Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Một số vấn đề pháp lí cơ bản của luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.06 KB, 60 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước xu hướng chung của sự phát triển quốc tế là khu vực hóa, toàn cầu
hoá nền kinh tế thế giới, Việt Nam cũng như các nước khác đang bước nhanh
vào tiến trình hội nhập. Quan hệ giữa các quốc gia diễn ra trong điều kiện hết
sức đa dạng, khác biệt về bản sắc văn hóa cùng các điều kiện về chính trị, kinh
tế, xã hội. Hình thành và phát triển trong điều kiện quan hệ quốc tế đó, Điều ước
quốc tế (ĐƯQT) có chức năng duy trì và ổn định tương đối trật tự pháp lý quốc
tế, giữ gìn quan hệ bình đẳng giữa các quốc gia, bảo đảm hài hòa lợi ích chung
của cộng đồng và lợi ích quốc gia, đồng thời bảo đảm các nguyên tắc cơ bản của
luật quốc tế được thực thi và tuân thủ.
Nhận thức được rõ vai trò của điều ước quốc tế trong thời kì các quốc gia
trên thế giới đã chuyển từ đối đầu sang đối thoại và hợp tác, chúng ta cũng nhìn
nhận được tầm quan trọng của vấn đề ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước
quốc tế đối với thế giới nói chung và với Việt Nam nói riêng. Việt Nam – một
quốc gia nhỏ, đang phát triển, tiếng nói chưa có sức nặng trên trường quốc tế thì
việc làm sao để khi ký kết, thực hiện điều ước quốc tế vừa phù hợp xu hướng
quốc tế chung, vừa đảm bảo lợi ích quốc gia là rất quan trọng. Do đó, vấn đề ký
kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế đối với Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay đặt ra rất cấp thiết. Đây cũng là lí do vì sao tôi chọn đề tài: “Một số
vấn đề pháp lí cơ bản của luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc
tế” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
Bài khóa luận này tập trung làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản về điều ước
quốc tế của luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế 2005 trong tương
quan với hệ thống pháp luật Việt Nam và Luật điều ước quốc tế (Công ước Viên
1969).
Phân tích những qui định của pháp luật hiện hành và thực tiễn kí kết, gia
nhập và thực hiện điều ước quốc tế tại Việt Nam. Đưa ra những nhận xét, đánh
giá cũng như một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa việc ký kết, thực hiện
điều ước quốc tế trong bối cảnh hội nhập trước mắt cũng như trong tương lai.


3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng một số phương pháp cụ thể như: phân tích,
tổng hợp, đối chiếu so sánh, kết hợp lý luận và thực tiễn.
4. Nội dung của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn bao gồm 3
chương:
- Chương I: Những vấn đề cơ bản về luật điều ước quốc tế và sơ lược quá
trình phát triển của các qui định về ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc
tế.
- Chương II: Các qui định cơ bản của pháp luật Việt Nam về ký kết, gia
nhập và thực hiện điều ước quốc tế.
- Chương III: Sự tương thích của luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều
ước quốc tế 2005 với Công ước Viên 1969 về luật điều ước quốc tế. Thực trạng
ký kết, thực hiện và một vài kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều ước quốc
tế ở Việt Nam.
2
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LUẬT ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VÀ
SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA CÁC QUY ĐỊNH
VỀ KÝ KẾT, GIA NHẬP VÀ THỰC HIỆN ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
1. Một số vấn đề cơ bản về luật điều ước quốc tế
Ngày 23/5/1969 Liên hợp quốc thông qua công ước Viên 1969 về luật
ĐƯQT ký kết giữa các quốc gia (gọi tắt là công ước Viên 1969) có hiệu lực
27/1/1980. Tuy không phải là khung pháp lý duy nhất điều chỉnh quan hệ ký kết
và thực hiện ĐƯQT phát sinh giữa các chủ thể luật quốc tế với nhau nhưng công
ước này đã có một sự bao trùm lớn các vấn đề quan trọng trong lĩnh vực này.
Công ước không chỉ là kết quả của quá trình pháp điển hoá thành công các quy
phạm của luật tập quán quốc tế về ký kết và thực hiện ĐƯQT mà còn xây dựng
được khung pháp lý quốc tế cơ bản điều chỉnh hiệu quả quan hệ ký kết và thực

hiện ĐƯQT phát sinh giữa các quốc gia - chủ thể cơ bản của luật quốc tế. Sự ra
đời của công ước Viên 1969 cùng với sự ra đời của Công ước Viên 1986 về luật
ĐƯQT giữa các quốc gia và tổ chức quốc tế hoặc giữa các tổ chức quốc tế với
nhau (gọi tắt là Công ước Viên 1986) đã thúc đẩy việc sử dụng ĐƯQT làm công
cụ pháp lý điều chỉnh mối quan hệ hợp tác giữa các quốc gia trên thế giới ngày
một rộng rãi. Hơn nữa, Công ước Viên 1969 là cơ sở pháp lý quan trọng để xác
định nghĩa vụ pháp lý quốc tế của một quốc gia trước những thoả thuận và cam
kết quốc tế đã được xác lập một cách hợp pháp. Đây là một trong những điều
kiện chủ yếu về phương diện pháp lý để một quốc qia có thể hội nhập vào xu thế
chung của thế giới hiện đại: xu thế toàn cầu hoá và liên kết khu vực. Quá trình
ký kết, thực hiện ĐƯQT luôn tạo ra những tác động nhiều mặt đến lợi ích thiết
thực của mỗi quốc gia đặt trong mối tương quan chung của lợi ích quốc tế.
1.1. Khái niệm điều ước quốc tế
1.1.1. Về định nghĩa ĐƯQT
3
Trong lịch sử phát triển của khoa học luật quốc tế đã có rất nhiều quan
điểm khác nhau về ĐƯQT, đã từng có những quan điểm cho rằng ĐƯQT là một
hợp đồng như quan điểm của Andress Bello (ĐƯQT “là một hợp đồng giữa các
dân tộc”) hay Laghi quan niệm ĐƯQT “thực sự là một hợp đồng theo cả nghĩa
triết học và nghĩa pháp lý của ngôn từ”.
Một số khác lại dừng lại ở việc nhận thức ĐƯQT là sự thoả thuận hay sự
ưng thuận nhằm tạo lập, thay đổi hay chấm dứt các quan hệ pháp lý như Diena
và Mc Nair.
Trước những quan điểm khác nhau như vậy thì chúng ta phải hiểu như thế
nào là một ĐƯQT ? Điểm a khoản 1 Điều 2 Công ước Viên 1969 đã xác định:
“ĐƯQT là một thoả thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các
quốc gia và được pháp luật quốc tế điều chỉnh, không phụ thuộc vào việc thoả
thuận đó được ghi nhận trong văn kiện duy nhất hay trong hai hay nhiều văn
kiện có quan hệ với nhau cũng như không phụ thuộc vào tên gọi cụ thể của các
văn kiện đó.”

