Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Hướng dẫn ôn thi Cao học môn Triết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.74 KB, 30 trang )

Sáng thứ 6, ngày 14 tháng 01 năm 2011
ÔN TẬP MÔN TRIẾT HỌC
PHẠM TRÙ VẬT CHẤT
I. KHÁI QUÁT QUAN ĐIỂM TRƯỚC MÁC VỀ VẬT CHẤT
* Chủ nghĩa duy tâm: Coi ý thức (tinh thần ) là có trước, quyết định. Coi vật chất
(giới tự nhiên) là có sau, bị quyết định. Quan điểm này bị thực tiễn bác bỏ.
* Chủ nghĩa duy vật trước Mác: Cho rằng vật chất( giới tự nhiên) là có trước, là
quyết định, còn ý thức (tinh thần) có sau, bị quyết định. Quan điểm này phù hợp với thực
tiễn, tuy nhiên khi trả lời câu hỏi vật chất là gì thì các nhà duy vật trước mác lại có những
quan điểm khác nhau.
- Một là: Quan niệm của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại thì đồng nhất vật chất
với những sự vật hiện tượng cụ thể như nước, lửa, không khí, nguyên tử… coi đó là cái
đầu tiên mà từ đó sinh ra mọi cái còn lại. Quan niệm này mang nặng tính trực quan, ngây
thơ, ấu trĩ và chưa khoa học nên đã bị khoa học bác bỏ.
- Hai là: Quan niệm của chủ nghĩa siêu hình thế kỷ XVII, XVIII quy vật chất về các
thuộc tính của vật như là khối lương, quảng tính, hay là kết cấu nguyên tử. Quan niệm
này đã có tính khoa học tuy nhiên nó còn mang nặng tính siêu hình cơ giới, máy móc. Do
đó những quan niệm này cuối cùng cũng bị khoa học bác bỏ. Từ đó đặt ra nhu cầu phải
có một quan niệm mới về vật chất. Lênin là người đầu tiên đưa ra được quan điểm này.
II. ĐỊNH NGHĨA CỦA LÊNIN VỀ VẬT CHẤT
1. Hoàn cảnh ra đời của định nghĩa
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cuộc cánh mạng trong KHTN đã mở ra nhiều phát
minh có tính bước ngoặt làm đảo lộn những nguyên tắc cũ, xuất hiện một loạt những phát
minh khoa học mới góp phần bác bỏ những quan niệm cũ về vật chất cụ thể là:
- Năm 1895 tìm ra tia X (tia rơn ghen) chứng tỏ trong tự nhiên vật chất không chỉ là
chất (tức là những cái có khối lượng, có quảng tính và có cấu trúc nguyên tử) mà vật chất
còn là trường (dạng vật chất mang tính liên tục, nó không xác định về mặt khối lượng,
không có cấu trúc nguyên tử).
- Năm 1896 phát hiện ra hiện tượng phóng xạ chứng tỏ nguyên tử cũng tiêu tan.
- Năm 1897 tìm ra electơron (điện tử) chứng tỏ nguyên tử cũng không phải là kết cấu
vật chất cuối cùng (cấu trúc này vẫn có thể phân chia được nữa).


- Sang đầu thế kỷ XX phát hiện ra hiện tượng thay đổi của khối lượng, quảng tính và
thời gian trong sự phụ thuộc vào tốc độ vận động.
Tóm lại: Khoa học chứng minh rằng không có dạng vật chất đầu tiên.
Từ những phát minh khoa học trên đã làm xuất hiện sự khủng hoảng trong lập trường
tư tưởng của một số nhà khoa học, nhà triết học, từ đó làm khôi phục lại chủ nghĩa duy
tâm và thuyết bất khả tri, chống lại chủ nghĩa Mác. Trước bối cảnh đó LêNin đã viết tác
phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” xuất bản năm 1909 mà
trong đó ông đã đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất (được thừa nhận như là một định
nghĩa chính thống của chủ nghĩa Mác)
1
2. Định nghĩa: Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chụp lại, chép
lại, phản ánh và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác.
3. Phân tích định nghĩa: Trong nội dung định nghĩa trên cần lưu ý 2 điểm sau:
- Một là: Định nghĩa khẳng định vật chất là một phạm trù triết học, phạm trù là một
khái niệm rộng nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính phổ biến nhất của hiện thực.
Như vậy khi coi vật chất là một phạm trù triết học thì nó là khái niệm chứ không phải là
sự vật. Cho nên vật chất là cái chung, cái khái quát, cái trừu tượng, là vật chất nói chung
(là vĩnh viễn).
Vì vậy cần phải phân biệt phạm trù triết học về vật chất với 1 khái niệm vật lý thông
thường về vật chất mà người ta dùng để chỉ những sự vật, những hiện tượng vật chất cụ
thể (như vậy: đất, nước, lửa, không khí chẳng qua chỉ là một dạng tồn tại về vật chất).
- Hai là: Về mặt nhận thức luận (phương pháp luận) thì thuộc tính cơ bản nhất của vật
chất dùng để định nghĩa cho nó và để phân biệt nó với ý thức tinh thần là thuộc tính tồn
tại khách quan. Vật chất là tất cả những gì tồn tại khách quan bên ngoài đầu óc con người
và không phụ thuộc vào ý thức của con người, độc lập lại với nó thì ý thức hay tinh thần
là cái tồn tại chủ quan trong đầu óc con người.
Tóm lại: Theo định nghĩa của LêNin vật chất được hiểu như sau:
- Vật chất là tất cả những gì đang tồn tại khách quan bên ngoài đầu óc con người,
không phụ thuộc vào ý thức, cảm giác của con người.

- Vật chất là những cái mà khi tác động lên các giác quan của con người một cách trực
tiếp hay gián tiếp thì sẽ gây nên cho con người cảm giác.
- Vật chất là những cái mà trong quan hệ đối với chúng thì ý thức, cảm giác của con
người chẳng qua chỉ là sự phản ánh của chúng mà thôi.
4. Ý nghĩa, phương pháp luận của định nghĩa:
Một là: Định nghĩa trên đã góp phần khắc phục được quan niệm siêu hình về vật chất,
đó là không quy vật chất về cái cụ thể mà đồng nhất nó với thực tại khách quan nói
chung (Cái thực tại khách quan ấy mới là vĩnh viễn, mới là cái vô cùng tận).
Hai là: Định nghĩa đã góp phần giải quyết được cả hai mặt vấn đề cơ bản của triết học
theo lập trường duy vật và theo lập trường khả tri luận (theo thuyết có thể biết)
Ba là: Định nghĩa góp phần đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, nhất là duy tâm về xã
hội. Vì theo định nghĩa này đưa vào thuộc tính tồn tại khách quan mà ta có thể phân biệt
trong xã hội xem đâu là vật chất, đâu là tinh thần.
Bốn là: Định nghĩa là cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu về các dạng cấu trúc vật chất
của thế giới có liên quan đến dạng vật chất mới như là: hạt và phản hạt; vật chất và phản
vật chất.
2
PHẠM TRÙ Ý THỨC
1. Vấn đề nguồn gốc của ý thức
Theo quan điểm chủ nghĩa Mác thì ý thức của con người được bắt nguồn từ 2 nguồn
gốc: Tự nhiên và nguồn gốc xã hội. Trong đó nguồn gốc tự nhiên là điều kiện cần còn
nguồn gốc xã hội mới là điều kiện đủ cho sự hình thành ý thức.
a) Nguồn gốc tự nhiên của ý thức:
- Ý thức của con người là sản phẩm tiến hoá lâu dài của giới tự nhiên cho nên nó có
nguồn góc tự nhiên cụ thể là:
Thứ nhất: Ý thức của con người là do bộ óc người sinh ra, bộ óc người là một dạng vật
chất phức tạp, là sản phẩm tiến hoá cao nhất của tự nhiên, chính là nơi sản sinh ra ý thức.
Bộ óc người phải thông qua hoạt động sinh lý thần kinh
Thứ hai: Bộ có người cũng không tự sinh ra được ý thức, để ý thức được sinh ra thì cần
phải có sự tác động của thế giới khách quan lên các cơ quan cảm giác của con người, cho

