Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

Vay nợ và khủng hoảng ở các nước đang phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (972.97 KB, 50 trang )

BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

BÀI TIỂU LUẬN
VAY NỢ VÀ KHỦNG HOẢNG Ở CÁC NƯỚC ĐANG
PHÁT TRIỂN
Nhóm 7:
1. Lê Thị Vân Anh 18.01
2. Hoàng Ngọc Dung 18.01
3. Đặng Thùy Linh 18.01
4. Nguyễn Thị Thanh 18.01
5. Mai Thị Lan 18.02
6. Phan Thị Thu Thủy 18.02

Hà Nội, tháng 9/2014
1
Mục lục
A. Khái quát về các nước đang phát triển
I. Khái quát về các nước đang phát triển
1. Khái niệm về các nước đang phát triển
Có nhiều quan điểm nói về các quốc gia đang phát triển, Nước đang phát
triển là quốc gia có mức sống còn khiêm tốn, có nền công nghiệp kém phát triển và
có chỉ số phát triển con người (HDI) không cao. Ở các nước này, thu nhập đầu
người ít ỏi, nghèo nàn phổ biến và cơ cấu tư bản thấp. “Nước đang phát triển” gần
nghĩa với Thế giới thứ ba thường dung trong Chiến Tranh Lạnh.
Mức độ phát triển của một xã hội bao hàm cơ sở hạ tầng hiện đại (cả về mặt
vật chất và thể chế) và sợ chuyển ra khỏi lĩnh vực tạo ra giá trị gia tăng thấp như
nông nghiệp và khai thác các tài nguyên tự nhiên. Ở các quốc gia phát triển. hệ
thống kinh tế dựa trên sự tăng trưởng mạnh mẽ và bền vững ở những lĩnh vực dịch
vị, nghiên cứu phát triển, thông tin …
2. Những đặc điểm chung của những nước đang phát triển:


Mặc dù các nước đang phát triển có sự tương đồng nhất định về điều kiện
lịch sử, địa lý, chính trị và kinh tế, nhưng giữa các nước cũng có sự khác biệt cơ
2
bản tạo nên tính đa dạng cho các nước này. Những khác biệt này chi phối đến việc
xác định lợi thế của tường nước:
 Quy mô dân số và kinh tế
 Vị trí địa lý
 Văn hóa và lịch sử phát triển
 Vai trò của nhà nước và tư nhân
 Sự phụ thuộc bên ngoài

Bên cạnh đó, các nước đang phát triển có những đặc điểm chung cơ bản:
 Mức sống thấp
 Tỷ lệ tích lũy thấp
 Trình độ kỹ thuật của sản xuất thấp:
 Năng suất lao động thấp
II. Nợ công và khủng hoảng :
1. Nợ công
Một cách khái quát nhất, có thể hiểu nợ chính phủ, nợ công hoặc nợ quốc gia
là tổng giá trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa
phương đi vay nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách, vì thế, nợ chính
phủ, nói cách khác, là thâm hụt ngân sách luỹ kế tính đến một thời điểm nào đó. Để
dễ hình dung quy mô của nợ chính phủ, người ta thường đo xem khoản nợ này
bằng bao nhiêu phần trăm so với tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Nợ chính phủ
thường được phân thành: Nợ trong nước (các khoản vay từ người cho vay trong
nước) và nợ nước ngoài (các khoản vay từ người cho vay ngoài nước). Việc đi vay
của chính phủ có thể được thực hiện thông qua phát hành trái phiếu chính phủ để
vay từ các tổ chức, cá nhân.Trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ được coi là
không có rủi ro tín dụng vì chính phủ vì có thể tăng thuế thậm chí in thêm tiền để
thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn. So với trái phiếu chính phủ phát hành bằng

nội tệ, trái phiếu chính phủ phát hành bằng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh
3
có cầu lớn) có rủi ro tín dụng cao hơn vì chính phủ có thể không có đủ ngoại tệ để
thanh toán, thêm vào đó còn có thể xảy ra rủi ro về tỷ giá hối đoái.
Ngoài việc vay bằng cách phát hành trái phiếu nói trên, chính phủ cũng có
thể vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế tài chính quốc tế,
chẳng hạn Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)… Hình thức vay này thường được chính phủ
của các nước có độ tín cậy tín dụng thấp áp dụng vì khi đó khả năng vay nợ bằng
hình thức phát hành trái phiếu chính phủ của họ không cao.
Khi nợ công tăng cao, vượt quá xa giới hạn được coi là an toàn, nền kinh tế
rất dễ bị tổn thương và chịu nhiều sức ép cả bên trong và bên ngoài. Trong một số
trường hợp, những khoản nợ này bị dồn ứ lại và tích lũy tới mức độ không thể quản
lý được vì một số nguyên nhân nào đó, cụ thể như khủng hoảng kinh tế, chiến
tranh Kết quả là, khủng hoảng nợ nổ ra.
Các chỉ tiêu xác định và ngưỡng an toàn nợ công:
- Các chỉ tiêu giám sát về nợ công: nợ công so với GDP( chủ yếu), nợ nước
ngoài của quốc gia so với GDP , nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia so với
tổng kim ngạch xuất nhập khẩu.
- Ngưỡng an toàn nợ công: Theo Cơ quan nghiên cứu kinh tế quốc gia Mỹ
(NBER), khi tỷ lệ nợ/GDP vượt ngưỡng 90% thì nó tác động xấu đến tăng trưởng
kinh tế và làm giảm đi 4% trong tăng trưởng kinh tế của quốc gia đó. Theo quy
định của Khối sử dụng đồng tiền chung Châu Âu, tỷ lệ nợ công tối đa đối với một
quốc gia thành viên là 60% GDP, thâm hụt ngân sách hàng năm không được vượt
quá 3% GDP.nhưng để đánh giá một cách chính xác ngưỡng an toàn nợ công của
từng quóc gia cần phải chú ý đến các nhân tố: tốc độ chất lượng tăng trưởng kinh
tế, hiệu quả sửu dụng vốn, cơ cấu nợ công, tỷ trọng các loại nợ, cơ cấu lãi suất, thời
gian trả nợ….
2. Khủng hoảng nợ công
4
Khái niệm: Là tình trạng nợ công tăng cao (vỡ nợ), làm chao đảo nền kinh tế

