Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

đồ án công nghệ thông tin Khảo sát ứng dụng phần mềm Libol6.0 tại Trung tâm thông tin – Thư viện Trường đại học Kinh tế Quốc dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.03 MB, 109 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
AACR2
:
Quy tắc biên mục Anh – Mỹ ấn bản 2
CNTT
:
Công nghệ thông tin
CSDL
:
Cơ sở dữ liệu
CSDL/ISIS
:
Cơ sở dữ liệu
DDC
:
Khung phân loại thập phân Deway
HQTTVTH
:
Hệ quản trị thư viện tích hợp
ILL
:
Inter – Library loans
ISO 2709
:
Phân loại tiêu chuẩn khổ mẫu trao đổi thông tin
ISO 10161
:
Chuẩn các giao thức thông thư viện cho trao đổi văn bản
ảo
LIBOL


:
Giáo dục và Đào tạo
LAN
:
Mạng máy tính nội bộ
LCC
:
Khung phân loại thư viện Quốc hội Hoa Kỳ
MACR21
:
Khổ mẫu biên mục đọc máy
OPAC
:
Phân hệ tra cứu

:
Quyết định
TT – TV
:
Thông tin thư viện
TTTVĐHKTQD
:
Trung tâm Thông tin Thư viện Đại học Kinh tế Quốc dân
UDC
:
Khung quân loại thập phân Deway
UNESCO
:
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp quốc
DANH MỤC CÁC HÌNH

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thế giới đã bước sang thiên niên kỷ mới với nhiều cơ hội, tiềm năng và
những thách thức mới. Biết bao thay đổi đang diễn ra trong đời sống xã hội và kinh
tế thế giới. Đó là thời đại của công nghệ thông tin, Internet và giao lưu trực tuyến,
thương mại điện tử, toàn cầu hoá Sự ảnh hưởng của những xu hướng toàn cầu này
hiển nhiên đang tác động tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, lĩnh vực thông tin-
thư viện không phải là trường hợp ngoại lệ. Thông tin và tri thức đã thực sự trở
thành sức mạnh của nhân loại, là nguồn tài nguyên đặc biệt quan trọng của mỗi
quốc gia. Trước tình hình đó, làm thế nào để quản lý nguồn thông tin và đáp ứng
được nhu cầu tin của người dùng tin thực sự trở thành nhiệm vụ cấp thiết, hàng đầu
đối với mỗi cơ quan thông tin – thư viện.
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân là một trường đầu ngành, trọng điểm quốc
gia về lĩnh vực đào tạo các chuyên ngành kinh tế, với số lượng sinh viên, học viên,
nghiên cứu sinh lên tới hơn 45.000 người. Trung tâm Thông tin Thư viện Trường
Đại học Kinh tế Quốc dân là một đơn vị trực thuộc trường, Trung tâm có nhiệm vụ
tổ chức và quản lý vốn tài liệu phù hợp với diện nghiên cứu , đào tạo của Trường; tổ
chức các hình thức tuyên truyền, giới thiệu các loại hình tài liệu, nâng cao việc sử
dụng có hiệu quả vốn tài liệu thông tin mà Trung tâm quản lý; nghiên cứu ứng dụng
công nghệ thông tin hiện đại trong quản lý và phục vụ bạn đọc; có kế hoạch từng
bước nâng cấp, hiện đại hoá hoạt động thư viện nhằm tăng cường khả năng lưu trữ,
tìm kiếm, xử lý tư liệu thông tin trong nước và quốc tế. Có thể nói Trung tâm Thông
tin – Thư viện Trường Đại học Kinh tế Quốc dân giữ một vai trò đặc biệt quan
trong trong sự nghiệp đào tạo, nghiên cứu khoa học và học tập của cán bộ, giáo viên
và sinh viên. Trong thời gian qua, Trung tâm đã được Nhà nước, Bộ Giáo dục và
Đào tạo và Nhà trường dành cho dự án giáo dục mức A và C để nâng cấp, điều này
đã đem lại cho Trung tâm sự thay đối cả về hình thức lẫn nội dung, cả về số lượng
và chất lượng nguồn thông tin, nhằm vươn tới xây dựng thư viện điện tử, phục vụ
ngày càng tốt sự nghiệp đào tạo cũng như nghiên cứu khoa học của Trường.
1

Trước tình hình chung đó, Trung tâm thông tin – Thư viện Đại học Kinh tế
Quốc dân đã có những chuyển biến để từng bước hoàn thiện hoạt động của mình
bằng việc bắt tay vào công tác tin học hoá, cụ thể vào năm 2002 thư viện đã bắt đầu
triển khai phần mềm Libol. Phần mềm Libol đã ứng dụng công nghệ thông tin một
cách triệt để, tự động hoá tất cả các chu trình hoạt động của một thư viện hiện đại,
cung cấp các tính năng cần thiết cho một thư viện để sẵn sàng hội nhập với hệ thống
thư viện quốc gia và quốc tế. Phần mềm Libol hiện đã được nâng cấp lên phiên bản
6.0 với ưu điểm nổi bật so với nhiều sản phẩm cùng loại trong nước với Phân hệ
Quản lý Tư liệu điện tử, cho phép thư viện quản lý các dạng tài liệu số phổ biến (âm
thanh, hình ảnh, video, text), cung cấp tài liệu số tới mọi đối tượng người dùng,
đồng thời các thư viện có thể thực hiện mua bán, trao đổi và cung cấp tài liệu điện
tử một cách dễ dàng. Việc ứng dụng LIBOL trong hoạt động ở Trung tâm thực sự là
một bước ngoặt quan trọng nhằm mục đích đưa Thư viện trường Đại học Kinh tế
quốc dân trở thành một trong những thư viện hiện đại và hoạt động có hiệu quả
trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Với lý do trên nên tôi chọn đề tài: “Khảo sát ứng dụng phần mềm Libol6.0
tại Trung tâm thông tin – Thư viện Trường đại học Kinh tế Quốc dân” làm luận
văn thạc sỹ khoa học thư viện với mong muốn vận dụng những kiến thức và kỹ
năng tiếp thu được từ khoá học, nghiên cứu đề xuất những kiến nghị và giải pháp để
nâng cao hiệu quả việc ứng dụng phần mềm Libol6.0 tại Trung tâm.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Khảo sát việc ứng dụng hệ quản trị thư viện tích hợp Libol6.0 vào công tác
hoạt động thư viện tại Trung tâm thông tin – Thư viện đại học Kinh tế Quốc dân, từ
đó đề xuất các kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả ứng dụng phần mềm
này trong hoạt động của Trung tâm thông tin – Thư viện đại học Kinh tế Quốc dân .
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khảo sát, phân tích thực trạng và kết quả triển khai ứng dụng Libol6.0 tại
Trung tâm Thông tin Thư viện Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
2

