Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Tiểu luận tài chính quốc tế TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH – TÍNH CHUYỂN ĐỔI ĐỒNG TIỀN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.66 KB, 46 trang )

TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH – TÍNH CHUYỂN ĐỔI ĐỒNG TIỀN
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập và đổi mình ở mọi lĩnh vực từ cơ sở hạ
tầng, công nghệ thông tin đến các nền giáo dục, nền kinh tế và một lĩnh vực không kém
phần quan trọng đó là thị trường tài chính. Xu hướng tự do hóa tài chính đang dần là xu
hướng chủ đạo trong việc cải tiến và phát triển kinh tế. Quá trình cải cách tài chính theo
hướng tự do hóa tại Việt Nam như thế nào sẽ được trình bày chi tiết trong đề tài sau
đây.
Ngoài ra bên cạnh quá trình cải cách tài chính, Việt Nam đang chú trọng nâng cao tính
chuyển đổi đồng tiền Việt Nam, một trong những giải pháp đưa Việt Nam khẳng định
vị thế của mình trên thị trường tài chính quốc tế.
1/46
TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH – TÍNH CHUYỂN ĐỔI ĐỒNG TIỀN
PHẦN I
CẢI CÁCH TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM THEO HƯỚNG TỰ DO HÓA
CHƯƠNG 1: CẢI CÁCH TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM THEO HƯỚNG TỰ DO
HÓA
Thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng cộng sản Việt nam khởi xướng từ năm
1986, nền kinh tế Việt nam từng bước chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Theo đó, hệ thống tài
chính không ngừng được cải cách để nâng cao hiệu quả phân bổ và sử dụng các nguồn
lực. Tác dụng và kết quả trực tiếp của tiến trình này là việc tiền tệ hóa sâu sắc các
nguồn lực kinh tế và các quan hệ kinh tế. Điều này cũng có nghĩa là cải cách kinh tế đã
và sẽ tiếp tục gắn chặt với tự do hóa tài chính trong mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau.
I. Thế nào là cải cách tài chính theo hướng tự do hóa
Cải cách tài chính theo hướng tự do hóa là việc nới lỏng, giảm bớt hay hạn chế sự kiểm
soát của Nhà nước đối với hoạt động của hệ thống tài chính quốc gia, làm cho hệ thống
này hoạt động tự do hơn và hiệu quả hơn theo quy luật thị trường.
Nội dung cơ bản của tự do hóa tài chính là bao gồm: Tự do hóa lãi suất, tự do hóa
hoạt động cho vay của các Ngân hàng thương mại( NHTM), Tự do hóa hoạt động ngoại
hối, tư do hóa hoạt động của các tổ chức tài chính trên thị trường tài chính.


Tự do hóa tài chính bao gồm: tự do hóa tài chính trong nước và tự do hóa tài
chính với nước ngoài.
+Tự do hóa tài chính trong nước : là cho phép các tổ chức tài chính trong nước
tự do thực hiện các dịch vụ tài chính theo nguyên tắc thị trường, các thị trường tài chính
trong nước được khuyến khích phát triển, các công cụ chính sách tiền tệ được điều hành
theo tín hiệu thị trường, xoá bỏ kiểm soát lãi suất và phân bổ tín dụng
+Tự do hóa tài chính với nước ngoài: bao gồm tự do hóa giao dịch vãng lai và
tự do hóa giao dịch vốn.Tự do hóa giao dịch vãng lai: các giao dịch vãng lai bao gồm
các khoản thanh toán và chuyển tiền liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ;
các khoản chuyển tiền một chiều cho mục đích tiêu dùng…Tự do hóa giao dịch vốn:
là những giao dịch liên quan đến chuyển vốn đầu tư của các tổ chức kinh tế trong và
ngoài nước.
2/46
TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH – TÍNH CHUYỂN ĐỔI ĐỒNG TIỀN
Có thể nói, bản chất của tự do hóa tài chính là hoạt động tài chính theo cơ chế nội
tại vốn có của thị trường và chuyển vai trò điều tiết tài chính từ chính phủ sang thị
trường, mục tiêu là tìm ra sự phối hợp có hiệu quả giữa Nhà nước và thị trường trong
việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế - xã hôi. Do đó, kết quả của tự do hóa tài
chính thường thể hiện bằng tỷ số giữa tiền mở rộng ( tiền mặt và tiền gửi trong hệ thống
NHTM) trên thu nhập quốc dân.
II. Tại sao phải tự do hóa tài chính ?
 Tiếp cận nguồn vốn toàn cầu giúp gia tăng mức độ đầu tư và đầu ra do:
+ Các công ty trong nước có thể vay mượn vốn nước ngoài.
+ Các nhà đầu tư tòan cầu đầu tư vốn vào thị trường trong nước.
+ Giảm chi phí giao dịch tài chính, thúc đẩy sự lưu chuyển vốn.
Các nguồn vốn bên ngoài sẽ nhanh chóng vận hành vào thị trường trong nước để
thỏa mãn các nhu cầu mở rộng, phát triển kinh tế. Do đó tốc độ phát triển kinh tế cũng
sẽ nhanh chóng tăng lên.
Gia tăng cạnh tranh, chất lượng dịch vụ tài chính, chuyển giao công nghệ, thiết lập
chính sách vĩ mô có hiệu quả, khai thác nguồn lực trong nước và thế giới.

 Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Có được là do sự tăng lên trong mức độ đầu tư và kèm theo đó là tỷ suất sinh lợi
của các khoản đầu tư được cải thiện do tiếp cận được kinh nghiệm quản lý hiện đại, lĩnh
hội được các thành quả công nghệ mới, tiếp cận được thị trường rộng lớn, các thông tin
được phản hồi một cách đầy đủ và kịp thời vào giá cả hàng hóa của các nhà sản xuất…
 Cải thiện sự phân bổ nguồn lực có hiệu quả
Trong một môi trường tự do hóa, khuôn khổ quy định tạo điều kiện cho thị trường
phát triển hiệu quả thông qua cạnh tranh. Mọi doanh nghiệp trong thị trường phải biết
tận dụng những ưu thế, những nguồn lực vốn có của mình thì mới có thể tồn tại được.
Sự cạnh tranh cũng buộc mọi doanh nghiệp trong thị trường nâng cao hệ thống
quản lý của mình để đảm bảo có hiệu quả. Những yếu tố cơ bản của hệ thống quản lý
mới là kỷ luật, giám sát và nguyên tắc giao dịch của vốn dựa trên cơ sở rủi ro.
 Để hội nhập với thị trường tài chính thế giới
Để hội nhập với kinh tế thế giới, xu hướng tất yếu của thời đại thì chúng ta
phải hội nhập về tài chính. Tiến trình tự do hóa tài chính sẽ đưa nền kinh tế của
quốc gia mình đi vào quỹ đạo chung của kinh tế thế giới.
3/46
TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH – TÍNH CHUYỂN ĐỔI ĐỒNG TIỀN
 Cho phép cá nhân tự bảo vệ mình
Các nhà đầu tư có thể sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro thông qua các
sản phẩm phái sinh không cân đối trong nền kinh tế. Các nhà đầu tư có thể tự đa
dạng hóa đầu tư, khai thác các thị trường mới…
 Kích thích sự phát triển của thị trường vốn
Làm gia tăng chiều sâu và tính thanh khoản trên thị trường vốn. Việc tiếp cận
nguồn vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp sẽ thúc đẩy mạnh mẽ thị trường chứng khóan
-qua đó giá trị cổ phiếu được niêm yết trên TTCK ngày càng phát triển, giảm được
chi phí sử dụng vốn, giảm các doanh nghiệp trong nước tiếp cận được các nguồn
vốn quốc tế có chi phí sử dụng vốn thấp hơn.
Theo WB thì nếu dòng vốn vào đạt 3%-4% GDP thì tốc độ tăng trưởng của tỷ
suất sinh lợi là 0.5% - 1 đô la, FDI bổ sung chứ không làm đi đầu tư nội địa…