Quy định này đã làm sáng tỏ bản chất của một ĐƯQT là “thoả thuận có
yếu tố quốc tế”. Thoả thuận trong ĐƯQT là sự thống nhất về quan điểm của các
bên về các vấn đề của điều ước tuy nhiên thoả thuận không phải lúc nào cũng là
biểu hiện của việc đàm phán giữa các bên để đi đến sự nhất trí về các vấn đề của
điều ước mà có thể được biểu hiện thông qua sự chấp thuận của quốc gia đối với
những quy định của một ĐƯQT đã được xây dựng. Sự thoả thuận không chỉ về
nội dung, về hình thức và thủ tục ký kết điều ước mà còn được thể hiện cả trong
việc xác định hình thức của điều ước. Do đó thoả thuận là nguyên tắc chủ đạo
xuyên suốt từ quá trình xây dựng đến khi thực hiện điều ước.
Sự thoả thuận trong điều ước phải trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi và tôn
trọng các nguyên tắc khác của luật quốc tế. Thực tế, một ĐƯQT không được ký
kết trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng thì không thể nói là đã có sự thoả thuận
trong việc ký kết và như vậy ĐƯQT đã ký phải được xem là vô hiệu.
Điều ước phải là sự thoả thuận do luật quốc tế điều chỉnh. Đây chính là
căn cứ phân biệt ĐƯQT với hợp đồng giữa các quốc gia. Ngoài ra thoả thuận
4
được thiết lập giữa các bên là nhằm mục đích thiết lập mới các quan hệ giữa họ
với nhau hoặc thay đổi các quan hệ đã được thiết lập hoặc chấm dứt các quan hệ
này. Chúng ta cũng cần phân biệt ĐƯQT với cam kết quốc tế. Sự phân biệt chủ
yếu này là ở bản chất của chúng. ĐƯQT là kết quả của sự thỏa thuận về ý chí
của các chủ thể luật quốc tế. Như vậy quan hệ điều ước phải có sự tham gia ít
nhất từ hai chủ thể luật quốc tế trở lên và tính pháp lý của các thoả thuận này
được thể hiện ở kết quả là các thoả thuận đã thành công ghi nhận dưới dạng các
quy phạm pháp luật quốc tế, trực tiếp điều chỉnh quyền và nghĩa vụ pháp lý của
các chủ thể tham gia kết ước. Còn cam kết quốc tế vốn là sự tự ràng buộc của
chủ thể luật quốc tế vào nghĩa vụ pháp lý quốc tế nhất định. Sự ràng buộc đó
được thực hiện thông qua hành vi pháp lý đơn phương hoặc thoả thuận của chủ
thể luật quốc tế. Trong một ĐƯQT , các nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ điều ước
được các chủ thể kết ước cam kết thực hiện trên cơ sở của nguyên tắc pacta sunt
vervanda và các nguyên tắc khác mà Công ước Viên 1969 đã ghi nhận.

Chủ thể ĐƯQT là các chủ thể của luật quốc tế, trong đó các quốc gia
chiếm vị trí chủ yếu. Mặc dù trong Điều 6 Công ước Viên 1969 chỉ đề cập đến
tư cách ký kết ĐƯQT của các quốc gia nhưng Điều 3 Công ước lại qui định
rằng:
“Việc Công ước này không áp dụng đối với các hiệp định quốc tế được
ký kết giữa các quốc gia và các chủ thể khác của pháp luật quốc tế hoặc giữa các
chủ thể khác của pháp luật quốc tế với nhau, cũng như không áp dụng đối với
những hiệp định quốc tế không thành văn, sẽ không phương hại gì đến: giá trị
pháp lý của các hiệp định đó…” (Điều 3)
Điều này chứng tỏ rằng bên cạnh quốc gia, các chủ thể khác của luật quốc
tế cũng có tư cách để ký kết ĐƯQT. Công ước Viên 1986 đã thừa nhận năng
lực ký kết điều ước của các tổ chức quốc tế. Ngoài ra, một số phong trào giải
phóng dân tộc cũng được chấp nhận là thành viên của một số Hiệp định quốc tế
(dù ở mức độ hạn chế).
Khách thể của ĐƯQT là các quan hệ giữa các chủ thể luật quốc tế về các
vấn đề tài sản hoặc phi tài sản, hành động hoặc không hành động. Thực tế, bất
5
cứ khách thể nào của luật quốc tế cũng có thể là khách thể của ĐƯQT, ví dụ:
Công ước về luật biển quốc tế, Hiệp ước về hoạch định biên giới, Hiệp định
tương trợ tư pháp…Theo quan điểm chung hiện nay, những vấn đề liên quan
đến công việc nội bộ tuyệt đối của quốc gia không thể là khách thể của ĐƯQT
như vấn đề về đảng nào sẽ nắm vai trò lãnh đạo trong hệ thống chính trị quốc
gia…
Mục đích của ĐƯQT là cái mà các chủ thể của luật quốc tế muốn thực
hiện hoặc đạt được qua việc ký kết ĐƯQT. Hay nói cách khác ĐƯQT là công cụ
để các chủ thể luật quốc tế thực hiện mục đích mà họ mong muốn.
Vậy có thể đi đến kết luận: ĐƯQT là sự thoả thuận rõ ràng về mặt ý chí
của các chủ thể luật quốc tế nhằm ấn định thay đổi hoặc huỷ bỏ các các quyền
và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể trong bất cứ lĩnh vực nào của đời sống quốc
tế.

1.1.2. Về cơ cấu ĐƯQT
Về mặt cơ cấu, ĐƯQT bao gồm 3 phần: lời nói đầu, phần nội dung chính
và phần cuối cùng.
Lời nói đầu là phần mở đầu của ĐƯQT, phần này không được chia thành
chương mục, điều khoản, không xác định quyền và nghĩa vụ các bên. Lời nói
đầu thường bao gồm những vấn đề như: ghi nhận lí do, mục đích, nguyên tắc ký
kết ĐƯQT, tên gọi các bên, bối cảnh dẫn đến ký kết…
Về nguyên tắc, nhìn chung lời nói đầu có giá trị pháp lý như phần nội
dung chính, nó đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích các quy định của
điều ước trong phần chính.
Phần nội dung chính là phần quan trọng nhất của điều ước được chia
thành các chương, mục, điều, khoản điều chỉnh các quan hệ mà vì chúng điều
ước được thiết lập giữa các bên. Phần này ghi nhận cụ thể quyền và nghĩa vụ
của các bên.
Phần cuối cùng, cũng như phần nội dung chính, phần này được chia thành
các điều khoản nhất định thường bao gồm các nội dung như: thời gian áp dụng,
6
thời điểm bắt đầu có hiệu lực, khoảng không gian có hiệu lực, vấn đề bảo lưu,
giải thích điều ước, giải quyết tranh chấp có liên quan…
Mặc dù ĐƯQT thường bố trí theo các chương, mục, điều khoản cụ thể,
nhưng đây cũng không phải là yêu cầu bắt buộc về mặt hình thức thể hiện đối
với mọi ĐƯQT. Chẳng hạn một số điều ước về thành lập tổ chức quốc tế như
tuyên bố Băng Cốc năm 1967 về thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) là một trong số những ĐƯQT không có kết cấu như thường gặp.
1.1.3. Về phân loại và ngôn ngữ điều ước quốc tế
ĐƯQT có thể phân thành các loại khác nhau dựa vào tiêu chí phân loại.
Căn cứ vào số lượng chủ thể tham gia ký kết điều ước, ĐƯQT được phân
thành 2 loại: ĐƯQT song phương và ĐƯQT đa phương.
ĐƯQT song phương là ĐƯQT được hai quốc gia ký kết. Ngoài ra ĐƯQT
cũng được coi là song phương khi ký kết và thực hiện ĐƯQT có sự tham gia