- Đánh giá hiệu quả ứng dụng phần mềm Libol6.0 tại Trung tâm Thông tin
Thư viện Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
- Đề xuất kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc ứng dụng phần
mềm Libol6.0 tại Trung tâm.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là việc ứng dụng hệ quản trị thư viện tích
hợp Libol6.0.
Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng ứng dụng hệ quản trị thư viện tích
hợp Libol6.0 vào công tác hoạt động thư viện tại Trung tâm thông tin – Thư viện
đại học Kinh tế Quốc dân từ năm 2007 đến nay
4. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và sự lớn mạnh, rộng
khắp của mạng máy tính toàn cầu. Việc ứng dụng tin học vào các lĩnh vực của cuộc
sống ngày càng được quan tâm và sử dụng hiệu quả, đem lại lợi ích to lớn về mọi
mặt. Nhạy bén với xu hướng phát triển và nhu cầu áp dụng công nghệ thông tin vào
việc chuẩn hoá các quy trình nghiệp vụ thông tin-thư viện, một số công ty tin học đã
nghiên cứu và phát triển các phần mềm ứng dụng phục vụ cho tổ chức, quản lý và
khai thác thông tin, quản lý thư viện. Trong số đó có thể kể đến các công ty tên tuổi
như Lạc việt với phần mềm Vebrary, VNNesoft với Elib, Tinh vân với phần mềm
Libol và CMC với phần mềm ILib. Với những tính năng nổi bật, phần mềm Libol
được triển khai thành công tại hơn 150 trung tâm thông tin, thư viện lớn nhỏ trên
toàn quốc, trong đó có Trung tâm Thông tin Thư viện Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân. Áp dụng phần mềm quản trị thư viện là một trong những nhân tố quan trọng
trong quản lý hoạt động thư viện, thu hút được sự quan tâm của nhiều chuyên gia
trong lĩnh vực thông tin thư viện. Đã có khá nhiều hội thảo, các bài nghiên cứu và
luận văn chuyên ngành khoa học thư viện quan tâm nghiên cứu đến vấn đề này. Tác
giả Vũ Văn Sơn có công trình “Lựa chọn phần mềm quản trị thư viện” đã đề cập tới
một số nguyên tắc lựa chọn phần mềm quản trị thư viện. Tác giả Nguyễn Ngọc Anh
3
trong luận văn thạc sỹ “Nghiên cứu nâng cao hiệu quả ứng dụng phần mềm

LIBOL5.0 tại Trường đại học Xây dựng” cũng đã khảo sát, đánh giá việc ứng dụng
Libol 5.0 tại Trường Đại học Xây dựng Hà Nội; tương tự, tác giả Chu Khánh Vân
cũng đã “Khảo sát việc ứng dụng hệ quản trị thư viện tích hợp LIBOL5.5 tại Trung
tâm thông tin – Thư viện đại học Quốc gia Hà Nội” ….Các công trình trên chủ yếu
đi vào kháo sát nghiên ứng dụng phần mềm Libol ở một thư viện hoặc một trung
tâm cụ thể, mà mỗi cơ quan, mỗi thư viện lại có những hoàn cảnh đặc thù riêng và
mỗi người có một cách tiếp cận khác nhau. Về hoạt động thông tin thư viện tại
trường Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cũng đã có luận văn thạc sĩ của Bùi Thị
Sen “Phát triển nguồn lực thông tin tại Trung tâm Thông tin Thư viện Trường Đại
học Kinh tế Quốc dân ”. Tác giả Bùi Thị Sen có đề cập tới hoạt động thông tin – thư
viện tại Trung tâm Thông tin - Thư viện Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, tuy
nhiên, tác giả cũng chỉ nghiên cứu một khía cạnh trong hoạt động thông tin – thư
viện tại trường là nguồn lực thông tin.
Có thể nói, cho đến nay chưa có đề tài nào đề cập trực tiếp, đầy đủ thực trạng
ứng dụng phần mềm Libol6.0 tại Trung tâm Thông tin Thư viện Trường Đại học
Kinh tế Quốc dân. Chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu tôi hy vọng có thể kế
thừa những thành tựu của các tác giả đi trước và những kinh nghiệm làm việc của
bản thân để làm rõ thực trạng ứng dụng Libol 6.0 tại Trung tâm Thông tin Thư viện
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, để rút ra những thành công, kết quả và cả những
hạn chế khi ứng dụng phần mềm Libol6.0. Trên cơ sở đó đề xuất những kiến nghị
và giải pháp để nâng cao hiệu quả việc ứng dụng phần mềm Libol6.0 tại Trung tâm,
trong giai đoạn có nhiều chuyển biến đối với hoạt động ở các cơ quan thông tin thư
viện - giai đoạn hiện đại hoá thư viện, xây dựng và khai thác thư viện điện tử.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận:
Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử kết hợp với các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước về phát triển văn hóa.
4
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể:

+ Phương pháp phỏng vấn trực tiếp và gián tiếp thông qua phiếu hỏi
+ Phương pháp thống kê, so sánh
+ Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu
6. Ý nghĩa luận văn
Luận văn khẳng định rõ hiệu quả ứng dụng phần mềm Libol trong hoạt động
thư viện, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo và nghiên cứu của cán bộ,
giảng viên và sinh viên Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
Trên cơ sở khảo sát và phân tích thực trạng ứng dụng hệ quản trị thư viện
tích hợp Libol6.0 tại Trung tâm Thông tin Thư viện Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân tiến tới đánh giá khả năng đáp ứng của phần mềm đối với các yêu cầu nghiệp
vụ và đưa ra những giải pháp khắc phục tồn tại từ đó nâng cao hiệu quả ứng dụng
phần mềm Libol6.0 tại Trung tâm.
7. Nội dung luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
được chia làm 3 chương:
Chương 1: Phần mềm Libol6.0 đối với hoạt động thông tin – thư viện tại
trường Đại học Kinh tế Quốc Dân.
Chương 2: Thực trạng ứng dụng phần mềm LibolL6.0 tại Trung tâm thông
tin – Thư viện Đại học Kinh tế Quốc Dân
Chương 3: Kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc ứng dụng
phần mềm LibolL6.0 tại Trung tâm thông tin - Thư viện đại học
Kinh tế Quốc dân.
CHƯƠNG 1
5
PHẦN MỀM LIBOL 6.0 ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN –
THƯ VIỆN TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
1.1. Phần mềm LibolL6.0
1.1.1. Sự ra đời của phần mềm Libol
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão ngày nay thực chất
là cuộc cách mạng công nghệ. Khoa học phát triển đã thu hút một bộ phận lớn nhân