 Thúc đẩy cải cách kinh tế vĩ mô tốt hơn
Sự tác động hai chiều sẽ làm các chính sách kinh tế vĩ mô ổn định hơn trong
ngắn hạn cũng như trong dài hạn.
III. Thách thức của tự do hóa tài chính
Cải cách tài chính ở Việt nam theo hướng tự do hóa sẽ gặp phải những rủi ro
trong quá trình hội nhập, có hai thách thức lớn thường gặp:
• Dòng vốn chảy vào ào ạt ( tương tự căn bệnh Hà Lan): Dòng vốn chảy
vào ào ạt có mối quan hệ chặt chẽ với quy mô của nền kinh tế. Dòng vốn chảy ào
ạt làm tăng nguy cơ dễ bị tổn thương của nền kinh tế do tình trạng đầu cơ vào thị
trường bất động sản…
• Sự ngưng đọng đột ngột - sự đảo chiều của dòng vốn quá nhanh sẽ làm
cho nền kinh tế đi vào khủng hoảng, dẫn đến bất ổn trong điều hành các chính
sách tiếp theo của Chính phủ như: lạm phát, thất nghiệp, tiền lương, thâm hụt
ngân sách, thâm hụt cán cân thanh toán, rối loạn tỷ giá hối đoái, rối loạn chính
sách thuế, lãi suất…
IV. Điều kiện để tự do hóa tài chính
Cải cách tài chính ở Việt Nam, hội nhập tài chính bằng cách mở cửa dần từng
bước các giao dịch thương mại trên lĩnh vực tài chính là một xu hướng tất yếu. Việt
Nam muốn hội nhập tài chính thì chính sách tài chính và tiền tệ phải linh hoạt- ổn
định đáng tin cậy. Những điều kiện cho việc tự do hóa tài chính thành công là:
- Quản lý kinh tế vĩ mô vững chắc và tiết kiệm quốc gia cao.
4/46
TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH – TÍNH CHUYỂN ĐỔI ĐỒNG TIỀN
- Thực hiện đúng lộ trình tự do hóa kinh tế.
- Hệ thống tài chính hoạt động hiệu quả.
- Hệ thống giám sát Ngân hàng hợp lý và việc thi hành có hiệu quả.
- Không có khoản cho vay mang tính chất chính trị và lạm dụng hệ thống tài
chính.
- Một chính phủ triệt để chống tham nhũng và lãng phí.
- Tính minh bạch trong công bố thông tin.

Chương 2: THỰC TRẠNG VIỆC CẢI CÁCH TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM THEO
HƯỚNG TỰ DO HÓA
Như đã trình bày ở phần 1.1 hạt nhân của tự do hóa tài chính là tự do hóa về
mặt lãi suất, do vậy trong bài tiểu luận này, nhóm chúng tôi chủ yếu tập trung vào tự
do hóa về mặt lãi suất và một số khía cạnh như nổi bậc như: tự do hóa về tỷ giá, tự
do hóa về hoạt động NHTM, tự do hóa giao dịch vốn.
I. Lãi suất
Quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam chính là quá trình điều hành cơ chế lãi
suất qua các thời kỳ phát triển của nền kinh tế, quá trình đó được thể hiện như sau:
I.1/ Lãi suất ở thời kỳ thực thi cơ chế quản lý nền kinh theo phương thức quản lý kế
hoạch hóa tập trung (trước năm 1988):
Thời kỳ này áp dụng chính sách lãi suất bao cấp khá nặng nề, lãi suất đựơc xây
dựng thoát ly lãi suất của nền kinh tế thế giới, dẫn đến tình trạng “lãi giả và lỗ thật” làm
cho ngân hàng không thể bảo toàn vốn của mình do lạm phát tăng cao và lãi suất thực là
số âm, vì tỷ lệ lạm phát đã lớn hơn lãi suất danh nghĩa.
I.2/ Lãi suất thời kỳ nền kinh tế bắt đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường phát
triển theo định hướng Xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước ( từ 1998 đến
nay):
Bước ngoặt cho tiến trình đổi mới đó là sự ra đời của Nghị định 53/HĐBT ngày
26/03/1988 của Hội đồng bộ trưởng (nay là Thủ tướng chính phủ), theo đó Ngân hàng
Việt Nam được tổ chức theo mô hình Ngân hàng 2 cấp: Ngân hàng Nhà nước VN thực
hiện các chức năng ngân hàng, quản lý hoạt động kinh doanh của các NHTM, các tổ
chức tín dụng; còn NHTM, các tổ chức tín dụng thực hiện chức năng kinh doanh trực
tiếp về lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, ngân hàng.
5/46
TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH – TÍNH CHUYỂN ĐỔI ĐỒNG TIỀN
Đến 1/10/1998 Luật Ngân hàng nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng ra đời, có
hiệu lực cho đến nay đã tạo ra hành lang pháp lý quan trọng trong hoạt động kinh doanh
của hệ thống Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường trong quá trình tự do hóa. Quá
trình tự do hóa lãi suất trong thời kỳ này được thể hiện tổng quát như sau:

* Cơ chế thực thi chính sách lãi suất cố định (1989-5.1992): Cơ chế lãi suất này được
điều chỉnh theo biến động của chỉ số giá, đặc biệt là lãi suất ngoại tệ được áp dụng theo
mức lãi suất của thị trường tiền tệ quốc tế. Thực tế vận hành trong một thời gian (1989-
1992), cơ chế lãi suất thời kỳ này đã bắt đầu phát huy tác dụng, là bước chuyển của cơ
chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương.
* Cơ chế điều hành khung lãi suất (6.1992-1995): Ngân hàng Nhà nước điều hành cơ
chế lãi suất theo khung lãi suất, quy định rõ sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay
đối với nền kinh tế. Các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng căn cứ khung lãi
suất của ngân hàng thương mại để đưa ra các lãi suất thích hợp cho mình, thực chất là
bước chuyển đổi căn bản từ cơ chế lãi suất âm sang cơ chế lãi suất dương, đảm bảo cho
các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng kinh doanh có hiệu quả, đây là cơ chế
lãi suất khởi đầu cho quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam.
* Cơ chế điều hành lãi suất trần (1996-7.2000):
Thay vì qui định khung lãi suất tối thiểu về tiền gửi - lãi suất tối đa về tiền vay,
NHNN chỉ qui định các mức lãi suất “trần” theo thời hạn cho vay và khống chế chênh
lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình quân là 0,35%/tháng
(4,2%/năm) để khắc phục tình trạng hầu hết các ngân hàng thương mại đều có mức lợi
nhuận cao trong khi các doanh nghiệp lại gặp khó khăn về tài chính như ở giai đoạn
trước.
Cuối tháng 1/1998, NHNN xoá bỏ qui định chênh lệch lãi suất, chỉ còn qui định
trần lãi suất cho vay. Cùng với nới lỏng sự kiểm soát lãi suất, NHNN liên tục điều
chỉnh trần lãi suất cho vay theo hướng giảm cơ cấu trần và mức khống chế, đặc biệt
trong năm các năm 1998, 1999.
Mức lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh giảm xuống trong thời gian này (từ
1,1% năm 1997 xuống 0,7%/tháng từ 04/09/1999) để phù hợp với chỉ số lạm phát, quan
hệ cung- cầu vốn trên thị trường và thực hiện giải pháp kích cầu về đầu tư của Chính
phủ. Để bổ sung thêm công cụ điều hành lãi suất, tháng 11/1999 NHNN đưa vào sử
6/46
TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH – TÍNH CHUYỂN ĐỔI ĐỒNG TIỀN
dụng nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá cho các NHTM, lãi suất tái

chiết khấu được qui định ở mức thấp hơn 0,05%/tháng so lãi suất tái cấp vốn
* Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ (8.2000-5.2002):
Ngân hàng Nhà nước đã điều hành cơ chế lãi suất theo Luật ngân hàng để thay thế
cho cơ chế lãi suất trần. Lãi suất cơ bản và biên độ được công bố định kỳ hàng tháng,
trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước sẽ công bố điều chỉnh kịp thời.
Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, về cơ bản các ngân hàng thương mại, các
tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và
cung cầu vốn trong nước của từng loại ngoại tệ. Theo cơ chế lãi suất này cho thấy Ngân
hàng Nhà nước VN đã quyết tâm đổi mới chính sách lãi suất theo hướng tự do hóa và
từng bước gắn lãi suất trong nước vào thị trường khu vực và thế giới.
Vào tháng 8 năm 2000, NHNN đưa ra một cơ chế lãi suất mới trong đó lãi suất
cho vay nội tệ của ngân hàng được điều chỉnh theo lãi suất cơ bản. Lãi suất cơ bản được
đặt ở mức mà khi cộng với biên độ 0,3%/tháng đã cao hơn hẳn lãi suất cho vay thực tế.
Tuy nhiên, các ngân hàng không được tính lãi suất cho vay vượt quá lãi suất cơ bản +
0,3%/tháng đối với vốn ngắn hạn và + 0,5%/tháng đối với vốn trung, dài hạn. Như vậy,
từ khi có cơ chế lãi suất cơ bản, các ngân hàng đã bắt đầu ấn định lãi suất trên cơ sở
thỏa thuận với khách hàng.
* Cơ chế lãi suất thỏa thuận (6.2002 – đến nay):
Trong thực tế, cơ chế lãi suất này được Ngân hàng Nhà nước chuyển đổi từng
bước bắt đầu từ tháng 5/2001 áp dụng cho hình thức vay bằng ngoại tệ, tiếp theo ban
hành quyết định 546/2005/QĐ-NHNN vào tháng 5/2002 là áp dụng cơ chế lãi suất
thỏa thuận trong hoạt động tín dụng trong nước bằng VNĐ. Đây là một bước ngoặt lớn
đánh dấu sự mở đầu trong việc thực hiện cơ chế tự do hóa lãi suất trong nền kinh tế đối
với hoạt động tín dụng và lãi suất cơ bản công bố của Ngân hàng Nhà nước dần dần sẽ
mang tính chất tham khảo đối với các tổ chức tín dụng trong việc xác định lãi suất từng
thời kỳ.
 Kết quả đạt được:
Quá trình điều hành cơ chế lãi suất theo hướng tự do hóa nói trên ở nước ta đã
thu được một số kết quả khả quan như:
7/46

TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH – TÍNH CHUYỂN ĐỔI ĐỒNG TIỀN
Lãi suất trong nền kinh tế đã trở thành công cụ quan trọng của Nhà nước nhằm
thực thi chính sách tiền tệ, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, kiềm chế được lạm phát
Lãi suất góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế nói chung, kích thích sự tiết
kiệm và khuyến khích đầu tư.
Việc xóa dần chính sách ưu đãi về lãi suất đã dần dần tạo điều kiện cho các ngân
hàng thương mại thực hiện tốt công tác hạch toán kinh tế và kinh doanh của mình được
chủ động và thuận lợi.
Quyết định thả nổi lãi suất vay ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước ảnh hưởng sâu
sắc đến thị trường, sự phân hóa khách hàng sẽ diễn ra rõ hơn: Khách hàng có uy tín sẽ
được hưởng lãi suất thấp, còn khách hàng kém uy tín phải chịu lãi suất cao với mức độ
khác nhau rất rõ rệt. Thêm vào đó, nó khắc phục sự bất hợp lý . Trước khi có quyết định
thả nổi lãi suất cho vay ngoại tệ, lãi suất cho vay USD tại Việt Nam được quy định là
lãi suất cho vay ngoại tệ ngắn hạn tối đa là Sibor 3 tháng + 1%/năm, trung dài hạn tối
đa là Sibor 6 tháng + 2,5%/năm. Vì lý do này mà trong khi lãi suất cho vay thương mại
Mỹ vẫn ở mức 7%/năm, ở các nước trong khu vực là 7,5%/năm thì lãi suất cho vay
ngắn hạn tối đa ở Việt Nam chỉ là 5% năm, mức lãi suất thấp nhất thế giới. Lãi suất
thấp lẽ ra phải có ở một nền kinh tế phát triển, có độ rủi ro thấp còn Việt Nam thì độ rủi
ro lại cao.
Chính sách lãi suất qua các lần biến đổi đã tiến dần đến tự do hóa lãi suất, chuẩn bị
cho sự hội nhập về lãi suất với nền kinh tế thế giới.
Như vậy quá trình đổi mới cơ chế lãi suất từ kiểm soát trực tiếp, cố định lãi suất
sang cơ chế lãi suất thỏa thuận thực chất là dần dần đã tự do hóa lãi suất, đây là những
bước đi thận trọng, đã có những thành công cơ bản của quá trình tự do hóa lãi suất ở
Việt Nam.
 Tồn tại:
Bên cạnh những thuận lợi tích cực thì việc thực hiện tự do hóa lãi suất trong thời
gian qua cũng nảy sinh một số vấn đề bất cập trong quản lý lãi suất và khó khăn cho hệ
thống ngân hàng VN như :
o Việc NHNN công bố lãi suất cơ bản nhằm định hướng lãi suất thị trường