của nhiều quốc gia trong đó một quốc gia tham gia điều ước với tư cách là một
bên khác.
ĐƯQT đa phương được chia thành 2 loại: ĐƯQT đa phương phổ biến (có
sự tham gia của tất cả các quốc gia) và ĐƯQT với số lượng hạn chế, ví dụ như
các điều ước đa phương khu vực.
Căn cứ lĩnh vực quan hệ điều chỉnh (khách thể của điều ước) ĐƯQT có
thể được chia thành nhiều loại như: chiến tranh và hoà bình, kinh tế, nhân
quyền, môi trường, tương trợ tư pháp,…
Căn cứ vào tính chất điều ước, ĐƯQT được phân thành 2 loại: ĐƯQT
mở và ĐƯQT đóng.
ĐƯQT mở là ĐƯQT được ký kết với các điều kiện mở ra khả năng tham
gia của bất kỳ quốc gia nào, không phụ thuộc vào việc có sự đồng ý hay không
của các quốc gia đã tham gia điều ước.
ĐƯQT đóng là ĐƯQT được ký kết với điều kiện sự tham gia của các
quốc gia khác sau này phải phụ thuộc sự đồng ý của các quốc gia đã tham gia
điều ước (những thành viên ban đầu).
7
Pháp luật mỗi quốc gia lại có sự phân loại ĐƯQT khác nhau. Về tổng thể
việc phân loại ĐƯQT theo pháp luật quốc gia chủ yếu tạo cơ sở dễ dàng cho
công tác ký kết, thực hiện và quản lý nhà nước đối với ĐƯQT. Công ước Viên
1969 không đưa ra bất cứ một sự phân loại mang tính hệ thống nào, nó tiếp cận
theo hướng ĐƯQT dù là được ký kết ở cấp nào thì vẫn mang danh nghĩa của
quốc gia, tức là quốc gia mới là thành viên của ĐƯQT đó.
ĐƯQT thường được ký kết trên cơ sở các ngôn ngữ nhất định, ngôn ngữ
của điều ước do các bên ký kết quyết định. Ngôn ngữ của ĐƯQT song phương
thường là ngôn ngữ cua hai bên ký kết, tuy nhiên cũng có trường hợp các bên có
thể chọn một ngôn ngữ khác. ĐƯQT đa phương hình thành trên cơ sơ ngôn ngữ
mà các bên thoả thuận.
Thông thường các ĐƯQT được ký kết dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc
hoặc các tổ chức chuyên môn của nó được thể hiện thông qua các ngôn ngữ

chính thức của Liên hợp quốc: Anh, Pháp, Nga, Tây Ban Nha, Trung Quốc,
Arập. Các ĐƯQT được soạn thảo trên cơ sở các ngôn ngữ khác nhau có giá trị
pháp lý như nhau. Các văn bản ĐƯQT soạn thảo bằng ngôn ngữ được lựa chọn
đều là văn bản gốc và có giá trị pháp lý như nhau. Ngôn ngữ của văn bản ĐƯQT
có thể được quy định ngay trong các điều khoản của điều ước ví dụ như: cách
quy định của Điều 111 Hiến chương Liên hợp quốc, Điều 53 Công ước Viên
1961 về quan hệ ngoại giao…
1.1.4. Hiệu lực của ĐƯQT
- Về điều kiện có hiệu lực của ĐƯQT
ĐƯQT chỉ có thể phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý của cac chủ thể
tham gia ký kết khi nó phù hợp với pháp luật quốc tế nói chung và pháp luật
ĐƯQT nói riêng.
Trước hết là năng lực ký kết ĐƯQT, chỉ có những chủ thể có quyền năng
chủ thể luật quốc tế mới có đủ tư cách để ký các ĐƯQT có hiệu lực ràng buộc.
ĐƯQT phải được ký kết trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, nếu vi phạm
nguyên tắc này ĐƯQT có thể bị coi là vô hiệu.
8
ĐƯQT phải được ký kết trên cơ sở có sự tham gia của các chủ thể có liên
quan trực tiếp tới các vấn đề mà ĐƯQT đề cập. Điều này xuất phát từ nguyên
tắc bình đẳng về mặt chủ quyền giưã các quốc gia và nguyên tắc các quốc gia có
nghĩa vụ hợp tác với nhau.
Để có hiệu lực pháp lý điều ước phải có nội dung không trái với các quy
phạm mệnh lệnh mang tính juscogen.
Ngoài ra ĐƯQT chỉ có hiệu lực khi các điều kiện có hiệu lực xuất hiện
theo quy định của điều ước và khi nó được ký kết phù hợp với luật ĐƯQT.
- Về thời gian, không gian có hiệu lực của ĐƯQT
Vấn đề thời gian có hiệu lực của ĐƯQT bao gồm thời hạn bắt đầu và thời
hạn hết hiệu lực.
Cách thức quy định thời gian bắt đầu có hiệu lực của điều ước được quy
định khác nhau. Có điều ước quy định rõ thời điểm có hiệu lực, có điều ước quy

định thời điểm sau khi có đủ số lượng quốc gia nhất định ký kết…theo Công
ước Viên 1969, trật tự và ngày có hiệu lực được các bên thoả thuận quy định rõ
trong chính ĐƯQT đó. Trong trường hợp điều ước không quy định rõ ngày bắt
đầu có hiệu lực pháp lý (chủ yếu là điều ước song phương) thì ngày điều ước bắt
đầu có hiệu lực là ngày các bên ký kết điều ước.
Thời hạn hết hiệu lực của điều ước có thể được ghi rõ trong điều ước hoặc
không quy định rõ (gọi là điều ước vô hạn). Đối với điều ước vô hạn thì điều
ước sẽ hết hiệu lực về mặt thời gian khi các bên thoả thuận sau đó hoặc ký các
ĐƯQT mới thay thế điều ước đang tồn tại.
Không gian có hiệu lực của điều ước được hiểu theo hai nghĩa: số lượng
các quốc gia chịu sự chi phối bởi điều ước (khu vự hoặc toàn cầu) và khoảng
không gian của trái đất chịu sự chi phối của điều ước (như châu Nam cực,
khoảng không vũ trụ,…)
- Về điều ước quốc tế không hợp pháp, hết hiệu lực và bị đình chỉ hiệu
lực.
ĐƯQT không hợp pháp là ĐƯQT được ký kết không phù hợp với quy
định của luật quốc tế về các điều kiện hợp pháp của điều ước.
9
ĐƯQT hết hiệu lực là ĐƯQT không còn giá trị pháp lý ràng buộc các
bên. ĐƯQT có thể hết hiệu lực trong các trường hợp như: theo quy định của
điều ước; theo sự thỏa thuận của các bên tham gia điều ước; hoặc có ĐƯQT mới
của các bên đó về cùng một vấn đề.
Theo quy định của điều ước, các trường hợp làm điều ước quốc tế hết
hiệu lực thường là hết thời hạn, xuất hiện quy phạm juscogen mới, khách thể tác
động của điều ước không còn hoặc các chủ thể ký kết không còn tồn tại.
ĐƯQT bị đình chỉ hiệu lực là ĐƯQT không có hiệu lực trong một thời
gian nhất định. Ví dụ theo quy định của luật quốc tế hiện hành khi một hoặc tất
cả các bên ký kết lâm vào tình trạng chiến tranh, các điều ước quốc tế có liên
quan trong quan hệ giữa các bên có thể bị đình chỉ hiệu lực.
Hủy bỏ ĐƯQT là hành động đơn phương của một bên tuyên bố về việc

điều ước hết hiệu lực mặc dù điều đó không được quy định trong điều ước hoặc
thoả thuận mới của các bên. Cơ sở hợp pháp của một tuyên bố như vậy là việc
một hoặc nhiều bên vi phạm cơ bản điều ước hoặc có sự thay đổi hoàn cảnh
không thực hiện được như xuất hiện quốc gia mới mà sự kế thừa của quốc gia
đó đối với điều ước không phù hợp với khách thể hoặc mục đích ký kết điều
ước.
1.1.5. Về tên gọi của ĐƯQT
Điều ước là tên gọi chung cho tất cả các văn kiện pháp lý quốc tế do các
chủ thể của luật quốc tế ký kết. Tuỳ theo tính chất của các loại văn kiện mà điều
ước có thể có tên gọi riêng như: công ước, hiệp ước, hiệp định, hiệp nghị, định
ước, tuyên bố chung, hiến chương…Việc xác định rõ tên gọi của một loại văn
kiện pháp lý quốc tế là rất khó khăn vì vấn đề này phụ thuộc vào sự thoả thuận
của các bên. Tuy vậy thực tế ký kết các ĐƯQT cho thấy công ước thường được
sử dụng là tên một điều ước chung, xác định các quy tắc xử sự của các bên trong
một lĩnh vực xác định của đời sống quốc tế; hiến chương là tên gọi của một
điều ước thành lập ra một tổ chức quốc tế, chẳng hạn như hiến chương Liên hợp
quốc…; Tuyên bố chung là điều ước phản ánh kết quả thu được của một hội
10
nghị quốc tế; hiệp định, hiệp ước, hiệp nghị…thường được sử dụng là tên gọi
của các điều ước song phương hoặc khu vực.
Nói chung ĐƯQT rất đa dạng về tên gọi, việc đặt tên cho văn bản thoả
thuận hoàn toàn tuỳ thuộc ý chí của các bên ký kết, không có sự phân biệt giá trị
hiệu lực giữa các ĐƯQT theo tên gọi, danh từ dùng để gọi này hầu như là không
giới hạn được.
1.2. Khái niệm luật ĐƯQT
1.2.1. Về định nghĩa luật ĐƯQT
Luật ĐƯQT là tổng thể các nguyên tắc, các quy phạm pháp luật quốc tế,
điều chỉnh quan hệ về ký kết và thực hiện ĐƯQT của các chủ thể luật quốc tế.
Trong luật quốc tế hiện đại, luật ĐƯQT có vai trò rất quan trọng. Một
mặt, luật ĐƯQT hướng đến điều chỉnh quá trình hình thành khung pháp luật