do sự mất cân đối giữa thu và chi ngân sách quốc gia.Khủng hoảng nợ là một loại
khủng hoảng tài chính. Khủng hoảng tài chính là sự thất bại của một hay một số
nhân tố của nền kinh tế trong việc đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của
mình.Khủng hoảng tài chính xảy ra khi nhu cầu tiền vượt quá so với nguồn cung.
Có nhiều khả năng đánh giá khả năng thanh toán nguồn vay nước ngoài của một
quốc gia, trong đó chỉ tiêu quan trọng nhất là tỷ lệ thanh toán nợ nước ngoài tức là
tỷ lệ giữa nguồn vay nước ngoài cả gốc và lãi mà quốc gia đó trả trong một năm
trên tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia đó trong năm đó hoặc trong năm trước
đó. Bình thường chỉ tiêu này nằm dưới 20%, nếu chỉ tiêu này lớn hơn 20% chứng
tỏ lượng vốn vay nước ngoài của quốc gia đó quá lớn và có thể dẫn đến khủng
hoảng.
3. Tổng quan về tình hình khủng hoảng của các nước đang phát triển
Trong suốt thập niên từ 50 cho đến 70, khủng hoảng tài chính (financial
crisis) ở các nước đang phát triển (đặc biệt là ở châu Mỹ Latinh) đều xoay quanh hệ
thống tài chính bị áp chế, thâm hụt ngân sách gia tăng và tỷ giá hối đoái cố định.
Trong một hệ thống tài chính bị áp chế, lãi suất được kiểm soát ở dưới mức cân
bằng để giảm chi phí cho vay. Chính phủ đồng thời duy trì một mức thâm hụt ngân
sách lớn, thường được tài trợ bởi vay nước ngoài, hoặc trong điều kiện không thể
làm như vậy thì bằng thuế lạm phát hay bằng tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao áp đặt lên
các ngân hàng thương mại. Thâm hụt ngân sách cao, lạm phát gia tăng nhưng tỷ giá
hối đoái lại được cố định. Điều đó có nghĩa là chính phủ phải sử dụng dự trữ ngoại
tệ để bảo vệ tỷ giá hối đoái. Một cú sốc, ví dụ như tỷ giá ngoại thương thay đổi
theo chiều hướng xấu làm tăng thâm hụt cán cân xuất nhập khẩu, có thể dẫn tới một
cuộc tấn công mang tính đầu cơ vào đồng nội tệ và làm cạn kiệt dự trữ ngoại hối.
5
Chính phủ lúc đó buộc phải từ bỏ tỷ giá hối đoái cố định và để đồng nội tệ phá giá.
Đây là diễn biến điển hình của một cuộc khủng hoảng tiền tệ (currency crisis).
Một khía cạnh khác của khủng hoảng tài chính là khủng hoảng ngân hàng
(banking crisis). Khi người dân mất niềm tin vào hệ thống ngân hàng, thì họ thường
rút tiền một cách ồ ạt. Với lượng dự trữ hạn hẹp, các ngân hàng có thể nhanh chóng

rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Khủng hoảng trở nên nghiêm trọng hơn
khi các ngân hàng đổ vốn cho vay vào các dự án rủi ro cao, không hiệu quả. Trục
trặc thường nảy sinh khi các quy định kinh doanh tài chính thận trọng không có
hoặc không được thực thi và các khoản cho vay được ngầm bảo đảm. Do vậy, tâm
lý ỷ lại xuất hiện và làm các ngân hàng cho vay bất cẩn. Kết cục là tỷ lệ nợ xấu gia
tăng, ngân hàng mất vốn và rơi vào tình trạng phá sản.
Khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng ngân hàng có thể đi liền với nhau, cái
nọ dẫn tới cái kia và tạo nên cái gọi là khủng hoảng kép (twin crisis). Khi đó,
khủng hoảng tài chính trở nên rất trầm trọng và có thể dẫn tới khủng hoảng về kinh
tế - xã hội. Như trường hợp Đông Á cho thấy, các đợt tấn công đầu cơ vào đồng
baht xảy ra vào tháng 7 năm 1997 đã làm chính phủ Thái Lan phải bảo vệ đồng tiền
của mình bằng cách sử dụng dự trữ ngoại tệ. Khi dự trữ ngoại tệ gần cạn kiệt, Thái
Lan buộc phải thả nổi tỷ giá. Khủng hoảng nhanh chóng lan ra các nước Đông Á
khác. Đồng nội tệ của Hàn Quốc, Indonesia, Malaysia và Philippines đều chịu sức
ép. Sự phá giá đồng nội tệ ở các nước này cùng với lãi suất gia tăng đã làm nhiều
doanh nghiệp trước đây vay nợ bằng ngoại tệ không còn khả năng chi trả. Khó
khăn của doanh nghiệp nhanh chóng trở thành khó khăn của các tổ chức tài chính
và khủng hoảng ngân hàng xảy ra.
Một cách giải thích phổ biến nhất về khủng hoảng tập trung vào những trục
trặc trong nội tại các nền kinh tế, đặc biệt là trong hệ thống tài chính. Cơ chế phân
bổ tín dụng theo chỉ định (với các khoản vay được chính phủ ngầm bảo đảm, việc
6
chính phủ can thiệp trong phân bổ tín dụng vẫn tồn tại ở nhiều nước như Hàn Quốc,
Indonesia, Malaysia và Đài Loan. Khi tín dụng được chỉ định thì cơ chế giám sát và
các quy định về hoạt động thận trọng thường được coi nhẹ. Hơn thế nữa, khi các
ngân hàng cho vay theo chỉ đạo của chính phủ thì luôn tồn tại một giả định ngầm
rằng chính phủ sẽ bảo lãnh và cứu giúp nếu khoản vay đó không đòi được. Thậm
chí ngay cả ở một số nền kinh tế như Thái Lan, nơi chính phủ ít có can thiệp hơn
vào phân bổ tín dụng, thì những người cấp vốn cho các công ty tài chính vẫn tin
rằng mình sẽ được bảo đảm khi tính tới những mối quan hệ chính trị mà chủ sở hữu