lực vào lĩnh vực này làm cho đội ngũ những người làm khoa học gia tăng nhanh
chóng. Lực lượng những người làm khoa học tăng lên theo cấp số cộng thì tài liệu
khoa học và những sản phẩm nghiên cứu của họ tăng lên theo cấp số nhân. Tất cả đã
tạo nên một khối lượng thông tin khổng lồ và không ngừng phát triển, dẫn đến hiện
tượng bùng nổ thông tin. Ngoài ra, cộng đồng khoa học được bổ sung thêm nhiều
người dùng tin khác nhau: các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu, các nhà công nghệ,
các nhà giáo dục, các nhà sản xuất kinh doanh… Họ không chỉ là người dùng tin, mà
còn là những người sản xuất ra các thông tin mới.
Sự gia tăng nhanh chóng khối lượng tri thức khoa học tác động mạnh mẽ tới
các hoạt động của các cơ quan thông tin thư viện. Nó tác động tới cơ cấu của kho tài
liệu, làm cho số lượng, chủng loại tài liệu tăng lên gấp bội. Thêm vào đó nhu cầu
đòi hỏi phải rút ngắn đáng kể thời gian hữu ích của một tài liệu làm cho các nhà
quản ý phải thường xuyên bổ sung vốn tài liệu và không ngừng phải xử lý chúng,
hoặc bằng thủ công hoặc bằng phương tiện tự động hóa. Sự bùng nổ thông tin gắn
liền với sự bùng nổ của công nghệ đặc biệt trên ba lĩnh vực có mối liên hệ chặt chẽ
với công tác thông tin – thư viện đó là tin học, viễn thông và vi xử lý – hạt nhân của
công nghệ thông tin hiện đại.
Với việc ứng dụng máy tính điện tử trên thế giới trong xử lý thông tin tư liệu
diễn ra trong vòng 40 năm trở lại đây đã đem lại hiệu quả vô vùng to lớn: tập trung
thông tin trong những bộ nhớ lớn, những cơ sở dữ liệu (CSDL) và ngân hàng dữ
liệu, tăng nhanh tốc độ ở tất cả các công đoạn xử lý thông tin. Sự phát triển của
6
những bộ nhớ lớn truy nhập trực tiếp tạo ra khả năng tra cứu nhanh, tại thời điểm
bất kỳ những thông tin mà người sử dụng tin yêu cầu.
Sự kết hợp giữa máy tính và viễn thông dẫn đến sự hình thành, phát triển các
hệ thống và mạng thông tin tự động hóa, cho phép các thư viện liên kết với nhau
trên mạng máy tính để chia sẻ nguồn lực thông tin. Ở nhiều thư viện trong và ngoài
nước, người ta đã xây dựng các mục lục công cộng truy nhập trực tuyến, gọi tắt là
OPAC (Online Public Access Catalog). Đó là các CSDL thư mục được khai thác
trên mạng, giúp người sử dụng có thể truy cập các thông tin thư mục một cách trực

tiếp mà không cần sự hỗ trợ trung gian của các cán bộ thư viện.
Trong lĩnh vực thông tin - thư viện, các nhà thư viện thế giới đã thực sự đặt
chân vào thế giới của thư viện điện tử từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20
với các ngân hàng dữ liệu khổng lồ của Dialog, Pascal Còn ở Việt Nam, sau năm
1997, với việc đưa Internet vào ứng dụng rộng rãi đã tạo đà khởi đầu cho sự phát
triển mới, các thư viện Việt Nam bắt đầu áp dụng công nghệ thông tin (CNTT) vào
các hoạt động nghiệp vụ. Đối với các hệ thống thông tin, sự phát triển chỉ được gọi
là đồng bộ khi và chỉ khi hệ thống thông tin đó có đủ 2 thành phần: nội dung thông
tin đầy đủ được tổ chức trong các CSDL và phần hạ tầng CNTT (bao gồm máy tính
và hệ thống mạng) đảm bảo về mặt công cụ kỹ thuật để truyền tải thông tin tới
người sử dụng. Và tin học hóa hoạt động thông tin – thư viện thực sự là xu thế phát
triển tất yếu của các cơ quan thông tin – thư viện hiện nay. Tại Việt Nam, trong
những năm qua việc áp dụng CDS/ISIS – một sản phẩm miễn phí do UNESCO phát
triển, đã bước đầu đem lại hiệu quả xử lý, tìm kiếm thông tin trong ngành thư viện.
Hầu hết các thư viện đã tin học hóa đều sử dụng CDS/ISIS là hệ quản trị CSDL cho
các CSDL thư mục của mình. Đây là một thuận lợi khi triển khai một hệ quản trị
thư viện tích hợp (HQTTVTH) do các thư viện đã có sẵn CSDL thư mục. Tuy nhiên
có một một số trở ngại liên quan đến vấn đề trao đổi các bản ghi thư mục, do không
thống nhất bảng mã tiếng Việt và không thống nhất khổ mẫu miêu tả tài liệu.
Với bối cảnh trên, việc ứng dụng một HQTTVTH là cần thiết và hệ đó phải
7
giải quyết các vấn đề đối với các thư viện tại Việt Nam cũng như hòa nhập với xu
hướng của thế giới. Một hệ HQTTVTH phải đáp ứng được các yêu cầu:
- Là một hệ thống tích hợp để tự động hóa mọi nghiệp vụ của thư viện
truyển thống, cộng thêm các yếu tố của thư viện số.
- Đáp ứng những yêu cầu đặc thù đối với công tác biên mục, tuân theo các
chuẩn quốc tế: khổ mẫu trao đổi ISO 2709, khổ mẫu biên mục đọc máy MACR 21,
chuẩn tìm kiếm Z39.50, phân loại DDC, UDC, BBK…
- Cung cấp khả năng tra cứu cho các bạn đọc đến thư viện hay từ xa qua Internet.
- Có khả năng trao đổi thông tin thư mục với các hệ thống khác trên thế giới

cũng như tại Việt Nam.
- Ứng dụng mã vạch trong các nghiệp vụ.
- Có khả năng quản lý dữ liệu số, bao gồm cả lưu trữ, biên mục và cung cấp
khả năng truy cập trực tuyến cho bạn đọc.
- Có hệ thống báo cáo tự động và các phân tích thống kê từ các hoạt động
của thư viện.
- Có độ an toàn và bảo mật cao.
- Có công nghệ hiện đại, đảm bảo đầu tư lâu dài.
- Có đội ngũ hỗ trợ có khả năng đào tạo, bảo trì, phát triển, nâng cấp sản phẩm.
Nhạy bén với xu hướng phát triển và nhu cầu áp dụng CNTT vào việc chuẩn
hoá các quy trình nghiệp vụ thông tin-thư viện (TTTV), một số công ty tin học
đã nghiên cứu và phát triển các phần mềm ứng dụng phục vụ cho tổ chức, quản
lý và khai thác thông tin. Trong số đó có thể kể đến các công ty tên tuổi như Lạc
Việt với phần mềm Vebrary, VNNesoft với Elib, Tinh vân với phần mềm Libol
và CMC với phần mềm iLib… Libol là giải pháp phần mềm tự động hóa thư viện
tổng thể với đầy đủ các module chức năng, có khả năng quản lý được các loại tài
liệu đa dạng. Để thích ứng với thị trường Việt Nam các phần mềm này đều hỗ
8
trợ tiếng Việt và có khả năng chuyển đổi CSDL từ CDS/ISIS, hỗ trợ nghiệp vụ
quản lý thư viện phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của thư viện Việt Nam.
Libol có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất: Libol là phần mềm tích hợp và quản lý hầu hết các hoạt động của
thư viện với nhiều phân hệ thông qua trình duyệt WEB, cho phép hoàn thiện công
tác tin học hóa thư viện.
Thứ hai: Libol ngoài việc cho phép sử dụng nhiều chuẩn phân loại khác
nhau như chuẩn UDC, DDC, LCC, người dùng còn tiếp cận với nhiều ngôn ngữ
khác nhautuân theo bảng mã UNICODE.
Thứ ba: Nhờ chức năng riêng biệt của cổng Z39.50,phần mềm Libol cho
phép kết nối trao đổi thông tin giữa các Thư viện trong và ngoài nước.
Thứ tư: Ngoài việc tra cứu CSDL, phần mềm Libol đảm nhận tự động hóa

