngữ “dạy học nêu vấn đề” ra đời chưa
được bao năm, việc nghiên cứu tư tưởng dạy học nêu vấn đề thật rầm rộ được
bắt đầu chưa lâu lắm, nhưng các tư tưởng đó - dưới những tên gọi khác nhau -
đã tồn tại trong giáo dục học hàng trăm năm nay rồi”. Ngay từ thời xa xưa,
các hiện tượng “nêu vấn đề” đã được thấy trong các cuộc toạ đàm thời trung
cổ của Xôcrat (469 – 399 trước công nguyên).
Vào những năm 70 của thế kỷ XIX, các nhà khoa học về xã hội như:
M.M Xtaxiulevct, N.A Rôgiơcôp, X.P Bantalon, M.A Rưpnicova,… và các
nhà khoa học tự nhiên như A.IA Giecđơ, B.E Raicôp, H.E Amxtơrong… đã
nêu lên phương án tìm tòi phát kiến (ơrixtic) trong dạy học nhằm hình thành
năng lực nhận thức cho học sinh bằng cách lôi cuốn các em tự lực tham gia
4
vào quá trình hoạt động tìm kiếm tri thức, phân tích các hiện tượng, làm các
bài mới mà trước đây chưa hề làm và nội dung có chứa đựng những khó
khăn nhất định. Đây là một trong những cơ sở của dạy học giải quyết vấn đề.
Tuy nhiên, dạy học giải quyết vấn đề khi mới hình thành đã phạm phải những
sai lầm cực đoan như hạ thấp vai trò của người thầy, biến quá trình dạy học
thành quá trình hoạt động tự phát không có sự điều khiển của giáo viên. Sở dĩ
như vậy là do cơ sở lý luận mà dạy học giải quyết vấn đề dựa vào còn bộc lộ
nhiều hạn chế: lý luận tâm lý học về tư duy của chủ nghĩa hành vi coi tư duy
thực chất chỉ có hành động bên ngoài; lý luận về tâm lý học lứa tuổi cũng chỉ
nặng về mô tả, đo đạc, giải thích mà không chú ý đến sự cải biến, rút cục đã
đồng nhất khái niệm “thích hợp với lứa tuổi” với quan niệm “theo đuôi đặc
điểm lứa tuổi”.
Vào những năm giữa thế kỷ XX, phương pháp dạy học giải quyết vấn
đề mới được tập trung nghiên cứu một cách đầy đủ và sâu sắc hơn ở các môn
khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và các môn kĩ thuật. Một đội ngũ đông đảo
những người nghiên cứu về phương pháp giải quyết vấn đề nh: M.N Xcatkin,
A.M Macchiuskin, T.V Cuđriapxep, M.I Makhơmutôp, N.A Polopnicova,…đã
xuất hiện và có những đóng góp quan trọng. A.M Macchiuskin với “Các
tình huống có vấn đề trong tư duy và trong dạy học” đã tập trung nghiên
cứu sâu vấn đề cốt lõi của dạy học giải quyết vấn đề đó là các tình huống có
vấn đề. Ông đã trình bày một hệ thống các khái niệm cơ bản liên quan đến
tình huống có vấn đề trong dạy học. Lý thuyết của ông về các tình huống có
vấn đề trong tư duy và trong dạy học là những cơ sở lý thuyết của dạy học
giải quyết vấn đề. I. IA. Lecne với “Dạy học nêu vấn đề” cũng đặc biệt
quan tâm tới tình huống có vấn đề trong dạy học nêu vấn đề. Ông cho rằng
tình huống có vấn đề là một khâu quan trọng của dạy học nêu vấn đề. Không
có tình huống có vấn đề thì không có dạy học nêu vấn đề. Ông đã vạch ra