nên ý thức còn có nguồn gốc từ thế giới khách quan.
Thứ ba: Ý thức của con người chỉ là một hình thức phản ánh đặc biệt của thế giới
khách quan vào trong bộ óc của con người, bộ óc người chỉ là một cơ quan phản ánh đặc
bịêt cho nên ý thức của con người là kết quả tiến hoá từ thuộc tính phản ánh chung của
vật chất. Phản ánh là thuộc tính của một hệ vật chất, có thể tái tạo lại những đặc điểm nào
đó cua một hệ vật chất khác khi có sự tác động của 1 hệ vật chất thứ 2 lên nó. Trong quá
trình tiến hoá củavật chất năng lực phản anh cũng có sự tiến hoá dần dần từ thấp đến cao,
từ phản ánh vật lý thông thường tiến hoá thành phản ánh sinh vật với 2 dạng tính kích
thích của động vật và tính cảm ứng thông qua phản xạ tự nhiên của động vật. Từ cảm ứng
động vật sau đó tiến hoá thành tâm lý động vật dựa trên phản xạ có điều kiện và từ tâm
lý động vật mới tiến hoá thành ý thức của con người.
b) Nguồn gốc xã hội của ý thức:
Ý thức của con người chỉ hình thành được trong môi trường xã hội cho nên nó là một
sản phẩm mang tính xã hội. Theo Angghen lao động và ngôn ngữ chính là 2 sức kích
thích chủ yếu cho sự hình thành và phát triển ý thức của con người.
Thứ nhất là vai trò của lao đông: Lao động là 1 hoạt động có ý thức của con người, tác
động lên tự nhiên để cải biến tự nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu lợi ích của con người, nhờ
lao động mà cơ thể của con người dần dần hoàn thiện như có dáng đi thẳng, đôi tay linh
động, bộ óc phát triển.
Trong lao động con người giao tiếp với nhau, và tác động lên tự nhiên, để cải tạo tự
nhiên làm cho tự nhiên phải bộc lộ ra những thuộc tính, những mối liên hệ của nó nhờ đó
con người nhận thức tự nhiên, làm hình thành lên ý thức về thế giới tự nhiên. Thông qua
quá trình giao tiếp mà dần dần hình thành nhu cầu về ngôn ngữ, từ đó tiếng nói xuất hiện
Thứ hai: Về vai trò của ngôn ngữ: Ngôn ngữ (tiếng nói) là một hệ truyền tin thứ 2 của
con người, hệ truyền tin gián tiếp.
Sau khi tiếng nói xuất hiện thì nó lập tức trở thành cái vỏ vật chất của ý thức hay nói
như Mác ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư duy, bởi vì tư duy hay ý thức chỉ có thể
tồn tại và biểu hiện được thông qua ngôn ngữ khi suy nghĩ (tư duy) người ta sử dụng hệ
ngôn ngữ bên trong, và khi diễn đạt ý nghĩ thì người ta sử dụng ngôn ngữ bên ngoài.
3

Phải có đủ 2 điều kiện trên thì mới tồn tại ý thức của con người.
2. Bản chất của ý thức
Ý thức là sự phản ánh tích cực sáng tạo của hiện thực khách quan vào bộ óc của con
người, được hình thành thông qua hoạt động thực tiễn của họ.
Bản chất ý thức được thể hiện ở 3 mặt sau:
a) Mặt phản ánh của ý thức:
Ý thức của con người là sự phản ánh thế giới khách quan vào đầu óc con người do đó
nó là hình ảnh chủ quan của hiện thực khách quan. Vì vậy nếu ta xét ý thức theo phương
thức tồn tại thì nó là chủ quan bởi nó chỉ tồn tại một cách chủ quan trong đầu óc con
người.
Nhưng nếu ta xét ý thức teo nội dung phản ánh thì nó là khách quan vì nó mang nội
dung về hiện thực khách quan, vì vậy Lênin khẳng định phản ánh bao giờ cũng là phản
ánh của tồn tại khách quan.
b) Mặt sáng tạo của ý thức:
Ý thức không phản ánh thụ động thế giới khách quan mà phản ánh một cách chủ động,
tích cực và sáng tạo thế giới, tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ở các phương diện
sau:
Một là: Thông qua quá trình trao đổi thông tin 1 cách có chọn lọc giữa chủ thể và
khách thể, trong đó chủ thể giữ vao trò chủ động.
Hai là: Thông qua quá trình mã hoá các đối tượng vật chất bên ngoại thành các loại
hình ảnh tinh thần tương ứng. Mác gọi đậy là hoạt động cải biến, ông nói ý thức chẳng
qua chỉ là cái vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở
đó. Hoạt động này có thể dẫn đến thứ nhất là sự phản ánh sai lệch, xuyên tạc hiện thực ,
làm hình thành lên những hình ảnh không có thật. Thứ 2: Làm hình thành lên những loại
hình ảnh đúng đắn phản ánh bản chất hiện thực khách quan như là khái niệm, phạm trù,
quy luật, học thuyết…
Ba là: Ý thức sau khi được hình thành có thể chỉ là hoạt động thực tiễn của con người,
để chuyển hoá các ý tưởng trong đầu óc con người thành hiện thực vật chất tương ứng
đây được gọi là hoạt động đối tượng hoá.
c) Mặt xã hội của ý thức:

Ý thức tuy phải tồn tại thông qua đầu óc cá nhân của mỗi người nhưng con người luôn
luôn sống trong một mối trường xã hội nhất định và toàn bộ ý thức tư duy của họ chịu sự
chi phối của môi trường xã hội ấy , do đó con người ta sống trong những thời đại lịch sử
khác nhau thì ý thức của họ cũng khác nhau. Vì vậy xét cả về nguồn gốc lẫn phương thức
thực hiện thì ý thức của con người đều mang tính xã hội, nó có nguồn gốc từ xã hội và nó
tồn tại trong xã hội như là 1 sản phẩm chung của mọi người.
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Quan hệ giữa vật chất và ý thức được xem xét trên 2 phương diện:
Một là: Trong khuôn khổ vấn đề cơ bản của triết học thì ý thức và vật chất được đặt đối
lập nhau. Theo Lê nin sự đối lập trên chỉ là trương đối
4
Hai là: Trong hoạt động thực tiễn của con người thì mối quan hệ vật chất và ý thức là
quan hệ biện chứng, có sự tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó vật chất quyết định ý thức
nhưng ngược lại ý thức có thể tác động trở lại lên vật chất.
1. Vật chất quyết định ý thức
Theo quan điểm thế giới quan duy vật thì vật chất là cái có trước nó sinh ra và quyết
định ý thức (ý thức là cái có sau ) trong lĩnh vực xã hội quan hệ này được biểu hiện là tồn
tại xã hội có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức xã hội sự quyết định của vật chất đôí
với ý thức được thể hiện ở chỗ: Một là nó quyết định nguồn gốc ý thức, quy định sự hình
thành ý thức của con người Hai là nó quyết định toàn bộ nội dung của ý thức con người,
Ba là nó quyết định quá trình vận động phát triển, biến đổi của ý thức con người. Từ quan
điêm của thế giới quan duy vật trên chúng ta phải rút ra 1 nguyên tắc phương pháp luận
để chỉ đạo các hoạt động của mình đó là phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, phải tôn
trọng và hành động theo các quy luật khách quan, phải kiên quyết đấu tranh chống chủ
nghĩa chủ quan, duy ý trí.
2. Sự tác động trở lại của ý thức lên vật chất:
Sau khi ý thức hình thành thì nó có tính độc lập tương đối, nhờ đó nó có thể tác động
tích cực trở lại lên vật chất theo 2 xu hướng: Một là nếu ý thức phản ánh đúng đắn các
quy luật vận động khách quan của vật chất thì nó có thể thúc đẩy sự phát triển của vật
chất. Hai là nếu ý thức phản ánh 1 cách sai lệch, xuyên tạc các quy luật vận động khách

quan của vật chất thì nó lại kìm hãm sự phát triển của vật chất. Sự tác động này không
diễn ra tự thân mà nó phải được thực hiện thông qua các hoạt động thực tiễn của con
người, như Mác nói: Một lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng 1 lực lượng vật
chất và vì vậy để ý thức tác động lên vật chất thì trước tiên nó phải được vật chất hoá, Từ
quan điểm trên cần rút ra nguyên tác phương pháp luận đó là đề cao vai trò của nhân tố
sáng tạo chủ quan con người, phải thường xuyên học tập, bồi dưỡng, nâng cao trình độ
học vấn chuyên môn phổ biến tri thức khoa học và lý luận Cách mạng cho quần chúng
nhân dân, kiên quyết đấu tranh khắc phục chủ nghĩa duy vật tầm thường, siêu hình, cơ
giới, máy móc.
5
Sáng thứ 6, ngày 21 tháng 01 năm 2011
NGUYÊN LÝ VỀ MỐI QUAN HỆ PHỔ BIẾN
1. Khái niệm về mối liên hệ:
- Trong lịch sử triết học trước Mác tồn tại những quan điểm đối lập nhau về mối liên hệ
như là sự đối lập giữa quan điểm siêu hình và biện chứng, giữa quan điểm duy tâm tâm
và duy vật. Quan điểm siêu hình coi thế giới là một tập hợp tình cờ của những sự vật
riêng rẽ, biệt lập và tách rời. Do đó quan điểm này hoặc là không thừa nhận sự liên hệ
giữa các sự vật hiện tượng với nhau hoặc là có thừa nhận sự liên hệ, nhưng lại xem xét
chúng một cách giản đơn, hời hợt bề ngoài, cho nên không thấy được sự chuyển hóa bên
trong giữa các sự vật hiện tượng với nhau.
- Quan điểm biện chứng cho rằng thế giới là một chỉnh thể thống nhất, trong đó mọi sự
vật hiện tượng đều có sự liên hệ và chuyển hóa lẫn nhau. Do đó theo quan điểm này thì
không có một sự vật hiện tượng nào lại hoàn toàn cô lập, tách rời mà mọi sự vật hiện
tượng đều có sự liên hệ với nhau. Quan điểm này được đánh giá là sâu sắc, toàn diện khi
giải giải quyết vấn đề nguồn gốc của sự liên hệ thì có sự đối lập giữa quan điểm duy vật
và và duy tâm. Các nhà biện chứng duy tâm coi nguồn gốc của các mlh là ý niệm, ý niệm
tuyệt đối hay là cảm giác chủ quan của con người
Ngược lại các nhà biện chứng duy vật (Chủ nghĩa Mác) chỉ ra rằng nguồn gốc của các
mlh trong hiện thực là do tính thống nhất vật chất của thế giới, theo đó thì mọi sự vật
hiện tượng đều kà những dạng tồn tại cụ thể của vật chất, có tính vật chất hay có nguồn