của các tổ chức tài chính này có được. Krugman (1998) đưa ra quan điểm cho rằng
cuộc khủng hoảng ở các nước đang phát triển bắt nguồn chính từ tâm lý ỷ lại
trong hệ thống tài chính: các tổ chức tài chính được bảo lãnh ngầm “có động cơ
không chỉ thực hiện các hoạt động đầu tư rủi ro, mà còn theo đuổi tất cả các dự án
có suất sinh lợi kỳ vọng thấp nếu các dự án này được lợi lớn trong trường hợp
thành công” vì thế dù tỏ ra thành công trong giai đoạn đầu của quá trình công
nghiệp hóa, đã dẫn tới đầu tư quá mức, tham nhũng và hiệu quả sử dụng vốn ngày
càng xuống thấp.
Các dòng vốn quốc tế đã tăng 68% lên mức 1.100 tỉ USD trong năm 2010,
tương đương với mức trước khủng hoảng 2007. Các dòng vốn nợ vay từ các chủ nợ
tư nhân đã tăng gần gấp 5 lần so với mức năm 2009, do chủ yếu là sự gia tăng
nhanh chóng của các khoản nợ ngắn hạn và sự phục hồi mạnh mẽ trong việc phát
hành trái phiếu của các chủ nợ thuộc khu vực công lẫn khu vực tư nhân. Dòng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và đầu tư gián tiếp (FPI) đã tăng tương ứng 27%
và 18%, đưa tổng giá trị các dòng vốn chủ sở hữu tư nhân lên mức 635 tỉ USD
trong năm 2010, chỉ thấp hơn đôi chút so với mức cao nhất từng đạt được là 667 tỉ
USD của năm 2007. Dòng vốn nợ vay ròng được tài trợ từ các chủ nợ chính thức
(không bao gồm khoản viện trợ) đã giảm 11%, riêng đối với chủ nợ là IMF thì mức
7
giảm đã lên đến gần 50% so với năm 2009. Ngược lại, dòng vốn chảy vào ròng từ
các khoản hỗ trợ của IBRD vẫn tiếp tục quỹ đạo đi lên với mức tăng 45% trong
năm 2010. Dòng vốn vào ròng từ các chủ nợ chính thức khác trong năm 2010 vẫn
được duy trì ổn định ở mức năm.
Bảng 1. Dòng vốn ròng chảy vào các nước đang phát triển, 2001 – 2010 (Tỉ USD)
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Dòng vốn chính thức
và tư nhân
212,6 16,4 261,7 347,3 519,7 686,5 1.133,2 835,2 674,9 1.129,7
Phần trăm so với GNI 3,7 2,9 3,9 4,4 5,5 6,1 8,1 5,0 4,1 5,8
Dòng vốn chủ sở hữu 165,5 163,3 179,2 245,5 382,0 495,5 667,1 570,7 508,7 634,5

Vốn FDI ròng 158,9 155,0 152,8 208,5 314,5 387,5 534,1 624,1 400,0 506,1
Vốn FPI ròng 6,7 8,3 26,3 36,9 67,5 107,7 133,0 (53,4) 108,8 128,4
Dòng vốn nợ vay ròng 47,1 5,1 82,5 101,9 137,7 191,2 466,1 264,4 166,2 495,2
Chủ nợ chính thức 30,9 6,9 (12,0) (24,3) (64,3) (69,0) 1,5 29,5 80,5 71,2
WB 7,4 (0,5) (2,6) 2,4 2,6 (0,3) 5,2 7,2 18,3 11,4
IMF 19,5 14,2 2,4 (14,7) (40,2) (26,7) (5,1) 10,8 26,8 13,8
Chủ nợ chính thức
khác
4,1 (6,7) (11,7) (11,9) (26,8) (42,0) 1,5 11,5 35,4 35,0
Chủ nợ tư nhân 16,1 (1,8) 94,5 126,1 202,0 206,2 464,6 234,9 85,7 424,0
Dòng vốn nợ trung và
dài hạn ròng
(3,5) (3,8) 36,3 73,2 120,4 164,9 239,3 239,3 70,9 155,5
Trái phiếu 15,7 11,1 23,1 33,9 49,4 34,4 91,7 26,7 51,1 111,4
Ngân hàng và chủ nợ
tư nhân khác
(19,2) (15,0) 13,2 39,3 71,1 130,6 204,7 212,5 19,8 44,1
Dòng vốn nợ ngắn
hạn ròng
19,6 2,0 28,2 52,9 81,6 95,3 168,3 (4,4) 14,7 268,5
Thay đối dự trữ (-
=tăng)
(81,8) (165,4) (288,4) (395,7) (405,1) (636,9) (1.085,3) (425,5) (681,9) (752,0)
Các khoản mục ghi
nhớ
Viện trợ chính thức từ
hợp tác kỹ thuật
28,4 33,9 44,5 52,2 57,1 107,2 76,4 85,8 87,5 90,0
Chuyển tiền của
người lao động