các khâu trong hoạt động của thư viện, theo hướng tin học hóa, tạo tiền đề xây dựng
thư viện điện tử. [ 7]
1.1.2. Sự phát triển của phần mềm Libol
Ngay từ khi ra đời phần mềm Libol đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ
các thư viện và được các trung tâm thông tin tư liệu đánh giá rất cao do những tính
năng ưu việt của nó.
Vào năm 1997, phiên bản đầu tiên của phần mềm quản lý nghiệp vụ thư viện
Libol được xây dựng, ban đầu Libol phiên bản 1.0 chỉ có 3 phân hệ bao gồm phân
hệ “phân hệ biên mục”, “phân hệ tra cứu” và “phân hệ quản trị”. Với 3 phân hệ này
Libol được ứng dụng tại thư viện nhỏ của các cơ quan và mang tính chất quản lý
đơn thuần. Sau một thời gian Libol được sử dụng tại Thư viện của Ban Chỉ đạo
chương trình Quốc gia về công nghệ thông tin, sản phẩm Libol phiên bản 1.0 cho
thấy chưa thể đáp ứng với yêu cầu thực tế tại những thư viện có nhiều bạn đọc và
quản lý thư viện chuyên nghiệp.
Trên cơ sở đánh giá kết quả thử nghiệm và những yêu cầu từ Thư viện Ban
9
Chỉ đạo chương trình Quốc gia về công nghệ thông tin kết hợp với những nghiên
cứu tại một số thư viện chuyên ngành, năm 1999 Libol phiên bản 1.0 đã được nâng
cấp lên thành phiên bản 2.0 với đầy đủ các tính năng khai thác và quản lý cho
những thư viện chuyên ngành và thư viện công cộng. Libol 2.0 có 6 phân hệ, “phân
hệ tra cứu”, “phân hệ biên mục”, “phân hệ bổ sung”, “phân hệ bạn đọc”, “phân hệ
mượn trả”, “phân hệ quản lý” người dùng. Những phân hệ này đã đáp ứng được tất
cả những yêu cầu của nghiệp vụ quản lý thư viện chuyên ngành, thư viện của các
trung tâm thông tin và thư viện công cộng. Giai đoạn này Libol đã được sử dụng ở
một số thư viện như Thư viện của Học viện kỹ thuật quân sự, Thư viện của Bảo
tàng lịch sử…đặc biệt là việc chạy thử Libol tại Thư viện Quốc gia để quản lý
nghiệp vụ thư viện của một thư viện lớn hàng đầu tại Việt Nam đã giúp cho công ty
Tinh Vân nhận biết được những yếu điểm của Libol phiên bản 2.0.
Cùng với sự hợp tác của Thư viện Quốc gia và Trung tâm Thông tin tư liệu
Khoa học công nghệ Quốc gia, Công ty Tinh Vân đã đầu tư nâng cấp phần mềm

Libol phiên bản 2.0 lên thành phiên bản 3.0 với một loạt chức năng quan trọng, hỗ
trợ đắc lực cho quản lý nghiệp vụ thư viện tại các thư viện lớn với số đầu ấn phẩm
lên tới hàng triệu bản ghi bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Libol 3.0 được kết hợp
thêm một số chức năng rất quan trọng như chuyển dữ liệu theo các chuẩn khác
nhau, xây dựng thêm phân hệ quản lý ấn phẩm định kỳ và hoàn thiện quá trình tự
động hóa nghiệp vụ thư viện, như sử dụng mã vạch trong quá trình quản lý ấn phẩm
thông tin và thẻ bạn đọc. Đặc biệt Libol 3.0 ra đời đã mở ra một tiềm năng rất to lớn
cho sự phát triển của Thư viện điện tử tại Việt Nam. Bằng các chức năng quản lý đa
phương tiện, đa ngôn ngữ kết hợp với khả năng quản lý và tự động hóa các nghiệp
vụ thư viện, Libol đã thực sự trở thành sản phẩm phần mềm Việt Nam đầu tiên về
thư viện điện tử tích hợp với nghiệp vụ thư viện truyền thống.
Năm 2000, Libol được nâng cấp thành phiên bản 4.0, cung cấp thêm rất
nhiều tính năng vượt trội, hoàn thiện trong khâu tuỳ biến dữ liệu. Libol đã đăng ký
bản quyền sáng chế cho phần mềm Libol tại Cục Quản lý sở hữu trí tuệ Việt Nam.
Năm 2001, do yêu cầu của thực tế từ các thư viện, Libol đã được nâng cấp
10
thành phiên bản Libol5.0. Với phiên bản này, phần mềm có thêm 2 phân hệ chức
năng, đó là “ Phân hệ ấn phẩm định kỳ” và “ Phân hệ liên thư viện”.
Kế thừa thành công cũng như kinh nghiệm tích luỹ được từ những phiên bản
trước đó, vào năm 2005 phòng Giải pháp Thư viện Điện tử Công ty Tinh Vân đã
hoàn thiện phiên bản 6.0. Libol6.0 tiếp tục bổ sung thêm nhiều tiện ích mới nhằm
đáp ứng tốt nhất nhu cầu của các đối tượng khách hàng khác nhau. Về mặt nghiệp
vụ, Libol6.0 áp dụng các chuẩn quốc tế về nghiệp vụ thư viện, trên cơ sở cung cấp
các tính năng đặc thù cho thư viện Việt Nam. Ở phiên bản này, tính bảo mật và hiệu
năng của hệ thống được đặc biệt quan tâm. Nhờ sự gia tăng các tính năng này, thư
viện có thể quản lý một cách tốt nhất kho tài nguyên thông tin của mình. Cán bộ thư
viện sẽ không mất nhiều công sức trong các khâu nghiệp vụ nhưng hiệu quả mang
lại vẫn rất lớn. Về mặt tính năng, Libol6.0 hướng tới người dùng nhiều hơn với giao
diện đẹp, thân thiện và dễ sử dụng. Chuẩn hóa và dễ dàng tùy biến cũng là ưu điểm
của phiên bản mới này. Người dùng có thể lựa chọn chức năng ưa thích trong từng

