Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY TRẺ 3-4 TUỔI CÓ KỸ NĂNG ĐỊNH HƯỚNG KHÔNG GIAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.4 KB, 13 trang )

PHONG GIAO DUC & AO TAO LUC NGAN
TRNG MM NON KIấN THANH
***
SANG KIấN KINH NGHIấM
ấ TAI
MễT Sễ BIấN PHAP DAY TRE 3-4 TUễI CO KY NNG
INH HNG KHễNG GIAN
Ngời viết : Phạm Thị Thu Trang
Sinh ngày : 19 tháng 02 năm 1987
Chức vụ Giáo viên
Trờng Mầm non Kiên Thành Lục Ngạn Bắc Giang

1

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Lí do chọn đề tài:
Trong chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non, môn làm quen với toán
đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc cung cấp những kiến thức ban đầu cho trẻ.
Cho trẻ làm quen với những biểu tượng toán ngay từ tuổi mầm non là một việc làm
hoàn toàn đúng đắn và cần thiết vì đó chính là cơ hội tốt để giúp trẻ hình thành phẩm
chất năng lực hoạt động cho mình như: Tìm tòi, quan sát, so sánh…Thông qua hoạt
động làm quen với toán giúp trẻ hình thành những biểu tượng ban đầu về toán như: Số
lượng, kích thước, hình dạng, định hướng không gian, để sau này trẻ sẽ vững vàng, tự
tin hơn khi tiếp nhận những kiến thức của môn toán ở gian đoạn tiếp theo.
2. Mục đích nghiên cứu:
Trong quá trình dạy trẻ làm quen với toán để giúp trẻ nhận thức sâu sắc, rõ các biểu
tượng trên việc đầu tiên không thể thiếu được đó là truyền thụ kiến thức của giáo viên
đến trẻ. Giáo viên cần phải nghiên cứu, tìm tòi để truyền tải những nội dung cần mang
đến cho trẻ sao cho trẻ cảm thấy đơn giản, gần gũi mà lại dễ hiểu như vậy giờ học mới
có hiệu quả. Đặc biệt “ Dạy trẻ định hướng không gian ” nhất là với trẻ mẫu giáo bé là


một vấn đề tôi luôn quan tâm, suy nghĩ nhiều để tìm ra được những biện pháp tốt nhất
để dạy trẻ.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu:

Cùng với sự đổi mới ở các khối lớp, tôi nhận thấy rằng muốn có các cháu
phát triển và học tốt ở các lớp tiếp theo thì trước tiên các cháu phải được phát triển một
cách toàn diện ở lớp nhóm vì lớp nhóm là lớp đầu tiên các cháu được đến trường. Từ
nhận thức đó mà trong suốt ba năm dạy lớp nhóm tôi luôn nhận thức rằng chương trình
2
dạy theo hướng đổi mới là rất thiết thực và phù hợp với lứa tuổi trẻ thơ. Vì vậy mà tôi
nhận thức rằng muốn cho cháu phát triển toàn diện thì trước hết cô giáo cần nâng cao
chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ ở các độ tuổi đặc biệt là ở lớp nhóm.
Qua dự các lớp bồi dưỡng và thực hiện chương trình đổi mới, dự chuyên đề, thao
giảng,…đặc biệt là sự chỉ đạo xát sao của phòng, của trường và sự giúp đỡ của các chị
em đồng nghiệp mà trong suốt những năm học qua tôi đã cố gắng và tiến bộ lên rất
nhiều trong giảng dạy cũng như thực hiện chương trình chăm sóc-giáo dục trẻ ở lớp
nhóm. Cụ thể là trong những năm học qua các cháu lớp tôi luôn phát triển một cách
toàn diện về tất cả mọi mặt. Đó cũng chính là động lực thúc đẩy tôi cố gắng và cố gắng
vượt bật để ngày càng nâng cao chất lượng giảng dạy, chăm sóc giáo dục trẻ.
4.Giả thuyết khoa học:

Đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi này là cháu thường hay chơi một mình
không muốn chơi với bạn, vậy làm thế nào để các cháu chơi cùng nhau thì cô giáo phải
biết tạo không khí đoàn kết trong lớp học phải luôn tạo ra các trò chơi, tạo những tình
huống bất ngờ cho trẻ để trẻ được tham gia vào các hoạt động tập thể. Muốn vậy thì cô
phải chơi cùng trẻ, tạo cho trẻ khoảng cách gần gũi giữa cô và trẻ, giữa trẻ và bạn để trẻ
hoà mình với tập thể của lớp học.
Một nội dung rất quan trọng đó là cô giáo cần giáo dục trẻ như thế nào để trẻ phát
triển một cách toàn diện đó là một điều rất khó nhất là đối với trẻ lớp nhóm, đặt điểm
của lứa tuổi này là trẻ thích bắt chước và trẻ chỉ học được những gì mà trẻ nhìn thấy,

nghe thấy. Vì vậy cô giáo phải biết tận dụng tất cả các khoảng thời gian trong ngày để
giáo dục trẻ bằng gương người thật, việc thật.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:
3
Qua d cỏc lp bi dng v thc hin chng trỡnh i mi, d chuyờn , thao
ging,c bit l s ch o sỏt sao ca phũng, ca trng v s giỳp ca cỏc ch
em ng nghip m trong sut nhng nm hc qua tụi ó c gng v tin b lờn rt
nhiu trong ging dy cng nh thc hin chng trỡnh giang day. C th l trong
nhng nm hc qua cỏc chỏu lp tụi luụn phỏt trin mt cỏch ton din v tt c mi
mt. ú cng chớnh l ng lc thỳc y tụi c gng v c gng vt bt ngy cng
nõng cao cht lng ging dy, chm súc giỏo dc tr.
6. Pham vi nghiờn cu:
- ụi tng la hoc sinh lp 3-4 tuụi trng Mõm non Kiờn Thanh Luc Ngan.
- Thụng qua hot ng lm quen vi toỏn giỳp tr hỡnh thnh nhng biu tng ban u
v toỏn nh: S lng, kớch thc, hỡnh dng, nh hng khụng gian, sau ny tr s
vng vng, t tin hn khi tip nhn nhng kin thc ca mụn toỏn gian on tip
theo.
7. Phng phap nghiờn cu:
- Lập kế hoạch cho chủ điểm.
- Chuẩn bị đồ dùng dạy học.
- Sử dụng các phơng tiện giảng dạy.
- Phơng pháp cá thể hóa.
- Phơng pháp tích hợp
- Phối hợp với phụ huynh.
8. Cõu truc cua ờ tai:
Phõn 1: t võn ờ
1. Li do chon ờ tai.
2. Muc ich nghiờn cu.
3. Khach thờ va ụi tng nghiờn cu.
4. Gia thuyờt khoa hoc.

5. Nhiờm vu nghiờn cu.
6. Pham vi nghiờn cu.
7. Phng phap nghiờn cu.
4
Phần 2: Nội dung.
Chương 1: Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu.
Chương 2: Thực trạng vấn đề nghiên cứu.
Chương 3: Một số biện pháp dạy trẻ 3-4 tuổi có kỹ năng định hướng không gian.
Phần 3: Kết luận và kiến nghị
1. Kết luận.
2. Kiến nghị.

PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
Trong chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non, môn làm quen với toán đóng
vai trò vô cùng quan trọng trong việc cung cấp những kiến thức ban đầu cho trẻ. Cho trẻ
làm quen với những biểu tượng toán ngay từ tuổi mầm non là một việc làm hoàn toàn
đúng đắn và cần thiết vì đó chính là cơ hội tốt để giúp trẻ hình thành phẩm chất năng
lực hoạt động cho mình như: Tìm tòi, quan sát, so sánh…Thông qua hoạt động làm
quen với toán giúp trẻ hình thành những biểu tượng ban đầu về toán như: Số lượng,
kích thước, hình dạng, định hướng không gian, để sau này trẻ sẽ vững vàng, tự tin hơn
khi tiếp nhận những kiến thức của môn toán ở gian đoạn tiếp theo.
Trong quá trình dạy trẻ làm quen với toán để giúp trẻ nhận thức sâu sắc, rõ các biểu
tượng trên việc đầu tiên không thể thiếu được đó là truyền thụ kiến thức của giáo viên
đến trẻ. Giáo viên cần phải nghiên cứu, tìm tòi để truyền tải những nội dung cần mang
đến cho trẻ sao cho trẻ cảm thấy đơn giản, gần gũi mà lại dễ hiểu như vậy giờ học mới
có hiệu quả. Đặc biệt “ Dạy trẻ định hướng không gian ” nhất là với trẻ mẫu giáo bé là
5
một vấn đề tôi luôn quan tâm, suy nghĩ nhiều để tìm ra được những biện pháp tốt nhất
để dạy trẻ.