trong thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế
8/46
TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH – TÍNH CHUYỂN ĐỔI ĐỒNG TIỀN
Chúng ta đang quy định lãi suất thỏa thuận, song NHNN vẫn công bố lãi suất cơ
bản hàng tháng dựa trên lãi suất cho vay của 15 khách hàng kinh doanh hiệu quả nhất
trong từng thời kỳ, lãi suất đó chưa dựa vào quan hệ cung - cầu về vốn trên thị trường
Chính sách thắt chặt tiền tệ đột ngột tạo ra cuộc chạy đua lãi suất giữa các ngân
hàng, đẩy mặt bằng lãi suất huy động và cho vay lên đến đỉnh điểm.
Trong điều kiện đó, cùng với điều 476 Bộ luật Dân sự 2005( lãi suất cho vay
không được vướt quá 150% lãi suất cơ bản), lãi suất cơ bản nay trở thành một vật cản
cho các chính sách tiền tệ và hoạt động của các tổ chức tín dụng.
o Các vấn đề khó khăn NHTM cổ phần có tiềm lực về tài chính còn hạn chế
phải đối mặt khi tiến hành tự do hóa lãi suất:
Khi lãi suất ngân hàng được tự do hóa, các ngân hàng hoàn toàn có thể chủ động
xác định lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của ngân hàng mình. Và điều này dễ dẫn
đến hai xu hướng không có lợi:
Một là, ngân hàng thương mại đua nhau tăng lãi suất tiền gửi để huy động vốn, ắt
dẫn đến hệ quả tăng lãi suất cho vay và sẽ gây khó khăn cho nhiều dự án kinh doanh,
làm giảm tăng trưởng kinh tế.
Hai là, các ngân hàng đua nhau hạ lãi suất cho vay để thu hút khách hàng đồng
thời phải hạ lãi suất huy động. Khi lãi suất huy động quá thấp, nguồn tiền nhàn rỗi
trong dân cư sẽ không có động lực chảy vào ngân hàng mà chỉ “loanh quanh” với đầu
cơ vàng, ngoại tệ.
Mặt khác, khi lãi suất ngân hàng không còn chịu sự kiểm soát, cạnh tranh giữa
các ngân hàng có thể dẫn đến tình trạng “cá lớn nuốt cá bé”. Điều này sẽ gia tăng độc
quyền, chi phối, lũng đoạn hoạt động ngân hàng của một số ngân hàng lớn.
Chưa kể, khi không còn giới hạn về trần lãi suất cho vay hay giới hạn lãi suất cơ
bản + biên độ, các ngân hàng có thể sẵn sàng đầu tư vào lĩnh vực chấp nhận lãi suất
cao- rủi ro cao như chứng khoán hoặc bất động sản.
II. Tỷ giá

II.1/ Thực trạng
Việc tự do hóa tỷ giá ở nước ta thể hiện qua cơ chế điều hành tỷ giá ở từng thời
kì, ở từng giai đoạn phát triển, chủ yếu phục vụ cho các mục tiêu kinh tế lớn. Cơ chế
điều hành tỷ giá qua các thời kì đã thay đổi từ tỷ giá cố định sang tỷ giá có điều
chỉnh, đến tỷ giá công bố theo mức hình thành cuối ngày trên thị trường.
9/46
TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH – TÍNH CHUYỂN ĐỔI ĐỒNG TIỀN
Trước 1988 ta sử dụng tỷ giá cố định và chế độ đa tỷ giá:tỷ giá được quyết
định bởi NHTW. NHTW công bố mức tỷ giá chính thức và cam kết duy trì khả năng
chuyển đổi đồng tiền trong nước với đồng tiền nước ngoài theo giá công bố dù
cung cầu ngoại tệ trên thị trường có thay đổi.
Từ năm 1988 đến năm 1991, tỷ giá hối đoái của Việt Nam được chuyển từ chế
độ đa tỷ giá chuyển sang chế độ tỷ giá thống nhất. Tỷ giá này được xác định theo cơ
chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước và tỷ giá hối đoái danh nghĩa được điều
chỉnh theo sát những diễn biến của tình hình kinh tế trong nước nên tỷ giá hối đoái
thực tế ổn định, tạo ra những tác động tích cực đến việc khôi phục cả cân đối bên
trong và cân bằng bên ngoài nền kinh tế.
Từ năm 1992 đến năm 1997, chính sách tỷ giá hối đoái được điều hành nhằm
cố gắng duy trì sự ổn định của tỷ giá danh nghĩa. Sự ổn định tỷ giá hối đoái danh
nghĩa những năm này đã tạm thời góp phần tích cực vào việc kiềm chế lạm phát, thu
hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao trên 8% năm.
Từ 1997-> nay ta áp dụng chính sách tỷ giá thả nối có quản lý( kết hợp của thả
nổi và cố định): tỷ giá được hình thành trên cung cầu của thị trường có sự điều tiết
của nhà nước. Cơ chế này giúp tỷ giá thực tế vừa gắn với thị trường vừa không gây
đột biến giúp ổn định thị trường ngoại hối tốt hơn. Tỷ giá này có thể do thị trường
quyết định, cũng có thể do Ngân hàng Nhà nước quyết định. Khi thị trường ít biến
động, tỷ giá đc thả nổi theo cung cầu trên thị trường ngoại hối. Khi có dao động
mạnh và nhanh thì Ngân hàng Nhà Nước can thiệp để giữ ổn định tỷ giá. Mặc dù có
sự can thiệp của Ngân hàng Nhà Nước nhưng tỷ giá cũng được điều chỉnh để tiến
gần hơn với tỷ giá thị trường.

Tháng 10 năm 1997, NHNN đã quyết định mở rộng biên độ giao dịch giữa tỷ
giá chính thức và tỷ giá giao dịch tại các thị trường liên ngân hàng từ ±5% lên
±10%.Việc điều chỉnh tỷ giá của NHNN trên đây đã có tác động tích cực đối với
hoạt động xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu của Việt Nam, giảm nhập siêu trong các
năm 1997-1999, làm cán cân thương mại giảm dần thâm hụt.
Từ năm 1999, NHNN chấm dứt công bố tỷ giá chính thức, mà chỉ công bố tỷ
giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng và biên độ dao động của hoạt
động giao dịch ngoại hối của NHTM.
Và từ năm 2000, cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái của VN điều chỉnh từ chỗ
công bố tỷ giá chính thức theo tín hiệu thị trường với từng khoảng thời gian có hiệu
10/46
TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH – TÍNH CHUYỂN ĐỔI ĐỒNG TIỀN
lực tương đối dài, sang cơ chế công bố tỷ giá theo động thái hàng ngày của thị
trường ngoại tệ
Trên cơ sở tình hình thực tiễn và các mục tiêu kinh tế - xã hội, biên độ tỷ giá
này được Ngân hàng Nhà Nước điều chỉnh cho phù hợp, và đến giữa năm 2008 biên
độ này được xác định ±2%. Sau đó, tháng 11/2008, biên độ này được tăng lên 3%.
Và kể từ ngày 24/03/2009, quyết định số 622/QĐ-NHNN ngày 23/3/2009 đã điều
chỉnh biên độ tỷ giá VND/USD lên mức +/-5% thay cho mức +/-3% hiện hành.
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực hiện tốt chính sách điều hành tỷ giá
theo định hướng của Chính phủ: vừa theo thị trường, vừa có can thiệp khi cần thiết.
II.2/ Tồn tại
Xung quanh vấn đề tỷ giá ở VN hiện nay, các nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng:
Giá trị đồng VN đã bị đánh giá quá cao so với ngoại tệ , như vậy, trước hết nó sẽ
làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa VN trên thị trường quốc tế, ảnh hưởng xấu
đến hoạt động xuất nhập khẩu, sau đó làm NHNN khó điều hành chính sách tiền tệ.
Thêm vào đó một đồng tiền yếu có thể làm tình trạng thất nghiệp giảm thúc
đẩy tăng trưởng nhưng sẽ làm tỷ lệ lạm phát tăng cao. Ngược lại, với đồng tiền
mạnh có thể tỷ lệ lạm phát giảm nhưng tình trạng thất nghiệp sẽ thêm trầm
trọng.Nhưng hiện tại nước ta đang có tỷ lệ lạm phát cao. Do đó nếu lựa chọn chế độ

