Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

Đánh giá thực trạng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất rau tại xã văn đức, huyện gia lâm, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.85 KB, 65 trang )

Phần 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Rau là loại thực phẩm không thể thiếu trong bữa ăn hàng ngày của con người
đặc biệt là với các dân tộc Châu Á, nhu cầu tiêu dùng rau hàng ngày càng tăng cao
về số lượng và chất lượng.
Trong quá trình sản xuất rau trên đồng ruộng một số loài sâu, bệnh xuất hiện
thành dịch gây hại năng suất, chất lượng rau, khiến nông dân đã phải sử dụng một
số loại thuốc bảo vệ thực vật để phòng chống chúng.
Cùng với sự phát triển của kinh tế, xã hội thì mức độ ô nhiễm, trong đó có ô
nhiễm về hoá chất bảo vệ thực vật (BVTV) ngày càng gia tăng. Hoá chất BVTV
được sử dụng nhiều trong nông nghiệp để lại dư lượng trong nông sản sau thu
hoạch vượt quá mức cho phép là do nhiều nguyên nhân liên quan đến công tác vệ
sinh an toàn thực phẩm mà thời gian qua Nhà nước, Thành phố và người dân quan
tâm, đòi hỏi phải có biện pháp khắc phục.
Việc sử dụng thuốc BVTV để phòng trừ dịch hại trong sản xuất nông nghiệp đã
mang lại hiệu quả to lớn trong việc nâng cao năng suất cây trồng. Tuy nhiên, hiện
nay việc sử dụng thuốc BVTV để phòng trừ dịch hại bảo vệ cây trồng của nông
dân Việt Nam nói chung và nông dân Văn Đức nói riêng còn nhiều tồn tại, bất cập,
vi phạm các quy định của Nhà nước, của Thành phố. Tình trạng sử dụng thuốc
BVTV không đúng kỹ thuật, không đảm bảo thời gian cách ly vẫn xảy ra đặc biệt ở
vùng sản xuất rau.
1
Chính vì vậy, dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Bích Yên, tôi đã thực
hiện đề tài: “Đánh giá thực trạng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất
rau tại xã Văn Đức, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội”
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Đánh giá thực trạng sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật ở vùng trồng rau
Văn Đức.
- Đề xuất một số giải pháp sử dụng hợp lý phân bón, thuốc bảo vệ thực vật
trong sản xuất nông nghiệp nhằm giảm thiểu ảnh hưởng xấu đến môi trường.


1.3. Yêu cầu của đề tài
- Đánh giá được hiện trạng sử dụng phân bón chính (N, P, K) và phân chuồng
cho các cây rau trồng chính tại xã Văn Đức theo lượng nguyên chất và phương
pháp bón.
- Đánh giá được hiện trạng sử dụng hoá chất BVTV cho các cây rau trồng chính
tại xã Văn Đức theo lượng nguyên chất và kỹ thuật sử dụng.
- Đề xuất một số giải pháp sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật hiệu quả góp
phần giảm thiểu ảnh hưởng xấu tới môi trường và sức khoẻ người dân.
Phần 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Khái quát chung về thuốc BVTV
2.1.1. Khái quát thuốc bảo vệ thực vật
2
Thuốc BVTV là những hợp chất độc có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp hóa
học dùng để phòng trừ sâu bệnh, cỏ dại, loài gặm nhấm gây hại cho cây trồng
ngoài đồng ruộng, nông sản trong kho bảo quản và được gọi chung là vi sinh vật
gây hại trồng và nông sản (Trần Quang Hùng, 2000)
Thuốc bảo vệ thực vật là những hợp chất hoá học (vô cơ, hữu cơ), những
chế phẩm sinh học (chất kháng sinh, vi khuẩn, nấm, siêu vi trùng, tuyến
trùng…), những chất có nguồn gốc thực vật, động vật, được sử dụng để bảo vệ
cây trồng và nông sản, chống lại sự phá hại của những sinh vật gây hại (côn
trùng, nhện, tuyến trùng, chuột, chim, thú rừng, nấm, vi khuẩn, rong rêu, cỏ
dại…) (Chi cục BVTV Phú Thọ, 2009).
Theo qui định tại điều 1, chương 1, điều lệ quản lý thuốc BVTV (ban hành kèm
theo Nghị định số 58/2002/NĐ-CP ngày 03/6/2002 của Chính phủ), ngoài tác dụng
phòng trừ sinh vật gây hại tài nguyên thực vật, thuốc BVTV còn bao gồm cả những
chế phẩm có tác dụng điều hoà sinh trưởng thực vật, các chất làm rụng lá, làm khô
cây, giúp cho việc thu hoạch mùa màng bằng cơ giới được thuận tiện (thu hoạch
bông vải, khoai tây bằng máy móc, …). Những chế phẩm có tác dụng xua đuổi
hoặc thu hút các loài sinh vật gây hại tài nguyên thực vật đến để tiêu diệt.

Thuốc BVTV có thể diệt dịch hại nhanh, triệt để, đồng loạt trên diện rộng
và chặn đứng những trận dịch trong thời gian ngắn mà các biện pháp khác
không thể thực hiện được. Là biện phỏp hoỏ học đem lại hiệu quả phòng trừ rõ
rệt, bảo vệ được năng suất cây trồng, cải thiện chất lượng nông sản và mang lại
hiệu quả kinh tế; lại dễ dùng, có thể áp dụng ở nhiều vùng khác nhau, đem lại
hiệu quả ổn định và nhiều khi là biện pháp phòng trừ duy nhất.
Ngay từ khi mới ra đời thuốc BVTV đã được đánh giá cao và được coi là
một trong những thành tựu lớn của khoa học kỹ thuật.
Đến
nay, thuốc BVTV
đã để lại những dấu ấn quan trọng trong hầu hết các lĩnh vực của nền nông
nghiệp hiện đại. Mặc dù ngày nay khoa học đã đạt được những thành tựu to
lớn về nhiều mặt như sinh thái học dịch hại, miễn dịch thực vật… nhiều biện
3
pháp phòng trừ dịch hại được áp dụng có hiệu quả như lại tạo các giống chống
chịu sâu bệnh, tạo giống sạch bệnh bằng phương pháp nuôi cấy mụ, cỏc biện
pháp sinh học trong bảo vệ thực vật, quản lý dịch hại tổng hợp… nhưng thuốc
bảo vệ thực vật vẫn có vai trò to lớn trong việc kiểm soát dịch bệnh trong nông
nghiệp. Đặc biệt, đối với người nông dân, sử dụng thuốc BVTV được coi là
phương pháp đơn giản và được áp dụng thường xuyên.
2.1.2. Một số khái niệm liên quan
Dịch hại (pest): dùng chỉ mọi loài sinh vật gây hại cho người, cho mùa
màng, nông lâm sản; công trình kiến trúc; cho cây rừng, cho môi trường sống.
Bao gồm các loài côn trùng, tuyến trùng, vi sinh vật gây bệnh cây, cỏ dại, các
loài gặm nhấm, chim và động vật phá hoại cây trồng. Danh từ này không bao
gồm các vi sinh vật gây bệnh cho người, cho gia súc.
Thuốc trừ dịch hại (pesticide ): Là những chất hay hỗn hợp các chất dùng
để ngăn ngừa, tiêu diệt hay phòng trừ các loài dịch hại gây hại cho cây trồng,
nông lâm sản, thức ăn gia súc, hoặc những loài dịch hại gây hại cản trở quá
trình chế biến, bảo quản, vận chuyển nông lâm sản; những loại côn trùng, ve