Cùng với sự đổi mới ở các khối lớp, tôi nhận thấy rằng muốn có các cháu phát triển
và học tốt ở các lớp tiếp theo thì trước tiên các cháu phải được phát triển một cách toàn
diện ở lớp nhóm vì lớp nhóm là lớp đầu tiên các cháu được đến trường. Từ nhận thức
đó mà trong suốt ba năm dạy lớp nhóm tôi luôn nhận thức rằng chương trình dạy theo
hướng đổi mới là rất thiết thực và phù hợp với lứa tuổi trẻ thơ. Vì vậy mà tôi nhận thức
rằng muốn cho cháu phát triển toàn diện thì trước hết cô giáo cần nâng cao chất lượng
chăm sóc giáo dục trẻ ở các độ tuổi đặc biệt là ở lớp nhóm.
Qua dự các lớp bồi dưỡng và thực hiện chương trình đổi mới, dự chuyên đề, thao
giảng,…đặc biệt là sự chỉ đạo xát sao của phòng, của trường và sự giúp đỡ của các chị
em đồng nghiệp mà trong suốt những năm học qua tôi đã cố gắng và tiến bộ lên rất
nhiều trong giảng dạy cũng như thực hiện chương trình chăm sóc-giáo dục trẻ ở lớp
nhóm. Cụ thể là trong những năm học qua các cháu lớp tôi luôn phát triển một cách
toàn diện về tất cả mọi mặt. Đó cũng chính là động lực thúc đẩy tôi cố gắng và cố gắng
vượt bật để ngày càng nâng cao chất lượng giảng dạy, chăm sóc giáo dục trẻ.
…………………………………………

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.Thuận lợi:
-Được sự chỉ đạo sát sao về chuyên môn của phòng giáo dục và sự quan tâm tạo điều
kiện về cơ sở vật chất của Ban Giám Hiệu nhà trường.
- Trẻ ở cùng một độ tuổi nên mức độ nhận thức tương đối đồng đều chính vì vậy việc
dạy trẻ cũng gặp nhiều thuận lợi.
6
-Bản thân được đào tạo và đã trải qua nhiều năm kinh nghiệm thực tế, đã được kiến tập
một số tiết mẫu của trường, của huyện nên cũng đã học tập được một số kinh nghiệm
trong phương pháp giảng dạy bộ môn làm quen với toán.
2.Khó khăn:
-Làm quen với toán là một môn học khó, đòi hỏi sự chính xác, khoa học nên không
phải giáo viên nào cũng nắm vững.
-Trong lớp có tới 50% học sinh chưa học qua nhà trẻ nên việc tiếp thu còn hạn chế,