các dạng dạy học giải quyết vấn đề và tính giải quyết vấn đề trong toàn bộ
hệ thống dạy học, định ra các chức năng và các tiêu chuẩn đánh giá của dạy
5
học giải quyết vấn đề. Ông cũng nêu ra những nhiệm vụ cơ bản và vai trò
của giáo viên đối với quá trình dạy học giải quyết vấn đề. V.Ôkôn - nhà giáo
dục học nổi tiếng của Ba Lan với “Những cơ sở của việc dạy học nêu vấn
đề” đã khẳng định được tác dụng của phương pháp dạy học giải quyết vấn
đề là “kích thích học sinh tích cực suy nghĩ, chủ động tìm tòi, sáng tạo để
giải quyết vấn đề, đạt tới kiến thức mới một cách sâu sắc, vững chắc”. Mặc
dù là người đầu tiên đạt được nhiều thành công trong việc thực nghiệm PPDH
giải quyết vấn đề nhưng V.Ôkôn lại chỉ nặng về việc ghi lại những thực
nghiệm của mình trong việc áp dụng kiểu dạy học của PPDH này mà không
chú trọng đến việc xây dựng những cơ sở khoa học của phương pháp dạy học
giải quyết vấn đề. Trong số các nhà khoa học thời kỳ này không thể không
nhắc đến M.I Macmutov. Dựa vào các kết quả của những thành tựu về tâm lý
học – giáo dục học, đặc biệt là lý luận dạy học mà M.I Macmutov đã chính
thức đưa ra cơ sỏ lý luận vững chắc của PPDH giải quyết vấn đề – PPDH
được kế thừa bởi dạy học Algorit hóa và Ơrixtic – và đã đưa dạy học giải
quyết vấn đề trở thành một phương pháp dạy học tích cực.
Từ khi dạy học nêu vấn đề trở thành một PPDH chính thống, nó đã phát
huy được tính tích cực và đạt nhiều kết quả ở các cấp học, bậc học. Phương
pháp dạy học giải quyết vấn đề cũng là một đề tài khá hấp dẫn đối với nhiều
nhà nghiên cứu ở nước ta. Trên tạp chí giáo dục đã đăng tải các bài của các tác
giả: Vũ Văn Tảo, Nguyễn Khánh Bằng, Nguyễn Cảnh Toàn,… về PPDH này.
Tuy nhiên các tác giả đều viết về phương pháp dạy học giải quyết vấn đề trong
dạy học ở nhà trường phổ thông và đại học. Kế thừa những kết quả đã được
nghiên cứu về phương pháp dạy học giải quyết vấn đề, tác giả Nguyễn Kỳ đã
nghiên cứu việc áp dụng phương pháp dạy học này ở Tiểu học, bước đầu được
tiến hành thực nghiệm ở một số môn như Toán, Tự nhiên và Xã hội, Đạo đức.
Các luận án như: “Nghiên cứu việc sử dụng phương pháp dạy học
nêu vấn đề trong dạy học tiểu học” của tác giả Hoàng Ngọc Nga mới dừng
lại ở chỗ đưa ra những đề xuất cho việc sử dụng phương pháp dạy học nêu vấn
6
đề trong tình hình hiện nay ở trường tiểu học. Hay luận án của tác giả Lê Thị
Cẩm “Sử dụng các tình huống có vấn đề trong dạy học thông qua các
môn về tự nhiên và xã hội ở bậc tiểu học” cũng chỉ nghiên cứu thông qua
môn Tự nhiên và Xã hội như một ví dụ để làm rõ hơn cho các mức độ sử
dụng tình huống có vấn đề – là đích chính của đề tài này.Như vậy, cho đến
nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể việc áp dụng phương
pháp dạy học giải quyết vấn đề vào dạy học môn Khoa học ở lớp 4.
3. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề vào dạy học môn
khoa học lớp 4 nhằm phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo trong học tập
của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Khoa học lớp 4.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1- Khách thể nghiên cứu: Phương pháp dạy học giải quyết vấn đề
4.2- Đối tượng nghiên cứu: Phương pháp dạy học giải quyết vấn đề trong
dạy học môn khoa học lớp 4
5. Giả thuyết khoa học
Nếu biết vận dụng một cách linh hoạt và hợp lý phương pháp dạy học
giải quyết vấn đề trong dạy học môn khoa học lớp 4 thì sẽ phát huy được
tính tích cực, năng lực giải quyết vấn đề của học sinh và chất lượng dạy học
môn khoa học lớp 4 sẽ được nâng cao.
6. Các nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận của phương pháp dạy học giải quyết vấn đề và
thực tiễn của việc vận dụng phương pháp đó vào trong dạy học khoa học lớp 4
- Phân tích đặc điểm nội dung chương trình môn khoa học lớp 4 để
xác định khả năng vận dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề.
- Vận dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề vào dạy học môn
khoa học lớp 4.
- Tổ chức thực nghiệm để qua đó đánh giá kết quả, kiểm nghiệm tính
khả thi của đề tài nghiên cứu.
7
7. Phạm vi nghiên cứu
- Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ đi sâu vào nghiên cứu việc vận
dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề trong dạy học môn khoa học lớp 4.
- Phạm vi điều tra thực trạng: Giáo viên và học sinh thành phố Đà
Nẵng, tỉnh Long An, tỉnh Trà Vinh, tỉnh Bến Tre.
- Thực nghiệm trên đối tượng học sinh líp 4 ở các trường tiểu học của
thành phố Đà Nẵng và tỉnh Bến Tre, bao gồm: Tiểu học Phan Thanh – Quận Hải
Châu, Tiểu học Hoà Thọ Đông – Quận Cẩm Lệ (thành phố Đà Nẵng)
8. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
8.1- Các phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp đọc tài liệu: Nghiên cứu các tài liệu lý luận, sách, báo,
tạp chí, nghị quyết cũng nh các luận văn khoa học có liên quan để làm rõ
những vấn đề mà đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp lý thuyết: Phương pháp này được
sử dụng để làm tốt hơn khâu đọc tài liệu. Từ việc nghiên cứu, chúng tôi tiến
hành phân tích các vấn đề có liên quan để nắm bắt được nội dung cơ bản và
hiểu sâu sắc, tường tận những dấu hiệu đặc thù, cấu trúc bên trong của lý
thuyết… rồi tiến đến tổng hợp các tri thức đã thu nhận được thành một hệ
thống để hiểu đầy đủ hơn, toàn diện hơn.
8.2- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát: Tiến hành quan sát các hoạt động của giáo
viên và học sinh trong quá trình dạy học nhằm tìm hiểu kinh nghiệm, thu
thập những tài liệu sống động về việc vận dụng phương pháp giải quyết vấn
đề trong dạy học môn khoa học lớp 4.
- Phương pháp đàm thoại:
+ Tiến hành trao đổi trực tiếp với giáo viên dạy lớp 4 để tìm hiểu quan
niệm, thái độ và các phương pháp mà giáo viên đã sử dụng cùng với những thuận
lợi và khó khăn mà họ thường gặp trong trong quá trình dạy học môn Khoa học 4.
8
+ Trò chuyện với học sinh nhằm tìm hiểu thái độ, mong muốn của các
em trong giờ học môn khoa học 4.
- Phương pháp điều tra:
+ Điều tra học sinh về thái độ, mong muốn trong giờ học môn khoa
học lớp 4 thông qua hệ thống câu hỏi.
+ Điều tra giáo viên về nhận thức, thái độ và các phương pháp mà họ
thường dùng trong quá trình dạy học các môn về tự nhiên và xã hội nói chung
và môn Khoa học nói riêng, những thuận lợi và khó khăn mà họ thường gặp.