phân hệ và tối ưu hóa các thao tác nghiệp vụ trong hệ thống. Điểm nổi bật của
Libol6.0 chính là phân hệ Quản lý tư liệu điện tử. Nếu như ở các phiên bản trước,
đây là một nhóm tính năng nằm rải rác trong một số phân hệ thì tới Libol6.0, nghiệp
vụ này đã được hoàn thiện thành một phân hệ riêng. Phân hệ này cho phép thư viện
có thể quản lý các dạng tài liệu số phổ biến. Với khả năng tách ra hoạt động độc lập,
nó cho phép thư viện đóng vai trò như một nhà cung cấp tài liệu số tới mọi đối
tượng người dùng. Như vậy, thư viện hoàn toàn có thể quản lý một lượng tài
nguyên số đa dạng (âm thanh, hình ảnh, video, text). Libol6.0 với phân hệ sưu tập
số, tích hợp với phân hệ Phát hành nhằm quản lý, biên tập, phân quyền… và đưa ra
khai thác tài nguyên số hoá. Đây là khác biệt và cũng là ưu điểm rất lớn của
Libol6.0 so với các phiên bản trước đó. Với phân hệ này, các thư viện hoàn toàn có
thể thực hiện mua bán, trao đổi và cung cấp tài liệu điện tử một cách dễ dàng
Ngoài ra, Libol6.0 còn hỗ trợ đa ngữ, giúp người quản trị hệ thống tự thêm mới,
soạn thảo ngôn ngữ và sửa giao diện chương trình, lựa chọn ngôn ngữ hiển thị. Khả
năng đăng nhập một lần (single sign on), cho phép người dùng sử dụng một tài
11
khoản chung duy nhất để đăng nhập và thao tác trên nhiều ứng dụng khác nhau.
1.1.3. Các tính năng nổi bật của phần mềm Libol 6.0
Libol 6.0 là phần mềm mới nhất của công ty Tinh Vân cho đến thời điểm này
với các tính năng quan trọng như:
- Hỗ trợ chuẩn biên mục MARC 21, AACR-2, ISBD, các khung phân loại
thông dụng như DDC, BBK, NLM, LOC, UDC, subject headings; chuẩn ISO 2709
cho nhập/xuất dữ liệu;
- Liên kết với các thư viện và tài nguyên thông tin trực tuyến trên Internet
qua giao thức Z39.50 và OAI-PMH;
- Mượn liên thư viện theo giao thức ISO 10161, sử dụng định dạng mã hoá
dữ liệu BER/MIME;
- Tích hợp với các thiết bị mã vạch, thẻ từ và RFID; các thiết bị mượn trả tự
động theo chuẩn SIP 2;
- Hỗ trợ đa ngữ Unicode với dữ liệu và giao diện làm việc; các bảng mã tiếng

Việt như TCVN 5712, VNI
- Có công cụ xây dựng, quản lý và khai thác kho tài nguyên số;
- Xuất bản các cơ sở dữ liệu hoặc thư mục trên đĩa CD;
- Bảo mật và phân quyền chặt chẽ;
- Thống kê tra cứu đa dạng, chi tiết và trực quan phục vụ mọi nhóm đối tượng;
- Vận hành hiệu quả trên những CSDL lớn hàng triệu bản ghi, hỗ trợ hệ quản
trị CSDL Oracle hoặc MS SQL Server;
- Khai thác và trao đổi thông tin qua web, thư điện tử, GPRS (điện thoại di
động) và thiết bị hỗ trợ người khiếm thị;
- Tương thích với cả mô hình kho đóng và kho mở;
- Hỗ trợ hệ thống thư viện nhiều kho, điểm lưu thông…
1.1.4. Cấu trúc của phần mềm LIBOL6.0.
12
Phần mềm Libol6.0 có 3 hạt nhân, đó là công nghệ và truyền thông; các
chuẩn nghiệp vụ thông tin thư viện; các phân hệ chức năng [17]
Phần về công nghệ thông tin và truyền thông:
- Phần mềm Libol6.0 được thiết kế, xây dựng và vận hành theo các chuẩn
công nghệ mở để đảm bảo khả năng nâng cấp, thay đổi, bổ sung, kết nối thêm các
module mới mà không kéo theo sự đổ vỡ hệ thống cũng như phải đảm bảo được sự
kế thừa các thành quả đã đạt được.
- Xây dựng theo mô hình khách/chủ (client/server).
- Làm việc trên mạng theo giao thức TCP/IP: Phần mềm phải hỗ trợ các giao
thức TCP/IP để đảm bảo khả năng kết nối mạng toàn cầu và triển khai các dịch vụ
liên quan tới chia sẻ và khai thác các nguồn tin điện tử trên thế giới.
- Làm việc trong môi trường Web, bằng tiếng Việt và tiếng Anh hoặc một số
ngôn ngữ phổ biến khác.
- Xây dựng theo kiến trúc nhiều lớp, hệ thống bao gồm các phân hệ chức
năng và được tích hợp thành một hệ thống thống nhất.
- Sử dụng hệ quản trị CSDL mô hình quan hệ.
- Máy chủ sử dụng hệ điều hành Windows 2000 Advanced Server, Windows

NT Server và có thể chuyển sang Linux một cách dễ dàng.
- Máy trạm có thể sử dụng bất cứ hệ điều hành nào để hỗ trợ Web.
- Quản trị và giám sát: Cho phép theo dõi và giám sát được mọi hoạt động
trên hệ thống (Ai làm gì? Vào lúc nào?)
- An ninh hệ thống: Phần mềm hỗ trợ nhiều mức và cơ chế đảm bảo an ninh
hệ thống khác nhau.
- Ngôn ngữ giao diện: Ngôn ngữ sử dụng trên giao diện các phân hệ của
chương trình là tiếng Anh và Việt.
- Bảng mã lưu trữ dữ liệu trong hệ thống: là Unicode tiêu chuẩn Việt Nam
TCVN 6909 với bảng mã dựng sẵn (pre-compound), có bộ chuyển đổi (convertor)
13
để chuyển đổi sang bảng mã tổ hợp (compound) khi cần thiết.
- Bảng mã hiển thị dữ liệu trên giao diện phải hỗ trợ đồng thời các bảng mã
TCVN 6909 (dựa trên Unicode); VNI; TCVN 5712.
- Sắp xếp tiếng Việt: Phần mềm có khả năng sắp xếp dữ liệu tiếng Việt theo
đúng trật tự từ điển (chữ cái, dấu thanh), không hoặc có phân biệt chữ hoa/thường.
- Vận hành hiệu quả trên CSDL lớn, đảm bảo làm việc ổn định và tốc độ truy
cập cao với CSDL lớn (hàng triệu biểu ghi).
- Khả năng sao lưu/khôi phục dữ liệu: Đảm bảo toàn vẹn dữ liệu cho hệ thống.
- Khả năng mở rộng: Khả năng bổ sung thêm các phân hệ, tính năng, máy
trạm và máy chủ với số lượng người dùng không hạn chế.
- Khả năng tự quản cao: Cài đặt dễ dàng, người dùng có khả năng tự đặt cấu
hình cho hệ thống với trợ giúp tối thiểu của nhà cung cấp.
- Hỗ trợ mã vạch: Cho phép in mã vạch trực tiếp theo số liệu trong CSDL
theo các khuôn dạng mã vạch khác nhau. Sử dụng mã vạch trong các nghiệp vụ liên
quan (bổ sung, lưu thông).
- Khả năng tùy biến cao trong việc tạo khuôn dạng báo cáo dữ liệu: Cán bộ
thư viện có thể tự định dạng cho các loại báo cáo dữ liệu khác nhau: các sản phẩm
thư mục, thư từ, hợp đồng, nhãn, phích phiếu, thẻ đọc mà không cần sự can thiệp
của đơn vị cung cấp phần mềm.