thiếu hệ thống.
- Một số phụ huynh còn coi nhẹ việc học tập của con, thường cho con nghỉ học tuỳ tiện
nên ít nhiều cũng làm ảnh hưởng tới kết quả học tập của lớp. Kết quả khảo sát đầu năm
của lớp còn thấp.
Trẻ học khá: 10%
Trẻ học trung bình: 63%
Trẻ học yếu: 27%
- Với kết quả khảo sát trẻ về định hướng không gian tôi cảm thấy rất băn khoăn lo
lắng không biết làm thế nào để trẻ học tốt về định hướng không gian.
…………………………………………
CHƯƠNG III :
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP
NHẰM DẠY TRẺ 3-4 TUỔI CÓ KỸ NĂNG ĐỊNH HƯỚNG KHÔNG GIAN.
Từ những thuận lợi và khó khăn trên, tôi đã đề ra một số biện pháp cụ thể như sau:
Bước đầu tôi tìm hiểu nguyên nhân vì sao trong lớp tôi có nhiều trẻ học yếu môn
làm quen với toán và đặc biệt là định hướng về không gian. Tận dụng giờ đón trẻ tôi
trò chuyện với phụ huynh xem khi về nhà các con thích chơi gì? Trẻ thường chơi
như thế nào? Trong giờ học tôi quan tâm xem trẻ học yếu chỗ nào về định hướng
không gian.
7
Sau khi tìm hiểu kỹ vấn đề tôi nhận thấy một số nguyên nhân cơ bản sau:
- Trẻ chưa biết cách quan sát
- Trẻ chưa biết cách định hướng khi quan sát
- Tư duy phát triển chưa đồng đều
- Một số trẻ quá hiếu động bên cạnh đó lại còn nhiều trẻ nhút nhát
- Có tới 82% số phụ huynh chưa quan tâm đến bộ môn này.
Đặc biệt việc dạy trẻ định hướng không gian cần phải chính xác, rõ ràng cho nên
giáo viên càng nắm vững trình độ làm quen với toán của trẻ sẽ giúp cho việc dạy trẻ
học toán đạt kết quả cao.
Trong giờ học, tôi cho trẻ ngồi xen kẽ giữa trẻ học khá với trẻ học yếu để những

trẻ học khá có thể giúp những bạn học yếu nắm bắt kiến thức tốt hơn và chính xác
hơn.
Ví dụ: Khi tôi dạy trẻ xác định phía trước – phía sau, phía trên – phía dưới của
bản thân.
Trước tiên tôi tạo tình huống gợi mở dẫn dắt để trẻ có thể xem xét, quan sát và
phát hiện những biểu tượng mới. Cụ thể để trẻ xác định được phía trên – phía dưới,
tôi treo một đồ vật ở trên cao và để có thể nhìn thấy trẻ phải ngẩng đầu lên. Cô hỏi
trẻ: Đồ vật đó ở phía nào của con? Tại sao con biết nó ở phía trên? Trẻ phải nói được
rằng vì con phải ngẩng đầu nên con mới nhìn thấy nó.
Tương tự như vậy muốn dạy trẻ xác định phía dưới tôi dấu đồ vật ở dưới gầm ghế
và hỏi trẻ muốn nhìn thấy vật dấu đó con phải làm như thế nào? Trẻ phải dựa vào
vốn kinh nghiệm của mình và suy nghĩ để trả lời câu hỏi đó của cô là cần phải cúi
xuống mới nhìn thấy vật đó vì nó để ở phía dưới.
Ví dụ:
Dạy trẻ xác định phía trước thì tôi phải tạo tình huống và tổ chức cho trẻ học qua
các trò chơi, và sử dụng các đồ chơi để trẻ hứng thú học. Qua đó giúp trẻ hiểu được
rằng với những đồ vật nhìn thấy được là ở phía trước còn những gì không nhìn thấy
8
được là ở phía sau. Không những dạy trẻ định hướng phía trên – phía dưới, phía phải
– phía trái trong không gian mà tôi còn dạy trẻ xác định tay phải, tay trái của bản
thân rất khó.
Ví dụ:
Tôi dạy lần 1
Dạy trẻ xác định tay phải – tay trái bằng đồ dùng như : Hoa, cờ…
Tay phải cầm hoa đỏ, tay trái cầm hoa xanh thì tôi thấy trẻ vẫn còn bị nhầm nhiều.
Qua giờ dạy đó, tôi suy nghĩ rất nhiều mình cần phải làm thế nào để trẻ xác định
tay phải – tay trái nhanh hơn và chính xác hơn.
Tôi dạy lần 2 kết hợp với trò chơi
Cho trẻ chơi trò chơi làm động tác mô phỏng các hành động như : đánh răng, vẽ
bài, ăn cơm…