90,1 108,2 134,6 155,6 187,0 221,6 267,4 322,9 306,3 319,6
Nguồn: Hệ thống Báo cáo Nợ của Ngân hàng Thế giới; IMF; Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS); và Tổ chức hợp
tác và phát triển kinh tế (OECD). Dữ liệu viện trợ năm 2010 là ước tính của WB
8
Trong năm 2010, dòng vốn ròng đổ vào 10 nước vay nợ hàng đầu tăng trung
bình gần 80% so với mức tăng chỉ 44% của tất cả các nước đang phát triển khác
cộng lại. Dòng vốn nợ vay ròng chảy vào 10 nước này đã tăng lên 359 tỉ USD, gần
gấp đôi mức nợ ròng đổ vào 119 nước đang phát triển khác. Tương tự, dòng vốn
chủ sở hữu đổ vào 10 nước này cũng tăng 30% so với mức 16% của các nước đang
phát triển khác. Riêng Trung Quốc đã thu hút được 30% tổng lượng vốn ròng chảy
vào tất cả các nước đang phát triển trong năm 2010, trong khi đó, đối với nhóm
nước gọi là BRICs (gồm Brazil, Nga, Ấn Độ, và Trung Quốc) là 58%. Tương tự
vào thời điểm cuối năm 2010, nhóm nước BRICs cũng chiếm gần 40% và nhóm 10
nước vay nợ nhiều nhất là 64% gánh nặng nợ nước ngoài của tất cả các nước đang
phát triển (bảng 3). Ở cấp độ khu vực, như Đông Á và Thái Bình Dương cho thấy
sự gia tăng rõ rệt nhất của dòng vốn vào ròng trong năm 2010: gộp cả nợ và vốn
chủ sở hữu đã tăng 90%, đạt mức 447 tỉ USD, chủ yếu là do dòng vốn đổ vào
Trung Quốc tăng lên, trong đó dòng vốn chủ sở hữu tăng 52% và vốn nợ vay tăng
178%. Ở châu Mỹ Latin và vùng Ca-ri-bê, dòng vốn vào ròng đã tăng 83% so với
mức năm 2009 do sự phục hồi của dòng vốn FDI và mức tăng gấp ba lần của vốn
nợ vay; trong đó, dòng vốn nợ vay tăng lên được kích hoạt bởi mức tăng 20% trong
dòng vốn vào ròng từ các chủ nợ chính thức mà chủ yếu là chủ nợ đa phương, và sự
gia tăng nhanh chóng của nguồn tài trợ ngắn hạn và trung hạn từ các chủ nợ tư
nhân dành cho Brazil và Mê-hi-cô. Hơn nữa, 10 nước này cũng đã nhận được một
tỷ phần lớn hơn nhiều trong dòng vốn chủ sở hữu ròng so với các nước đang phát
triển khác (hình 2).
9
.
Tự do hóa tài chính được đẩy mạnh, bắt đầu từ việc nâng lãi suất nội địa, rồi
tiến đến xóa bỏ kiểm soát trong khi không tăng cường cơ chế giám sát, và mở cửa

tài khoản vốn. Những chính sách này, cùng với chính sách duy trì tỷ giá hối đoái cố
định, đã khuyến khích dòng vốn nước ngoài chảy vào, mà chủ yếu là vốn ngắn
hạn.Các ngân hàng trong nước, nhận được vốn từ nước ngoài một cách dễ dàng,
tiếp tục đẩy mạnh cho các doanh nghiệp trong nước vay vốn. Kết quả là hàng loạt
doanh nghiệp vay nợ với tỷ lệ cao, kỳ hạn ngắn, nhưng lại đầu tư vào các dự án dài
hạn nhiều rủi ro. Hệ thống tài chính ngày càng trở nên dễ bị tổn thương.
Dòng vốn chảy vào đã tạo nên sự bùng nổ tín dụng trong khu vực. Tổng trữ
lượng nợ nước ngoài của các nước đang phát triển đã tăng 437 tỉ USD lên mức
4.000 tỉ USD vào cuối năm 2010 trong đó nợ ngắn hạn là thành phần có mức tăng
nhanh nhất, tăng 34% trong năm 2010 so với mức tăng 6% của trữ lượng nợ nước
10
ngoài dài hạn đang lưu hành.
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Tổng nợ nước ngoài đang lưu hành 2.514,0 2.675,4 3.220,4 3.499,2 3.639,6 4.076,0
Nợ dài hạn (bao gồm IMF) 2.013,2 2.081,6 2.456,4 2.739,7 2.866,4 3.039,6
Nợ công và nợ được chính phủ đảm
bảo (bao gồm IMF)
1.332,1 1.266,2 1.371,3 1.423,2 1.530,4 1.647,2
Nợ tư nhân không đảm bảo 681,1 815,4 1.085,1 1.316,5 1336 1.392,4
Nợ nước ngoài ngắn hạn 500,8 593,8 764,0 759,5 773,2 1.036,4
Các hệ số Nợ nước ngoài đang lưu
hành trên GNI (%)
26,6 23,9 23,2 21,0 22,4 21,0
Trữ lượng nợ nước ngoài so với xuất
khẩu (%)
75,9 66,1 65,6 59,3 77,0 68,7
Dự trữ so với nợ nước ngoài đang lưu
hành (%)
78,7 97,8 114,9 118,7 132,9 137,1
Nợ ngắn hạn so với nhập khẩu(%) 15,3 15,2 16,0 13,0 16,2 17,2