bét gây hại cho người và gia súc. Thuật ngữ này còn bao gồm cả các chất điều
hoà sinh trưởng cây trồng, chất làm rụng hay khụ lỏ hoặc các chất làm cho quả
sáng đẹp hay ngăn ngừa rụng quả sớm và các chất dùng trước hay sau thu
hoạch để bảo vệ sản phẩm không bị hư thối trong bảo quản và chuyên chở. Thế
giới cũng quy định thuốc trừ dịch hại còn bao gồm thuốc trừ ruồi muỗi trong y
tế và thú y.
Tài nguyên thực vật gồm cây, sản phẩm của cây, nông sản, thức ăn gia súc,
lâm sản khi bảo quản.
Sinh vật gây hại tài nguyên thực vật bao gồm: côn trùng, nấm, vi khuẩn, cỏ
dại, chuột và các tác nhân sinh vật gây hại khác.
Dư lượng là phần còn lại của hoạt chất, các sản phẩm chuyển hoá và các
thành phần khác có trong thuốc, tồn tại trên cây trồng, nông sản, đất, nước sau
một thời gian dưới tác động của các hệ sống (living systems) và điều kiện
4
ngoại cảnh (ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm ). Dư lượng của thuốc được tính bằng
mg (miligam) thuốc có trong 1kg nông sản, đất hay nước (mg/kg).
Như vậy, dư lượng thuốc BVTV bao gồm bất kỳ dẫn xuất nào của thuốc
cũng như các sản phẩm chuyển hoá của chúng có thể gây độc cho môi sinh,
môi trường. Dư lượng có thể có nguồn gốc từ những chất đã xử lý vào đất hay
trên bề mặt vật phun; phần khác lại bắt nguồn từ sự ô nhiễm (biết hay không
biết) có trong không khí, đất và nước.
2.1.3. Phân loại thuốc BVTV
Thuốc BVTV đang được sử dụng trên thị trường rất đa dạng về chủng loại,
phong phú về sản phẩm. Theo Danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng ở Việt
Nam năm 2013 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, có 1.643 hoạt chất
trong đó nhóm thuốc trừ sâu có 745 hoạt chất và 1.662 tên thương phẩm, thuốc trừ
bệnh có 552 hoạt chất và 1.229 tên thương phẩm, còn lại là các loại thuốc khác.
Tùy theo mục đích nghiên cứu có nhiều cách để phân loại thuốc BVTV:
2.1.3.1. Phân loại theo tính độc
Các nhà sản xuất thuốc BVTV luôn ghi rõ độc tính của từng loại. Đơn vị đo

lường được biểu thị dưới dạng LD50 (Lethal Dose 50) và tính bằng mg/kg cơ
thể. Các loại thuốc BVTV được chia mức độ độc như sau:
- Vạch màu đỏ trờn nhón là thuốc độc nhóm I, rất nguy hiểm.
- Vạch màu vàng là thuốc độc nhóm II, cảnh báo có hại.
- Vạch màu xanh da trời là thuốc độc nhóm III, lưu ý cẩn thận.
- Vạch màu xanh lá cây là thuốc độc nhóm IV, ít độc.
Nhà sản xuất dùng kí hiệu đầu lâu gạch chéo là vô cùng nguy hiểm, rất độc,
có thể gây chết người.
5
Bảng 2.1 – Phân loại thuốc BVTV theo tính độc.
Mức độ độc
LD50 với chuột (mg/kg)
Qua miệng Qua da
Thuốc rắn Thuốc
nước
Thuốc rắn Thuốc
nước
Nhóm I < 5 < 20 < 10 < 40
Nhóm II 5 - 50 20 - 200 10 - 100 40 - 400
Nhóm III 50 - 500 200 -
2000
100 - 1000 400 - 4000
Nhóm IV > 500 > 2000 > 1000 > 4000
(Nguồn: Cách phân nhóm độc của tổ chức WHO)
Nói chung, thuốc BVTV có LD50 thấp thỳ có độ độc cao và ngược lại. Cho
nên, trong khi sử dụng nhiều loại có cùng tác dụng như nhau, nên chọn loại
thuốc có LD50 cao, vì an toàn hơn.
2.1.3.2. Phân loại theo công dụng
Thuốc BVTV được chia thành từng nhóm tuỳ theo công dụng của chúng và
thường được chia làm 2 loại chính là thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ; ngoài ra

cũng có thuốc trừ bệnh, thuốc diệt chuột và chất điều hoà sinh trưởng cây
trồng.
6
• Thuốc trừ sâu là chất hay hỗn hợp các chất có tác dụng tiêu diệt, xua đuổi hay
di chuyển bất kỳ loại côn trùng nào có mặt trong môi trường. Chúng được
dùng để diệt trừ hoặc ngăn ngừa tác hại của côn trùng đến cây trồng, cây rừng,
nông lâm sản, gia súc và con người. Bao gồm các thuốc diệt trứng và thuốc
diệt ấu trùng

để diệt trứng

và ấu trùng

của côn trùng. Các loại thuốc trừ sâu
thường gặp:
Các loại thuốc trừ sâu ngấm vào cơ thể

: được kết hợp vào trong các loại
cây được xử lý. Các loại côn trùng ăn vào thuốc trừ sâu khi ăn cây.
Các loại thuốc trừ sâu tiếp xúc độc hại với côn trùng: có tiếp xúc trực tiếp
với chúng. Tính hiệu quả thường liên quan tới số lượng sử dụng

, với các giọt
nhỏ (như sương

) thường cải thiện tính năng.
Các loại thuốc trừ sâu tự nhiên: như các chiết xuất nicotine

, pyrethrum



neem

do các loại cây tạo ra để bảo vệ chống lại côn trùng. Các loại thuốc trừ
sâu dựa trên nicotine đã bị cấm tại Hoa Kỳ từ năm 2001 để ngăn chặn dư
lượng làm nhiễm độc thực phẩm.
Các loại thuốc trừ sâu vô cơ: được sản xuất bằng các kim loại bao gồm các
hợp chất arsenate

đồng

- và fluorine

, hiện ít được sử dụng, và sulfur

, thường
được sử dụng.
Các loại thuốc trừ sâu hữu cơ: là các hóa chất tổng hợp chiếm phần lớn
lượng thuốc trừ sâu sử dụng ngày nay.
• Thuốc diệt cỏ là những hóa chất có khả năng giết chết hoặc ức chế sự phát
triển của cỏ, được dùng để diệt trừ các loại thực vật hoang dại (cỏ dại, cây dại)
mọc lẫn với cây trồng, tranh chấp nước, chất dinh dưỡng, ánh sáng với cây
trồng, khiến cho cây sinh trưởng và phát triển kém, ảnh hưởng xấu đến năng
suất cây trồng và phẩm chất nông sản. Đây là nhóm thuốc dễ gây hại cho cây
trồng nhất. Vì vậy khi dựng các thuốc trong nhóm này cần đặc biệt thận trọng.
Bảng 2.2 – Phân loại thuốc diệt cỏ.
Cách phân
loại thuốc
diệt cỏ
Loại thuốc Đặc điểm

7
Theo đặc tính
chọn lọc của
thuốc trừ cỏ
Thuốc tr

cỏ
có chọn lọc.
Có tác dụng diệt hoặc làm ngừng sinh
trưởng đối với một số loài cỏ dại mà
không hoặc ít ảnh hưởng đến cây trồng
và các loài cỏ dại khác.
Thuốc trừ cỏ
không chọn
lọc.
Những thuốc trừ cỏ khi dùng gây độc
cho mọi loại cỏ và cây trồng
Theo phương
thức tác động
Thuốc trừ cỏ
tiếp xúc
Chỉ gây hại cho thực vật ở những nơi
thuốc có tiếp xúc với cỏ và thường chỉ
diệt những phần trên mặt đất của cỏ dại.
Thuốc trừ cỏ
nội hấp
Xâm nhập qua lá hoặc qua rễ và thuốc
dịch chuyển khắp trong cây và gây độc
cho cỏ dại.
Theo thời

gian sử dụng
Thuốc trừ cỏ
dùng khi chưa
làm đất
Dùng trên ruộng chưa gieo trồng có
nhiều cỏ dại, sau một thời gian thuốc bị
phân huỷ, không hại cây trồng.
Thuốc trừ cỏ
dùng sau khi
gieo hạt
Những thuốc trừ cỏ xử lý đất, chỉ diệt cỏ
dại mới nảy mầm (còn gọi là thuốc trừ
cỏ tiền nẩy mầm).
Thuốc trừ cỏ
trên ruộng có
cây trồng đang
sinh trưởng
Những thuốc trừ cỏ chọn lọc và phải
dùng vào thời kỳ mà cây có sức chống
chịu cao, còn cỏ dại có sức chống chịu
yếu đối với thuốc.
(Nguồn: Giáo trình sử dụng thuốc BVTV – Trường ĐH Nông nghiệp HN)
• Thuốc trừ bệnh: bao gồm các hợp chất có nguồn gốc hoá học (vô cơ và hữu
cơ), sinh học (vi sinh vật và các sản phẩm của chúng, nguồn gốc thực vật), có
tác dụng ngăn ngừa hay diệt trừ các loài vi sinh vật gây hại cho cây trồng và
nông sản (nấm ký sinh, vi khuẩn, xạ khuẩn) bằng cách phun lên bề mặt cây, xử
lý giống và xử lý đất Thuốc trừ bệnh dùng để bảo vệ cây trồng trước khi bị
các loài vi sinh vật gây hại tấn công tốt hơn là diệt nguồn bệnh và không có tác
dụng chữa trị những bệnh do những yếu tố phi sinh vật gây ra (thời tiết, đất
úng, hạn ). Thuốc trừ bệnh bao gồm cả thuốc trừ nấm (Fungicides) và trừ vi