quốc tế thông qua sự hình thành của hệ thống các điều ước đa dạng về nội dung.
Mặt khác với sự gia tăng của quan hệ hợp tác quốc tế nảy sinh trong các lĩnh
vực của đời sống quốc tế. Vì vậy sự phát triển của luật ĐƯQT như hiện nay
đang là một trong những yếu tố đảm bảo cho sự hoàn thiện và sự phát triển của
luật quốc tế theo xu thế toàn cầu hoá. Quan hệ giữa các quốc gia trên thế giới đã
chuyển từ đối đầu sang đối thoại, hợp tác cùng có lợi, các vấn đề quốc tế hầu hết
đều được giải quyết thông qua việc ký kết ĐƯQT. Luật ĐƯQT phát triển với tư
cách là một ngành luật độc lập thuộc hệ thống pháp luật quốc tế hiện đại ngày
càng khẳng định hơn nữa vai trò quan trọng của mình trong đời sống quốc tế.
Luật ĐƯQT điều chỉnh quan hệ về ký kết ĐƯQT giữa các quốc gia, các
tổ chức quốc tế liên quốc gia. Trong luật quốc tế quốc gia được coi là một thực
thể có chủ quyền và năng lực ký kết ĐƯQT là một trong những thuộc tính của
chủ quyền quốc gia. Điều 6 Công ước Viên 1969 quy định: “ mọi quốc gia đều
có tư cách để ký kết các ĐƯQT”. Năng lực ký kết ĐƯQT của quốc gia là năng
lực đầy đủ. Điều này có nghĩa là quốc gia hoàn toàn có đầy đủ tư cách để tham
gia ký kết các ĐƯQT ở mọi loại hình và trên mọi lĩnh vực của đời sống pháp lý
quốc tế. Tổ chức quốc tế cũng là một thực thể được thừa nhận có năng lực ký
kết ĐƯQT. Tuy nhiên nếu quốc gia trên cơ sở của chủ quyền quốc gia có năng
11
lực ký kết ĐƯQT đầy đủ thì tổ chức quốc tế chỉ có năng lực ký kết điều ước hạn
chế. Bởi lẽ năng lực ký kết ĐƯQT của tổ chức quốc tế là do quốc gia thành viên
chuyển giao một phẩn quyền năng ký kết ĐƯQT của mình cho tổ chức quốc tế.
Có thể nói năng lực ký kết ĐƯQT của tổ chức quốc tế là sự hợp nhất chủ quyền
của các quốc gia thành viên trong một tổ chức về một số vấn đề thuộc một hay
một số lĩnh vực nhất định của quan hệ pháp lý quốc tế, hay nói cách khác đó là
sự triển khai chủ quyền của các quốc gia thành viên trên thực tế. Tính chất hạn
chế của năng lực ký kết ĐƯQT của tổ chức quốc tế được xác định bởi hiến
chương hay điều lệ thành lập tổ chức quốc tế đó.
Ngoài ra, một số thực thể đặc biệt củng có quyền năng ký kết ĐƯQT như
Toà thánh Vanticang, hay các thực thể pháp lý lãnh thổ khác như: Macao, Hồng

Kông…Việc ký kết các thoả thuận giữa các tổ chức pháp nhân nước ngoài với
quốc gia, giữa các tổ chức phi chính phủ với nhau hoặc với quốc gia sẽ không
thuộc phạm vi điều chỉnh của luật ĐƯQT.
1.2.2. Về nguyên tắc cơ bản của luật ĐƯQT
Là một ngành của Luật quốc tế, Luật ĐƯQT được hình thành và phát
triển dưới nền tảng của các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, trong đó các
nguyên tắc như bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia, các quốc gia có nghĩa
vụ hợp tác với nhau và nguyên tắc tuân thủ các cam kết quốc tế có ảnh hưởng
lớn nhất đến ngành luật này.
Ngành luật ĐƯQT cũng có nguyên tắc riêng biệt của mình như nguyên
tắc bình đẳng và tự nguyện giữa các chủ thể, nguyên tắc tận tâm, có thiện chí, và
nguyên tắc rõ ràng, chặt chẽ. Các nguyên tắc này chi phối toàn bộ quan hệ giữa
các chủ thể luật quốc tế trong lĩnh vực đàm phán , ký kết và thực hiện ĐƯQT.
Nguyên tắc bình đẳng và tự nguyện có nguồn gốc từ nguyên tắc bình đẳng
về chủ quyền giữa các quốc gia. Nguyên tắc này thể hiện ở việc các quốc gia
không phân biệt chế độ, số dân, trình độ phát triển…đều có quyền bình đẳng và
tự nguyện trong việc đàm phán, ký kết và thực hiện ĐƯQT. Bởi vậy khi các chủ
thể vi pham nguyên tắc này thì ĐƯQT không có giá trị pháp lý. Trên bàn đàm
phán các quốc gia có tư cách ngang nhau, quyền và nghĩa vụ pháp lý như nhau
12
trong cùng một điều kiện hoàn cảnh nhất định. Các quốc gia lớn không có quyền
ép buộc các quốc gia nhỏ phải ký kết, thực hiện ĐƯQT không theo ý muốn của
mình. Đây là nguyên tắc cơ bản trong luật ĐƯQT nhằm bảo vệ quyền lợi ích
hợp pháp của tất cả các quốc gia lớn nhỏ khi tham gia đàm phán , ký kết ĐƯQT.
Nguyên tắc tận tâm, thiện chí có nguồn gốc từ nguyên tắc các quốc gia có
nghĩa vụ hợp tác và nguyên tắc tuân thủ cam kết quốc tế. Nguyên tắc này đặt ra
nghĩa vụ cho các quốc gia: phải có thái độ xây dựng trong việc đàm phán và ký
ĐƯQT, phải thực hiện ĐƯQT một cách có thiện chí phối hợp với khách thể và
mục đích ký kết ĐƯQT. Việc các quốc gia thực hiện ĐƯQT một cách miễn
cưỡng hoặc khi đàm phán có thái độ thiếu tinh thần xây dựng sẽ bị coi là các