Bảng 2. Trữ lượng nợ nước ngoài của các nước đang phát triển và các hệ số chọn lọc,2005-2010
Nguồn: Hệ thống Báo cáo Nợ của Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế
Một điểm đáng lưu ý nữa là hàng loạt các khoản vay nước ngoài ngắn hạn
được đầu tư dài hạn.
Nợ ngắn hạn nước ngoài cao hơn dự trữ ngoại tệ có nghĩa là trong thời
gian ngắn nền kinh tế sẽ không có khả năng chi trả.
11
Khi có biến động về tình hình kinh tế,chính trị hay xã hôi,với tâm lí ngại rủi
ro thì các nhà đầu tư mất lòng tin nên sẽ rút vốn ồ ạt. Nó giống như một cơn hoảng
loạn rút tiền khỏi hệ thống ngân hàng. Chính hành vi này đã làm cho các nền kinh
tế các nước đang phát triển, giống như các ngân hàng, không còn khả năng thanh
toán.
 Khi nó diễn ra trên diện rộng dẫn đến khủng hoảng kinh tế .
VD: Khủng hoảng nợ Mỹ Latin thập niên 80 được gọi là "Thập kỷ mất mát"
và đã manh nha từ những năm 1970. Trong giai đoạn đó, Brazil, Argentina và
Mexico phát triển khá mạnh, chủ yếu do vay nước ngoài quy mô lớn để nâng cấp
công nghiệp trong nước và cải thiện cơ sở hạ tầng.
Tuy nhiên, đến đầu thập niên 80, các nước Mỹ Latin bắt đầu gặp khó khăn
trong việc trả nợ.Kinh tế thế giới suy thoái những năm 1979, 1980 đã tác động tiêu
cực đến tăng trưởng và xuất khẩu của các nước này. Một nguyên nhân khác là các
khoản vay bị sử dụng thiếu thận trọng và có liên quan đến tham nhũng. Từ
giữa năm 1975-1982, các khoản nợ công của các nước Latin đối với các tổ chức tài
chính và ngân hàng thế giới tăng với tỷ lệ gộp hàng năm lên đến trên 20%, khiến
tổng nợ vay đã tăng từ 75 tỷ USD năm 1975 lên đến hơn 315 tỷ USD năm 1983,
trong đó, thanh toán lãi suất và trả vốn gốc tăng mạnh, từ 12 tỷ USD năm 1975 lên
66 tỷ USD năm 1982 (The berge 1999).
Hầu hết các tổ chức tài chính và ngân hàng thế giới đều đã từ chối hoặc giảm
cho vay các nước châu Mỹ Latin khác. Trong khi đó, các khoản nợ vay của
chính phủ các nước lại chủ yếu là ngắn hạn và các nước gặp khó khăn trong thanh
toán nợ khi các tổ chức cho vay từ chối gia hạn các khoản vay. Hàng tỷ USD nhanh

chóng đến hạn thanh toán và các dòng vốn bắt đầu thoái lui khỏi các quốc gia trong
khu vực và các nước không còn có thể vay thêm.
12
Cuộc khủng hoảng nợ tại đây bắt đầu vào tháng 8/1982 khi Mexico tuyên bố
vỡ nợ. Tiếp đó là Brazil, Venezuela, Argentina và Bolivia.Trong suốt những năm
đầu của khủng hoảng, tăng trưởng GDP các nước trong khu vực chỉ còn hơn 2%.
Tại Đông Á và Đông Nam Á, khủng hoảng đến ngay sau thời kỳ tăng trưởng
kinh tế ấn tượng. Nguyên nhân cũng là bùng nổ tín dụng từ các nguồn vốn nước
ngoài được sử dụng thiếu kiểm soát khi phần lớn đổ vào bất động sản và chứng
khoán.
Một tỷ trọng lớn vốn cho vay của ngân hàng và các tổ chức tài chính phi
ngân hàng được tập trung vào khu vực bất động sản. Ở Indonesia, các khoản cho
vay khu vực bất động sản tăng 37%/năm trong giai đoạn 1992-95 (trong khi tổng
tín dụng ngân hàng chỉ tăng 22%/năm). Ở Thái Lan, các khoản cho vay bất động
sản của những công ty tài chính tăng 41%/năm trong giai đoạn 1990-95 (trong khi
tổng tín dụng chỉ tăng 33%/năm.
 Xu hướng nợ nước ngoài có khuynh huướng tăng nhanh, gắn với rủi ro ngày càng
lớn.
13
Khủng hoảng tài chính Đông Á chính thức bắt đầu từ tháng 7/1997 với sự
sụp đổ của đồng bath Thái Lan do các dòng vốn ồ ạt rút mạnh khỏi quốc gia
này. Tại thời điểm đó, Thái Lan đã có gánh nặng nợ nước ngoài lớn khiến quốc gia
này lâm vào tình trạng vỡ nợ, phá sản trước khi đồng bath sụp đổ.
Hiệu ứng lan tỏa khiến nhà đầu tư phương Tây bất ngờ rút mạnh vốn, tiền tệ
các quốc gia khác trong khu vực lần lượt bị phá giá. Hàng loạt tập đoàn và công ty,
đặc biệt về bất động sản, vỡ nợ. Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những quốc
gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất.
Khủng hoảng tài chính nhanh chóng chuyển sang suy thoái kinh tế trầm
trọng. Đồng tiền các quốc gia bị phá giá, lạm phát gia tăng, các tổ chức tài chính và
công ty phá sản, nợ xấu lên kỷ lục, tăng trưởng kinh tế suy giảm và thất nghiệp gia