8
khuẩn (Bactericides). Thường thuốc trừ vi khuẩn có khả năng trừ được cả nấm;
còn thuốc trừ nấm thường ít có khả năng trừ vi khuẩn.
Dựa theo tác động của thuốc đến vi sinh vật, có thể phân các thuốc trừ bệnh
thành 2 nhóm:
- Thuốc có tác dụng phòng bệnh (còn gọi là thuốc có tác dụng bảo vệ cây):
Thuốc được phun xịt lên cây hoặc trộn - ngâm hạt giống, có tác dụng ngăn
ngừa vi sinh vật gây bệnh có thể xâm nhập vào bên trong mô thực vật để phát
triển rồi gây hại cho cây. Những thuốc này phải được dùng sớm, khi dự báo
bệnh có khả năng xuất hiện và gây hại cho thực vật. Nếu dùng chậm thuốc
không thể ngăn chặn được bệnh phát triển. Ví dụ: Boocđô, Đồng oxyclorua,
Monceren, Mancozeb…
- Thuốc có tác dụng trừ bệnh: Khi phun lên cây, thuốc có khả năng xâm
nhập dịch chuyển bên trong mô thực vật và diệt được vi sinh vật gây bệnh
đang phát triển ở bên trong mô thực vật. Nhiều loại thuốc trừ bệnh thông dụng
ở nước ta là những thuốc có tác dụng trị bệnh như Aliette, Anvil, Kitazin,
Validacin, …
Muốn đạt hiệu quả phòng trừ bệnh cao những thuốc có tác dụng trừ bệnh
cũng cần được phun sớm, khi bệnh chớm phát hiện. Phun muộn thì cho dù có
diệt được nấm bệnh ở bên trong mô thực vật, nhưng cây sẽ khó hồi phục và
điều này sẽ ảnh hưởng đến năng suất cây trồng, chất lượng nông sản.
• Thuốc diệt chuột: là những hợp chất vô cơ, hữu cơ; hoặc có nguồn gốc sinh
học có hoạt tính sinh học và phương thức tác động rất khác nhau, được dùng
để diệt chuột gây hại trên ruộng, trong nhà và kho tàng. Chúng tác động đến
chuột chủ yếu 2 con đường vị độc và xông hơi (ở nơi kín đáo).
• Chất điều hoà sinh trưởng cây trồng: còn được gọi là chất (thuốc) kích thích
sinh trưởng cây trồng. Ở nồng độ thích hợp, các hợp chất này kích thích cây
sinh trưởng và phát triển, tăng tỷ lệ nảy mầm, tăng sức sống của mầm, giúp
9
cây nhanh ra rễ, lá, hoa, quả, rút ngắn thời gian sinh trưởng tăng năng suất

và chất lượng nông sản. Ở nồng độ cao thuốc dễ gây hại cho thực vật. Thuốc ít
độc với động vật có vú, môi sinh và môi trường.
Các nhóm thuốc BVTV chỉ diệt trừ được một số loài dịch hại nhất định, chỉ
phát huy hiệu quả tối ưu trong những điều kiện nhất định về thời tiết, đất đai,
cây trồng, canh tác…
2.1.3.3. Phân loại theo gốc hóa học:
Thuốc trừ sâu gồm các gốc hóa học chính như Clo hữu cơ, Lân hữu cơ,
Carbamate, Cúc tổng hợp (Pyrethroid), thuốc thảo mộc, thuốc vi sinh, thuốc
điều hòa sinh trưởng côn trùng và nhóm khác.
Thuốc trừ bệnh gồm nhóm thuốc vô cơ (đồng, lưu huỳnh, thủy ngân) và
nhóm thuốc hữu cơ (có nhiều gốc hóa học như Lân hữu cơ, Carbamate,
Dithiocarbamate, Triazole, thuốc sinh học)
Thuốc diệt cỏ gồm nhóm thuốc vô cơ (Sulfat đồng, Natri Clorat) và nhóm
thuốc hữu cơ (có nhiều gốc hóa học như Acetamic, Lân hữu cơ, Phenoxy,
Phenylure, Triazin)
Thuốc diệt chuột gồm nhóm vô cơ (Thạch tín, Phốt phua kẽm), nhóm hữu
cơ (chủ yếu các chất chống đụng mỏu như Wafarin, Brodifacoum) và nhóm vi
sinh (chủ yếu vi khuẩn Sanmonella)
Thuốc điều hòa sinh trưởng thực vật gồm cỏc nhúm chủ yếu là Auxin,
Gibberellin, Cytokinin, Ethrel và các chất ức chế sinh trưởng
2.1.3.4. Phân loại dựa vào con đường xâm nhập (hay cách tác động của
thuốc) đến dịch hại: tiếp xúc, vị độc, xông hơi, thấm sâu và nội hấp.
2.1.3.5. Phân loại dựa vào nguồn gốc:
Thuốc có nguồn gốc thảo mộc: bao gồm các thuốc BVTV làm từ cây cỏ hay
các sản phẩm chiết xuất từ cây cỏ có khả năng tiêu diệt dịch hại.
Thuốc có nguồn gốc sinh học: gồm các loài sinh vật (các loài ký sinh ), các
sản phẩm có nguồn gốc sinh vật ( như các loài kháng sinh ) có khả năng tiêu
10
diệt dịch hại.
Thuốc có nguồn gốc vô cơ : bao gồm các hợp chất vô cơ ( như dung dịch

boocđô, lưu huỳnh và lưu huỳnh vôi ) có khả năng tiêu diệt dịch hại.
Thuốc có nguồn gốc hữu cơ: Gồm các hợp chất hữu cơ tổng hợp có khả
năng tiêu diệt dịch hại (như các hợp chất clo hữu cơ, lân hữu cơ, cacbamat ).
Gần đây, do nhiều dịch hại đã hình thành tính chống nhiều loại thuốc có
cùng một cơ chế, nên người ta còn phân loại theo cơ chế tác động của các loại
thuốc ( như thuốc kìm hãm men cholinesterase, GABA, kìm hãm hô hấp )
hay theo phương thức tác động (thuốc điều khiển sinh trưởng côn trùng, thuốc
triệt sản, chất dẫn dụ, chất xua ủuổi hay chất gõy ngỏn). Phân chia theo các
dạng thuốc ( thuốc bột, thuốc nước ) hay phương pháp sử dụng (thuốc dùng
để phun lên cây, thuốc xử lý giống ).
Ngoài cách phân loại chủ yếu trên, tuỳ mục đích nghiên cứu và sử dụng,
người ta còn phân loại thuốc BVTV theo nhiều cách khác nữa. Không có sự
phân loại thuốc BVTV nào mang tính tuyệt đối, vì một loại thuốc có thể trừ
được nhiều loại dịch hại khác nhau, có khả năng xâm nhập vào cơ thể dịch hại
theo nhiều con đường khác nhau, có cùng lúc nhiều cơ chế tác động khác nhau;
trong thành phần của thuốc có các nhóm hay nguyên tố gây độc khác nhau
nên các thuốc có thể cùng lúc xếp vào nhiều nhóm khác nhau.
2.1.4. Vai trò tích cực của thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất nông nghiệp
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng do viêc bùng nổ dân số, cùng với xu
hướng đô thị hóa và công nghiệp hóa ngày càng mạnh, con người chỉ còn một cách
duy nhất: thâm canh để tăng sản lượng cây trồng.
Khi thâm canh cay trồng, một hậu quả tất yếu không thể tránh được là gây
mất cân bắng sinh thái, kéo theo sự phá hoại của dịch hại ngày càng tăng.để giảm
thiệt hại gây ra, con người ta phải đầu tư thêm kinh phí để tiến hành biện pháp
phòng trừ, trong đó biện pháp hóa học được coi là quan trọng. Biện pháp hóa học
11
bvtv đóng một vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp với nhiều ưu điểm
nổi trội:
- Thuốc hóa học có thể diệt dịch hại nhanh, triệt để, đồng loạt trên diện rộng và
chặn đứng các trận dịch trong thời gian ngắn mà các biện pháp khác không thể