hành vi vi phạm nguyên tấc này.
Nguyên tắc rõ ràng và chặt chẽ được thể hiện ở chổ các quy định trong
điều ước phải dễ hiểu và logic , thuận lợi cho quá trình thực hiện ĐƯQT trên
thực tế. Việc các quốc gia ký kết các ĐƯQT theo cách quy định chung chung
mang tính nghị quyết sẽ bị coi là hành vi vi phạm nguyên tắc này.
1.2.3. Nguồn của luật ĐƯQT
Các quy phạm của ĐƯQT được ghi nhận trong các ĐƯQT và tập quán
quốc tế.
Các quy phạm tập quán về luật ĐƯQT được hình thành chủ yếu từ chính
thực tiễn đàm phán, ký kết và thực hiện ĐƯQT của các quốc gia. Hiện nay
những tập quán quốc tế liên quan đến thủ tục, nghi lễ ký kết ĐƯQT vẫn được
các chủ thể kết ước áp dụng trong quá trình thiết lập các quan hệ ĐƯQT với
nhau.
Công ước Viên 1969 về luật ĐƯQT giữa các quốc gia và Công ước Viên
1986 về luật ĐƯQT giữa các quốc gia và tổ chức quốc tế hoặc giữa các tổ chức
quốc tế với nhau được coi là nguồn pháp luật thành văn chủ yếu của luật ĐƯQT
hiện hành. Công ước Viên 1969 là kết quả của quá trình phát triển và pháp điển
hoá các quy phạm ĐƯQT. Công ước này chỉ điều chỉnh việc ký kết và thực hiện
các ĐƯQT thành văn giữa các quốc gia. Riêng ĐƯQT bất thành văn (hiệp định
quân tử) và các ĐƯQT khác mà một trong các bên ký kết, thông qua phải là
13
quốc gia phải chịu sự điều chỉnh của các quy phạm tập quán và các văn bản
pháp lý quốc tế khác.
Trong từng quốc gia, để thống nhất quản lý hoạt động ký kết và thực hiện
ĐƯQT, mỗi nước đều ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong nước
điều chỉnh cụ thể quan hệ ký kết, thực hiện ĐƯQT giữa nước đó với các chủ thể
khác của pháp luật quốc tế.Ví dụ: luật ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT của
Việt Nam năm 2005, luật về ĐƯQT của Liên bang Nga năm1995, luật về trình
tự ký kết ĐƯQT của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa năm 1990… Như vậy,
về phương diện pháp lý các quốc gia sử dụng luật ĐƯQT như phương tiện pháp

luật phổ cập để hình thành và phát triển hệ thống các ĐƯQT mang tính vừa là
nguồn chứa đựng các quy phạm pháp luật quốc tế, vừa là công cụ pháp lý hiệu
quả để duy trì quan hệ hợp tác quốc tế của các chủ thể luật quốc tế.
1.3. Về các nguyên tắc điều chỉnh quan hệ ký kết và thực hiện ĐƯQT
1.3.1. Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng trong quá trình ký kết ĐƯQT
Ký kết ĐƯQT là loại hình hoạt động pháp lý thuộc quá trình xây dựng
luật quốc tế. Do đặc điểm cơ bản của luật quốc tế là không có các cơ quan lập
pháp chuyên trách nên quá trình xây dựng luật quốc tế luôn được tiến hành bởi
chính các chủ thể luật quốc tế. Đặc điểm này tác động đến quá trình ký kết
ĐƯQT theo hướng việc ký kết ĐƯQT sẽ hoàn toàn dựa trên cơ sở ý chí tự
nguyện của các thành viên. Sự tự nguyện và bình đẳng trong các quan hệ ĐƯQT
trở thành một trong những căn cứ đánh giá tính hợp pháp của một ĐƯQT. Theo
nguyên tắc này, những điều ước được ký kết mà có sự lừa dối, có sử dụng vũ lực
hoặc đe dọa dùng vũ lực hay ép buộc sẽ không có giá trị pháp lý. Công ước Viên
1969 quy định: “Nếu một quốc gia bị thuyết phục ký kết một điều ước do một
hành vi lừa dối của một quốc gia tham gia đàm phán khác, thì quốc gia này có
thể viện dẫn sự lừa dối này để từ bỏ sự đồng ý của mình chấp nhận sự ràng buộc
của điều ước đó” (Điều 49) và “một điều ước bị coi là vô hiệu nếu việc ký kết
điều ước này là kết quả của việc đe doạ sử dụng hay sử dụng vũ lực trái với
những nguyên tắc của luật pháp quốc tế đã được ghi trong Hiến chương liên hợp
quốc”(Điều 52).
14
Nguyên tắc này góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể
ký kết trong các quan hệ pháp luật quốc tế, tránh sự áp đặt từ bên ngoài với mục
đích thôn tính hay tạo ra tình trạng phải lệ thuộc về kinh tế, chính trị vào quốc
gia khác, đồng thời tạo cơ sở để duy trì tương quan có lợi cho hoà bình, an ninh,
ổn định ở từng khu vực cũng như trên phạm vi toàn cầu, hạn chế sự lạm quyền
và tình trạng không bình đẳng trong quá trình vừa hợp tác vừa cạnh tranh của
các chủ thể luật quốc tế. Nguyên tắc này còn trở thành một trong những điều
kiện pháp lý để ĐƯQT đã ký kết có hiệu lực trong thực tiễn.

1.3.2. Nguyên tắc ĐƯQT phải có nội dung phù hợp với các nguyên tắc cơ
bản của luật quốc tế
Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế được thừa nhận là những “thước
đo” giá trị hợp pháp của các quy phạm pháp luật khác. Vì vậy quy phạm pháp
luật chỉ tồn tại dưới hình thức điều ước hay tập quán đều phải có nội dung không
trái với các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Nếu có sự mâu thuẩn giữa nội
dung ĐƯQT với nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế thì ĐƯQT sẽ mặc nhiên vô
hiệu, kể cả đối với ĐƯQT đang có hiệu lực thi hành nhưng khi xuất hiện một
quy phạm juscogen mới của luật quốc tế thì ĐƯQT đó cũng phải chấm dứt hiệu
lực thi hành.
1.3.3. Nguyên tắc pasta sunt servanda
Đây là một trong những nguyên tắc rất quan trọng của luật ĐƯQT. Điều
26 công ước Viên 1969 quy định: “Tất cả điều ước có hiệu lực ràng buộc các
thành viên và phải được các thành viên tự nguyện thi hành với thiện chí”. Sự tận
tâm, thiện chí của các chủ thể ký kết vừa là cơ sở, vừa là đảm bảo quan trọng để
chủ thể ký kết tự ràng buộc mình những nghĩa vụ thực hiện các quy định của
luật điều ước nói chung và luật ĐƯQT nói riêng với tính chất là các cam kết
quốc tế tồn tại song hành cùng các điều khoản thoả thuận trong điều ước. Việc
không thi hành ĐƯQT chỉ có thể được thực hiện trong một số trường hợp và
trong những điều kiện chặt chẽ, chẳng hạn như trường hợp cắt quan hệ ngoại
giao hoặc quan hệ lãnh sự đươc quy định tại Điều 63 Công ước Viên 1969 như
sau:
15
“Việc cắt quan hệ ngoại giao hoặc lãnh sự giữa các quốc gia thành viên
của một số điều ước không làm ảnh hưởng đến những quan hệ phap lý do điều
ước đặt ra giữa các quốc gia này với nhau trừ khi trong một mức độ nhất định,
việc tồn tại những quan hệ ngoại giao hoặc lãnh sự không thể thiếu được để thi
hành điều ước”
2. Sơ lược quá trình phát triển của các quy định về ký kết, gia nhập và thực
hiện ĐƯQT trong pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến nay