gốc vật chất.Vì vậy chúng đều phải chịu sự chi phối bởi các quy luật phổ biến của vật
chất.
Tóm lại theo quan điểm biện chứng duy vật thì khái niệm về mlh được dùng để chỉ sự
tương tác qua lại, tính quy định ràng buộc lẫn nhau và sự chuyển hoá vào nhau giữa
những mặt trong cùng một hiện tượng hay giữa các sự vật hiện tượng với nhau.
2. Các tính chất của mlh
Theo quan điểm biện chứng duy vật thì các mối liên hệ trong hiện thực có 3 tính chất
cơ bản:
Một là: Tính khách quan: Điều này nói lên rằng các mối liên hệ của hiện thực có
nguồn gốc kq từ vật chất, chúng tồn tại một cách khách quan ở bên ngoài đầu óc con
người và không phụ thuộc vào ý thức con người.
Hai là: Tính phổ biến: Mọi sự vật hiện tượng đều có mlh của mình chứ ko có 1 sự vật
hiện tượng nào lại hoàn toàn cô lập, những mlh này có mặt cả trong tự nhiên.
Ba là: Tính đa dạng nhiều vẻ: Điều đó nói lên rằng có vô số các kiểu loại liên hệ khác
nhau đang tồn tại trong hiện thực và mỗi sự vật đều phải đồng thời tham gia và vô số các
mlh ấy. Có liên hệ bên trong, có liên hệ bên ngoài trong đó những mối liên hệ bên trong
đóng vai trò quyết định. Có liên hệ trực tiếp, có liên hệ gián tiếp, và chúng có thể chuyển
hoá lẫn nhau, có lien hệ riêng, có liên hệ chung. Trong đó những mối liên hệ chung nhất
có tác động đồng thời lên mọi sự vật hiện tượng cả trong tự nhiên, trong xã hội và trong
tư duy thì được gọi là mlh phổ biến. Những mlh riêng và liên hệ đặc thù là đối tượng
nghiên cứu của các khoa học cụ thể, còn các mlh phổ biến là đối tượng nghiên cứu của
6
triết học. Phép biện chứng duy vật chỉ nghiên cứu về các mlh chúng bao gồm 6 mlh,
còn được gọi là 6 cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật
3. Ý nghĩa pp luận
- Phải quán triệt nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn.
Trong nhận thức phải quán triệt nguyên tắc xem xét toàn diện, tức là khi xem xét 1 sự
vật anò đó thì chúng ta cấn phải xem xét tất cả các mặt, các mlh khác nhau của nó, ko
được bỏ sót mặt nào dù nó là ngẫu nhiên nhất. Theo Lênin chúng ta sẽ ko thể làm việc đó
1 cách hoàn toàn đầy đủ nhưng quán triệt nguyên tắc này sẽ tránh cho chúng ta khỏi sai

lầm là sự cứng nhắc. Trong thực tiễn, quan điểm toàn diện đòi hỏi phải đưa ra được
những giải pháp đồng bộ để tác động làm thay đổi sự vật.
- Phải quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể trong nhận thức và trong thực tiễn. Trongn
nhận thức phải xem xét một cách lịch sử cụ thể đối với sự vật, tức là phải đặt sự vật trong
những điều kiện, những hoàn cảnh cụ thể của nó để xem xét nó một cách đúng đắn tránh
thái độ trừu tượng, chung chung. Trong thực tiễn quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi phải
luôn luôn tính đến những điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng nơi, từng lúc mà đưa ra
những giải pháp phù hợp.
4. Nguyên lý về sự phát triển:
4.1. Khái niệm về sự phát triển: Trong lịch sử triết học trước Mác tồn tại những quan
điểm đối lập nhau về sự phát triển, như là sự đối lập giữa qđ biện chứng và siêu hình, sự
đối lập giữ qđ duy vật và duy tâm.
- Quan điểm siêu hình về sự pt: Q điểm này hoịăc là ko thừa nhận sự vận động và phát
triển vì nó coi thế giới là cái cho sẵn, cố định, bất biến. Hoặc là có thừa nhấnmự vận động
phát triển nhưng lại xem xét chúng một cách giản đơn, hời hợt, bề ngoài, coi phát triển
chỉ là sự tăng hay giảm thuần tuý về lượng mà ko thấy sự biến đổi về chất. Lê nin đánh
giá q điểm này là phiến diện 1 chiều cứng nhắc.
- Quan điểm biện chứng: Q điểm này coi phát triển là sự thống nhất giữa các mặt đối
lập như là thống nhất giữa lượng và chất, thống nhất giữa liên tục và gián đoạn. Thống
nhất giữa dần dần và nhảy vọt. Q điểm này đã thể hiện được tính toàn diện, tính sâu sắc.
Khi giải quyết vấn đề nguồn gốc của sự phát triển thì có sự đối lập giữa quan điểm duy
vật và duy tâm. Các nhà duy tâm và tôn giáo thường lý giải nguồn gốc phát triển từ các
lực lượng siêu nhiên (chúa, thượng đế ), hay từ các lực lượng tinh thần (như ý niệm, ý
niệm tuyệt đối). Ngược lại các nhà biện chứng duy vật côi nguồn gốc phát triển là nguồn
gốc bên trong, nguồn gốc đó chính là mâu thuẫn.
* Tóm lại: Theo quan điểm biện chứng duy vật thì khái niệm phát triển thường dùng để
chỉ khuynh hướng đi lên của sự vận đọng, làm cho các sự vật hiện tượng biến đổi từ thấp
đến cao, từ giản đơn đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
4.2. Các tính chất của sự phát triển:
Theo quan điểm biện chứng duy vật sự phát triển gồm 2 tính chất cơ bản sau:

Một là: tính khách quan: điều này nói lên rằng sự phát triển không phải do con người
gán ghép cho sự vật, hay được áp đặt từ bên ngoài vào sự vật, mà nó có nguồn gốc khách
quan từ các mâu thuẫn bên trong. Nên sự phát triển diễn ra một cách khách quan ở bên
7
ngoài đầu óc của con người, không phụ thuộc ý thức của con người và đó l à một hiện
tượng tự thân (bản thân từ sự vật hiện tượng).
Hai là: Tính phổ biến: điều này nói lên rằng phát triển luôn luôn là khuynh hướng tất
yếu cuối cùng của quá trình vận động, chúng diễn ra cả trong tự nhiên, trong xã hội, trong
tư duy.
Ba là: Tính đa dạng nhiều vẻ: điều này nói lên rằng sự phát triển diễn ra dưới nhiều
hình thức khác nhau, với những quy mô và nhịp điệu khác nhau.
Tuy nhiên tất cả các hình thức phát triển này đều phải tuân thủ 3 quy luật phổ biến của
sự phát triển: Quy luật lượng – chất, quy luật mâu thuẫn, quy luật phủ định của phủ định.
3. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về sự phát triển: Nguyên tắc chung
- Phải quán triệt nguyên tắc phát triển trong nhận thức, cũng như trong thực tiễn:
+ Trong nhận thức: Cần phải quán triệt nguyên tắc xem xét trong sự vận động và phát
triển. Tức là khi xem xét một sự vật nào đó thì không được nhìn nhận như là một cái cho
sẵn, cố định, bất biến, mà cần phải đặt nó trong toàn bộ quá trình vận động phát triển bản
thân nó, để nhìn nhận nó như một quá trình. Phải lý giải được xem từ đâu mà nó (nguồn
gốc phát sinh), nó đã trải qua những giai đoạn phát triển nào (lịch sử của nó), hiện tại nó
đang là cái gì để từ đó dự đoán khuynh hướng phát triển trong tương lai của nó.
+ Trong thực tiễn: Quan điểm phát triển đòi hỏi phải biết phủ định đi cái cũ, cái lỗi
thời, biết kế thừa cái tích cực, cái tiến bộ, không ngừng đổi mới (tìm nhân tố mới, XD
nhân tố mới) để phát triển.
8
QUY LUẬT CHUYỂN HÓA TỪ NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG THÀNH
NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI
(QUY LUẬT LƯỢNG – CHẤT)
Quy luật này nghiên cứu về về cách thức chung của sự phát triển (hình thức phát triển
thì đa dạng, muôn vẻ), phải có sự tích lũy có đủ về lượng thì mới dẫn đến sự biến đổi về