thực hiện được.
- Biện pháp hóa học đem lại hiệu quả phòng trừ rõ rệt, kinh tế, bảo vệ được
năng suất cây trồng, cải thiện chất lượng nông sản và mang lại hiệu quả kinh tế,
đồng thời giảm diện tích canh tác.
- Biện pháp hóa học dễ dùng, có thể áp dụng nhiều vùng khác nhau, đem lại
hiệu quả ổn định và nhiều khi là biện pháp phong trừ duy nhất
Đến nay, thuốc bảo vệ thực vật đã để lại những dấu ấn quan trọng trong
hầu hết các lĩnh vực của nền nông nghiệp hiện đại. Nhưng loài người vẫn tiếp tục
tìm kiếm các dạng sản phẩm mới dễ sử dụng hơn, có hiệu lực trừ dịch hại cao hơn,
thân thiện hơn với môi sinh và môi trường. (Trần Quang Hùng, 2000)
2.2 Lịch sử phát triển, tình hình sản xuất và sử dụng thuốc BVTV trên thế
giới và tại Việt Nam
2.2.1. Lịch sử phát triển thuốc BVTV trên thế giới
Quá trình phát triển của thuốc BVTV trên thế giới, theo PGS.TS Nguyễn
Trần Oánh và CS (2007, tr 6-7) chia thành các giai đoạn như sau:
• Giai đoạn 1 (Trước thế kỷ 20): Với trình độ canh tác lạc hậu, các giống cây
trồng có năng suất thấp, tác hại của dịch hại còn chưa lớn. Để bảo vệ cây,
người ta dựa vào các biện pháp canh tác, giống sẵn có. Sự phát triển nông
nghiệp trông chờ vào sự may rủi. Tuy con người đã phát hiện ra cách sử dụng
một số chất hóa học để diệt trừ sâu bệnh như:
- 1848, lưu huỳnh trừ bệnh phấn trắng Erysipphacea hại nho.
12
- Dung dịch boocđô ra đời năm 1879; lưu huỳnh vôi dùng để trừ rệp sáp
Aspidiotus perniciosus hại cam (1881)
- Mở đầu cho việc dùng các chất xông hơi trong BVTV là sự kiện dùng HCN
trừ rệp vảy Aonidiella aurantii hại cam (1887)
- 1889, aseto asenat đồng dùng trừ sâu Leptinotarsa decemeatas hại khoai tây
- 1892, asenat chì trừ sâu rừng Porthetria despr, sâu ăn quả
- Nửa cuối thế kỷ 19, dùng cacbon disulfua (CS2) để chống chuột đồng và các ổ
rệp Pluylloxera hại nho Nhưng những biện pháp hoá học lúc này vẫn chưa có

một vai trò đáng kể trong sản xuất nông nghiệp.
• Giai đoạn 2 ( Từ đầu thế kỷ 20 đến năm 1960): Các thuốc trừ dịch hại hữu cơ
ra đời, làm thay đổi vai trò của biện pháp hoá học trong sản xuất nông nghiệp.
Lúc này người ta cho rằng: Mọi vấn đề BVTV đều có thể giải quyết bằng
thuốc hoá học. Biện pháp hoá học bị khai thác ở mức tối đa, thậm chí người ta
còn hy vọng, nhờ thuốc hoá học để loại trừ hẳn một loài dịch hại trong một
vùng rộng lớn. Từ cuối những năm 1950, những hậu quả xấu của thuốc
BVTV gây ra cho con người, môi sinh và môi trường được phát hiện. Khái
niệm phòng trừ tổng hợp sâu bệnh ra đời.
• Giai đoạn 3 (những năm 1960- 1980): Việc lạm dụng thuốc BVTV đã để lại
những hậu quả rất xấu cho môi sinh môi trường dẫn đến tình trạng, nhiều
chương trình phòng chống dịch hại của nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế
dựa vào thuốc hoá học đã bị sụp đổ; tư tưởng sợ hãi, không dám dùng thuốc
BVTV xuất hiện; thậm chí có người cho rằng, cần loại bỏ không dùng thuốc
BVTV trong sản xuất nông nghiệp.
Tuy vậy, các loại thuốc BVTV mới có nhiều ưu điểm, an toàn hơn đối với
môi sinh môi trường, như thuốc trừ cỏ mới, các thuốc trừ sâu bệnh có nguồn
gốc sinh học hay tác động sinh học, các chất điều tiết sinh trưởng côn trùng và
cây trồng vẫn liên tục ra đời. Lượng thuốc BVTV được dựng trờn thế giới
không những không giảm mà còn tăng lên không ngừng.
●Giai đoạn 4 (từ những năm 1980 đến nay): Vấn đề bảo vệ môi trường
được quan tâm hơn bao giờ hết. Nhiều loại thuốc BVTV mới, trong đó có
nhiều thuốc trừ sâu bệnh sinh học, có hiệu quả cao với dịch hại, nhưng an toàn
với môi trường ra đời. Vai trò của biện pháp hoá học đã được thừa nhận. Tư
13
tưởng sợ thuốc BVTV cũng bớt dần. Quan điểm phòng trừ tổng hợp được phổ
biến rộng rãi.
2.2.2. Tình hình sản xuất và sử dụng thuốc BVTV trên thế gi

i

Mặc dù sự phát triển của biện pháp hoá học có nhiều lúc thăng trầm, song
tổng giá trị tiêu thụ thuốc BVTV trên thế giới và số hoạt chất tăng lên không
ngừng, số chủng loại ngày càng phong phú. Nhiều thuốc mới và dạng thuốc
mới an toàn hơn với môi sinh môi trường liên tục xuất hiện bất chấp các quy
định quản lý ngày càng chặt chẽ của các quốc gia đối với thuốc BVTV và kinh
phí đầu tư cho nghiên cứu để một loại thuốc mới ra đời ngày càng lớn.
Trong 10 năm gần đây tổng lượng thuốc BVTV tiêu thụ có xu hướng giảm,
nhưng giá trị của thuốc tăng không ngừng. Nguyên nhân là cơ cấu thuốc thay
đổi: nhiều loại thuốc cũ, giá rẻ, dùng với lượng lớn, độc với môi sinh môi
trường được thay thế dần bằng các loại thuốc mới hiệu quả, an toàn và dùng
với lượng ít hơn, nhưng lại có giá thành cao.
Tuy vậy, mức đầu tư về thuốc BVTV và cơ cấu tiêu thụ các nhóm thuốc
tuỳ thuộc trình độ phát triển và đặc điểm canh tác của từng nước. Ngày nay,
biện pháp hoá học BVTV được phát triển theo các xu hướng chính sau:
- Nghiên cứu tìm ra các hoạt chất mới có cơ chế tác động mới, có tính chọn
lọc và hiệu lực trừ dịch hại cao hơn, lượng dùng nhỏ hơn, tồn lưu ngắn, ít độc
và dễ dùng hơn. Thuốc trừ sâu tác dụng chậm (điều khiển sinh trưởng côn
trùng, pheromon, các chất phản di truyền, chất triệt sản) là những ví dụ điển
hình. Thuốc sinh học được chú ý dùng nhiều hơn.
- Tìm hiểu các phương pháp và nguyên liệu để gia công thành các dạng
thuốc mới ít ô nhiễm, hiệu lực dài, dễ dùng, loại dần dạng thuốc gây ô nhiễm
môi trường.
- Nghiên cứu công cụ phun rải tiên tiến và cải tiến các loại công cụ hiện có
để tăng khả năng trang trải, tăng độ bám dính, giảm đến mức tối thiểu sự rửa
trôi của thuốc. Chú ý các phương pháp sử dụng thuốc khác bên cạnh phun
thuốc còn đang phổ biến. Thay phun thuốc sớm, đại trà và định kỳ bằng phun
14
thuốc khi dịch hại đạt đến ngưỡng.
Những quốc gia có sản lượng, kim ngạch xuất nhập khẩu và sử dụng
HCBVTV đứng hàng đầu thế giới là Trung Quốc và Hoa Kỳ.