tỷ giá thả nổi tự do thì điều kiện phát triển kinh tế - xã hội hiện nay của chúng ta
chưa cho phép, còn nếu lựa chọn chính sách điều hành tỷ giá theo kiểu “an toàn” thì
không thể tránh khỏi những áp đặt mang tính hành chính vào quản lý tỷ giá - điều
mà chúng ta đang cố gắng thay đổi để thích ứng dần với việc điều hành nền kinh tế
theo các qui luật phát triển.
III./ Hoạt động Ngân hàng Thương mại
III.1.Lộ trình nới lỏng các hạn chế về qui mô và lĩnh vực hoạt động của các
Định chế nước ngoài tại khu vực TC – NH ở Việt Nam
Đến nay, pháp luật Việt Nam đã thừa nhận hầu hết các hình thức cung cấp dịch
vụ ngân hàng phổ biến trên thế giới, kể cả hình thức TCTD 100% vốn của nước
ngoài. Theo Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, hiện nay các chi nhánh
ngân hàng Hoa Kỳ nhận tiền gửi bằng Đồng Việt Nam từ các pháp nhân và thể nhân
Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng tương ứng 600% và 500% vốn
pháp định chuyển vào. Đối với các chi nhánh ngân hàng thuộc khối EU, các tỷ lệ
này tương ứng 400% và 350%. Các TCTD nước ngoài hoạt động tại Việt Nam ngày
11/46
TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH – TÍNH CHUYỂN ĐỔI ĐỒNG TIỀN
càng được đối xử bình đẳng hơn với các TCTD Việt Nam trong việc tiếp cận các
dịch vụ ngân hàng được phép cung ứng, các thể thức tín dụng của NHNN và mở chi
nhánh.
Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua và sở hữu tối đa 30% cổ phần của
các ngân hàng thương mại trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế theo Nghị
Định mới nhất - NĐ số 69/2007/NĐ-CP ngày 20/4/2007 của Chính Phủ V/v “nhà
đầu tư nước ngoài mua cổ phần của NHTM VN”.
Khối các định chế tài chính nước ngoài tại Việt Nam hiện có ba loại hình chính
là chi nhánh ngân hàng nước ngoài, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng (công ty tài
chính,cho thuê tài chính) và ngân hàng liên doanh.
Để gia nhập WTO, Việt Nam đã phải cam kết sẽ mở cửa lĩnh vực các dịch vụ
tài chính của mình với thế giới với lộ trình nhanh hơn hầu như bất cứ một quốc gia
thành viên nào khác.Theo cam kết gia nhập WTO thì từ 1/4/2007, loại hình ngân

hàng 100% vốn nước ngoài sẽ được thành lập tại Việt Nam. Hiện nay, HSBC và
Standard Chartered đã trở thành hai ngân hàng 100% vốn nước ngoài đầu tiên được
cấp phép hoạt động tại Việt Nam.
III.2. Hoạt động các Ngân hang thương mại
Với sự ra đời của Pháp lệnh về Ngân hàng Nhà nước và Pháp lệnh về Ngân
hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính (tháng 5/1990) đã đưa đến việc hình
thành hệ thống ngân hàng 2 cấp. Theo đó, các NHTM thực hiện nhiệm vụ kinh
doanh tiền tệ và cung cấp các dịch vụ ngân hàng; NHNN thực hiện chức năng quản
lý Nhà nước và chức năng NHTW. Cho đến nay, hệ thống pháp luật về ngân hàng
được hoàn thiện về căn bản với việc ban hành Luật NHNN và Luật các TCTD vào
tháng 12/1997.
Chính phủ Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc lành mạnh hoá khu vực
ngân hàng thông qua việc triển khai Đề án củng cố, chấn chỉnh các NHTMCP (năm
1998) và Đề án cơ cấu lại các NHTMNN (năm 2001) nhằm lành mạnh hoá tài
chính, tăng cường kỷ luật thị trường trong hoạt động ngân hàng và nâng cao khả
năng cạnh tranh của hệ thống ngân hàng. Chương trình cải cách ngân hàng cũng
nhận được sự hỗ trợ quan trọng về tài chính và kỹ thuật của cộng đồng quốc tế, đặc
biệt WB, ADB, IMF và chính phủ các nước.
Các ngân hàng Nhà Nước đang được tiến hành cổ phần hóa. Chương trình cổ
phần hoá NHTMNN được khởi động năm 2004 với phương thức là bảo đảm phù
12/46
TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH – TÍNH CHUYỂN ĐỔI ĐỒNG TIỀN
hợp với thông lệ quốc tế (kiểm toán, định giá và phát hành), minh bạch và an toàn
hoạt động nhằm nâng cao năng lực tài chính, công nghệ và quản trị điều hành của
các NHTMNN sau cổ phần hoá. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số
11/2004/CT-TTg ngày 30/3/2004 nhằm tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, phát
triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ đã cho phép các
ngân hàng thương mại quốc doanh lớn được cổ phần hóa, hiện tại thì hai trong số đó
là Việtcombank và Vietinbank đã cổ phần hóa xong.
Tính đến đầu năm 2008, hệ thống ngân hàng nước ta có 4 ngân hàng thương