tăng. GDP của Indonesia giảm tới 15% trong vòng một năm, Thái Lan và Malaysia
cũng giảm xấp xỉ 10%, trong khi Hàn Quốc giảm 3,8% trong quý đầu của năm
1998.
 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng nợ công ở các nước đang phát triển
chủ yếu là do chính phủ đã vay nợ quá mức để chi tiêu, kể cả đầu tư, trong giai
đoạn phát triển mạnh nhất của nền kinh tế. Đến khi nền kinh tế gặp trục trặc tại một
nước nào đó, đã xảy ra phản ứng dây chuyền gây đổ vỡ hàng hoạt.
Quá trình khủng hoảng được mô tả bằng sơ đồ sau
14
B. Tìm hi ểu về một nước cụ thể: Argentina
Trên thực tế, hầu hết các quốc gia đều đã vỡ nợ ít nhất một lần nhưng những
hiểu biết về nó vẫn chưa phải là điều mà mọi công dân trong những quốc gia đó
đều biết. Trước khi nói về một quốc gia vỡ nợ, hãy thử hình dung sự việc phổ biến
hơn trong đời sống, đó là sự vỡ nợ của một người bình thường. Khi một người
không thể thanh toán một khoản nợ đúng hạn, các chủ nợ sẽ bắt đầu gửi thư hay
nhấc máy gọi những cuộc điện thoại. Nếu các chủ nợ vẫn chưa nhận được tiền, tài
sản thế chấp sẽ bị thu hồi.
Nhưng điều gì sẽ xảy ra khi một quốc gia rơi vào tình trạng vỡ nợ? Một ví dụ
gần gây là Argentina - quốc gia vỡ nợ vào cuối năm 2001 đối với khoản nợ lên đến
132 tỷ USD. Số tiền tương đương 1/7 tổng số tiền mà thế giới thứ ba (các quốc gia
15
kém phát triển nhất trên thế giới) vay mượn trong thời gian đó. Sau thời kỳ không
ổn định, Argentina đã lựa chọn giảm giá đồng nội tệ và có thể phục hồi tăng trưởng
GDP trong suốt 9 năm sau đó.
Mới đây nhất, vẫn là Argentina khi quốc gia Nam Mỹ đã lâm vào vỡ nợ do
không thanh toán khoản nợ 1,33 tỷ USD cho 2 quỹ đầu tư của Mỹ khi hạn chót
30/7 đã trôi qua. Đây là lần vỡ nợ lần thứ 2 của Argentina trong vòng 13 năm. Khác
với doanh nghiệp hoặc cá nhân khi vỡ nợ, thay vì rời khỏi ngành kinh doanh, quốc
gia vỡ nợ phải đối mặt với nhiều lựa chọn và lựa chọn thường xuyên nhất là tái cấu
trúc các khoản nợ. Thông thường trong khoảng thời gian này, hạ giá đồng nội tệ là

giải pháp phổ biến để giảm bớt áp lực nợ.
Bên cạnh đó, nhiều quốc gia còn thực hiện biện pháp "thắt lưng buộc bụng"
sau khi tăng trưởng hồi phục. Trong trường hợp một quốc gia hạ giá đồng nội tệ để
trả nợ dễ dàng hơn, việc định giá tiền tệ thấp hơn cũng sẽ hỗ trợ cho xuất khẩu và
ngành sản xuất trong nước, qua đó giúp tái phục hồi nền kinh tế.
Người cho vay cuối cùng đôi khi cũng phải tiếp tục vay mượn thêm một lần
nữa. Khác với sự phá sản của một doanh nghiệp hay một cá nhân vỡ nợ, một quốc
gia vỡ nợ không đồng nghĩa với việc đã mất đi tất cả. Ít nhất, họ vẫn sở hữu những
tài sản quốc gia có giá trị lớn để gán nợ hoặc bán lấy tiền trả nợ. Vì thế, xu hướng
tái cấu trúc nợ trở nên phổ biến: quốc gia vỡ nợ sẽ đổi những khoản nợ cũ không
trả được bằng những khoản nợ mới, nhằm giảm giá trị các khoản nợ và có thêm
thời hạn để chi trả. Rốt cuộc, một quốc gia không thể đóng cửa mãi mãi.
16
I. Khái quát chung về Argentina
Một số vấn đề chung về Argentina
Argentina nằm ở cực nam Nam Mỹ, là nước lớn thứ hai ở Mỹ Latinh sau
Braxin. Nền kinh tế của Argentina có truyền thống được dựa vào nông nghiệp,
nhưng ngành công nghiệp và dịch vụ cũng đã trở nên quan trọng trong những năm
gần đây.
Argentina có nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có: các vùng đồng bằng màu
mỡ ở Pampas, chì, kẽm, thiếc, đồng, quặng sắt, mangan, dầu lửa, uranium.
17
 Lợi ích mà các nguồn tài nguyên thiên nhiên đem lại cho Argentina là rất
lớn, thêm vào đó tỷ lệ dân số biết đọc biết viết là cơ sở cho định hướng xuất khẩu
nông nghiệp và đa dạng hóa ngành công nghiệp. Argentina là nước có nền kinh tế
phát triển nhất ở Mỹ Latinh với GDP tính theo sức mua tương đương là 599,1 tỉ
USD, đứng thứ 22 thế giới, thu nhập bình quân đầu người là 15.000 USD.
2. Giai đoạn phát triển thần kì 1992 – 1998
Từ những năm 1980, Argentina chìm đắm trong chế độ quân chủ chuyên chế
và từ sau năm 1983 thì nước này mới có sự thay đổi về chế độ. Tuy vậy, những hậu