Tại Trung Quốc để tăng cường tự chủ về HCBVTV, Chính phủ Trung Quốc
đã gia tăng đầu tư vào ngành công nghiệp HCBVTV. Chính vì vậy ngành công
nghiệp sản xuất HCBVTV phát triển mạnh, hiện tại có hơn 2500 nhà máy sản
xuất lớn, nhỏ. Sản lượng HCBVTV của Trung Quốc đã tăng trưởng nhanh,
năm 2007 đạt 1731 nghìn tấn, năm 2008 đạt 1902 nghìn tấn. Trung Quốc là
nhà sản xuất lớn nhất trong ngành công nghiệp HCBVTV toàn cầu. Năm 2007
lần đầu tiên Trung Quốc vượt qua Hoa Kỳ. Trung Quốc đứng đầu thế giới về
sản xuất, sử dụng HCBVTV và cũng là nước xuất khẩu lượng HCBVTV đứng
hàng đầu thế giới. Theo Tổng cục Hải quan Trung Quốc tổng lượng xuất khẩu
HCBVTV năm 2008 là 485 nghìn tấn với kim ngạch hơn 2 tỷ USD (Phát triển
nông nghiệp nông thôn, 2009).
Tại Hoa Kỳ, từ 1966 đến 1986 nhu cầu đối với HCBVTV của nông dân tăng
rất mạnh, diện tích cây trồng được phun HCBVTV và chất diệt cỏ tăng gấp
đôi, 75 % diện tích canh tác nông nghiệp của Hoa Kỳ đã và đang sử dụng
HCBVTV. Số HCBVTV nông dân sử dụng tăng từ 353 triệu lên 475 triệu
Pound. Ở Hoa Kỳ sản lượng HCBVTV được chi phối bởi khoảng 28 công ty
lớn (Eichers, T.R., Szmedra, P.I, 2006). Hoa Kỳ là một quốc gia xuất khẩu
HCBVTV lớn, năm 2008 xuất khẩu 115 nghìn tấn kim ngạch hơn 2 tỷ USD
(Phát triển nông nghiệp nông thôn, 2009).
Trên đây là 2 quốc gia hàng đầu thế giới về sản lượng, kim ngạch xuất nhập
khẩu và sử dụng HCBVTV, ngoài ra một số nước sử dụng nhiều như: Thái
Lan, Nhật Bản, Brazil…Tuy vậy, mức đầu tư và cơ cấu tiêu thụ các nhóm hoá
chất tuỳ thuộc trình độ phát triển và đặc điểm canh tác của từng nước (PGS.TS
Nguyễn Trần Oánh, 2007).
Trong 10 năm gần đây đã có những thay đổi trong ngành công nghiệp
HCBVTV thế giới là những hoá chất có độc tính cao đã từng bước được loại ra
khỏi thị trường và thay vào đó là các loại HCBVTV ít độc hại hơn đối với môi
trường và sức khoẻ cộng đồng (Lvxian, Wang, 2009), (The Future of Pesticide
15
in China, 2009-2015).

2.2.3. Lịch sử phát triển, tình hình sản xuất và sử dụng thuốc BVTV ở Việt
Nam
Theo PGS.TS Nguyễn Trần Oánh và CS (2007, tr8-9), chia thành ba giai
đoạn:
• Giai đoạn trước năm 1957: Biện pháp hoá học hầu như không có vị trí trong
sản xuất nông nghiệp. Một lượng rất nhỏ sunfat đồng được dùng ở một số đồn
điền do Pháp quản lý để trừ bệnh gỉ sắt cà phê và bệnh thối gốc chảy mủ cao
su và một ít DDT được dùng để trừ sâu hại rau.
Việc thành lập Tổ Hoá Bảo vệ thực vật (1/1956) của Viện Khảo cứu trồng
trọt đã đánh dấu sự ra đời của ngành Hoá Bảo vệ thực vật ở Việt nam. Thuốc
BVTV được dùng lần đầu trong sản xuất nông nghiệp ở miền Bắc là trừ sâu
gai, sâu cuốn lá lớn bựng phỏt ở Hưng yên (vụ đông xuân 1956-1957). Ở miền
Nam, thuốc BVTV được sử dụng từ 1962.
• Giai đoạn từ 1957 - 1990: Thời kỳ bao cấp, việc nhập khẩu, quản lý và phân
phối thuốc do nhà nước độc quyền thực hiện. Nhà nước nhập rồi trực tiếp phân
phối thuốc cho các tỉnh theo giá bao cấp, rồi qua HTX nông nghiệp đến tay xã
viên để phòng trị dịch hại. Lượng thuốc BVTV dùng không nhiều, khoảng
15000 tấn thành phẩm/năm với khoảng 20 chủng loại thuốc trừ sâu (chủ yếu)
và thuốc trừ bệnh. Đa phần là các thuốc có độ tồn lưu lâu trong môi trường hay
có độ độc cao.
Tuy lượng thuốc dùng ít, nhưng tình trạng lạm dụng thuốc BVTV vẫn nảy
sinh. Để phòng trừ sâu bệnh, người ta chỉ biết dựa vào thuốc BVTV. Thuốc
dùng tràn lan, phun phòng là phổ biến, khuynh hướng phun sớm, phun định kỳ
ra đời, thậm chí dùng thuốc cả vào những thời điểm không cần thiết; tình trạng
dùng thuốc sai kỹ thuật nảy sinh khắp nơi; thậm chí người ta còn hy vọng dùng
thuốc BVTV để loại trừ hẳn một loài dịch hại ra khỏi một vùng rộng lớn.
Thuốc đã để lại những hậu quả rất xấu đối với môi trường và con người.
Khi nhận ra những hậu quả của thuốc BVTV, cộng với tuyên truyền quá
16
mức về tác hại của chúng đã gây nên tâm lý sợ thuốc. Từ cuối những năm 80

của thế kỷ 20, có nhiều ý kiến đề xuất nên hạn chế, thậm chí loại bỏ hẳn thuốc
BVTV; dùng biện pháp sinh học để thay thế biện pháp hoá học trong phòng trừ
dịch hại nông nghiệp.
• Giai đoạn từ 1990 đến nay: Thị trường thuốc BVTV đã thay đổi cơ bản: nền
kinh tế từ tập trung bao cấp chuyển sang kinh tế thị trường. Năm thành phần
kinh tế, đều được phép kinh doanh thuốc BVTV. Nguồn hàng phong phú,
nhiều chủng loại được cung ứng kịp thời, nông dân có điều kiện lựa chọn
thuốc, giá cả khá ổn định có lợi cho nông dân. Lượng thuốc BVTV tiêu thụ qua
các năm đều tăng. Nhiều loại thuốc mới và các dạng thuốc mới, hiệu quả hơn,
an toàn hơn với môi trường được nhập. Một mạng lưới phân phối thuốc BVTV
rộng khắp cả nước đã hình thành, việc cung ứng thuốc đến nông dân rất thuận
lợi.
Công tác quản lý thuốc BVTV được chú ý đặc biệt và đạt được hiệu quả
khích lệ.Nhưng do nhiều nguồn hàng, mạng lưới lưu thông quá rộng đã gây
khó khăn cho công tác quản lý; quá nhiều tên thuốc đẩy người sử dụng khó lựa
chọn được thuốc tốt và việc hướng dẫn kỹ thuật dùng thuốc cũng gặp không ít
khó khăn. Tình trạng lạm dụng thuốc, tư tưởng ỷ lại biện pháp hoá học đã để
lại những hậu quả xấu cho sản xuất và sức khoẻ con người. Ngược lại, có
nhiều người “bài xớch” thuốc BVTV, tìm cách hạn chế, thậm chí đòi loại bỏ
thuốc BVTV trong sản xuất nông nghiệp và tìm cách thay thế bằng các biện
pháp phòng trừ khác.
Tuy vậy, vai trò của biện pháp hoá học trong sản xuất nông nghiệp vẫn
được thừa nhận. Để phát huy hiệu quả của thuốc BVTV và sử dụng chúng an
toàn, phòng trừ tổng hợp là con đường tất yếu phải đến. Phải phối hợp hài hoà
các biện pháp trong hệ thống phòng trừ tổng hợp; sử dụng thuốc BVTV là biện
pháp cuối cùng, khi các biện pháp phòng trừ khác sử dụng không hiệu quả.
2.3 Ảnh hưởng của thuốc BVTV tới môi trường, hệ sinh thái và sức khỏe
con người
2.3.1. Ảnh hưởng tới môi trường
17