Phần về các chuẩn nghiệp vụ thông tin-thư viện:
Các chuẩn nghiệp vụ TTTV tiên tiến và các chuẩn hiện hành đã được
Libol6.0 tính đến để đảm bảo sự tương thích trong giao dịch và vận hành các quá
trình TTTV và trao đổi các sản phẩm, dịch vụ TTTV trong môi trường nối mạng
toàn cầu:
- Hỗ trợ MARC21, MARC21 VN, hỗ trợ các bảng mã tiếng Việt:
TCVN5712, VNI, TCVN6909.
- Hỗ trợ chuẩn ISO 10161 cho việc mượn liên thư viện: Phần mềm hỗ trợ
chuẩn ISO 10161 cho nghiệp vụ mượn liên thư viện (Inter-library Loans), bao gồm
14
cả việc tuân thủ cả giao thức và định dạng dữ liệu.
- Hỗ trợ đồng thời nhiều khung phân loại như: BBK, DDC, LC, UDC,
Khung đề mục quốc gia, khung phân loại 19 lớp
- Hỗ trợ định chủ đề (subject heading) và hệ thống từ khóa kiểm soát.
- Hỗ trợ các quy tắc biên mục và chuẩn hiển thị thông tin biên mục: Phần
mềm tuân thủ các chuẩn ISBD, AACR-2, LC In-publication Catalog, TCVN
4743-89.
- Trao đổi dữ liệu với các phần mềm hỗ trợ UNIMARC và MARC 21: Phần
mềm có khả năng trao đổi dữ liệu biên mục hai chiều với các phần mềm hỗ trợ
UNIMARC và MARC21. Nhập/xuất dữ liệu theo chuẩn ISO 2709;
- Trao đổi dữ liệu với phần mềm CDS/ISIS.
- Trao đổi dữ liệu với các hệ quản lý siêu dữ liệu (Metadata) theo chuẩn
Dublin Core, RDF/XML, chuẩn truy cập các kho lưu trữ mở,
- Áp dụng quy tắc sinh số Cutter theo chuẩn của Thư viện Quốc gia với
tên ấn phẩm/tên tác giả tiếng Việt, phần mềm tự động sinh số Cutter theo xâu
nhập vào.
- Áp dụng quy tắc sinh số Cutter của OCLC cho tên sách/tên ấn phẩm tiếng
nước ngoài, phần mềm tự động sinh số Cutter theo xâu nhập vào.
- Công cụ xây dựng, quản lý và khai thác kho tài nguyên số;
- Xuất bản các cơ sở dữ liệu hoặc thư mục trên đĩa CD;

- Tìm kiếm toàn văn;
- Khả năng tuỳ biến cao;
- Thích hợp với các kiến trúc kho khác nhau.
- Thích hợp với các thư viện có nhiều kho, điểm cho mượn.
Phần về các phân hệ chức năng:
Chương trình Libol hoạt động trên một cơ sở dữ liệu và cơ chế quản lý thống
15
nhất. Tuy vậy, để đảm bảo rằng các quy tắc nghiệp vụ được phân tách rõ ràng,
chương trình Libol hiện thời được chia thành 9 phân hệ.
- Phân hệ Bổ sung và Quản lý kho: Quy trình quản lý ấn phẩm chặt chẽ và
xuyên suốt kể từ lúc phát sinh nhu cầu bổ sung, đặt mua, kiểm nhận, gán số đăng ký
cá biệt, xếp giá tới lưu kho và đưa ra khai thác.
- Phân hệ Biên mục: Công cụ mạnh, thuận tiện và mềm dẻo giúp biên mục
mọi dạng tài nguyên thư viện theo các tiêu chuẩn thư mục quốc tế; giúp trao đổi dữ
liệu biên mục với các thư viện trên mạng Internet và giúp xuất bản các ấn phẩm thư
mục phong phú và đa dạng.
- Phân hệ tra cứu trực tuyến OPAC: Là cổng thông tin chung cho mọi
đối tượng để khai thác tài nguyên và dịch vụ thư viện theo cách riêng phù hợp
với nhu cầu của từng cá nhân; Là môi trường giao tiếp và trao đổi thông tin
giữa bạn đọc với nhau, giữa bạn đọc và thư viện và giữa bạn đọc với các thư
viện khác.
- Phân hệ Quản lý Ấn phẩm nhiều kỳ: Tự động hóa và tối ưu hóa
các nghiệp vụ quản lý đặc thù cho mọi dạng ấn phẩm định kỳ (báo, tạp chí, tập
san ) như bổ sung, đăng ký, kiểm nhận, đóng tập, khiếu nại thiếu số và tổng
hợp số có số thiếu
- Phân hệ Quản lý Bạn đọc: Quản lý thông tin cá nhân và phân loại bạn đọc
giúp thư viện áp dụng được những chính sách phù hợp với mỗi nhóm bạn đọc và
tiến hành các xử lý nghiệp vụ theo lô hoặc theo từng cá nhân.
- Phân hệ Lưu thông mượn trả: Tự động hoá những thao tác thủ công lặp đi
lặp lại trong quá trình mượn trả và tự động tính toán, áp dụng mọi chính sách lưu

thông do thư viện thiết đặt. Cung cấp các số liệu thống kê về tình hình mượn trả tài
liệu phong phú và chi tiết.
- Phân hệ Sưu tập số: Quản lý kho tư liệu số hoá của thư viện, hỗ trợ công
tác số hóa và nhận dạng tài liệu, theo dõi và xử lý các yêu cầu đặt mua tài liệu điện
tử qua mạng.
16
- Phân hệ Mượn liên thư viện (ILL): Quản lý những giao dịch trao đổi tư liệu
với các thư viện khác theo chuẩn quốc tế dưới các vai trò là thư viện cho mượn và
thư viện yêu cầu mượn. Cho phép bạn đọc của thư viện này có thể mượn sách tại
các thư viện khác.
- Phân hệ Quản trị hệ thống: Quản lý, phân quyền người dùng và theo dõi
toàn bộ hoạt động của hệ thống. Tích hợp với cơ sở dữ liệu người dùng trên LDAP
hoặc Microsoft Active Directory. Cho phép tùy biến ngôn ngữ trên giao diện
chương trình.
Sau gần 15 năm phát triển, Libol là giải pháp phần mềm thư viện điện tử
được áp dụng nhiều nhất tại Việt Nam hiện nay. Với hơn 100 khách hàng là các thư
viện các trường đại học, thư viện công cộng và trung tâm nghiên cứu lớn nhất cả
nước như: Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia, Thư viện Khoa học tổng hợp
TP. Hồ Chí Minh, Đại học Quốc gia Hà Nội Libol đã khẳng định những đóng góp
xuất sắc về công nghệ cho sự nghiệp tin học hoá và hiện đại hoá công tác quản lý và
khai thác thư viện. Chính vì vậy, phần mềm Libol đã đạt được nhiều giải thưởng,
như: Giải thưởng Sao Khuê 2010 do Hiệp hội phần mềm Việt Nam VINASA trao
tặng; Cúp Vàng "Phần mềm đóng gói - phần mềm thương phẩm" cho sản phẩm
CNTT xuất sắc do Hội tin học Việt Nam trao tặng năm 2002 và 2007; giải thưởng
chất lượng do Bộ Bưu chính Viễn thông trao tặng cho 10 doanh nghiệp kinh doanh
sản xuất phần mềm và nội dung thông tin số đạt thành tích cao năm 2005; giải thưởng
Sao Khuê 2005 và 2007 do Hiệp hội phần mềm Việt Nam VINASA và Bộ Bưu chính
Viễn thông trao tặng; bằng khen của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông cho
sản phẩm, giải pháp phần mềm nghiệp vụ chuyên ngành xuất sắc 2006.
Qua một số nét tổng quan về phần mềm Libol6.0, chúng ta nhận thấy đây là