quả mà chế độ quân chủ chuyên chế tạo ra là rất sâu sắc và kéo dài với các khoản
nợ nước ngoài khổng lồ và một nền kinh tế rối ren, hỗn loạn. Những nỗ lực của
chính quyền mới (dưới thời Tổng thống Alfonsin) bằng việc đưa ra đồng tiền mới
(đồng Austral) thay thế đồng tiền cũ đang lưu hành để chi trả các khoản nợ nước
ngoài. Tuy nhiên, những nỗ lực này đã không thành công, đồng Austral mất giá,
siêu lạm phát xảy ra (năm 1989 lạm phát lên tới 5.000%).
Nhưng chỉ vài năm sau đó nền kinh tế đã khởi sắc khi ông Carlos MENEM
lên làm tổng thống Chính sách năm 1991 của chính quyền này được đặt ra khi
18
Argentina rơi vào tình trạng nợ nước ngoài lớn, lạm phát lên tới 200%/tháng và
năng suất giảm mạnh. Để vượt qua khủng hoảng kinh tế, chính phủ đã thực hiện
các biện pháp sau:
Ngày 1/4/1991, quốc hội Argentine thông qua “currency board”.Điều luật
này cho phép thành lập hội đồng tiền tệ với nhiệm vụ chính nhằm duy trì tỷ giá
giữa peso với USD, và giới hạn việc in ấn đồng peso xuống mức cần thiết cho việc
mua dollar trên thị trường tiền tệ.
Xây dựng hệ thống tiền tệ kép (bi-monetary) đảm bảo vai trò ngang nhau
giữa đồng peso với ngoại tệ (chủ yếu là đô la Mỹ). Người dân Argentina có quyền
trả bằng bất kỳ đồng tiền nào trong các giao dịch của mình.
Tự do hóa hoàn toàn hệ thống ngân hàng, bao gồm việc tư nhân hóa gần như
tất cả các ngân hàng nhà nước ở địa phương và bán một ít các tổ chức tài chính
trung bình và lớn cho nước ngoài.
Tự do hóa hoàn toàn việc luân chuyển tư bản - cả tài chính lẫn đầu tư trực
tiếp mà không có bất kỳ hạn chế nào.
Tư nhân hóa các công ty nhà nước từ công ty hàng không đến công ty điện
và Bưu điện, trong khi nước này chưa hề có một hệ thống luật lệ mạnh và đầy đủ.
Loại bỏ gần như tất cả các hàng rào phi thuế quan, và cắt giảm thuế từ trung
bình 45% đầu thập niên 90 xuống còn 11% năm 2000. Với 3 giai đoạn cải cách
1991. 1995, 1998, thị trường việc làm linh hoạt ở nước này đã được cải thiện đáng
kể, điển hình là số lượng công nhân được kí kết hợp đồng và được dào tạo tăng từ

6% năm 1995 lên 12% năm 1997. Năng suất lao động trung bình tăng 3% từ 1991-
1998.GDP tăng trưởng từ mốc giảm liên tục 0.5% trong suốt những năm 1980 đã
bật mạnh mẽ lên tới hơn 10% trong 2 năm đầu tiền của chính sách cải cách và 5%
năm 1993-1994.
19
Kết quả: lạm phát giảm đáng kể, ổn định giá được đảm bảo, và giá trị của
tiền tệ được bảo tồn. Những yếu tố đó khiến A rgentina được ngợi khen như là một
điển hình của sự thần kỳ mới và là một trong những “học trò xuất sắc” được IMF
thừa nhận.
II.Vấn đề nợ công và khủng hoảng của Argentina
1. Những vấn đề bất ổn – khủng hoảng xảy ra
Nhìn chung, việc ban hành Luật Chuyển đổi đã có những tác động tích cực
trong việc kiểm soát lạm phát, nhưng mặt trái của nó là ở chỗ:
- Thứ nhất, để duy trì được tỷ giá 1 ARA = 1 USD, NHTƯ Argentina phải có
lượng dữ trữ ngoại tệ lớn để sẵn sàng can thiệp thị trường bất cứ lúc nào và với bất
cứ dung lượng nào. Tuy vậy,Argentina lại không đáp ứng được đòi hỏi tiên quyết
này. Thực tế là họ đã phải bù đắp lượng ngoại tệ bị thiếu hụt so với yêu cầu dự trữ
để can thiệp thị trường bằng việc tăng cường vay nợ nước ngoài. Cố thể nói, việc
duy trì chính sách tỳ giá theo "chuẩn tiền tệ" như vậy quả là quá tốn kém mà lại hết
sức mong manh, thiếu sự bền vững.
- Thứ hai, việc duy trì tỷ giá 1 ARA = 1 USD mặc dù giúp kiểm soát lạm phát
(thông qua khống chế lượng Peso được phát hành phù hợp với lượng USD giao
20
dịch trên thị trường), nhưng điều này lại khiến cho ngân sách Chính phủ bị thâm
hụt càng nghiêm trọng. Nguyên do là với các qui định trong Luật Chuyển nhượng
thì Chính phủ không được in tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách.
- Thứ ba, chính sách "chuẩn tiền tệ" cũng làm cho đồng Peso lên giá, hệ quả
là hàng nhập khẩu từ nước ngoài rẻ hơn đáng kể so với hàng sản xuất trong nước.
Sự suy yếu về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong nước so với quốc tế do
chính sách vô tình tăng giá đồng nội tệ đã gây hậu quả hàng loạt doanh nghiệp