Một số công trình nghiên cứu đã chỉ ra sự tồn lưu HCBVTV trong đất,
nước, không khí, trong cây trồng và cả trong thực phẩm, hậu quả đã ảnh hưởng
xấu đến động vật đặc biệt là con người.
- Không khí có thể dễ dàng bị ô nhiễm bởi HCBVTV dễ bay hơi, thậm chí
không bay hơi như DDT sẽ bay hơi rất nhanh vào không khí trong điều kiện
khí hậu thời tiết nóng. Ở các vùng nhiệt đới, khoảng 90 % HCBVTV phốt pho
hữu cơ có thể bay hơi nhanh hơn. Các thuốc diệt cỏ cũng bị bay hơi nhất là
trong quá trình phun thuốc. Tuy nhiên theo Ewards có rất ít bằng chứng về tiếp
xúc với HCBVTV trong không khí gây ảnh hưởng nghiêm trọng lên sức khỏe
con người trừ những nơi mà HCBVTV được sử dụng trong những khu vực bị
quây kín, thông khí không được thông thoáng (Đỗ Hàm và CS, 2007).
- Trong đất có tới 50 % lượng HCBVTV được phun để bảo vệ mùa màng hoặc
được sử dụng diệt cỏ đã phun không đúng vị trí và dải trên mặt đất. Một vài
HCBVTV như clo hữu cơ có thể tồn tại trong đất nhiều năm mặc dù là một
lượng lớn HCBVTV đã bay hơi. Theo Bùi Vĩnh Diên, Vũ Đức Vọng nghiên
cứu dư lượng HCBVTV trong đất tại Dắk Lắk thấy trong đất canh tác các loại
có chứa dư lượng HCBVTV chung là 62,22 % số mẫu và 44,44 % mẫu có dư
lượng vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Đất trồng cà phê 60,0 % số mẫu có dư
lượng HCBVTV và 33,33 % số mẫu có dư lượng vượt quá tiêu chuẩn cho
phép. Đất trồng rau, màu 66,66 % số mẫu có dư lượng HCBVTV và 60,0 %
mẫu có dư lượng vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Đất trồng lúa 60,0 % số mẫu
có dư lượng HCBVTV và 40,0 % mẫu có dư lượng vượt quá tiêu chuẩn cho
phép (Bùi Vĩnh Diên, Vũ Đức Vọng và CS, 2004).
- Nước có thể bị ô nhiễm bởi việc đổ các HCBVTV thừa sau khi phun xong. Đổ
nước rửa dụng cụ sau khi phun xuống hồ ao. Cây trồng được phun HCBVTV ở
ngay cạnh mép nước, sự rò rỉ, xói mòn từ đất đã xử lý bằng HCBVTV hoặc
HCBVTV rơi xuống từ không khí bị ô nhiễm. Sử dụng HCBVTV cho xuống
các sông hồ để giết cá và vớt cá để ăn (Ngô Thanh Hà, Nguyễn Minh Trang,
tài liệu dịch 2007), (Nguyễn Đình Mạnh, 2000). Nghiên cứu của Bùi Vĩnh
Diên, Vũ Đức Vọng dư lượng HCBVTV chung là 58,33 % số mẫu và 20,0 %

mẫu có dư lượng vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Nước giếng đào có 60,0 % số
18
mẫu có dư lượng HCBVTV và 20,0 % mẫu có dư lượng vượt quá tiêu chuẩn
cho phép. Nước hồ thủy lợi 53,33 % số mẫu có dư lượng HCBVTV và 26,66 %
mẫu có dư lượng vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Nước ruộng có 66,66 % số
mẫu có dư lượng HCBVTV và 33,33 % vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Nước
sông, suối có 53,33 % số mẫu có dư lượng HCBVTV và không có mẫu nào
vượt quá tiêu chuẩn cho phép (Bùi Vĩnh Diên, Vũ Đức Vọng và CS, 2004).
- Trong thực phẩm và nông sản, nghiên cứu của Nguyễn Văn Nguyên và CS,
dư lượng HCBVTV trên chè cho thấy 13/13 mẫu chè khô có dư lượng cao gấp
2 - 4,5 lần so với tiêu chuẩn của FAO. Các kết quả nghiên cứu của Cục Bảo vệ
thực vật liên tục trong 4 năm từ năm 2000 - 2004 cho thấy có 29,4 % - 37,3 %
mẫu rau muống có dư lượng HCBVTV nhưng chỉ có 2,8 % đến 8,5 % là có
mức lớn hơn tiêu chuẩn cho phép. Trong rau cải còn tồn dư HCBVTV cao hơn
từ 38,2 % đến 63,9 %. Trong nhóm đậu đỗ tỷ lệ nhiễm HCBVTV từ 30,6 % -
51,5 %; trong chè khô tìm thấy dư lượng HCBVTV tồn tại giảm dần theo các
năm từ 67,1 % giảm xuống còn 40 %.
Trên thực tế hiện tượng sử dụng HCBVTV không theo chỉ dẫn ở nhiều nơi
hiện nay đã gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Kết quả định
lượng HCBVTV ở một số địa phương cho thấy dư lượng HCBVTV trong đất,
nước và thực phẩm đang ở mức báo động và có nguy cơ gia tăng (Trần Tuấn
Khanh, 2008). Chính vì vậy nhiễm độc HCBVTV đang là vấn đề đáng lưu tâm
trong công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ người lao động nông nghiệp.
2.3.2. Ảnh hưởng tới hệ sinh thái
Thuốc bảo vệ thực vật ảnh hưởng đến quần thể sinh vật. các côn trùng có
ích giúp tiêu diệt các loài dịch hại (thiên địch) cũng bị tiêu diệt, hoặc yếu đi do
thuốc bảo vệ thực vật, hoặc di cư đi nơi khác do môi trường bị ô nhiễm do
thiếu thức ăn do ta xử lý thuốc bảo vệ thực vật để trừ dịch hại. hậu quả là mất
cân bằng hệ sinh thái. Nếu côn trùng đối tượng quay trở lại thì dịch rất dễ xãy
ra do không còn thiên địch thống chế.