chất. Ngược lại chất đổi sẽ dẫn đến lượng đổi.
1. Các phạm trù Chất và Lượng:
a. Phạm trù chất:
- Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của các
sự vật hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính làm cho sự vật là nó, chứ
không phải là cái khác.
Như vậy khái niệm chất trả lời cho câu hỏi: Sự vật ấy là cái gì.
Chất của sự vật luôn luôn gắn liền với các thuộc tính của nó, nhưng chất và thuộc tính
không đồng nhất với nhau: Thuộc tính chỉ là một mặt, một trạng thái, một tính chất nào
đó của sự vật được biểu hiện ra thông quan mối quan hệ của sự vật ấy với những sự vật
khác. Do đó thuộc tính có tính bộ phận, trong khi Chất của sự vật là toàn bộ sự vật, là sự
thống nhất của tất cả các thuộc tính, nên Chất có tính chỉnh thể. Thuộc tính là cái quy
định Chất. Tuy nhiên những thuộc tính khác nhau quy định chất cho sự vật một cách
khác nhau, chỉ những thuộc tính cơ bản mới quy định chất cho sự vật và thuộc tính cơ
bản cho Chất này có khi lại là không cơ bản đối với Chất khác. (thuộc tính cơ bản thay
đổi thì Chất thay đổi: ví dụ cái cốc thủy tinh có những thuộc tính làm bằng thủy tinh,
trong suốt, đáy lành, không thủng, miệng không ghồ ghề, không sứt mẻ => cái cốc có
Chất: đựng nước; có thể làm cái chặn giấy: thuộc tính cơ bản là nó nặng; có thể úp đựng
các con vật
Chất của sự vật là khách quan, tuy nhiên nó không thể tồn tại bên ngoài sự vật mà phải
tồn tại thông qua sự vật mang nó và một sự vật có vô vàn Chất.
b. Phạm trù Lượng:
Định nghĩa: Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn
có về mặt số lượng, khối lượng, kích thước, quy mô, nhịp điệu của quá trình vận động
phát triển của các sự vật hiện tượng, cũng như của các yếu tố tạo nên chúng.
Như vậy khái niệm Lượng trả lời cho câu hỏi: Sự vật ấy như thế nào (lớn – bé, cao –
thấp ).
Để xác định Lượng cho sự vật người ta thường sử dụng 2 loại chỉ số: con số và đại
lượng. Có những Lượng được xác định bằng con số chính xác, nhưng có những Lượng
chỉ xác định được bằng một đại lượng tương đối (trên đầu ta có rất nhiều tóc – không thể

đếm cụ thể là bao nhiêu; cô ta rất đẹp; bà ấy rất ghen ).
Lượng cũng có tính khách quan và sự phân biệt giữa Chất và Lượng cũng chỉ là tương
đối vì cùng một cái xét trong quan hệ này có thể là Chất, nhưng xét trong một quan hệ
khác lại là Lượng. Ví dụ: xét con số 16 có nhiều cách xác định khác nhau: tích của 2 và
8, bình phương của 4, tứ thừa của 2, 16 tổng khác nhau
9
2. Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất: (diễn biến của quy
luật)
- Chất và Lượng luôn luôn gắn liền với nhau, không tách rời nhau bởi vì mỗi sự vật
hiện tượng đều phải phải có tính quy định về Chất lại vừa vừa có tính quy định về Lượng,
nên không có Chất thiếu Lượng và ngược lại.
- Lượng có xu hướng biến đổi liên tục, nó được tích lũy dần dần. Còn Chất có xu
hướng ổn định, ít thay đổi. Do đó không phải mọi sự thay đổi về Lượng đều làm cho
Chất thay đổi. Khi Lượng biến đổi trong một giới hạn nhất định nào đó thì Chất của sự
vật về cơ bản vẫn giữ nguyên. Giới hạn đó gọi là độ. Ví dụ: nước ở điều kiện thường ở
0
0
C ->100
0
C nó là chất lỏng (trạng thái lỏng) (có có độ cụ thể, có độ tương đối) Như
vậy độ là như là một khoảng giới hạn mà trong đó những thay đổi về Lượng chưa dẫn
đến những biến đổi căn bản về Chất.
- Trong quá trình phát triển của sự vật thì Lượng phát triển trước. Sự tích lũy dần dần
về lượng đến một lúc nào đó sẽ vượt quá độ cho phép, khi đó chất của sự vật sẽ thay đổi
theo. Như vậy phải có sự tích lũy đủ về Lượng thì mới dẫn đến sự biến đổi về Chất. Điểm
giới hạn mà tại đó diễn ra sự biến đổi về Chất của sự vật được gọi là điểm nút.
- Khi Lượng biến đổi đạt đến đến điểm nút thì quá trình biến đổi về chất sẽ diễn ra,
nhưng không diễn ra tức thời, mà nó được thực hiện thông qua một giai đoạn được gọi là
bước nhảy. Bước nhảy là giai đoạn biến đổi Chất của sự vật do những thay đổi về Lượng
của chất đó gây nên. Các bước nhảy diễn ra theo những quy mô và nhịp điệu khác nhau.

+ Theo quy mô: thì có bước nhảy cục bộ (quy mô nhỏ), bước nhảy toàn bộ (bước nhảy
quy mô lớn).
+ Theo nhịp điệu: có bước nhảy đột biến (bùng nổ - diễn ra nhanh. Ví dụ phản ứng Hóa
học ), bước nhảy dần dần (thời gian tương đối dài, diễn ra rất chậm. Ví dụ hạt thóc nảy
mầm, trứng nở thành gà, cải cách xã hội, thực hiện một cuộc cách mạng, sự tiến hóa của
loài người).
- Sau khi chất mới ra đời thay thế cho chất cũ thì nó sẽ tác động trở lại sẽ làm cho
Lượng thay đổi theo. Bởi vì tương ứng với chất mới phải là một lượng mới, lượng nãy sẽ
biến đổi với một quy mô, một tốc độ mới (quá trình học tập của trẻ từ tiểu học đến bậc
cao hơn). Đây là nói sự tác động trở lại của Chất đối với Lượng. Như vậy cứ mỗi khi
Chất thay đổi thì nó đòi hỏi Lượng cũng phải thay đổi theo.
3. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật Lượng – Chất:
- Phải có sự tích lũy đủ về lượng thì mới dẫn đến sự biến đổi về chất. Do đó chúng ta
phải kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng tả khuynh, tức là tư tưởng chủ quan, duy ý chí,
nóng vội khi chưa có sự chuẩn bị về Lượng đã muốn làm thay đổi về Chất (theo xu
hướng này không thể thành công được, trái quy luật, mang tính duy tâm, duy ý chí).
- Khi Lượng đã tích lũy đủ thì phải có quyết tâm thực hiện bước nhảy, do đó cũng phải
đấu tranh để khắc phục tư tưởng hữu khuynh, tức là tư tưởng bảo thủ, trì trệ, ỷ lại, trông
chờ vào thực tế, bằng lòng với sự tích lũy thuần túy về Lượng mà không chịu tác động để
làm thay đổi về Chất.
- Phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức bước nhảy khác nhau, biết kết hợp bước
nhảy cục bộ với bước nhảy toàn bộ, bước nhảy đột biến với bước nhảy dần dần.
10
11
QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH GIỮA CÁC MẶT ĐỐI LẬP
Quy luật này được coi là hạt nhân của phép biện chứng duy vật, bởi vì nó nghiên cứu
về nguồn gốc chung của quá trình vận động và phát triển đó chính là mâu thuẫn.
1. Các khái niệm cơ bản của quy luật:
- Khái niệm mặt đối lập: Mặt đối lập là những mặt, những thuộc tính, những tính quy
định có khuynh hướng trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong

hiện thực. VD: trong một nguyên tử có điện tích âm >< điện tích dương; trong cơ thể
sống có quá trình đồng hóa >< dị hóa; trong xã hội có giai cấp: g/c thống trị >< g/c bị trị;
tư tưởng con người: đổi mới >< bảo thủ. Các mặt đối lập này phải có liên hệ với nhau,
nếu tách rời nhau thì chúng không còn là mặt đối lập (xét trong một chỉnh thể).
- Khái niệm sự thống nhất giữa các mặt đối lập: là tính quy định ràng buộc lẫn nhau,
nương tựa vào nhau làm tiền đề tồn tại cho nhau giữa các mặt đối lập. Dó đó nếu không
có mặt đối lập này thì cũng sẽ không có mặt đối lập kia và ngược lại. Sự thống nhất này
còn nói lên sự đồng nhất giữa chúng: có nghĩa là giữa chúng có điểm giống nhau, nên khi
biến đổi thì chúng có thể hóa vào nhau.
- Khái niệm sự đấu tranh giữa các mặt đối lập: đó là sự tương tác qua lại theo xu hướng
phủ định, bài trừ nhau của các mặt đối lập.
- Khái niệm mâu thuẫn: mâu thuẫn là sự thống nhất và sự đấu tranh giữa các mặt đối
lập. Như vậy mỗi một mâu thuẫn cũng phải bao gồm hai mặt đối lập, hai mặt này vừa
thống nhất với nhau đồng thời hai mặt đó đấu tranh qua lại với nhau.
2. Mâu thuẫn là nguồn gốc chung của sự phát triển: (diễn biến của quy luật mâu
thuẫn)
- Mâu thuẫn trước hết là một hiện tượng khách quan và phổ biến, bởi vì trong mọi sự
vật hiện tượng đều có chứa đựng các mặt đối lập, những mặt này tương tác qua lại lẫn
nhau, từ đó tạo ra các mâu thuẫn, nên những mâu thuẫn ấy tồn tại khách quan trong sự
vật, không phụ thuộc ý thức con người, đồng thời nó là một hiện tượng phổ biến của tự
nhiên, xã hội và trong tư duy. Do đó nếu có một mâu thuẫn nào đó trong sự vật được giải
quyết mất đi, thì tất yêu lại nảy sinh những mâu thuẫn mới thay thế làm cho sự vật không
lúc nào là không chứa đựng mâu thuẫn.
- Khi một sự vật nào đó đang tồn tại một cách ổn định nó vẫn còn là nó, nó chưa
chuyển hóa thành một cái khác thì trong lòng nó các mặt đối lập là đang thống nhất với
nhau, nên sự thống nhất giữa các mặt đối lập là nhân tố quy định tính ổn định tương đối
của các sự vật. Tuy vậy, sự thống nhất này chỉ là tạm thời, tương đối (chỉ trong giới hạn
nào đó).
- Trong sự vật các mặt đối lập đồng thời đấu tranh qua lại với nhau, nhờ cuộc đấu tranh
này mà sự vật dần dần biến đổi phát triển. Do đó, đấu tranh giữa các mặt đối lập mới là