Khi cho trẻ chơi làm động tác mô phỏng hành động đang vẽ bài.
Cô hỏi khi con vẽ bài con cầm bút bằng tay nào? Cô yêu cầu trẻ nói và giơ tay đó
lên cho cô kiểm tra.Trẻ giơ tay phải của mình lên cho cô xem ( Cô bao quát nếu có
cháu nào sai cô đến tận nơi để sửa cho trẻ)
Cô hỏi thế con dùng tay nào giữ vở?
Tay trái giữ vở còn tay phải cầm bút thì các con mới vẽ đẹp được. Ngoài việc giữ
vở tay trái của các con còn có thể dùng để làm gì nữa nào?( Cầm ca, cầm bát )
Còn tay phải ngoài để cầm bút trong giờ vẽ, tay phải còn ding làm việc gì?( Cầm
bát, cầm bàn chải )
Qua cách dạy này tôi thấy trẻ có nhận định chính xác hơn lần trước rất nhiều, số
trẻ còn nhầm lẫn giữa tay phải và tay trái không đáng kể.
Không chỉ dạy trên tiết học chính mà tôi còn dạy trẻ ở mọi lúc, mọi nơi trong các
giờ hoạt động khác như: Thể dục, âm nhạc…
Ví dụ: Trong giờ thể dục cô cho trẻ chuyền bóng theo phía phải và phía trái của
bản thân, trẻ không chỉ được vận động thể lực mà còn được ôn lại những kiến thức
9
đã được học . Trong khi chơi chuyền bóng trẻ phải nhớ lại đâu là phía phải, phía trái
của bản thân để nhận và chuyền cho đúng.
Ví dụ: Khi cho trẻ làm bài trong vở trò chơi học tập, bài yêu cầu bé hãy tô màu
xanh cho quần áo của bạn đứng trước ngôi nhà và tô màu đỏ cho ở phía sau ngôi
nhà. Với yêu cầu của bài trẻ không chỉ chọn màu tô đúng mà trẻ còn phải xác định
phía trước phía sau là bạn nào.
Ví dụ: Khi cho trẻ hoạt động ngoài trời cô cho trẻ chơi trò chơi “Bắt bướm” Các
cháu rất thích chơi trò chơi này vì nó phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ là ưa
hoạt động . Hơn thế nữa tôi muốn dùng trò chơi này để ôn lại cho trẻ kiến thức về
định hướng không gian, cụ thể là trẻ cần phải nhìn xem bướm đang bay ở đâu?
Bướm bay ở phía trên thì trẻ muốn bắt được nó thì trẻ phải ngẩng đầu lênvà nhảy lên
để bắt con bướm đó.Vậy là lại thêm một lần nữa những kiến thức toán đã học và ôn
luyện củng cố lại, như vậy trẻ sẽ nhớ kiến đó lâu hơn.
Với những kinh nghiệm dạy trẻ định hướng trong không gian tôi còn tạo tình

huống để trẻ phản ứng nhanh khi trẻ làm quen với biểu tượng này.
Ví dụ : Khi tổ chức cho trẻ ra hoạt động ngoài trời, bỗng có một đàn chim bay
ngang qua. Tôi hỏi trẻ đàn chim bay ở phía nào của các con?
Ngoài việc cho trẻ làm quen với biểu tượng toán về định hướng không gian ở lớp
học qua các giờ học, qua các trò chơi còn phải kể tới sự đóng góp không nhỏ của các
bậc phụ huynh về chuyên đề này.
Tôi trao đổi với phụ huynh thường xuyên vì số phụ huynh quan tâm tới bộ môn này
còn ít, họ nhận thức về chương trình giảng dạy trong trường mầm non còn hạn chế,
để các con tiếp thu bài một cách đầy đủ và có tính liên tục và thường xuyên thì sự
phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường là vô cùng cần thiết.
Hàng ngày tôi thường tranh thủ thời gian lúc đón và trả trẻ trao đổi, phản ánh tình
hình học tập cũng như mọi hoạt động khác của trẻ trên lớp cho phụ huynh nắm bắt
kịp thời để cùng cô giáo ở lớp dạy trẻ sao cho thật tốt.
10
Qua các biện pháp trên tôi nhận thấy trẻ đã có một số kinh nghiệm định hướng
trong không gian kết quả cụ thể như sau:
Trẻ tốt : 23 %
Trẻ khá: 44%
Trẻ trung bình: 33%
Nhận xét:
Với một số kinh nghiệm trên tôi thấy trong các giờ học toán trẻ đều rất hứng thú.
Trước đây, mỗi lần đưa con tới lớp thấy con khóc đòi về cũng rất nhiều phụ huynh
băn khoăn lo lắng. Phụ huynh thường cho con nghỉ học rất tuỳ tiện thì nay họ đã có
sự thay đổi rõ rệt. Thấy con thích tới lớp, thích được học và chơi các trò chơi cùng
cô và các bạn thì họ rất mừng và cho con đi học đầy đủ.Và điều mà làm họ quan tâm
hơn cả đó là những kiến thức mà các con có được trong thời gian ở lớp với cô. Thấy
các cháu ngoan, ngôn ngữ, tư duy, trí nhớ phát triển, tự tin hơn khi giao tiếp với mọi
người tôi cũng như các bậc phụ huynh đều rất vui.

PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.

1. Kết luận:
Qua việc nghiên cứu đề tài trên, tôi đã rút ra được một số bài học kinh nghiệm sau:
- Khảo sát trẻ để nắm chắc tình hình
- Giáo viên luôn nghiên cứu kỹ phương pháp bộ môn.
- Cần học hỏi và nâng cao nghệ thuật lên lớp, phong cách xử lý tình huống sư phạm.
Dạy trẻ ở mọi lúc, mọi nơi trong các hoạt động để có kế hoạch bồi dưỡng cho
những trẻ yếu, tiếp thu bài chậm, động viên khen ngợi kịp thời với trẻ học khá để
trẻ cố gắng phát huy những khả năng của mình.
- Xây dựng môi trường học tập.
- Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường trong công tác chăm sóc giáo dục
trẻ.
11
- Nờn chn la nhng trũ chi phự hp vi tr lng ghộp kin thc cn cung cp
cho tr .
- Tụi cú c kt qu trờn l nh s quan tõm giỳp ca ban giỏm hiu nh trng
ó to iu kin v c s vt cht v cho tụi c i kin tp trng mỡnh, cng
nh trng bn.
Trờn õy l mt s kinh nghim ca tụi ó c thc hin t c kt qu tt
trong lp, trong trng, rt mong nhn c s gúp ý ca ch em ng nghip v
ban lónh o nh trng.
2.Kiờ n nghị :
Nh chỳng ta ó bit mun thc hin tt vic i mi giỏo dc mm non, nõng
cao cht lng chm súc tui núi chung v i vi nhúm tr núi riờng. Thỡ ũi hi
ngnh giỏo giỏo dc phi u t thờm trang thit b, dựng y b phn chuyờn
mụn, phũng giỏo dc cn cho giỏo viờn mm non nht l giỏo viờn nhúm tr bi dng
thờm v chng trỡnh chm súc, giỏo dc tr lp nhúm, ng thi m thờm nhiu
chuyờn , thao ging cho giỏo viờn c tham d ngy cng nõng cao cht lng
ging dy cỏc trng mm non trong ton huyn.
Tôi mong muốn nhà trờng tạo điều kiện về thời gian và kinh phí ờ giáo viên đợc học
hỏi thêm các lớp làm đồ dùng , đồ chơi trang trí lớp cho đẹp và phong phú.Nhà trờng tạo

điều kiện hơn nữa cho các giáo viên i tham quan quan học hỏi , trao đổi kinh nghiệm
với các giáo viên khác ở các trờng khác trong huyện, Mua sm thờm cac tranh minh
hoa, ụ dung day hoc . Từ đó chúng tôi học hỏi đợc kinh nghiệm của các đồng nghiệp
về các phơng pháp chăm sóc giáo dục trẻ để phục vụ cho việc giảng dạy đợc tốt hơn.
HễI ễNG THM INH NGI VIấT ấ TAI
CHU TICH ( Ki va ghi ro ho tờn)
( Ki va ghi ro ho tờn)

12

Ph¹m ThÞ Thu Trang
13

×