- Phương pháp thực nghiệm: Dựa vào giả thuyết khoa học đã đặt ra, tiến
hành thực nghiệm ở trường tiểu học để xem xét hiệu quả và tính khả thi của việc
vận dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề vào dạy học môn khoa học lớp
4 đã đề xuất, để khẳng định kết quả của đề tài nghiên cứu một cách khách quan.
8.3- Phương pháp thống kê toán học
Phương pháp thống kê toán học được dùng để phân tích và xử lý các
kết quả thu được qua điều tra và thực nghiệm.
9. Những đóng góp mới của luận văn
(Trình bày sau khi thực nghiệm)
10. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung của luận văn gồm
ba chương:
Chương 1: Trình bày cơ sở lý luận của phương pháp dạy học giải
quyết vấn đề và thực tiễn của việc vận dụng phương pháp dạy học giải quyết
vấn đề vào dạy học môn khoa học lớp 4.
Chương 2: Vận dụng phương pháp giải quyết vấn đề vào dạy học
môn khoa học lớp 4.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.
9
DỰ KIẾN CẤU TRÚC LUẬN VĂN
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG PPDH
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ VÀO DẠY HỌC MÔN KHOA HỌC LỚP 4
1. Cơ sở lý luận
1.1 Quan niệm về dạy học tích cực
1.1.1 Khái niệm tính tích cực
1.1.2 Khái niệm tính tích cực nhận thức
1.1.3 Phương pháp dạy học tích cực
1.1.4 So sánh một vài nội dung đặc trưng giữa dạy học tích cực và dạy học thụ động
1.2 Phương pháp dạy học giải quyết vấn đề
1.2.1 Các quan niệm về dạy học giải quyết vấn đề
1.2.2 Tình huống có vấn đề
1.2.2.1 Vấn đề
1.2.2.2 Tình huống có vấn đề
1.2.3 Những đặc trưng cơ bản của phương pháp dạy học giải quyết vấn đề
a) Tình huống có vấn đề, tình huống học tập
b) Quá trình thực hiện gồm những bước có tính mục đích chuyên biệt
c) Có cách tổ chức đa dạng
1.2.4 Cấu trúc một bài học theo dạy học giải quyết vấn đề
1.2.5 Các mức độ của dạy học giải quyết vấn đề
1.3 Sự kết hợp giữa phương pháp dạy học giải quyết vấn đề với một số
phương pháp dạy học khác
1.4 Đặc điểm tâm sinh lý, khả năng tư duy của học sinh tiểu học
1.5 Vai trò của dạy học giải quyết vấn đề trong môn Khoa học
10
1.5.1 Đặc điểm nội dung chương trình môn Khoa học lớp 4
1.5.2 Đặc điểm sách giáo khoa môn Khoa học lớp 4
1.5.3 Vai trò của dạy học giải quyết vấn đề trong môn Khoa học
2. Cơ sở thực tiễn
2.1 Tình hình giảng dạy của giáo viên
2.2 Tình hình học tập của học sinh
3. Kết luận chương 1
CHƯƠNG II
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ VÀO
DẠY HỌC MÔN KHOA HỌC LỚP 4
1. Khả năng vận dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề vào dạy
học môn Khoa học lớp 4
2. Xây dựng tình huống có vấn đề và hướng dẫn học sinh giải quyết vấn
đề trong dạy học môn Khoa học lớp 4
2.1 Quy trình chung của việc xây dựng tình huống có vấn đề trong dạy học
môn Khoa học lớp 4
2.2 Các loại tình huống có vấn đề
2.3 Một số tình huống có vấn đề được xây dùng trong chương trình môn
Khoa học lớp 4
2.4 Cách sử dụng tình huống có vấn đề trong dạy học môn Khoa học lớp 4
2.5 Hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề trong học tập môn Khoa học lớp 4
2.6 Thiết kế một số bài học có vận dụng phương pháp dạy học giải quyết
vấn đề trong môn Khoa học lớp 4