nguồn gốc đích thực của sự phát triển và đấu tranh giữa các mặt đối lập mới là vĩnh viễn,
tuyệt đối.
- Thông qua đấu tranh giữa các mặt đối lập, làm cho các mặt đối lập ấy chuyển hóa vào
nhau, nhờ đó mâu thuẫn được giải quyết làm cho cái cũ mất đi, cái mới ra đời thay thế.
Trong cái mới lại dẫn dần hình thành những mâu thuẫn mới, lúc đầu chỉ là sự khác biệt
12
giữa các mặt, sau đó chuyển thành đối lập để tạo nên mâu thuẫn. Sau khi hình thành thì
mâu thuẫn sẽ phát triển và đến một lúc nào đó lại đòi hỏi phải được giải quyết. Mỗi sự
vật có thể đồng thời tham gia vào nhiều loại mâu thuẫn khác nhau:
+ Mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn bên ngoài: trong đó mâu thuẫn bên trong đóng vai
trò quyết định.
+ Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản: mâu thuẫn cơ bản quy định bản chất;
+ Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu: mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải
quyết ngay.
+ Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng: mâu thuẫn đối khảng phải được giải quyết
bằng con đường bạo lực.
3. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật:
- Phải có thái độ khách quan trong việc nhận thức mâu thuẫn của sự vật: đó là thừa
nhận tính khách quan của mâu thuẫn, phát hiện kịp thời mâu thuẫn, xuất phát từ bản thân
sự vật để tìm ra mâu thuẫn của nó, phải xem xét phân tích một cách chi tiết cụ thể
- Phải nắm vững phương pháp giải quyết mẫu thuẫn đó là thông qua đấu tranh giữa các
mặt đối lập chứ không được phép dung hòa các mặt đối lập, tuy nhiên phải vận dụng linh
hoạt các hình thức đấu tranh.
- Phải biết vận dung linh hoạt các hình thức giải quyết mâu thuẫn thông qua hình thức
chuyển hóa mặt đối lập. Đó có thể là một trong hai mặt đối lập chuyển hóa (đồng hóa)
vào mặt còn lại (chuyển hóa giai cấp tư sản thành giai cấp vô sản), hoặc mặt này thủ tiêu
mặt kia, hoặc cả hai mặt cùng chuyển hóa sang những hình mới của mình (VD: giải quyết
mâu thuẫn giữa nông thôn và thành thị: cải tạo nông thôn thành nông thôn mới, làm ranh
giới, sự khác biệt giảm dần)
13

Sáng thứ 7, ngày 22 tháng 01 năm 2011
QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH
Quy luật này nghiên cứu về khuynh hướng chung của quá trình phát triển, đó là một
đường xoáy trôn ốc (phát triển không đi theo con đường thẳng đứng)
1. Khái niệm phủ định biện chứng:
Khái niệm phủ định nói chung nói lên sự thay thế một sự vật, hiện tượng này bằng một
sự vật hiện tượng khác trong quá trình vận động, phát triển. Sự phủ định có thể diễn ra
theo 2 khuynh hướng khác nhau là phủ định sạch trơn và phủ định biện chứng. Phủ định
sạch trơn là sự phủ định được gán ghép từ bên ngoài sự vật làm cho sự vật ấy bị tiêu vong
cho nên không còn khả năng phát triển tiếp (cái cây bị chặt => không còn khả năng sinh
trưởng); Phủ định biện chứng là sự phủ định có tạo ra những tiền đề cần thiết cho quá
trình phát triển tiếp theo của sự vật (Hạt thóc nảy mầm=> Lúa)
Phủ định biện chứng phải có đủ 2 đặc trưng cơ bản sau:
- Tính khách quan: Đây là kết quả của việc giải quyết các >< nọi tại bên trong cho nên
nó diễn ra một cách khách quan, độc lập với ý thức của con người và là một khâu tất yếu
của quá trình phát triển. Cho nên Mác khẳng định: Ko có một sự vật nào trong hiện thực
lại có thể phát triển được nếu như nó không biết tự phủ định đi những hình thức tồn tại
trước đó của mình.
- Tính kế thừa: Trong quá trình phủ định biện chứng cái cũ bị phủ định nhưng không
mất đi hoàn toàn bởi vì có nhiều yếu tố của nó vẫn tiếp tục được kế thừa trong lòng cái
mới. Cho nên sự kế thừa phải đảm bảo tính chọn lọc, tức là phải biết kế thừa cái tích cực,
cái tiến bộ, cái hợp quy luật đồng thời kiên quyết loại bỏ cái cũ, cái lỗi thời, lạc hậu, phản
động.
2. Sự phủ định của phủ định (diễn biến của quy luật)
- Trong quá trình vận động, phát triển thông qua sự phủ định mà cái mới sẽ ra đời thay
thế cho cái cũ, cái mới phải là cái tiến bộ so với cái cũ. Cái mới này trong quá trình phát
triển tiếp theo lại dần dần trở nên cũ, lỗi thời nên nó lại bị phủ định bởi 1 cái mới cao
hơn… Cứ như vậy thông qua vô số những lần phủ định kế tiếp nhau mà sự vật sẽ phát
triển không ngừng.
- Tuy những sự vật phát triển không diễn ra theo một đường thẳng đứng mà nó được

thực hiện thông qua những chu kỳ kế tiếp nhau. Trong mỗi một chu kỳ phát triển, thông
qua lần phủ định thứ nhất nếu nó được thực hiện một cách căn bản thì sự vật sẽ chuyển
hoá thành cái đối lập với nó (cây lúa đối lập với hạt thóc), sau đó qua lần phủ định thứ 2
hay gọi là phủ định của phủ định nếu nó cũng được thực hiện một cách căn bản thì cái
đối lập ấy lại chuyển hoá thành cái đối lập với nó mà thực chất là quay trở về với cái ban
đầu. Khi đó sẽ kết thúc một chu kỳ phát triển để chuyển sang một chu kỳ mới.
- Sự phủ định của phủ định làm cho sự vật có khuynh hướng vòng quay trở lại dường
như là cái ban đầu nhưng với 1 trình độ phát triển cao hơn.
- Chúng ta không nên hiểu một cách mày móc là cứ qua 2 lần phủ định thì kết thúc một
chu kỳ phát triển. Trong thực tế chu kỳ phát triển có thể phải thông qua nhiều lần phủ
định mới hoàn thành.
14
VD: Chu kỳ phát triển của loài côn trùng qua 4 lần phủ định: Trứng => Tằm => Kén
=> Sâu
Quy luật này cho kết quả nên một khuynh hướng chung của quá trình phát triển mà
Lênin gọi là đường xoáy trôn ốc. Khuynh hướng này không phải do sự phủ định tạo ra
mà do sự phủ định của phủ định tạo ra.
3. Ý nghĩa, phương pháp luận:
- Quy luật này giúp ta hiểu rõ hơn về cái mới, cái mới không phải là cái có sau mà cái
mới phải là cái tích cực, tiến bộ, hợp quy luật. Cái mới ra đời trong cuộc đấu tranh với cái
cũ nên râtý khó có thể tự bảo vệ được mình nên chúng ta phải biết phát hiện cái mới, trân
trọng cái mới, bảo về cái mới.
- Quy luật này khẳng định sự thắng lợi tất yếu của cái mới, tuy nhiên nó cũng chỉ ra
rằng sự phát triển không diễn ra một cách bằng phẳng mà chứa đựng những rích rắc, mâu
thuẫn, đôi khi có cả những bước thụt lùi tạm thời nhưng khuynh hướng tất yếu cuối cùng
phải là tiến lên. Do đó nó góp phần củng cố tinh thần lạc quan CM.
- Cần phải quán triệt quan điểm kế thừa có chọn lọc, kiên quyết đấu tranh khắc phục 2
thái cực là phủ định sạch trơn và kế thừa nguyên xi.
15
CẶP PHẠM TRÙ CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG

1. Định nghĩa:
- Cái riêng là một phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật hiện tượng, một quá trình
riêng biệt nào đó. Chẳng hạn là cái bàn này, cái cây nọ, hành tinh kia. Như vậy cái riêng
là một chỉnh thể, nó có thể tồn tại tương đối độc lập trước nhiều cái khác.
- Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những
mối liên hệ chung cho nhiều sự vật hiện tượng khác nhau. Chẳng hạn màu trắng, tư
duy…Như vậy cái chung là cái bộ phận nhưng có sự lặp lại nhiều lần.
Ngoài cái chung và cái riêng còn có cái đơn nhất đó là những mặt, những thuộc tính
chỉ xuất hiện ở sự vật duy nhất nào đó, không lặp lại ở những sự vật khác.
Tóm lại cái riêng là chỉnh thể thống nhất giữa cái chung và cái đơn nhất.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng:
- Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, tồn tại thông qua cái riêng bởi vì mỗi một cái
chung chỉ là một mặt, một bộ phận của những cái riêng nên nó không thể tách riêng bởi
cái riêng. VD: Tư duy không thể tách rời con người, nó là bộ phận tồn tại trong mỗi con
người, lợi ích chung cũng là lợi ích riêng của từng người; Màu trắng được biểu hiện
thông qua cái áo…
- Cái riêng tuy tồn tại độc lập nhưng không hoàn toàn cô lập mà mỗi cái riêng đều phải
tồn tại trong mối liên hệ để dần đến cái chung.
- Cái chung thì bền vững sâu sắc hơn cái riêng, bởi vì nó bao gồm những mặt, những
thuộc tính bên trong lặp đi lặp lại nên cái chung bao hàm 1 cách đại khái cái riêng.
Ngược lại cái riêng thì phong phú, đa dạng hơn cái chung bởi vì trong cái riêng ngoài
những cái riêng còn có cái đặc thù và đơn nhất. Cho nên cái riêng không ra nhập hết vào
cái chung.
- Trong quá trình vận động và phát triển cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hoá
vào nhau, từ một cái đơn nhất ban đầu có thể dần dần chuyển hoá thành cái chung, chẳng
hạn sự xuất hiện cái mới… Ngược lại từ cái chung có thể chuyến hoá thành cái đơn nhất,
chẳng hạn sự mất đi của một cái cũ
3. Ý nghĩa, phương pháp luận:
- Quá trình nhận thức của con người phải đi từ cái riêng đến cái chung.
- Phải biết vận dụng cái chung vào để cải tạo cái riêng nhưng đồng thời phải tính đến

những điều kiện đặc thù riêng có của từng cái riêng cho phù hợp.
- Phải biết vận dụng mối quan hệ chuyển hoá giữa cái chung và cái đơn nhất qua đó
thúc đẩy quá trình phát triển của sự vật.
16
CẶP PHẠM TRÙ NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT QUẢ
1. Định nghĩa:
- Nguyên nhân: Là một phạm trù triết học dùng để chỉ tương tác giữa những mặt trong
sự vật, hiện tượng hay gữa các sự vật hiện tượng với nhau gây nên 1 biến đổi nhất định
nào đó chẳng hạn sự tác động của dòng điện lên bóng đèn => sáng.
- Kết quả: Là một phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi được gây nên bởi
tương tác giữa những mặt trong sự vật hiện tượng hay giữa các sự vật hiện tượng với
nhau.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả:
- Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, cho nên nguyên nhân có trước, kết quả có sau.
Tuy nhiên không phải mọi sự vật hiện tượng đều xảy ra theo trình tự trước sau, đều có
quan hệ nhân quả với nhau.
Để nguyên nhân sinh ra kết quả cần có những điều kiện khách quan cho nó, tổng hợp
những điều kiện ấy gọi là hoàn cảnh. Tuy nhiên hoàn cảnh khác nguyên nhân vì nó
không sinh ra kết quả. Ngoài ra, nguyên nhân còn được phân biệt với nguyên cớ, nguyên
cớ chỉ là lý do chủ quan mà con người đưa ra để biện hộ cho một hành vi nào đó.
- Cùng là một nguyên nhân có thể đồng thời có thể sản sinh ra nhiều kết quả khác nhau
(chẳng hạn sự tác động của dây tóc lên bóng đèn ngoài tác dụng gây sáng còn toả nhiệt),
và ngược lại cùng một kết quả lại có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau tác động đồng
thời hoặc riêng rẽ gây nên. VD: Sự khủng hoảng kinh tế VN năn 80 xuất phát từ nguyên
nhân khách quan, chủ quan.
- Mọi hiện tượng xảy ra đều phải có nguyên nhân của nó, không một hiện tượng nào là
không có nguyên nhân. Do đó mỗi 1 hiện tượng đều phải nằm trong một chuỗi dài vô tận
các mối quan hệ nhân quả mà trong đó nó vừa là kết quả lại vừa là nguyên nhân.
- Kết quả sau khi được sinh ra nếu tồn tại tương đối độc lập trước nguyên nhân đã sinh
ra nó thì nó có thể tác động trở lại lên nguyên nhân ấy theo hướng thúc đẩy hoặc kìm

hãm nguyên nhân.
3. Ý nghĩa, phương pháp luận:
- Phải có thái độ khách quan trong việc nhận thức nguyên nhân của các hiện tượng, ta
phải xuất phát từ bản thân sự vật để tìm ra nguyên nhân cho nó, phải căn cứ vào những
hiện tượng có trước về mặt thời gian, phải căn cứ vào quan hệ sản sinh.
- Muốn loại bỏ một kết quả không mong muốn thì phải loại bỏ chính nguyên nhân đã
sinh ra nó.
- Phải biết vận dụng sự tác động trở lại của kết quả lên nguyên nhân qua đó thúc đẩy
quá trình phát triển của sự vật.
VI. THỰC TIỄN VÀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC
1. Khái niệm nhận thức và thực tiễn:
* Khái niệm nhận thức: Nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo của hiện
thực khách quan vào trong bộ óc của con người, được thực hiện thông qua hoạt động
thực tiễn của họ.
Như vậy, nhận thức phải dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau:
17
- Nguyên tắc duy vật vầ nhận thức: Đó là thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới
vật chất, coi đó là đối tượng của nhận thức.
- Nguyên tắc phản ánh của nhận thức: Coi quá trình nhận thức chẳng qua là quá trình
phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc con người. Cho nên vai trò quyết định
thuộc về khách thể nhận thức.
- Nguyên tắc sáng tạo của nhận thức: Đó là coi quá trình nhận thức là quá trình hoạt
động chủ động, tích cực, sáng tạo của chủ thể con người.
- Nguyên tắc thực tiễn: Đó là coi thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức, là mục
đích cuối cùng của nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lí.
* Khái niệm thực tiễn: Là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích và có tính
lịch sử xã hội của con người, nhằm cải biến tự nhiên, xã hội.
Theo định nghĩa trên, thực tiễn có các đặc trưng cơ bản sau:
- Nó là hoạt động vật chất của con người, cho nên nó đối lập tương đối với các hoạt
động tinh thần.

- Thực tiễn là hoạt động hướng đích của con người. Nó nhằm cải biến tự nhiên, xã hội
để thoả mãn các nhu cầu, lợi ích của con người.
- Thực tiễn là hoạt động có tính lịch sử xã hội, tức là hoạt động cộng đồng và phụ
thuộc vào từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Hoạt động thực tiễn bao gồm 3 lĩnh vực cơ bản: Sản xuất vật chất; hoạt động chính trị -
xã hội và thực nghiệm khoa học. trong đó sản xuất vật chất là đầu tiên và quyết định nhất.
(Hoạt động sản xuất vật chất, là hình thức hoạt động thực tiễn đầu tiên, cơ bản và
quyết định sự vận động của các hình thức thực tiễn khác.
Hoạt động thực nghiệm khoa học, là hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn, được
tiến hành trong điều kiện do con người tạo ra giống hoặc gần giống với hiện thực khách
quan để cải tạo,biến đổi sự vật.
Hoạt động chính trị - xã hội (đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ
hoà bình ) nhằm biến đổi các quan hệ xã hội, các trạng thái xã hội.
Các hình thức thực tiễn trên có mối quan hệ hữu cơ tác động lẫn nhau, trong đó hoạt
động sản xuất vật chất giữ vai trò quyết định).
2. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
- Trước hết, thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực và mục đích của nhận thức cho
nên nó quyết định nhận thức của con người. Cụ thể là:
+ Thực tiễn luôn luôn là xuất phát điểm của nhận thức, cho nên nhận thức phải bắt
nguồn từ nhu cầu của thực tiễn và phải quay lại để phục vụ thực tiễn.
+ Thực tiễn cung cấp cho nhận thức những tài liệu cần thiết, tài liệu đó chính là kinh
nghiệm thực tiễn.
+ Thực tiễn trang bị cho nhận thức những công cụ cần thiết.
+ Thực tiến góp phần làm hoàn thiện bản thân chủ thể nhận thức con người.
+ Vật chất giải quyết các nhu cầu, nhiệm vụ của thực tiễn, luôn là động lực quan trọng
thúc đẩy sự phát triển của nhận thức.
-Thực tiễn đóng vai trò là mục đích cuối cùng của nhận thức. Do đó con người là nhận
thức không có mục đích tự thân, con người nhận thức thế giới khách quan không vì bản
18
thân sự nhận thức ấy mà nhận thức nó là để cải tạo nó. Cho nên Mác nói: “Các nhà triết