2.1. Từ năm 1945 đến trước đổi mới năm 1986
Lịch sử phát triển của pháp luật Việt Nam về ký kết và thực hiện ĐƯQT
trong hơn 60 năm qua gắn liền với lịch sử phát triển của đất nước ta trong từng
thời kì. Với tư cách là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, Việt Nam hiện là
thành viên của nhiều ĐƯQT. Các ĐƯQT được Việt Nam ký kết hoặc gia nhập
đã hình thành cơ sở pháp lí quốc tế quan trọng nhằm phát triển các quan hệ hữu
nghị và hợp tác với các quốc gia và dân tộc trên thế giới, góp phần không nhỏ
vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ tổ quốc nâng cao hơn nữa vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế.
Đánh giá đúng ý nghĩa của hoạt động ký kết và thực hiện ĐƯQT, các bản
hiến pháp của nhà nước Công hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều có những quy
định về vấn đề này.
Ngay tại bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam năm 1946 đã quy
định tại Điều 23 như sau: “Nghị Viện nhân dân giải quyết mọi vấn đề chung cho
toàn quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà
Chính phủ ký với nước ngoài”. Và khoản h Điều 49 quy định: Chủ tịch nước có
quyền “ký hiệp ước với nước ngoài ”. Tuy nhiên các quy định trong Hiến pháp
năm 1946 này mới chỉ tạo cho cơ quan nhà nước căn cứ để thông qua và sử
dụng ĐƯQT làm công cụ pháp lí cho việc đấu tranh và bảo vệ độc lập dân tộc,
nó chưa làm rỏ hết tầm quan trọng của ĐƯQT trong các lĩnh vực khác.
Đến Hiến pháp năm 1959 với các quy định tài khoản 12 Điều 23, Điều 64,
khoản 11 Điều 74 đã xác định hoạt động ký kết, quyết định và thực hiện ĐƯQT
là một trong những công tác quan trọng của hoạt động đối ngoại, đồng thời trao
16
thêm thẩm quyền hoạt động ĐƯQT cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chính
phủ cùng với thẩm quyền của Quốc hội và Chủ tịch nước đã được quy định từ
bản Hiến pháp năm 1946 .
Hiến pháp năm 1980 với các quy định tại khoản 15 Điều 83; khoản 16
Điều 100; khoản 16 Điều 107 đã xác lập cơ sở pháp lí để nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam mở rộng quan hệ đối ngoại, ký kết và thực hiện ĐƯQT,

phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Tuy nhiên thời kì này các quy định về ký kết và thực hiện ĐƯQT chỉ
được quy định trong hiến pháp mà chưa có các văn bản pháp luật riêng biệt điều
chỉnh vấn đề này. Do đó các bước của quá trình ký kết, thực hiện ĐƯQT như đề
xuất đàm phán, đàm phán, bảo lưu, lưu chiểu, đình chỉ, huỷ bỏ …chưa được cụ
thể hoá nên nó cũng chưa thực sự đi vào đời sống.
Một điểm nữa trong ba bản Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959,
Hiến pháp năm 1980 chưa đề cập đến đó là hoạt động gia nhập ĐƯQT. Trong cả
ba bản Hiến pháp trên không hề có một quy định nào về việc gia nhập ĐƯQT
của Việt Nam mặc dù trên thực tế hoạt động này đã tồn tại, năm 1957 Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã quyết định gia nhập 4 công ước Giơnevơ về bảo hộ nạn nhân
chiến tranh và hàng loạt các công ước khác sau đó. Thời kỳ này mặc dù chưa là
thành viên của Công ước Viên 1969 nhưng chúng ta đã sử dụng chế định gia
nhập trong công ước đó như là một quy phạm tập quán để áp dụng vào pháp luật
quốc gia.
Đặc biệt Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980 mặc dù các quy định về ký
kết, thực hiện ĐƯQT đã được tăng lên nhưng lại không hề có một quy định nào
chỉ rõ cơ quan nhà nước nào có thẩm quyền ký kết ĐƯQT, vấn đề này được giải
quyết sau khi Hiến pháp năm 1990 ra đời.
2.1. Giai đoạn từ sau đổi mới 1986 đến nay
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 /1986) chính sách
ngoại giao của nhà nước ta đã có sự đổi mới, khẳng định Việt Nam muốn làm
bạn với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị. Công cuộc đổi mới và
chính sách đối ngoại này là một bước ngoặt trong công tác ngoại giao nói chung
17
và công tác ki kết và thực hiện ĐƯQT nói riêng. Nhìn chung từ năm 1986 đến
nay, các quy định về kí kết và thực hiện ĐƯQT của nước ta đã có những thay
đổi ngày càng hợp lí, mang tính khoa học hơn, phục vụ cho chính sách mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế của Việt Nam.
Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp năm 1980, ngày 27/10/1989 Hội

đồng Nhà nước ban hành pháp lệnh ký kết và thực hiện ĐƯQT năm 1989 (sau
đây gọi tắt là Pháp lệnh năm 1989) và ngày 28/5/1992 Hội đồng Bộ trưởng đã
ban hành Nghị định số 182/HĐBT quy định chi tiết thi hành pháp lệnh này. Đây
chính là văn bản pháp lí mang tính chuyên ngành đầu tiên quy định về công tác
điều ước của Việt Nam. Pháp lệnh năm 1989 là căn cứ pháp lí quan trọng để các
cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam xúc tiến các hoạt động ký kết và thực hiện
ĐƯQT với các đối tác nước khác.
Nhìn chung pháp lệnh năm 1989 đã đề cập đến các nội dung cần thiết của
công tác điều ước. Tuy nhiên, do được xây dựng và ban hành vào những năm
đầu của công cuộc đổi mới đất nước, trong bối cảnh quan hệ đối ngoại của Việt
Nam chưa phát triển nên pháp lệnh này không thể tránh khỏi những hạn chế nhất
định như một số vấn đề thực tiễn đã hoặc có thể xảy ra nhưng lại chưa được quy
định trong pháp lệnh (như: vấn đề rút bảo lưu, thời hạn tiến hành các hoạt động
không được quy định cụ thể…) hoặc trong thực tiễn thực thi pháp lệnh cũng nảy
sinh không ít vấn đề cần được làm rõ như về danh nghĩa ký kết, về giải thích
ĐƯQT…
Với đường lối đổi mới của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm
1986), chúng ta đã đạt được những thành tựu nhất định. Tình hình thực tiển cho
thấy nhiều quy định của Hiến pháp năm 1980 không còn phù hợp. Ngày
15/4/1992, Quốc hội đã nhất trí thông qua bản hiến pháp mới. Hiến pháp năm
1992 có các Điều 84, Điều 103, Điều 112 quy định trực tiếp thẩm quyền ký kết
và thực hiện ĐƯQT đặt ra yêu cầu phải sửa đổi nhiều quy định về điều ước
trong pháp lệnh năm 1989 cho phù hợp Hiến pháp năm 1992.
Ngày 15/4/1992 Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩaViệt Nam
khoá VIII, kỳ họp thứ 11 thông qua Hiến pháp năm 1992. Bản Hiến pháp này đã
18
có quy định rõ về thẩm quyền ký kết ĐƯQT của Chủ tịch nước (Khoản 10 Điều
103) và của Chính Phủ (Khoản 8 Điều 112) cũng như thẩm quyền của từng cơ
quan trong hoạt động đối ngoại của nhà nước ta (Khoản 13 Điều 84). Cũng tại
bản Hiến pháp này, lần đầu tiên vấn đề gia nhập ĐƯQT đã được đề cập dưới