CHƯƠNG III
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
1. Khái quát chung
1.1 Mục đích và nhiệm vụ của thực nghiệm
1.2 Đối tượng và địa bàn thực nghiệm
1.3 Nội dung thực nghiệm
1.4 Yêu cầu và phương pháp thực nghiệm
11
1.5. Tổ chức thực nghiệm
1.6 Phương pháp đánh giá kết quả thực nghiệm
2. Kết quả thực nghiệm
2.1 Đánh giả kết quả trước thực nghiệm
2.2 Đánh giá kết quả sau thực nghiệm
3. Kết luận về kết quả thực nghiệm
12
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG
phương pháp dạy học giải quyết vấn đề vào dạy học
môn Khoa học lớp 4
I. Cơ sở lý luận
1. Quan niệm về dạy học tích cực
1.1 Khái niệm tính tích cực
1.2 Khái niệm tính tích cực nhận thức
1.3 Phương pháp tích cực
1.4 Những dấu hiệu đặc trưng của phương pháp tích cực
1.4.1 Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học
sinh
1.4.2 Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học
1.4.3 Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác
1.4.4 Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò
1.5 So sánh một vài nội dung đặc trưng giữa dạy học tích cực và dạy học
thụ động
2. Phương pháp dạy học giải quyết vấn đề
2.1 Các quan niệm về dạy học giải quyết vấn đề
2.2 Những đặc trưng cơ bản của phương pháp dạy học giải quyết vấn đề
2.2.1 Yếu tố bản chất
2.2.2 Đặc điểm của dạy học giải quyết vấn đề
2.2.3 Bản chất của dạy học giải quyết vấn đề
2.2.4 Ba đặc trưng cơ bản của dạy học giải quyết vấn đề
13
2.2.4.1 Đặc trưng cơ bản đầu tiên của phương pháp dạy học giải quyết vấn
đề là “tình huống có vấn đề”, “tình huống học tập”.
2.2.4.2 Đặc trưng thứ hai của phương pháp dạy học giải quyết vấn đề là chia
quá trình thực hiện thành những giai đoạn, những bước có tính mục đích
chuyên biệt.
2.2.4.3 Đặc trưng thứ ba của phương pháp dạy học giải quyết vấn đề là nó có
cách tổ chức đa dạng.
2.3 Những ưu điểm và hạn chế của phương pháp dạy học giải quyết vấn
đề
2.4 Sự kết hợp giữa phương pháp dạy học giải quyết vấn đề với một số
phương pháp dạy học khác.
3. Đặc điểm tâm sinh lý, khả năng tư duy của học sinh tiểu học
II. Cơ sở thực tiễn
III. Kết luận chương I
Chương II
Vận dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề vào
dạy học môn Khoa học lớp 4
1. Đặc điểm nội dung chương trình và sách giáo khoa Khoa học lớp 4
1.1 Đặc điểm nội dung chương trình Khoa học lớp 4
1.2 Đặc điểm sách giáo khoa Khoa học lớp 4
1.3 Khả năng vận dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề vào dạy
học môn Khoa học lớp 4
2. Việc xây dựng tình huống có vấn đề trong dạy học môn Khoa học lớp
4
2.1 Quy trình chung của việc xây dựng tình huống có vấn đề trong dạy
học môn Khoa học lớp 4
2.2 Các loại tình huống có vấn đề
14
2.3 Một số tình huống có vấn đề được xây dùng trong chương trình môn
Khoa học lớp 4
3. Việc sử dụng tình huống có vấn đề trong dạy học môn Khoa học lớp 4
3.1 Các mức độ của dạy học giải quyết vấn đề
3.2 Sử dụng các tình huống có vấn đề trong quá trình dạy học môn Khoa
học lớp 4
3.3 Hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề trong học tập môn Khoa học
lớp 4
4. Thiết kế một số bài học có vận dụng phương pháp dạy học giải quyết
vấn đề trong môn Khoa học lớp 4
15