học trước đây chỉ lý giải thế giới một cách khác nhau nhưng vấn đề là ở chỗ cải tạo thế
giới”.
- Thực tiễn đóng vai trò là tiêu chuẩn của chân lý. Phải thông qua sự k’ ng của thực
tiễn mới có thể phân định chắc chắn đâu là chân lý đâu là giả dối. Tiêu chuẩn thực tiễn
vừa có tính tuyệt đối nhưng đồng thời cũng chỉ là tương đối. Tuyệt đối bởi vì nó là tiêu
chuần duy nhất có tính khách quan và khoa học để kiểm tra chân lý. Tương đối bởi vì
thực tiễn chỉ mang tính hữu hạn và thực tiễn cũng có thể sai lầm.
19
Thứ sáu, ngày 18 tháng 02 năm 2010
BIỆN CHỨNG GIỮA LLSX VÀ QHSX
(Quy luật về sự phù hợp của QHSX đối với trình độ phát triển của LLSX)
1. Các khái niệm: PTSX, LLSX, QHSX
- PTSX là cách thức mà XH tiến hành để làm ra của cải vật chất ở một giai đoạn lịch sử
nhất định. Mỗi PTSX gồm 2 mặt: LLSX và QHSX thống nhất với nhau.
- LLSX: biểu thị mỗi quan hệ giữa con người với giới tự nhiên trong quá trình sản xuất
vật chất nó nói lên trình độ chinh phục tự nhiên của con người. LLSX gồm 2 mặt: người
lao động và tư liệu SX
- Người LĐ là những người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo nhất định, có
tham gia vào quá trình sản xuất vật chất. Người LĐ là LLSX hàng đầu, đóng vai trò
quyết định đối với quá trình SX vật chất.
- Tư liệu SX: là những tư liệu do XH tạo ra và sử dụng để tiến hành SX vật chất. Nó
gồm 2 yếu tố: đối tượng lao động và tư liệu lao động.
+ Đối tượng LĐ là bộ phận của tự nhiên hoặc nhân tạo mà người lao động tác động lên
để tạo ra của cải vật chất.
+ Tư liệu LĐ là những vật dụng được sử dụng tác động lên đối tượng LĐ, trong đó
công cụ LĐ là quan trọng nhất, đó là vật dẫn truyền trực tiếp tác động của người LĐ lên
đối tượng LĐ (công cụ LĐ thô sơ: cày, cuốc, búa; công cụ là máy móc ).
Công cụ LD được coi là LLSX có tính động nhất, cách mạng nhất (luôn luôn được cải
tiến) và quyết định nhất, vì nó quy định năng suất lao động XH. Ngoài ra còn có những
tư liệu LĐ hỗ trợ khác (nhà kho, sân phơi, bến, bãi ).

Trong thời đại ngày nay do sự phát triển của cuộc cách mạng KHCN cho nên chính
khoa học cũng đang trở thành một LLSX trực tiếp (không phải là nhân tố thứ 3): tri thức
khoa học đã thâm nhập và trở thành bộ phận không thể thiếu của từng yếu tố trong LLSX
(ngày càng người ta càng sử dụng đối tượng LĐ nhân tạo, khoa học xã hội cũng tham gia
vào sản xuất: quản lý sản xuất => xuất hiện kinh tế tri thức: sản phẩm làm ra có giá trị
tri thức khoa học từ 70% trở lên. Ví dụ điện thoại di động).
* Quan hệ sản xuất: Là mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản
xuất vật chất, đây là một quan hệ kinh tế cơ bản của XH được hình thành một cách khách
quan, độc lập với ý thức của con người. QHSX gồm 3 mặt:
- QH sở hữu đối với TLSX: QH này nói lên ai là người nắm giữ những TLSX chủ yếu
trong XH (SX nông nghiệp: ai nắm giữ ruộng đất; SX công nghiệp: công xưởng, nhà máy
ai nắm giữ). Trong lịch sử có hai hình thức sở hữu cơ bản đối với TLSX: sở hữu tư nhân
và sở hữu XH (sở hữu công cộng);
- QH về mặt tổ chức quản lý SX: nói lên vai trò của con người trong quá trình SX vật
chất: vai trò tổ chức quản lý hay là bị tổ chức, bị quản lý;
- QH về mặt phân phối sản phẩm: nói lên hình thức và quy mô thu nhận sản phẩm do
XH tạo ra. Tùy thuộc chế độ XH thì có hình thức và quy mô thu nhận sản phẩm khác
nhau.
Trong ba mặt trên của QHSX thì QH sở hữu là quyết định nhất, nó quy định những mặt
còn lại.
20
VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LLSX VÀ QHSX
(Diễn biến của quy luật về sự phù hợp của QHSX đối với trình độ phát triển của LLSX)
1. Tính chất và trình độ của LLSX: Tính chất của LLSX là tính chất của LĐ và của
quá trình SX. LLSX có thể mang hai tính chất: tính cá nhân hoặc tính XH: khi LLSX có
trình độ thấp kém thì tính chất của nó là cá nhân bởi vì nó mang tính phân tán, tản mạn.
Còn khi LLSX có trình độ cao đòi hỏi phải có sự hợp tác LĐ của nhiều người thì LLSX
mang tính XH. Xu hướng phát triển của LLSX là có tính XH ngày càng cao (Xã hội hóa
LLSX. Ví dụ để SX một chiếc ô tô thì phải do hàng nghìn người tham gia sản xuất –
mang tính xã hội cao. Tính xã hội đó mang tính hợp tác lao động)

Trình độ của LLSX là trình độ phát triển của công cụ LĐ, của người LĐ, của quy mô
SX, của trình độ sử dụng khoa học và LLSX có trình độ ngày càng cao (năng suất LĐ
ngày càng cao ).
2. Sự quyết định của LLSX đối với QHSX: LLSX là nội dung, QHSX là hình thức.
Nội dung quyết định hình thức nên LLSX đóng vai trò quyết định đối với QHSX. Điều
đó được thể hiện cụ thể là:
- LLSX nào thì sinh ra QHSX ấy, nên tương ứng với mỗi LLSX ở trình độ nhất định thì
bao giỡ cũng phải có một QHSX phù hợp nhất đối với nó được hình thành. VD: thời
nguyên thủy chỉ là QHSX tập thể, vì công cụ lao động thô sơ, LLSX chưa phát triển.
- LLSX có xu hướng phát triển liên tục, trong khi QHSX có xu hướng ổn định ít thay
đổi (sự phát triển LLSX là sự cải tiến công cụ LĐ => người lao động phải có trình độ
nâng lên, ngày cao, quy mô SX ngày càng mở rộng; QHSX mang tính bền vững). Nên
đến một giai đoạn nhất định nào đó thì LLSX đã phát triển sẽ mâu thuẫn với QHSX cũ
lỗi thời (vì QHSX phát triển không kịp sự phát triển của LLSX). Khi đó đòi hỏi QHSX
cũ phải bị xóa bỏ, QHSX mới sẽ ra đời thay thế để phù hợp với LLSX đã phát triển. Như
vậy sự phát triển của LLSX quyết định sự phát triển, thay thế nhau của QHSX từ thấp
đến cao làm cho lịch sử XH loài người lần lượt trải qua 5 kiểu QHSX và tương ứng là 5
phương thức SX: Cộng sản nguyên thủy – nô lệ - phong kiến – TBCN – CSCN.
3. Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX: đây là biểu hiện tác động trở lại của
hình thức lên nội dung với 2 xu hướng chính:
- Nếu QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì nó sẽ thúc đẩy sự phát triển
của LLSX.
- Nếu QHSX không phù hợp: tức là nó đã trở nên cũ và lỗi thời hoặc là nó phát triển
không đồng bộ dẫn đến có yếu tố của nó vượt trước so với LLSX thì nó sẽ kìm hãm sự
phát triển của LLSX (làm nền SX XH không phát triển được, dẫn đến khủng hoảng, suy
thoái).
Sở dĩ có sự tác động trở lại này là bởi vì QHSX quy định mục đích của nền SX (SX
cho ai, SX làm gì), mục đích này quy định lợi ích của con người, lợi ích sẽ tác động lên
thái độ của người LĐ từ đó tác động lên toàn bộ LLSX (người LĐ là LLSX chủ yếu).
Ở nước ta hiện nay do tồn tại nhiều khu vực kinh tế khác nhau với những trình độ của

LLSX không đồng đều, điều đó đòi hỏi phải sử dụng nhiều chế độ sở hữu, nhiều chế độ
tổ chức quản lý và nhiều hình thức phân phối khác nhau, đây chính là cơ sở lý luận và
thực tiễn của việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay.
21
CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC TƯỢNG TẦNG
1. Các khái niệm:
- CSHT (cơ sở hạ tầng): là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của một XH
ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định. Khái niệm CSHT chỉ phản ánh chức XH của
các QHSX với tính cách là những quan hệ nền tảng của XH (từ nó tạo ra những QH còn
lại), do đó nó không bao gồm LLSX. Trong CSHT của một XH có thể có nhiều loại hình
QHSX khác nhau, trong đó có thể có:
+ QHSX thống trị nó được sinh ra từ PTSX đang thống trị XH ấy;
+ Những QHSX tàng dư, do PTSX cũ sinh ra;
+ Những QHSX mầm mống gắn với PTSX mới đang trong quá trình hình thành.
Ở nước ta hiện nay CSHT cũng bao gồm nhiều loại hình QHSX khác nhau tạo nên một
cơ cấu kinh tế nhiều thành phần (5 thành phần kinh tế).
- KTTT (kiến trúc thượng tầng): là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng về chính trị,
pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, triết học và những tổ chức thiết chế XH tương ứng được
hình thành trên một CSHT nhất định. KTTT bao gồm các nhóm hiện tượng cơ bản sau:
+ KTTT tư tưởng: gồm các tư tưởng chính trị, pháp quyền, tôn giáo, triết học, khoa
học
+ KTTT chính trị pháp lý: gồm các hiện tượng như nhà nước, các đảng phái chính trị,
các tổ chức chính trị XH.
Ngoài ra còn có một hệ thống các quan hệ thượng tầng làm nên một cơ chế chính trị
nhất định.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT:
a. CSHT quyết định KTTT: đây là phản ánh mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị,
trong đó KT là nền tảng, quyết định. Do đó CSHT quyết định KTTT, nó được thể hiện ở
2 nội dung sau:
- CSHT nào sẽ sinh ra KTTT ấy, nên tương ứng với mỗi CSHT nhất định sẽ hình thành