Một số côn trùng có khả năng kháng thuốc sẽ duy truyền tính nỳ cho thế hệ
sau và như vậy hiệu lực của thuốc BVTV giảm. muốn diệt sâu, lại phải gia
tăng liều lượng thuốc sử dụng, điều này làm gia tăng dư lượng thuốc BVTV
19
trên nông sản và môi trường ngày càng bị ô nhiểm hơn. Mặt khác nông dân sẽ
sử dụng các loại thuốc cấm sử dụng do có độ độc cao và tính tồn lưu lâu dài
hoặc phối trộn nhiều thuốc BVTV làm tăng độ độc. theo thống kê đến năm
1971 đã có 225 loài côn trùng và nhệnh kháng thuốc. thuốc BVTV làm tăng
loài này và giảm loài kia, song nhìn chung làm giảm đa dạng sinh học (loài gia
tăng đa số là loài gây hại).
2.3.3. Ảnh hưởng tới sức khỏe con người
Ảnh hưởng của HCBVTV đến sức khỏe con người bao gồm:
- Nhiễm độc cấp thường gặp là: các vụ tự tử, các vụ nhiễm độc hàng loạt do
thức ăn bị nhiễm HCBVTV, các vụ tai nạn hóa chất trong công nghiệp và sự
tiếp xúc nghề nghiệp trong nông nghiệp là nguyên nhân của phần lớn các vấn
đề sức khỏe nghiêm trọng có liên quan tới HCBVTV (Craig Meisner, 2004).
- Các ảnh hưởng mãn tính do sự tiếp xúc với HCBVTV với liều lượng nhỏ
trong thời gian dài có liên quan tới nhiều sự rối loạn và các bệnh khác nhau.
Các nghiên cứu khoa học đã tìm thấy những bằng chứng về mối liên quan giữa
HCBVTV với bệnh ung thư não, ung thư vú, ung thư gan, dạ dày, bàng quang,
thận. Các hậu quả sinh sản: đẻ non, vô sinh, thai dị dạng, quái thai, ảnh hưởng
chất lượng tinh dịch, rối loạn thần kinh thực vật, rối loạn hành vi, tổn thương
chức năng miễn dịch và dị ứng, tăng cảm giác da. Đặc biệt là những liên quan
của HCBVTV với ung thư, bạch cầu cấp ở trẻ em. Liên quan đến một số bệnh
như Alheimer, bệnh Parkison, các bệnh ở hệ thống miễn dịch, tạo huyết.
Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có những con số chính xác về ngộ độc
HCBVTV trên phạm vi toàn cầu. Theo Tổ chức Y tế Liên Mỹ ước tính khoảng
3 % người lao động nông nghiệp tiếp xúc với HCBVTV bị ngộ độc cấp tính,
với khoảng 1,3 tỷ người lao động nông nghiệp trên toàn thế giới có nghĩa là
khoảng 39 triệu người có thể bị ngộ độc cấp tính hàng năm.

Một phương pháp khác để tính số trường hợp nhiễm độc do HCBVTV là
dựa vào số dân có nguy cơ. Theo Jayaratnam và CS ở một số nước mỗi năm có
khoảng 7 % số người làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp có sử dụng
HCBVTV đã từng có triệu chứng nhiễm độc (bao gồm cả các trường hợp
nhiễm độc nhẹ). Một số đánh giá khác do Trung Quốc đưa ra lại cho rằng mỗi
20
năm có 1 % số người sử dụng HCBVTV bị nhiễm độc, tuy nhiên tất cả các
đánh giá trên vẫn chưa được thống nhất.
2.3.3.1. Thực trạng nhiễm độc hoá chất bảo vệ thực vật trên thế giới
Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 1990, mỗi năm có
khoảng 25 - 39 triệu lao động trong ngành nông nghiệp bị nhiễm độc, trong đó
3 triệu ca nhiễm độc nghiêm trọng làm 220.000 ca tử vong liên quan đến
HCBVTV. Ở các nước đang phát triển chiếm 99 % số trường hợp, cho dù
những nước này chỉ tiêu thụ 20 % lượng HCBVTV. Con số thực tế có thể còn
cao hơn nhiều. Cụ thể thống kê của một số quốc gia như sau:
Trung Quốc trong khoảng thời gian từ 1951-1990 có ít nhất 184 vụ ngộ độc
cấp tính do HCBVTV, gây nhiễm độc cho 24.731 người, chết 1.065 người (4,3
%). Năm 1992-1995 có 214.094 trường hợp ngộ độc HCBVTV cấp tính với
22.545 người chết. Năm 1997-2003 có 108.372 người bị ngộ độc HCBVTV.
Trong đó, tỷ lệ nhiễm độc nghề nghiệp chiếm 25,39 % và nhiễm độc không
nghề nghiệp 74,61 %. Tỷ lệ tử vong là 6,86 % (Jinxiang Huang, 2001).
Bộ Y tế Thái Lan, trong báo cáo thường niên năm 1998 đã có 4.398 trường
hợp ngộ độc HCBVTV và tỷ lệ trên 100.000 dân là 7,16. Năm 2003, số vụ ngộ
độc là 2.342 trường hợp và tỷ lệ trên 100.000 dân là 3,72 (Panpimon
Chunyanuwat, 2005).
Ở I-Rắc có vụ nhiễm độc HCBVTV điển hình vào năm 1971-1972 hơn
6.000 người đã phải vào viện triệu chứng bị ngộ độc thực phẩm và 459 người
chết, sau khi ăn bánh mì đã được làm từ ngũ cốc đã bị phun thuốc diệt nấm
methylmercury (Litchfield M.H, 2005).
Ở Ấn Độ vụ ngộ độc khủng khiếp tại Bhopal do rò rỉ HCBVTV

Methylisocyanate đã làm 200.000 người mắc và 2000 người tử vong (Đỗ Hàm
và CS, 2007) .
Tại Campuchia theo nghiên cứu của Sylviane Nguyen và CS phỏng vấn 210
nông dân sử dụng HCBVTV có 88 % có triệu chứng ngộ độc.
Nhiễm độc HCBVTV là “bệnh dịch vô hình” luôn tồn tại ở tất cả các quốc
gia. Có rất nhiều thống kê, báo cáo và những nghiên cứu ở nhiều nước trên thế
giới về ngộ độc và cách phòng ngộ độc cũng như xử trí ngộ độc HCBVTV.
21
2.3.3.2. Thực trạng nhiễm độc hoá chất bảo vệ thực vật ở Việt Nam
HCBVTV được sử dụng ở Việt Nam từ năm 1957, trong thời gian 20 năm
đầu người ta không chú ý nhiều về tác hại của các HCBVTV đối với môi
trường và con người. Đến những năm 80 mới có những công trình nghiên cứu
về ô nhiễm môi trường và tác dụng độc hại của HCBVTV đối với sức khỏe con
người. Những ảnh hưởng trên lâm sàng, cận lâm sàng của HCBVTV đối với
người Việt Nam bước đầu được làm sáng tỏ và là tiếng chuông báo động về
nguy cơ sức khỏe môi trường do HCBVTV gây nên ở nước ta.
Theo Hà Minh Trung và CS trong nhóm nghiên cứu đề tài cấp nhà nước 11-
08, cả nước hiện có 11,5 triệu hộ nông nghiệp, số người tiếp xúc nghề nghiệp
với HCBVTV ít nhất cũng tới 11,5 triệu người. Với tỷ lệ nhiễm độc HCBVTV
mạn tính là 18,26 % thì số người bị nhiễm độc mạn tính trong cả nước có thể
lên tới 2,1 triệu người.
Theo Bộ Y tế từ năm 1980-1985 chỉ riêng 16 tỉnh phía Bắc đã có 2.211
người bị nhiễm độc nặng do HCBVTV, 811 người chết. Năm 1997 tại 10 tỉnh,
thành phố cả nước với lượng HCBVTV sử dụng mới chỉ là 4.200 tấn nhưng đã
có 6.103 người bị nhiễm độc, 240 người chết do nhiễm độc cấp và mãn tính.
Nghiên cứu của Vụ Y tế dự phòng (chương trình VTN/OCH/010 - 96.97), tại 4
tỉnh Thừa Thiên Huế, Khánh Hòa, Tiền Giang, Cần Thơ trong 4 năm (1994-
1997) đã có 4.899 người bị nhiễm độc HCBVTV, 286 người chết (5,8 %). Các
biểu hiện nhiễm độc sau ngày làm việc khá phổ biến: đau đầu, chóng mặt, mệt
mỏi, lợm giọng, buồn nôn, chán ăn…Nhiều tác giả đã nghiên cứu đánh giá ảnh