phần mềm được thiết kế và xây dựng khá chuyên nghiệp, phù hợp với các hệ thống
thư viện, có khả năng tích hợp và là một phần mềm mở, thực sự đáp ứng các yêu
cầu của phần mềm thư viện.
1.2. Đặc điểm hoạt động thông tin – thư viện tại trường Đại học Kinh tế
17
quốc Dân
1.2.1. Khái quát về trường Trường Đại học Kinh tế Quốc dân .
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân được thành lập theo Nghị định số 678-
TTg ngày 25 tháng 1 năm 1956 với tên gọi ban đầu là Trường Kinh tế Tài chính.
Lúc đó, Trường được đặt trong hệ thống đại học nhân dân Việt Nam trực thuộc
Thủ tướng Chính phủ.[16]
Ngày 22 tháng 5 năm 1958, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 252-TTg
đổi tên trường thành Trường Đại học Kinh tế Tài chính trực thuộc Bộ Giáo dục.
Tháng 1 năm 1965 Trường lại một lần nữa được đổi tên thành trường Đại
học Kinh tế Kế hoạch.
Ngày 22 tháng 10 năm 1985, Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên
nghiệp (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo) ra Quyết định số 1443/QĐ-KH đó đổi tên
Trường thành trường Đại học Kinh tế Quốc dân [8].
Trải qua hơn nửa thế kỷ xây dựng và phát triển, trường Đại học Kinh tế Quốc
dân luôn luôn giữ vững vị trí là:
- Một trong những trung tâm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý kinh tế và
quản trị kinh doanh lớn nhất ở Việt Nam. Trường hiện có hơn 45.000 sinh viên;
1228 cán bộ, giảng viên, công nhân viên, trong đó có 469 là cán bộ, công nhân viên
và 759 giảng viên (18 giáo sư, 95 phó giáo sư, 255 tiến sĩ và 391 thạc sĩ); Bậc đại
học đào tạo 45 chuyên ngành thuộc 8 khối chuyên ngành khác nhau: Kinh tế, Quản
trị kinh doanh, Tài chính - Ngân hàng , Kế toán, Hệ thống thông tin kinh tế, Luật
học, Khoa học máy tính và Tiếng Anh ; ở bậc cao học đào tạo 2 nhóm ngành Kinh
tế, kinh doanh và quản lý với 33 chuyên ngành hẹp; bậc nghiên cứu sinh đào tạo 14
mã số chuyên ngành với 22 chuyên ngành hẹp. Bên cạnh các chương trình đào tạo
cấp bằng cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ, Trường cũng thường xuyên tổ chức các khoá

bồi dưỡng chuyên môn ngắn hạn về quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh cho các
nhà quản lý các doanh nghiệp và các cán bộ kinh tế trên phạm vi toàn quốc. Cho
18
đến nay, trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã đào tạo được nhiều thế hệ cán bộ
quản lý chính quy, năng động, dễ thích nghi với nền kinh tế thị trường và có khả
năng tiếp thu các công nghệ mới. Trong số những sinh viên tốt nghiệp của Trường,
nhiều người hiện đang giữ những chức vụ quan trọng trong các cơ quan của Đảng,
Quốc hội, Chính phủ và các doanh nghiệp.
- Trung tâm nghiên cứu khoa học kinh tế phục vụ đào tạo, hoạch định chính
sách kinh tế – xã hội của Đảng, Nhà nước, các ngành, các địa phương và chiến lược
kinh doanh của các doanh nghiệp. Trường đã triển khai nhiều công trình nghiên cứu
lớn về kinh tế và kinh doanh ở Việt Nam, được Chính phủ trực tiếp giao nhiều đề
tài nghiên cứu lớn và quan trọng. Ngoài ra, Trường cũng hợp tác về nghiên cứu với
nhiều trường đại học, viện nghiên cứu và các tổ chức quốc tế.
- Trung tâm tư vấn và chuyển giao công nghệ quản lý kinh tế và quản trị
kinh doanh. Trường đã có nhiều đúng góp to lớn trong việc tư vấn cho các tổ chức ở
Trung ương, địa phương và các doanh nghiệp. Ảnh hưởng sâu rộng của trường Đại
học Kinh tế Quốc dân đến toàn bộ công cuộc đổi mới được tăng cường bởi các mối
liên kết chặt chẽ của Trường với các cơ quan thực tiễn.
- Trường Đại học KTQD có quan hệ trao đổi, hợp tác nghiên cứu - đào tạo
với nhiều trường đại học, viện nghiên cứu nổi tiếng và nhiều tổ chức quốc tế của
các nước như Liên Bang Nga, Trung Quốc, Bungari, Ba Lan, CH Sec và Slụvakia,
Anh, Pháp, Mỹ, Úc, Nhật, Thuỵ Điển, Hà Lan, CHLB Đức, Canada, Hàn Quốc,
Tháii Lan Đặc biệt, trường cũng nhận được tài trợ của các nước và các tổ chức
quốc tế như tổ chức Sida (Thuỵ Điển), UNFPA, CIDA (Canada), JICA (Nhật Bản),
Chính phủ Hà Lan, ODA (Vương quốc Anh), UNDP, Ngân hàng Thế giới, Quỹ
Ford (Mỹ), Quỹ Hanns Seidel (Đức) để tổ chức nghiên cứu, xây dựng chương
trình đào tạo và mở các khoá đào tạo thạc sĩ tại Trường về kinh tế, quản lý, quản trị
kinh doanh và các lớp bồi dưỡng về kinh tế thị trường Đồng thời, Trường cũng có
quan hệ với nhiều công ty nước ngoài trong việc đào tạo, nghiên cứu và cấp học