mại nhà nước ( NHTMNN), 2 ngân hàng TMCPNN, 37 NHTMCP, 31 chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, 6 ngân hàng liên doanh, 6 công ty tài chính và 10 công ty
cho thuê tài chính, 926 tổ chức tín dụng nhân dân và 46 văn phòng đại diện của các
ngân hàng nước ngoài.
Hoạt động tín dụng thay đổi từ tín dụng phân phối cho một số ít đối tượng
khách hàng sang tín dụng không phân biệt thành phần kinh tế và tách bạch hoạt
động cho vay chính sách với cho vay thương mại;
Mở rộng hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính cho các thành phần kinh tế và tổ
chức tài chính trong và ngoài nước, từng bước chuyển từ hoạt động cung ứng dịch
vụ độc quyền của ngành ngân hàng sang thị trường tài chính đa ngành.
Một số điểm nổi bậc, đáng ghi nhận về thành tựu của hoạt động NHTM:
Thứ nhất, hệ thống ngân hàng đã huy động và cung cấp một lượng vốn khá
lớn cho nền kinh tế, ước tính hàng năm chiếm khoảng 16 – 18% GDP, gần 50% vốn
đầu tư xã hội. Tăng trưởng tín dụng liên tục trong các năm và năm 2006 ước tính
tăng 24%, cao hơn mức 19% năm 2005. Hệ thống ngân hàng cũng có nhiều đóng
góp cho tăng trưởng, phát triển và ổn định kinh tế xã hội trong những năm qua.
Tốc độ tăng dư nợ tín dụng qua các năm
13/46
TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH – TÍNH CHUYỂN ĐỔI ĐỒNG TIỀN
Ghi chú: Báo cáo thông tin NHNN
Thứ hai, hệ thống ngân hàng đã có cuộc đổi mới toàn diện. Cơ chế chính sách
về hoạt động ngân hàng đã ngày một hoàn chỉnh và phù hợp với thông lệ quốc tế;
khuôn khổ thể chế ngày một thông thoáng và minh bạch hơn. Những phân biệt đối
xử giữa loại hình tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng trong nước và tổ chức tín dụng
nước ngoài đã từng bước được loại bỏ; chức năng cho vay tín dụng chính sách và
cho vay tín dụng thương mại đã được tách bạch; các NHTM, các tổ chức tín dụng đã
được tự chủ và tự chịu trách nhiệm khá đầy đủ. Tính cạnh tranh của các tổ chức tín
dụng được nâng cao; Thị trường dịch vụ ngân hàng được phát triển an toàn và hiệu
quả.
Thứ ba, chính sách tín dụng được mở rộng và đổi mới theo hướng tạo sự công

bằng, bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp và mọi đối tượng dân
cư.
Thứ tư, hệ thống ngân hàng đã được cơ cấu lại tài chính, tăng vốn điều lệ cho
các NHTMNN, xử lý nợ xấu ( hiện tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ đã giảm từ gần 20%
trong số những năm 90 xuống còn khoảng 3.1% ), đào tạo cán bộ và nâng cao hệ
thống trên cơ sở công nghệ hiện đại, nối mạng và thanh toán điện tử….
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đáng được ghi nhận nêu trên, hệ
thống ngân hàng còn nhiều bất cập, nhiều vấn đề cần được khắc phục để hội
nhập được tốt, có khả năng cạnh tranh cao trong môi trường quốc tế.
 Những vấn đề đặt ra:
Hệ thống dịch vụ Ngân hàng trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa cao,
chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng nề về dịch vụ ngân hàng truyền
thống.
Tình hình nợ xấu vẫn có xu hướng giảm nhưng chưa chắc chắn, trong đó đáng
chú ý là khối lượng các tổ chức tín dụng nhà nước. Nợ tồn đọng trong cho vay đầu
tư xây dựng cơ bản bằng VNĐ đang ở mức cao trên tổng dư nợ.
Tự do hóa lãi suất có xu hướng làm cho mặt bằng lãi suất trong nước tăng lên.
Mặc dù lãi suất tăng lên tạo điều kiện thu hút thêm tiết kiệm vào hệ thống ngân
hàng, nhưng việc lãi suất tiền gửi tăng lên làm cho lãi suất cho vay cũng tăng thêm,
và điều đó tạo thêm gánh về chi phí cho các doanh nghiệp phụ thuộc về nguồn vốn
14/46
TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH – TÍNH CHUYỂN ĐỔI ĐỒNG TIỀN
vay từ ngân hàng. Trong điều kiện nói trên, một phần không nhỏ trong số doanh
nghiệp có thể mất khả năng thanh toán và phá sản nếu không được tiếp tục cho vay
để nuôi nợ, dẫn đến nguy cơ mất vốn ngày càng lớn.
Các công cụ điều tiết chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước ( NHNN)
còn cần phải bàn và còn bất cập nên tác dụng điều tiết chưa cao. Do đó, khi lãi suất
thị trường lên cao trong khi vốn khả dụng của các NHTM dư thừa, NHNN thiếu khả
năng can thiệp để điều tiết mặt bằng lãi suất.
Cơ cấu hệ thống tài chính còn mất cân đối, hệ thống Ngân hàng vẫn là kênh

cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế chủ yếu. Tuy nhiên, tỉ trọng tiền gửi
có kỳ hạn dài trên một năm tại các NHTM chiếm tỉ lệ thấp, khoảng 30%, còn lại là
ngắn hạn dưới một năm chiếm tới 70%. Trong khi đó, tỉ lệ tín dụng trung và dài hạn
hiện đã ở mức trên 40% và đang có sức ép tăng lên với quá trình công nghiệp hóa
đất nước. Tính chung cả nội tệ và ngoại tệ, thì số vốn huy động ngắn hạn chuyển
cho vay trung và dài hạn chiếm tới khoảng 50% tổng số vốn huy động ngắn hạn.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, đối với các nước đang phát triển, kinh tế vĩ mô chưa
thực sự ổn định, độ tin cậy của đồng tiền còn thấp, huy động vốn dài hạn khó
khăn… Chính phủ đều có chính sách cho phép sử dụng một phần vốn huy động
ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn đồng thời áp dụng một số chính sách hổ trợ để
đảm bảo khả năng thanh toán của các Ngân hàng. Tuy nhiên, tỉ lệ trên phải có một
giới hạn nhất định. Việc sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn ờ nước ta
hiện nay tới 50% là quá cao, nếu duy trì quá lâu sẽ là yếu tố gây rủi ro lớn và có
nguy cơ gây ra thiếu an toàn cho toàn bộ hệ thống.
Hiệu quả sử dụng nguồn vốn huy động, đặc biệt là nguồn vốn bằng ngoại tệ
còn chưa cao như mong muốn và chưa chuyển được nhiều thành vốn tín dụng phục
vụ cho sản xuất kinh doanh.
Phần lớn vốn của các nHTM Việt nam đều thấp nên khả năng thanh toán và
tính bền vững của hệ thống chưa được cao. Hệ thống NHTM chiếm đến trên 75%
thị trường huy động vốn đầu vào và trên 73% thị trường tín dụng, sức ép cạnh tranh
còn thấp. Các NHTMCP, quỹ tín dụng quá nhỏ bé và yếu kém đang là điểm dễ bị
tổn thương nhất của hệ thống. Có một số công ty tài chính và quỹ tài chính được
thành lập nhưng mới bắt đầu hoạt động.
Các Ngân hàng chưa mở rộng và thay đổi phương thức kinh doanh; năng lực
thẩm định dự án thấp. Tình trạng này một phần do thị trường tài chính chưa phát
15/46
TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH – TÍNH CHUYỂN ĐỔI ĐỒNG TIỀN
triển và các khuôn khổ pháp luật, kế tóan và quản lý không đầy đủ, nhưng chủ yếu
là do thiếu sự cạnh tranh, điều kiện tạo ra rất ít động lực cho các Ngân hàng cải
thiện chất lượng hoạt động.