hưởng của HCBVTV đến sức khoẻ con người.
Nguyễn Văn Nguyên và CS nghiên cứu trên 571 công nhân của 2 nông
trường chè có sử dụng HCBVTV thấy 77,2 % đau đầu kém ngủ, 75,5 % đau
tức ngực và khó thở, 65,5 % đau lưng và xương khớp, 46,5 % mệt mỏi run
chân tay, 44,8 % ho và khạc đờm, 29,3 % đau bụng không rõ nguyên nhân,
24,1 % chán ăn. Khám lâm sàng thấy 25,0 % có hội chứng suy nhược thần
kinh, 26,5 % có hội chứng rối loạn tiêu hóa, 16,3 % bị bệnh xương khớp,
12,4% bị bệnh đường hô hấp, 10 % bị bệnh ngoài da. Những rối loạn sớm nổi
bật là hoạt tính enzym cholinesetrase giảm xuống chỉ còn 75 % so với nhóm
22
chứng, 19,6 % thiếu máu, 37,2 % có bạch cầu trung tính thấp.
Nguyễn Đình Chất nghiên cứu 62 bệnh nhân được chẩn đoán là ngộ độc cấp
lân hữu cơ thấy tổng số nhiễm khuẩn là 29/62 (46,78 %) trong đó nhiễm khuẩn
phổi - phế quản là 23/29 (79,32 %). Ngộ độc càng nặng thì càng dễ bị nhiễm
khuẩn, ngộ độc độ I: nhiễm khuẩn 0 %, độ II: 39,29 %, độ III: 62,5 %, độ IV:
80 %.
Nguyễn Duy Thiết điều tra 100 hộ gia đình tại 5 đội xã Tam Hiệp, huyện
Thanh Trì - Hà Nội thấy 73 % có biểu hiện triệu chứng như nôn nao, khó chịu,
choáng váng, nhức đầu, mệt mỏi, buồn nôn, khó ngủ, ngứa và nóng rát các
vùng da hở.
Tạ Thị Bình và CS nghiên cứu trên 30 công nhân tiếp xúc thường xuyên với
HCBVTV thấy hoạt tính enzym cholinesterase giảm đi so với nhóm chứng, 10
% số tiếp xúc có sự giảm enzym cholinesterase hồng cầu, 36,6 % giảm enzym
cholinesterase huyết tương.
Trần Ngọc Lan và CS điều tra 1667 lao động thường xuyên sử dụng
HCBVTV tại 16 xã thuộc 8 tỉnh miền Trung và miền Nam cho thấy các triệu
chứng hay gặp là các triệu chứng về hệ thần kinh trung ương, hệ thần kinh thực
vật. Bệnh thường gặp là các bệnh về đường hô hấp (trong đó có mũi họng). Chỉ
tính từ 2000 đến tháng 6/2001 tại 14 xã được điều tra đã có 199 trường hợp
nhiễm độc, 86,93 % những ca đi phun thuốc có biểu hiện nhiễm độc. Tỷ lệ tử

vong do nhiễm độc chiếm 2,51 %.
Trần Như Nguyên, Đào Ngọc Phong nghiên cứu trên 500 hộ gia đình ngoại
thành Hà Nội thấy dấu hiệu phổ biến nhất sau khi sử dụng HCBVTV là chóng
mặt, nhức đầu, buồn nôn thấy ở 70 % đối tượng ngoài ra còn các triệu chứng
ăn kém, hoa mắt, đau bụng (rối loạn giấc ngủ).
Trần Như Nguyên, Lê Minh Giang và CS sử dụng phương pháp xã hội học
và dịch tễ học điều tra cộng đồng trên 510 người ở ba vùng chuyên canh tại:
Hà Nam - Thái Nguyên và ngoại thành Hà Nội năm 1995-1997. Kết quả nhận
thấy có sự trùng hợp giữa những biến động thai nghén không mong muốn khác
nhau với mức độ phun thuốc khi mang thai.
Hà Huy Kỳ và CS nghiên cứu 213 công nhân sang chai, đóng gói HCBVTV
23
ở 4 cơ sở sản xuất. Kết quả cho thấy giảm hoạt tính enzym cholinesterase toàn
phần chiếm 34,7 % ; giảm enzym cholinesterase hồng cầu 33,8 %; enzym
cholinesterase huyết tương giảm trên 30 % chiếm 8,9 %.
Lê Thị Thu, Nguyễn Thị Dư Loan, Hoàng Thị Bích Ngọc nghiên cứu trên
36 người dân thường xuyên tiếp xúc với HCBVTV ở 2 xã thuộc huyện Thường
Tín, nhóm chứng gồm 32 sinh viên Học viện Quân y. Kết quả nghiên cứu cho
thấy: ở những người làm nông nghiệp, tiếp xúc dài ngày với HCBVTV thì hoạt
độ enzym cholinesterase (5931 U/l) giảm so với nhóm chứng (8359U/l).
Cao Thuý Tạo tiến hành một nghiên cứu ngang, mô tả nguy cơ nhiễm độc
HCBVTV trên người sử dụng tại một số vùng chuyên canh khác nhau. Kết quả
cho thấy người sử dụng HCBVTV thường có biểu hiện mệt mỏi chóng mặt,
tăng tiết nước bọt, mất ngủ. Nồng độ HCBVTV/cm2 da sau khi phun gấp 2 lần
trước khi phun, 32,4 % đối tượng nghiên cứu có biểu hiện cường phó giao
cảm.
Có thể nói nhiễm độc HCBVTV là một thực tế diễn ra thường xuyên liên
tục ở tất cả các địa phương trong nước và trở thành một vấn đề lớn trong
CSBVSK người lao động nông nghiệp ở nước ta hiện nay.
2.4. Nguyên nhân làm tăng ảnh hưởng xấu của hóa chất BVTV tới môi trường

Trong sản xuất nông lâm nghiệp (NLN), lợi ích của thuốc BVTV mang
lại là không thể phủ nhận. Thuốc BVTV giúp tiêu diệt các loài dịch hại cây trồng
như: Sâu, bệnh, cỏ dại và mối, mọt, nấm mốc trong dụng cụ, kho bảo quản
thóc, ngô, đậu tương, các loại gỗ, hàng mây che đan Góp phần vào nâng cao
năng suất, giá trị sản xuất rất thiết thực, hiệu quả.
Tuy nhiên, những tác hại mà thuốc BVTV gây ra cho sức khoẻ con người và môi
trường về trước mắt cũng như lâu dài không phải ai cũng nhận ra được như:
- Gây ô nhiễm môi trường sống (đất, nước, không khí) khi phun thuốc trên
đồng ruộng, khử trùng nông sản, ngâm ủ rau quả.
24
- Để lại dư lượng với mức độ gây độc khác nhau trên các loại nông sản tiêu
dùng hàng ngày như: Gạo, ngô, các loại rau quả đã làm suy giảm sức khoẻ con
người, gây nên nhiều bệnh nguy hiểm như: Ung thư, thoái hoá xương khớp, bị
nhiễm nặng có thể gây dị tật cho các thế hệ sau
- Ngoài ra, việc sử dụng thuốc BVTV tràn lan, không đúng kỹ thuật, phun
thuốc theo kiểu “đi tắt, đón đầu”, không cần căn cứ vào hiện trạng của hệ sinh thái
đồng ruộng sẽ làm cho hiểm hoạ sâu bệnh của những năm sau ngày càng trầm
trọng và việc chi phí cho thuốc BVTV ngày càng lớn hơn; đây chính là vòng luẩn
quẩn trong canh tác nông nghiệp hiện nay.
- Ngoài ra, tại một số vùng của nước ta do việc xây dựng một số kho thuốc
BVTV không đúng qui định đã gây ô nhiễm nguồn nước ngầm nghiêm trọng mà
các phương tiện thông tin đại chúng đã từng công bố.
- Thuốc BVTV làm đảo lộn hệ sinh thái nông nghiệp là nguyên nhân chủ
yếu gây lên những đợt dịch sâu bệnh trầm trọng trên cây trồng những năm sau:
- Khi phun thuốc BVTV trên đồng ruộng không chỉ tiêu diệt các loài sâu,
bệnh, cỏ dại gây hại cây trồng mà còn tiêu diệt các loài thiên địch có ích, đa số
các loài thiên địch bị tiêu diệt trước và chết nhiều hơn do chúng dễ mẫn cảm với
thuốc BVTV hơn nhiều so với các loài sâu hại. Bên cạnh đó, các loài sâu hại sau
khi bị phun thuốc, những cá thể còn sống sẽ phục hồi quần thể nhanh hơn nhiều so
với các loài thiên địch vì các loại thuốc BVTV hiện nay không thể tiêu diệt được

hết các loài sâu, bệnh khi phun trên đồng ruộng (hiệu quả của thuốc BVTV chỉ đạt
từ80 – 85%). Vì vậy, ở những nơi nào người dân dùng nhiều thuốc để phòng trừ
các đối tượng sâu bệnh hại lúa hoặc các cây rau mầu khác thì ở chính những nơi
đó sẽ thường xuyên bùng phát dịch sâu bệnh vào những vụ và năm sau do thiên
địch chưa kịp hồi phục để đủ sức khống chế sâu hại. Ngoài ra, khi sử dụng thuốc
25

×