nên một KTTT tương ứng với nó mà do đó giai cấp nào thống trị về kinh tế giai cấp đó
cũng sẽ thống trị về chính trị và tư tưởng, những mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế
(LLSX><QHSX) sẽ sinh ra và quy định những mâu thuẫn trong chính trị và tư tưởng (tư
tưởng tư sản ><tư tưởng vô sản).
- Những thay đổi của CSHT sẽ quy định những thay đổi tương ứng trong KTTT và kho
CSHT cũ mất đi, CSHT mới ra đời thay thế thì nó đòi hỏi KTTT cũ cũng sẽ bị xóa bỏ và
thay thế nó phải là một KTTT mới.
Tuy nhiên sự thay thế KTTT diễn ra một cách chậm chạp và lâu dài, bởi vì còn nhiều
yếu tố của KTTT cũ vẫn tiếp tục được duy trì trong KTTT mới.
Ở nước ta hiện nay, v iệc XD CSHT và KTTT mới phải tuân thủ những nguyên tắc cơ
bản sau:
+ Một là: phải XD một nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, hay còn được gọi là nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN.
+ Hai là: phải lấy chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nan cho mọi hành động.
22
+ Ba là: phải XD hệ thống chính trị XHCN mang bản chất của giai cấp công nhân dưới
sự lãnh đạo của Đảng CS Việt Nam;
+ Bốn là: phải XD một cơ chế chính trị đúng đắn, theo nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ tạo ra sự đồng thuận trong toàn XH, chống đa nguyên,
đa đảng.
23
PHẠM TRÙ HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC
HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI LÀ QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ TỰ NHIÊN
1. Phạm trù HTKTXH (Hình thái kinh tế xã hội): hình thái KTXH là một phạm trù
của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ XH ở một giai đoạn phát triển lịch sử nhất
định với một kiểu QHSX đặc trưng thích ứng với LLSX ở trình độ nhất định và một
KTTT được XD lên trên những QHSX ấy.
Cấu trúc: HTKTXH là một xã hội cụ thể XH sống động bao gồm nhiều lĩnh vực,

nhiều yếu tố hợp thành. Nó bao gồm lĩnh vực cơ bản: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa
tinh thần, đồng thời nó bao gồm các yếu tố cơ bản là LLSX và QHSX, CSHT và KTTT.
Ngoài các yếu tố cơ bản trên, thì mỗi một HTKTXH còn bao gồm các yếu tố không cơ
bản khác, như là vấn đề gia đình và quan hệ gia đình, vấn đề dân tộc, tôn giáo, lĩnh vực
sinh hoạt của đời sống XH
2. Sự phát triển của các HTKTXH là quá trình lịch sử tự nhiên: HTKTXH bao
gồm nhiều yếu tố quá trình hợp thành, chúng tác động qua lại lẫn nhau để làm hình thành
nên một hệ thống các quy luật xã hội (qua luật: phổ biến, đặc thù, riêng). Dưới sự tác
động bởi hệ thống các quy luật này mà các HTKTXH không ngừng phát triển thay thế
nhau dần dần từ thấp đến cao, quá trình đó diễn ra một cách tất yếu, khách quan độc lập
với ý thức của con người, nên Mác gọi đó là quá trình lịch sử - tự nhiên. Quá trình lịch
sử-tự nhiên được bắt đầu bằng sự phát triển của LLSX, LLSX phát triển cuối cùng sẽ
mâu thuẫn với QHSX lỗi thời. Theo quy luật thì QHSX cũ sẽ bị xóa bỏ để thay thế bằng
QHSX mới, khi đó CSHT cũng sẽ thay đổi: CSHT cũ mất đi, CSHT mới ra đời thay thế.
Khi đó theo quy luật KTTT cũ bị xóa bỏ, KTTT mới ra đời thay thế. Khi các yếu tố cơ
bản của XH đã thay đổi thì các yếu tố còn lại của nó cũng dần dần thay đổi theo, làm cho
HTKTXH mới ra đời thay thế cho HTKTXH cũ. Tuy nhiên so với các quá trình diễn ra
trong giới tự nhiên thì quá trình lịch sử có tính đặc thù, đó là nó không diễn ra một cách
tự động mà được thực hiện thông qua các hoạt động có ý thức của con người (để LLSX
phát triển thì người LD phải cải tiến công cụ lao động ), nhưng bản thân các hoạt động
ấy phải tuân theo quy luật khách quan. Quá trình lịch sử - tự nhiên vừa là một quá trình
mang tính thống nhất, tính toàn nhân loại mà mọi dân tộc đều phải đi theo, tuy nhiên vẫn
mang tính đa dạng và nhiều vẻ với những biểu hiện khác nhau, như là: sự phát triển
không đồng đều của các dân tộc ở cùng một thời điểm hoặc hình thức biểu hiện của một
HTKTXH mỗi nơi một khác hoặc thời gian tồn tại của cùng một HTKTXH dài, ngắn
khác nhau. Đó là một dân tộc không bắt buộc phải tuần tự trải qua cả 5 HTKTXH.
3. Ý nghĩa của học thuyết HTKTXH và sự vận dụng vào hoàn cảnh ở nước ta hiện
nay:
- Học thuyết HTKTXH đã chỉ rfa vai trò quyết định của PTSX đối với sự phát triển của
XH, nên khi nghiên cứu về XH Mác đã xuất phát từ PTSX;

- Học thuyết này chỉ ra tính quy luật của quá trình lịch sử, cho nên nghiên cứu XH là
phải tìm ra các hệ thống quy luật khách quan của nó;
24
- Học thuyết này chỉ rfa tính khách quan của quá trình lịch sử, cho nên muốn nghiên
cứu XH thì cần phải xuất phát từ bản thân nó, chứ không phải từ mong muốn chủ quan
của con người;
- Vận dụng học thuyết HTKTXH vào hoàn cảnh nước ta hiện nay: Đảng ta đã chỉ rõ
con đường đi lên CNXH ở nước ta với 4 nội dung cơ bản:
+ Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là con đường phát triển tất yếu của nước ta;
+ XD nền kinh tế thị trường định hướng XHCN;
+ Tiến hành CNH – HĐH đất nước;
+ Kết hợp giữa phát triển kinh tế với chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống XH
(VH, tinh thần ).
Ngày 19 tháng 02 năm 2011
VAI TRÒ CỦA ĐẤU TRANH GIAI CẤP ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC
XÃ HỘI CÓ GIAI CẤP
1. Khái niệm ĐTGC (đấu tranh giai cấp): ĐTGC là cuộc đấu tranh của một bộ phận
nhân này chống lại một bộ phận khác, là cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết
quyền, bị áp bức và lao động chống lại bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và ăn bám,
là cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay giai cấp vô sản chống lại
bọn hữu sản hay giai cấp tư sản.
Biểu hiện của đấu tranh giai cấp:
- Đấu tranh giai cấp từ sự đối lập về lợi ích giữa các giai cấp, mà sự đối lập này luôn
luôn này trong các XH có giai cấp. Nên đấu tranh giai cấp là tất yếu;
- Đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh mang tính XH rộng rãi, nó lôi kéo cả một giai
cấp này chống lại một giai cấp khác.
2. Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển của XH có giai cấp:
Động lực xét đến cùng thúc đẩy sự phát triển của XH là mâu thuẫn giữa LLSX tiến bộ
và QHSX lỗi thời. Tuy nhiên trong XH có giai cấp mâu thuẫn này lại được biểu hiện về
mặt XH bằng mâu thuẫn giữa giai cấp bị trị - người đại biểu cho LLSX với giai cấp thống

trị - người đại biểu cho QHSX (giai cấp sở hữu TLSX, chi phối việc phân phối sản
phẩm), mâu thuẫn này tất yếu làm bùng nổ cac cuộc đấu tranh giai cấp dẫn đến đỉnh cao
của nó sẽ là một cuộc cách mạng XH nhằm xóa bỏ hình thái kinh tế XH cũ, thiết lập nên
một hình thái kinh tế XH mới. Như vậy trong thời kỳ cách mạng, thì đấu tranh giai cấp
chính là động lực thúc đẩy quá trình phát triển thay thế nhau của các hình thái KT-XH từ
thấp đến cao. Trong thời bình (QHSX thống nhất, phù hợp với LLSX): đấu tranh giai cấp
cũng là một động lực quan trọng kích thích sự phát triển của các lĩnh vực trong đời sống
XH, cụ thể:
- Nó kích thích sự phát triển của LLSX, bởi vì nó đòi hỏi giới chủ phải quan tâm đến
cải tiến công cụ lao động để nâng cao năng suất lao động XH (cuộc đấu tranh giai cấp
của người lao động đầu tiên đòi hỏi về mặt kinh tế => nâng cao năng suất để thỏa mãn
đòi hỏi của cuộc đấu tranh giai cấp, thỏa mãn nhu cầu lợi ích kinh tế của mình).
- Đấu tranh giai cấp kích thích sự phát triển của lĩnh vực văn hóa tinh thần, tạo ra nhiều
giá trị tinh thần khác nhau như: văn học, nghệ thuật để phản ánh lại các cuộc đấu tranh
đó;
25

×