khái niệm “tham gia”. Việc đề cập đến “tham gia ĐƯQT” trong Hiến pháp năm
1992 đã tạo cơ sở pháp lý cho chúng ta trong việc gia nhập ĐƯQT vốn đã tồn tại
khá lâu trong quá trình ký kết thực hiện ĐƯQT của nhà nước.
Ngày 28/8/1998, Uỷ ban thương vụ Quốc hội đã thông qua pháp lệnh về
ký kết và thực hiện ĐƯQT 1998 (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh năm 1998) và
ngày 18/10/1999 Chính phủ ban hành Nghị định số 161 về thi hành pháp lệnh
năm 1998. Về mặt tổng thể Pháp lệnh năm 1998 và Nghị định số 161 được xây
dựng trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, kế thừa nhưng quy định của Pháp lệnh
năm 1989, Nghị định số 182 và các kinh nghiệm ký kết thực hiện ĐƯQT là một
bước phát triển của pháp luật ĐƯQT của Việt Nam, góp phần không nhỏ vào
việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế của Việt Nam.
Ngày 25/12/2001, Quốc hội khoá X kì họp thứ 10 thông qua Nghị quyết
về việc sửa đổi, bổ sung một số quy định của Hiến pháp năm 1992. Nội dung
các Điều 84, Điều103, Điều 112 được sửa đổi theo hướng khẳng định và làm rõ
hơn thẩm quyền của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ trong công tác ĐƯQT.
Do đó một số quy định của Pháp lệnh năm 1998 và Nghị định số 161 về thẩm
quyền ký kết và gia nhập ĐƯQT không còn phù hợp với Hiến pháp sửa đổi.
Hơn nữa, quá trình thực hiện Pháp lệnh năm 1998 trong sự phát triển của đất
nước đã bộc lộ một số quy định không còn phù hợp với luật pháp và thực tiễn
quốc tế cũng như thực tiễn Việt Nam về ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT
như vấn đề phân loại ĐƯQT trong đó có ĐƯQT ký kết với danh nghĩa Bộ,
Ngành hoặc danh nghĩa Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao; quy định về thẩm định ĐƯQT,.. Ngoài ra Pháp lệnh năm 1998 còn chưa
quy định về vấn đề phản đối bảo lưu, về vị trí ĐƯQT so với các văn bản pháp
luật khác của Việt Nam. Mặt khác, việc năm 2001 Nhà nước ta gia nhập Công
ước Viên 1969 về luật điều ước đã đặt ra yêu cầu đánh giá mức độ tương thích
19
giữa các quy định của pháp luật hiện hành về ký kết và thực hiện ĐƯQT với nội
dung của Công ước Viên 1969.
Trước yêu cầu nêu trên ngày 14/6/2005, Quốc hội khoá XI kì họp thứ 7 đã

thông qua luật ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT năm 2005 (sau đây gọi tắt
là luật 2005). Luật 2005 ra đời là sự hoàn thiện về mặt pháp lí cho công tác ký
kết và thực hiện ĐƯQT tại Việt Nam. Số lượng các chương, điều cũng như hình
thức văn bản đều có sự nâng cấp thực sự đáp ứng đòi hỏi thực tế về việc chúng
ta đã, đang và sẽ ký kết ngày càng nhiều hơn nữa những ĐƯQT trong tiến trình
hội nhập quốc tế và khu vực.
Kết luận: Pháp luật ĐƯQT của Việt Nam hình thành và phát triển theo
hướng ngày càng hoàn thiện và phù hợp với pháp luật quốc tế, đồng thời phản
ánh quan điểm, đường lối, chính sách của Việt Nam phù hợp với hoàn cảnh lịch
sử cụ thể của nước ta trong từng thời kì khác nhau, khẳng định vai trò ngày càng
quan trọng của mình trong việc bảo vệ chủ quyền, quyền lợi chính trị, kinh tế
của Việt Nam và Chính phủ Việt Nam, cũng như vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế.
20
CHƯƠNG II
CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LÍ CƠ BẢN CỦA VIỆT NAM VỀ KÝ KẾT,
GIA NHẬP VÀ THỰC HIỆN ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ HIỆN HÀNH
Việt Nam cũng như tất cả các quốc gia khác, việc ký kết, gia nhập và thực
hiện ĐƯQT là hoạt động điều chỉnh bởi pháp luật quốc gia, hoạt động này phải
dựa trên nền tảng hiến pháp và pháp luật. Tuy nhiên trong các giai đoạn khác
nhau của lịch sử, tuỳ thuộc vào tình hình kinh tế, chính trị xã hội, hoạt động ký
kết và thực hiện ĐƯQT được xem xét theo các mức độ khác nhau cả về lí luận
cũng như thực tiễn.
Năm 2005 với sự ra đời của luật ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT đã
góp phần không nhỏ trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật quốc gia.Việt
Nam đã khá thành công trong việc xây dựng được một khung pháp luật quốc gia
về ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất
nước, đặc biệt trước nhu cầu hội nhập và toàn cầu hoá như hiện nay.
1. Vấn đề ký kết, gia nhập ĐƯQT
Ký kết ĐƯQT là quá trình phức tạp, nó chỉ có thể diễn ra khi các bên

tham gia được thể hiện ý chí của mình một cách rõ ràng, dứt khoát. Đó là sự gặp
gỡ của các bên về các vấn đề của điều ước. Do đó để đạt được kết quả là việc ký
kết ĐƯQT, các bên phải vượt qua nhiều giai đoạn với nhiều thủ tục khác nhau
như đàm phán để đi đến soạn thảo văn bản điều ước, thông qua văn bản điều
ước và các thủ tục ký cũng như thủ tục khác nhằm làm cho điều ước phát sinh
hiệu lực trên thực tế.
1.1. Về thẩm quyền ký kết, gia nhập ĐƯQT
Theo quy định tại Điều 11 Luật 2005, thẩm quyền quyết định đàm phán,
kí ĐƯQT xác định như sau:
“1. Chủ tịch nước quyết định đàm phán, ký ĐƯQT nhân danh Nhà nước
với người đứng đầu Nhà nước khác.
21
2. Chính phủ quyệt định đàm phán, ký ĐƯQT nhân danh Chính phủ, nhân
danh Nhà nước, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 điều này.
3. Chính phủ trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc đàm
phán, ký ĐƯQT có quy định trái hoặc chưa được quy định trong văn bản quy
phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội, ĐƯQT mà để thực
hiện cần sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của
Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội; trong trường hợp đàm phán, ký ĐƯQT
có quy định trái với văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội thì báo cáo Quốc
hội cho ý kiến”
Việc phân định rõ thẩm quyền của Chủ tịch nước, Chính phủ, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội và Quốc hội như trên tránh sự chồng chéo về thẩm quyền
quyết định đàm phán, ký ĐƯQT giữa các cơ quan nhà nước. Sự mở rộng thẩm
quyền của Chính phủ và thu hẹp bớt thẩm quyền của Chủ tịch nước so với pháp
lệnh 1998 là phù hợp thực tiễn, tạo điều kiện cho Chủ tịch nước tập trung hoàn
thành tốt nghĩa vụ của người đứng đầu nhà nước cũng như tạo cơ sở pháp lí cần
thiết cho Chính phủ thực hiện công việc của mình. Hơn nữa, việc qui định thẩm
quyền ký kết, gia nhập ĐƯQT thuộc về Chủ tịch nước, Chính phủ, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, Quốc hội thể hiện đúng bản chất của một ĐƯQT là thỏa

thuận mang danh nghĩa của một quốc gia, bởi lẽ những cơ quan này là những cơ
quan nhà nước của nhân dân, đại diện cho quyền và lợi ích của nhân dân một
cách rộng rãi nhất. Các qui định tại pháp lệnh năm 1998 về ký kết ĐƯQT nhân
danh Bộ, Ngành thực sự chưa nói lên được điều này.
1.2. Quy định về vấn đề hình thành văn bản điều ước
Vấn đề quan trọng nhất chứng minh ĐƯQT được ký kết thành công
không chỉ là việc ĐƯQT phát sinh hiệu lực pháp lí mà còn là việc ĐƯQT đó
phải đáp ứng được lợi ích quốc gia, dân tộc trên thực tế. Để đạt được mục tiêu
này pháp luật quốc gia về ký kết ĐƯQT chú trọng những vấn đề liên quan đến
quá trình xây dựng văn bản điều ước. Nhấn mạnh khía cạnh khoa học pháp lí
của hành vi mà chủ thể ký kết thực hiện trong giai đoạn hình thành văn bản dự
thảo điều ước là quy định chặt chẽ các vấn đề về đề xuất đàm phán, đề xuất ký
22
kết hoặc gia nhập điều ước, xác định thẩm quyền, danh nghĩa ký kêt điều ước,
thủ tục ủy quyền, xác định dự thảo ĐƯQT, hoạt động thông qua văn bản, xác
thực văn bản ĐƯQT… đặc biệt là khâu thẩm định ĐƯQT.
1.2.1. Về việc đề xuất đàm phán
Đây là khâu đầu tiên trong hoạt động ký kết ĐƯQT, pháp luật Việt Nam
quy định vấn đề này áp dụng thẩm quyền theo chức năng tại Điều 9, Điều10
Luật 2005:
“Toà án Nhân dân tối cao, Viện kiểm sát Nhân dân tối cao, Bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (sau đây gọi là cơ quan đề xuất) căn cứ vào
nhiệm vụ và quyền hạn được giao theo quy định của pháp luật, yêu càu hợp tác
quốc tế, chủ động đề xuất với Chính phủ về việc đàm phán, ký ĐƯQT”
Điều 10 quy định trách nhiệm của Bộ Ngoại giao trong việc kiểm tra đề
xuất đàm phán, ký ĐƯQT. Việc quy định cụ thể trách nhiệm này của Bộ Ngoại
giao nhằm đảm bảo cho những đề xuất trình lên Chủ tịch nước, Chính phủ là
những đề xuất thiết thực phù hợp và khả thi, tránh hiện tượng Chủ tịch nước,
Chính phủ phải tiếp nhận các đề xuất một cách tràn lan, không có chất lượng
hoặc chưa phù hợp.