bổng cho sinh viên.
19
Đại học Kinh tế Quốc dân đã đạt được rất nhiều thành tựu to lớn và đã được
trao tặng nhiều danh hiệu cao quý của Đảng và Nhà nước như: Huân chương Lao
động Hạng Ba trong giai đoạn 1961 - 1972, Hạng Hai năm 1978, Hạng Nhất năm
1983, Huân chương Độc lập hạng Ba năm 1986, Hạng hai năm 1991 và Hạng nhất
năm 1996, danh hiệu Anh hùng Lao động năm 2000, Huân chương Hồ Chí Minh
năm 2001, Huân chương Hữu nghị của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào năm
2008.
Mục tiêu phấn đấu của Trường đến năm 2020 là trở thành một trường đại
học hiện đại với đầy đủ các trang thiết bị tiên tiến. Để đảm bảo chất lượng giảng
dạy và học tập đạt tiêu chuẩn quốc tế, Trường đang nâng cấp hệ thống phòng học,
mua các thiết bị hiện đại, soạn và xuất bản giáo trình và các tài liệu tham khảo, hệ
thống thông tin phục vụ đào tạo và nghiên cứu, đổi mới và nâng cấp cơ sở vật chất
hiện có với những trang thiết bị hiện đại.
1.2.2. Trung tâm Thông tin – Thư viện trường Đại học Kinh tế Quốc Dân
1.2.2.1. Khái quát về sự hình thành và phát triển của Trung tâm
Thư viện Trường Đại học Kinh tế tài chính nay là Trung tâm Thông tin –
Thư viện trường Đại học Kinh tế Quốc Dân (TTTT-TV ĐHKTQD) được thành
lập từ năm 1956, cùng với sự ra đời của Trường Kinh tế Tài chính Trung ương
nay là Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Hơn nửa thế kỷ qua, là cả khoảng thời
gian lịch sử đáng ghi nhớ, Trung tâm Thông tin Thư viện đã trải qua bao khó
khăn, thử thách để có được như ngày hôm nay. Khi mới thành lập, Thư viện gặp
vô vàn khó khăn như cơ sở vật chất chật hẹp, kinh phí thiếu thốn Khi đó, Thư
viện chỉ có một phòng đọc nhỏ, trang thiết bị lạc hậu với những tủ sách nghèo
nàn. Tới nay Trung tâm Thông tin Thư viện đã trường Đại học Kinh tế Quốc Dân
có nhiều đổi mới: Được Dự án Giáo dục Đại học đầu tư về cơ sở vật chất trang
thiết bị hiện đại, vốn tài liệu thông tin khá phong phú, đa dạng; hệ thống tra cứu
điện tử trên phần mềm Libol60, quản lý tài liệu trên đầu đọc mã vạch. Đội ngũ
cán bộ thông tin Thư viện đã phát triển nhanh về số lượng, chất lượng được nâng

20
cao được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, tiếng anh, tin học, phần mềm quản
lý thư viện Libol60.
Quá trình hình thành và phát triển của Trung tâm, có thể được chia thành 2
giai đoạn lớn:
- Giai đoạn thứ nhất từ năm 1956 đến năm 1985
- Giai đoạn thứ hai từ năm 1985 đến nay
Giai đoạn thứ nhất từ năm 1956 đến năm 1985:
Giai đoạn trước năm 1985 Trung tâm vẫn có tên là “Thư viện” và phải vượt
qua bao khó khăn để giữ vững vị trí và hoàn thành nhiệm vụ của mình. Bởi vì giai
đoạn này Nhà trường và Đất nước có nhiều sự kiện đặc biệt. Đó là khi Trường Đại
học Kinh tế - Tài chính này mới xây dựng và phát triển được mấy năm, nhưng do
yêu cầu mới, một số khoa của Trường phải tách ra để thành lập một số trường đại
học khác như Trường đại học Ngoại thương (tháng 10 năm 1962), khoa Kinh tế
Trường đại học Giao thông (tháng 1 năm 1963)… Sau ngày giải phóng miền Nam
năm 1975, các trường kinh tế phía Nam được xây dựng và củng cố, Trường
ĐHKTQD cũng lại có trách nhiệm giúp các trường đó. Như vậy trong những năm
này Nhà trường không những phải cử cán bộ, giáo viên đi xây dựng và củng cố các
trường mới, mà nguồn tài liệu của Thư viện cũng phải chia ra để chi viện cho các
trường đó.
Trước năm 1975, Nhà trường phải đi sơ tán, các khoa phải phân tán ở các
khu vực khác nhau. Vì vậy Thư viện phải phân chia lực lượng đi đến các nơi sơ tán
để phục vụ cán bộ, giáo viên và sinh viên các khoa. Trong điều kiện này Thư viện
gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn về kinh phí, cơ sở vật chất, nguồn tài liệu, đội
ngũ cán bộ và hoạt động trong điều kiện gian khổ vì chiến tranh… Có thể nói rằng
trong giai đoạn này Thư viện không mấy khi được ổn định để phát triển, mà luôn
phải ứng phó với những yêu cầu, nhiệm vụ đột xuất mới đặt ra.
Từ năm 1975 Thư viện bước sang giai đoạn hoạt động trong điều kiện hoà
bình, đồng thời được sự quan tâm đầu tư của Nhà trường, nên có nhiều thuận lợi để
21

củng cố và hoàn thiện. Đội ngũ cán bộ nhân viên Thư viện đã được nâng cao trình
độ chuyên môn nghiệp vụ, có kiến thức khoa học kinh tế, đủ khả năng xử lý thông
tin phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học (NCKH), giảng dạy, học tập của giáo
viên và sinh viên.
Đến năm 1985 Thư viện đã trở thành một thư viện chuyên ngành kinh tế xã
hội với một kho sách báo khá lớn và phong phú. Cùng từ năm 1985 Thư viện được
đổi tên là “Trung tâm Thông tin – Thư viện trường Đại học Kinh tế Quốc dân”.
Song thời kỳ này Thư viện vẫn là thư viện truyền thống, mọi hoạt động quản lý và
phục vụ đều bằng thủ công.
Giai đoạn thứ hai từ năm 1985 đến nay
Từ năm 1986, theo sự đề xướng và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
cả nước thực hiện công cuộc Đổi mới. Các cơ quan, trường học nói chung, Trường
ĐHKTQD nói riêng, cũng không nằm ngoài xu thế chung đó. TTTT-TV là một
trong những bộ phận quan trọng của Nhà trường cũng đã và đang đổi mới. Có thể
nói trong giai đoạn này, Trung tâm đã đổi mới một cách toàn diện.
Trước hết nói về đổi mới nguồn tài liệu: Khi đất nước chuyển từ nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, đòi hỏi Nhà trường phải đổi mới nội dung và chương trình đào tạo phù hợp
với yêu cầu mới. Điều đó tác động tới hoạt động của TTTT-TV, đòi hỏi Trung tâm
phải đổi mới nội dung, cơ cấu kho sách, báo của mình để phục vụ yêu cầu mới của
Nhà trường (toàn bộ nguồn tài liệu, sách báo của 30 năm trước đều theo hệ thống lý
luận của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, nay không còn phù hợp hoặc còn rất ít
giá trị, sách về nền kinh tế thị trường rất hạn hẹp, hầu như không có, Trung tâm
phải thu gom từ đầu). Trước tình hình đó, Trung tâm tìm mọi cách vừa mua mới,
vừa mở rộng quan hệ hợp tác với thư viện các trường đại học khác, các tổ chức
trong và ngoài nước để trao đổi kinh nghiệm chuyên môn và tranh thủ những nguồn
tài liệu bạn tặng biếu, làm giàu thêm vốn tài liệu của mình. Tới nay Trung tâm đã
xây dựng được nguồn tài liệu mới có nội dung lý luận về nền kinh tế thị trường,
22

×