Hội nhập kinh tế đi liền với các cam kết quốc tế về mở cửa thị trường tài chính,
cho phép các Ngân hàng quốc tế được hoạt động và đối xử bình đẳng như những
Ngân hàng trong nước sẽ tạo ra những sức ép lớn hơn đối với hệ thống Ngân hàng
trong thời gian tới. Hệ thống Ngân hàng chưa tạo dựng được một hệ thống thông tin
có thể đáp ứng kịp thời, có hiệu quả cho phân tích, dự báo, tình hình tiền tệ, lãi suất,
tín dụng, tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp.
Nhiều tổ chức tín dụng chưa xây dựng quy trình và thực hiện quản lí tập trung
đối với rủi ro thanh khoản thông qua việc xây dựng phân tích kỳ hạn. Việc quản lí
rủi ro thanh khoản hầu như chỉ thực hiện ở những chi nhánh đơn lẻ, do đó khi xuất
hiện những biến động bất thường, một số NHTM luôn phải đối mặt với nguy cơ mất
khả năng chi trả tạm thời trên toàn hệ thống.
Phần lớn các tồ chức tín dụng chưa xây dựng được quy trình tập trung tại hội
sở chính đối với rủi ro tỷ giá và kinh doanh ngoại hối, quy trình quản lí trạng thái
ngoại hối chưa đáp ứng được yêu cầu nên chưa có những giải pháp hiệu quả để hạn
chế tác động của những rủi ro này khi có sự biến động bất lợi về lãi suất và tỷ giá.
Bên cạnh đó, một số tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại hối không chấp
hành các giới hạn về tình trạng thái ngoại tệ, báo cáo thiếu trung thực, đầu cơ trong
kinh doanh nhưng không kiểm soát được rủi ro tỉ giá. Vì vậy, khi phải đối mặt với
sự biến động của thị trường đã gây tổn thất cho chính tổ chức tín dụng.
IV.Tự do hóa giao dịch vốn ( GDV)
Tự do hóa giao dịch vốn được coi là điểm cuối hay cái đích của quá trình tự do
hóa tài chính.
Việt nam đang thực hiện tự do hóa GDV một cách có trật tự, bắt đầu từ thu hút
FDI và mở cửa ngoại thương, nới lỏng kiểm soát lợi nhuận chuyển ra, và gần đây
các nhà đầu tư được mua trái phiếu chính phủ với khối lượng và giá trị không hạn
chế, mua 49% cổ phiếu doanh nghiệp và 30% cổ phiếu Ngân hàng. Cho đến trước
năm 2006, nguồn vốn chủ yếu là FDI và vay nợ nước ngoài. Từ cuối năm 2006, vốn
đầu tư gián tiếp tăng mạnh, nhưng bắt đầu giảm mạnh từ đầu năm 2008. Sự có mặt
của luồng vốn vào gián tiếp đã gây những tác động đáng kể đến nền kinh tế trong
16/46

TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH – TÍNH CHUYỂN ĐỔI ĐỒNG TIỀN
nước từ áp lực tăng giá VNĐ, đến lạm phát, tỉ giá và tính thanh khoản của thị trường
và của các NHTM.
Luồng vốn vào gián tiếp tăng mạnh trong những năm 2007 và chiếm tới trên
50% tổng nguồn vốn nước ngoài vào Việt nam, là yếu tố thúc đẩy đầu tư, nhưng
hiệu quả sử dụng vốn tại Việt nam rất thấp nên đã tạo áp lực lạm phát, thâm hụt cán
cân vãng lai đã lên tới 10% GDP và tiếp tục tăng trong những tháng đầu năm 2008,
tiềm ẩn rủi ro đảo chiều luồng vốn và mất cân bằng đối ngoại. Trong bối cảnh kinh
tế thế giới diễn biến theo chiều hướng xấu, việc đối phó trở nên rất khó khăn, do độ
mở cửa kinh tế Việt nam rất lớn so với qui mộ của nền kinh tế, lên đến 150% GDP,
cao hơn nhiều so với các nước trên thế giới và trong khu vực.
Tính linh hoạt của các tài sản chính còn thấp, các qui định pháp lý về giao dịch
của các công cụ tài chính chưa được luật hóa, dư nợ tín dụng tăng mạnh nhưng rủi
ro về rất cao, đặc biệt khi lượng ngoại tệ chiếm tỉ trọng đáng kể trong tổng tín dụng
tại các NHTM.
Việc cho phép các Ngân hàng được cấp tín dụng bằng ngoại tệ đã tạo điều kiện
cho các Ngân hàng cân đối được bảng tổng kết tài sản ngoại tệ và hạn chế rủi ro
ngọai hối trong một môi trường thiếu vắng các công cụ bảo hiểm trước những dao
động về tỉ giá của VND. Tuy nhiên, cơ chế khuyến khích trong các TCTD không
gắn liền với mục đích hoạt động, phương pháp quản lí rủi ro tín dụng còn bất cập.
Năng lực giám sát của NHNN đối với hệ thống tài chính còn nhiều hạn chế, các
phương pháp giám sát vẫn dựa trên cơ chế tuân thủ các qui định hành chính một
cách máy móc.
Quá trình tự do hoá GDV đã tác động mạnh tới hoạt động của các TCTD, đặc
biệt là nền kinh tế đang bị đô la hóa với 30% lượng tiền gửi các TCTD là ngoại tệ, tỉ
lệ này là 40% tại Hà nội và TP HCM. Trong đó, năng lực quản trị rủi ro tại các
TCTD Việt nam còn hạn chế, tính chất mệnh lệnh trong quan hệ tín dụng chưa được
khắc phục.
Việc điều hành CSTT gặp nhiều khó khăn do NHNN phải đồng thời thực hiện
mục tiêu kiểm soát lạm phát, can thiệp trên thị trường ngoại hối để tăng dự trữ ngoại