1.2.2. Về thẩm định ĐƯQT
Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động ký kết và thực hiện
ĐƯQT. Việc thẩm định điều ước làm sáng tỏ yêu cầu, mục đích, nội dung cơ
bản về các quyền và nghĩa vụ khi tham gia ĐƯQT của Việt Nam, đồng thời
cũng phải đánh giá được những tác động của ĐƯQT đối với tình hình kinh tế,
chính trị, tài chính…của đất nước. Công tác này nhằm bảo đảm tính thống nhất,
đồng bộ trong hệ thống pháp luật và tính thực thi của ĐƯQT khi nó phát sinh
hiệu lực trên thực tế. Vấn đề này phức tạp bởi lẽ nó không chỉ đụng chạm đến hệ
thống pháp luật trong nước mà còn đến cả hệ thống ĐƯQT mà Việt Nam đã ký
kết hoặc gia nhập.
Tại luật 2005, Điều 17 quy định: “ĐƯQT phải được thẩm định trước khi
trình Chính phủ về việc đàm phán, ký ”. Điều 18 quy định phạm vi thẩm định
23
ĐƯQT, Điều 19 quy định về thẩm quyền thẩm định. Quy trình thẩm định cũng
được đặt ra tương tự cho việc gia nhập ĐƯQT ( Điều 49 khoản 2).
Thẩm định ĐƯQT để có sự định tính và định lượng về giá trị tổng thể
cũng như những tác động tích cực và tiêu cực của một ĐƯQT đối với Việt Nam
khi trở thành thành viên. Các cơ quan đề xuất ký hoặc gia nhập ĐƯQT phải dự
báo được tính khả thi của một điều ước trong tương lai. Khi đề xuất ký kết hoặc
gia nhập điều ước, ngoài dự thảo nội dung văn bản điều ước, cơ quan đề xuất
phải có những phương án về những vấn đề liên quan như vấn đề uỷ quyền tham
gia ký kết, các khâu chuẩn bị cho việc ký kết, nghĩa vụ pháp lí và khả năng gánh
vác trách nhiệm theo điều ước, các phương án đàm phán, tuyên bố bảo lưu (nếu
có) và nếu điều ước cho phép (đối với điều ước nhiều bên), việc thẩm định mang
tính dự báo, đón đầu này còn tránh được sự phối hợp thiếu thống nhất của các
ban ngành liên quan trong quá trình thực thi ĐƯQT. Thực hiện tốt quá trình
thẩm định ĐƯQT, đặc biệt trong trường hợp gia nhập ĐƯQT sẽ tránh xảy ra
những khó khăn trong quá trình thực hiện ĐƯQT về sau, đảm bảo tính khả thi
của ĐƯQT.
1.2.3. Về đàm phán ĐƯQT

Đàm phán là giai đoạn đầu tiên của quá trình ký kết ĐƯQT được biểu
hiện thông qua việc các bên cùng thảo luận nhằm đạt được sự thỏa thuận. Thông
qua đàm phán, các bên biểu thị ý chí của mình về các vấn đề thuộc lĩnh vực điều
chỉnh của điều ước dự định thiết lập. Để có thể đi đến việc ký kết điều ước, việc
đàm phán đòi hỏi phải thể hiện được sự nhất trí của các bên về tất cả các vấn đề
cơ bản. Vì vậy, đàm phán không phải bao giờ cũng đi đến sự thành công và đi
đến ký kết ĐƯQT mà rất có thể bị thất bại. Đây là qui định thể hiện rõ nhất của
nguyên tắc bình đẳng, thỏa thuận trong ký kết và thực hiện ĐƯQT. Vì nếu như
không có sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia thì không bao giờ có sự thỏa
thuận để đi đến thống nhất ý chí cũng có nghĩa là không có quá trình đàm phán.
Luật năm 2005 quy định rõ trường hợp đàm phán ĐƯQT không cần giấy
uỷ quyền, tham dự hội nghị quốc tế không cần giấy uỷ nhiệm (Điều 22) và
trường hợp đàm phán ĐƯQT phải có giấy uỷ quyền, tham dự hội nghị quốc tế
24
phải có giấy uỷ nhiệm ( Điều 23) cũng như quy định cụ thể thủ tục đối ngoại về
cấp giấy uỷ quyền, giấy uỷ nhiệm (Điều 24). Người tham gia đàm phán là người
đứng ra đại diện cho quốc gia để thỏa thuận, đi đến thống nhất các quyền và
nghĩa vụ của mình trong một quan hệ điều ước. Do đó, sự qui định cụ thể các
trường hợp cũng như thủ tục trên là rất cần thiết.
Sau khi ĐƯQT được đàm phán thành công, văn bản điều ước được thông
qua và được xác thực chính thức bởi các quốc gia đàm phán theo quy định của
luật quốc tế.
Hình thành văn bản ĐƯQT với các hành vi pháp lí như xây dựng dự thảo,
đàm phán, thông qua… là quá trình cho ra đời một văn kiện pháp lí quốc tế làm
cơ sở cho việc các quốc gia tiến hành các hành vi xác nhận sự ràng buộc đối với
ĐƯQT.
1.3. Các qui định về hành vi xác nhận sự ràng buộc đối với một ĐƯQT
Theo quy định của pháp luật Viêt Nam hiện nay, hành vi xác nhận sự ràng
buộc đối với một ĐƯQT bao gồm: ký, phê chuẩn , phê duyệt, gia nhập, trao đổi
văn kiện tạo thành ĐƯQT và thực hiện các hành vi khác theo thoả thuận với bên

kí kết nước ngoài.(Điều 8)
1.3.1. Về ký ĐƯQT
Ký là hành vi biểu hiện chung nhất thể hiện sự ràng buộc của ĐƯQT đối
với các quốc gia một cách chính thức. Theo quy định tại khoản 5 Điều 2 quy
định: “Ký là hành vi pháp lí do người có thẩm quyền hoặc được uỷ quyền thực
hiện”. Vấn đề ký ĐƯQT và ký ĐƯQT trong chuyến thăm của đoàn cấp cao
được quy định cụ thể tại Điều 27 và Điều 28 –Luật 2005
Trong thực tiễn công tác ĐƯQT hiện nay mặc dù hoạt động phê chuẩn
ĐƯQT ngày càng trở nên thông dụng hơn trong việc ký kết ĐƯQT tuy nhiên
hành vi ký vẫn được duy trì với đầy đủ các ý nghĩa pháp lí của mình.
Chúng ta cần phân biệt giữa hành vi ký và ký tắt. Ký tắt chỉ là hành vi xác
nhận văn bản đàm phán cuối cùng giữa các bên đàm phán, hành vi này không có
ý nghĩa ràng buộc ĐƯQT với các quốc gia. Sau khi ký tắt, các bên tiến hành ký
chính thức.
25

×