trong nước bị phá sản, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng mạnh.
- Thứ tư, việc cho phép dân chúng tự do lựa chọn nắm giữ USD hay ARA đã
vô tình khiến tình trạng "chảy máu ngoại tệ" trong nền kinh tế, do dân chúng tăng
cường chuyển từ đồng Peso sang nắm giữ USD để đi du lịch nước ngoài hay mua
sắm các hàng hóa nhập khẩu giá rẻ. Điều này đã làm cho dự trữ ngoại tệ bị sụt giảm
nghiêm trọng. Điều này khiến đồng Peso ngày càng bị mất giá so với USD. Xử lý
bất cập nghiêm trọng này buộc Chính phủ phải tăng cường vay nợ nước ngoài để
bù đắp đúng lượng ngoại tệ đã bị chảy ra nước ngoài.
- Thứ năm, cũng do chính sách "chuẩn tiền tệ" khiến NHTƯ không làm tròn
vai của mình khi là "cứu cánh cuối cùng". Khi hệ thống ngân hàng bị lâm vào
khủng hoảng và cần sự giải cứu từ NHTƯ thông qua các khoản cho vay tái chiết
khấu thì lại khống được đáp ứng.
- Thứ sáu, đồng Peso được neo chặt với USD nên về nguyên lý thì lãi suất
của ARA phải tương đương với lãi suất USD. Nếu điều kiện này không được duy
trì thì lập tức hoạt động Arbitrage sẽ xảy ra. Điều này hàm ý rằng, NHTƯ
Argentina đã bị mất đi sự chủ động trong sử dụng chính sách tiền tệ để điều tiết
kinh tế vĩ mô (chẳng hạn có thể tăng lãi suất để chống lạm phát hay giảm lãi suất để
kích thích tăng trưởng kinh tế). Thêm vào đó, tình trạng tham nhũng tại nước này
diễn biến hết sức phức tạp, hầu như rất khó kiểm soát và ngăn chặn, nên ngân sách
21
Argentina vốn đã bị thâm thủng lại càng bị làm trầm trọng hơn. Vì thế, những dấu
hiệu bất ổn đầu tiên đã xuất hiện:
Cuối những năm 90, chính phủ Argentina đã tận dụng uy tín đang lên của
quốc gia để liên tục vay nợ nước ngoài, nợ nước ngoài âm thầm tăng lên dần, bắt
đầu là ngưỡng an toàn từ tỉ lệ nợ dưới 50% GDP (35% trong năm 1995 cho đến gần
65% năm 2001).
Cuối thập kỷ 90, đồng dollar Mỹ tăng giá dẫn đến việc đồng peso cũng tăng
giá theo so với đồng tiền các nước đối tác thương mại nước này, làm giảm khả năng
cạnh tranh hàng xuất khẩu của Argentina .
22

Từ những năm 1999, Argentina đã bắt đầu gặp phải những mất cân đối trong
chi tiêu ngân sách, mức tiêu dùng giảm 2,1% và đầu tư giảm 12,8%.
Tháng 12 năm 1999, chính phủ đã tăng thuế và cắt giảm chi tiêu để giảm
thâm hụt, làm GDP ở mức 2,5% năm 1999.
Argentine Fiscal Surplus/Deficit 1995 - 2009
Tăng trưởng năm 2000 càng trở nên tồi tệ ở mức 0,8%. Cả các nhà đầu tư
trong nước và nước ngoài đều hoài nghi về khả năng trả nợ của chính phủ và giữ tỷ
giá cố định theo đồng USD.
Ngày 10/3/2000, IMF đồng ý một thỏa thuận cho vay dự phòng trị giá 7,2 tỷ
USD trong 3 năm cho Argentina với điều kiện nước này phải điều chỉnh tài chính
23
chặt chẽ và đạt mức tăng trưởng GDP 3,5% vào năm 2000 (thực tế tăng trưởng
GDP năm 2000 của nước này chỉ là 0 5%).
Ngày 29/5/2000, Chính phủ tuyên bố cắt giảm chi ngân sách 1 tỷ USD với
hy vọng việc "chịu trách nhiệm tài chính" sẽ khôi phục lại niềm tin đối với nền
kinh tế.
Ngày 18/12/2000, chính quyền Tổng thống De La Rua thông báo cần sự trợ
giúp cả gói 40 tỷ USD của IMF.
2. Khủng hoảng Argentina 2001-2002 (giai đoạn sau 2001)
Hệ thống ngân hàng Argentina sụp đổ vào vào tháng 12/2001, nhấn chìm
một trong những trung tâm kinh tế năng động và thành công nhất tại khu vực Nam
Mỹ. Gần như chỉ sau một đêm, đất nước này rơi vào cảnh đói nghèo. Tình cảnh sau
đó hết sức hỗn độn. Chỉ trong vòng 2 tuần, có tới 5 vị Tổng thống lên và xuống
chức. Người dân, công nhân, viên chức xuống đường biểu tình. Chính quyền A
rgentina cho rằng thủ phạm là các chính sách mà Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân
hàng Thế giới áp dụng tại đây từ những năm 1990.
Diễn biến: Năm 2001, những bất ổn đạt đến đỉnh cao, với mức tiêu dùng
vào cuối quí 3 giảm sâu tới 5,8% và đầu tư giảm 17,5%, kéo theo tăng trưởng GDP
âm và thất nghiệp tăng cao kỷ lục (18,3%).
24

Ngày 12/1/2001, do kinh tế của Argentina vẫn còn suy thoáỉ mạnh, IMF tăng
thỏa thuận ngày 10/3/2000 lên 7 tỷ USD như một phần của gói 40 tỷ USD viện trợ
cả gói liên quan đến Ngân hàng Phát triển Trung Mỹ, WB, Tây Ban Nha và tư nhân
cho vay. Thỏa thuận này nhằm đảm bảo GDP của nước này sẽ tăng trưởng ở mức
2,5% năm 2001 (thực tế năm 2001 GDP nước này tăng trưởng - 5%)
Ngày 17/6/2001, Chính phủ thông báo khoản nợ trị giá 29.5 tỷ USD được
hoán đổi từ khoản nợ ngắn hạn thành khoản nợ mới với thời gian đáo hạn dài hơn
và lãi suất cao hơn
Ngày 19/6/2001, giảm giá 7% đồng Peso trong tương quan so sánh với USD,
đối với thương mại hàng hóa với kỳ vọng cải thiện năng lực cạnh tranh thương mại
quốc tế của nước này.
Ngày 29/7/2001, Quốc hội thông qua “Luật Thân hụt bằng 0”, đòi hỏi một
ngân sách cân bằng vào quí IV/2001.
25

×