hôí nhà nước và ổn định tỉ gía tránh để VND mất giá hoặc lên gía quá mức.
Về cơ bản, khu vực tài chính của Việt nam hiện nay còn hạn chế để có thể thực
hiện một tài khoản vốn hoàn toàn tự do, vốn tự có tại các TCTD còn thấp và vẫn
còn có TCTD chưa đảm bảo tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% chất lượng tài sản và các
17/46
TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH – TÍNH CHUYỂN ĐỔI ĐỒNG TIỀN
khoản dự phòng chưa đáp ứng yêu cầu, tính linh hoạt của các tài sản tài chính còn
thấp, hệ thống quản lí giám sát còn nhiều bất cập.
Chương 3: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH VÀ
NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Kinh nghiệm tự do hóa tài chính cho thấy tầm quan trọng của việc xử lý ngay
từ đầu những vấn đề liên quan đến sự lành mạnh của hệ thống tài chính – ngân
hàng, góp phần nâng cao hiệu quả phân bổ các nguồn lực và ngăn ngừa nguy cơ
khủng hoảng. Nguyên nhân cơ bản của các cuộc khủng hoảng tài chính thường bắt
nguồn từ các biện pháp tự do hóa tài chính.
Có nhiều cách tiếp cận vấn đề tự do hóa tài chính. Trong đó, các nước OECD
tập trung vào tự do hóa các luồng vốn, đầu tiên là tự do hóa đầu tư nước ngoài trực
tiếp, cuối cùng là tự do hóa tài khoản vốn; ADB dựa vào rủi ro để đánh giá và xây
dựng lộ trình tự do hóa tài chính với mục tiêu cuối cùng là tự do hóa tài khoản vốn;
cách tiếp cận của IMF cũng khá phức tạp, đó là xem xét đầy đủ mọi vấn đề từ cải
cách vi mô, cơ cấu, xây dựng thể chế, các chính sách kinh tế vĩ mô và cơ chế tỷ giá
để xây dựng lộ trình tự do hóa.
Đối với Trung Quốc đã xây dựng lộ trình tự do hóa tài chính dựa trên cách tiếp
cận của ADB. Trình tự mở cửa thị trường tài chính của Trung Quốc được xây dựng
trên cơ sở thừa nhận sự yếu kém của hệ thống tài chính ngân hàng, đánh giá mức độ
rủi ro và thực hiện tự do hóa thận trọng, đầu tiên là khuyến khích đầu tư trực tiếp
nước ngoài, tiếp theo là đầu tư gián tiếp nước ngoài vào TTCK, cuối cùng là tự do
hóa các khoản vay nợ nước ngoài, cụ thể là:
- Giải quyết nợ xấu để hạn chế rủi ro cho các ngân hàng;
- Xây dựng thể chế để có hệ thống luật pháp công khai minh bạch;

- Từng bước tự do hóa tài chính nội địa;
- Từng bước tự do hóa lãi suất;
- Tổ chức lại và củng cố các TCTD để tăng cường năng lực cạnh tranh;
- Thực hiện cơ chế tỷ giá theo hướng linh hoạt hơn;
- Giải quyết khó khăn tài khóa để giảm bớt tình trạng thất nghiệp.
Tự do hóa tài khoản vốn là mục tiêu cuối cùng, nhưng Trung Quốc chưa đủ
điều kiện nên được thực hiện có giới hạn với sự giám sát chặt chẽ, nhất là đối với
dòng vốn ngắn hạn vào TTCK và dòng vốn ra. Về quản lý nợ vay nước ngoài,
18/46
TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH – TÍNH CHUYỂN ĐỔI ĐỒNG TIỀN
Chính phủ quyết định hạn mức vay nợ trung, dài hạn hàng năm, quy định thời hạn
trả nợ và loại tiền vay và phân bổ cho các ngành nghề, khu vực.
Trong quá trình tự do hóa tài chính, kiểm soát luồng vốn được coi là vấn đề
được nhiều nước quan tâm đặc biệt, mục tiêu là đảm bảo tính tự chủ của CSTT và
giảm áp lực đối với tỷ giá. Kiểm soát luồng vốn cũng nhằm bảo vệ sự ổn định tài
chính – tiền tệ khi phải đối mặt với nguy cơ lạm phát do những luồng vốn vào liên
tục, nhất là nguồn vốn ngắn hạn. Tuy nhiên, các biện pháp kiểm soát luồng vốn
cũng có mặt trái của nó:
- Kiểm soát luồng vốn, nhất là những hạn chế toàn diện được áp dụng, có thể
gây trở ngại cho các giao dịch vốn và giao dịch vãng lai;
- Các biện pháp kiểm soát có thể đòi hỏi chi phí hành chính khá lớn nhằm đảm
bảo thực thi có hiệu quả;
- Các biện pháp kiểm soát vốn nhằm bảo vệ thị trường trong nước có thể dẫn
đến việc trì hoãn điều chỉnh những chính sách cần thiết;
- Các biện pháp kiểm soát vốn có thể làm nảy sinh những nhận thức tiêu cực về
thị trường, quốc gia áp dụng phải tốn kém hơn và khó khăn hơn trong việc tiếp cận
nguồn vốn nước ngoài.
Kinh nghiệm các nước cũng cho thấy, việc kiểm soát luồng vốn ra thường
được quan tâm nhiều hơn. Sau khủng hoảng (rối loạn) tài chính, một số nước như
Tây Ban Nha, Malaysia, Thái Lan tái thực hiện kiểm soát luồng vốn ra trước áp lực

lớn về tỷ giá, mục tiêu là ngăn chặn đầu cơ và ổn định thị trường ngoại hối trong bối
cảnh dự trữ ngoại hối giảm mạnh, các cơ quan tiền tệ trong nước có khoảng thời
gian nhất định để khắc phục những mất cân bằng về kinh tế vĩ mô và thực hiện cải
cách hệ thống ngân hàng. Trong đó, Tây Ban Nha phải thỏa thuận với các nước
thành viên trong hệ thống về quyết định thay đổi tỷ giá, Thái Lan áp dụng cơ chế
“neo” tỷ giá tại thời điểm áp đặt kiểm soát, Malaysia thực hiện cơ chế tỷ giá thả nổi
có sự quản lý của Nhà nước. Nhằm hạn chế luồng vốn ra, Malaysia thực hiện đánh
thuế vào lợi nhuận từ đầu tư gián tiếp không kể cổ tức và lãi thu được, thu nhập liên
quan đến các giao dịch vãng lai và các luồng đầu tư trực tiếp nước ngoài; Thái Lan
yêu cầu các tổ chức tài chính hạn chế và đình chỉ các giao dịch với người không cư
trú (bao gồm cho vay đồng baht qua giao dịch hoán đổi, giao dịch kỳ hạn về đồng
baht và bán đồng baht lấy ngoại tệ), phải thanh toán bằng đô la Mỹ đối với giao dịch
mua hối phiếu bằng đồng baht trước kỳ hạn và những công cụ nợ khác, cấm các nhà
19/46
TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH – TÍNH CHUYỂN ĐỔI ĐỒNG TIỀN
đầu tư cổ phiếu nước ngoài chuyển vốn về nước bằng đồng baht (nhưng được tự do
chuyển vốn bằng ngoại tệ), người không cư trú phải áp dụng tỷ giá nước ngoài khi
chuyển đổi lợi nhuận bằng đồng baht thu được từ việc bán chứng khoán.
Về kiểm soát luồng vốn ra, kinh nghiệm của các nước cho thấy:
- Để đảm bảo hiệu quả, các kiểm soát phải toàn diện và cần được tiến hành một
cách bắt buộc đồng thời với cải cách và điều chỉnh chính sách cần thiết. Hiệu quả
của những kiểm soát này dường như bị hạn chế trong những thị trường phức tạp;
- Bên cạnh những tác động tích cực, các biện pháp kiểm soát có thể dẫn đến
phản ứng tiêu cực hơn từ các thị trường tài chính quốc tế và làm suy giảm lòng tin
của các nhà đầu tư quốc tế;
- Các kiểm soát không có tác dụng bảo vệ kéo dài khi phải đối mặt với động cơ
tránh kiểm soát, nhất là chênh lệch thu nhập hấp dẫn và kỳ vọng lớn của thị trường
vào việc giảm tỷ giá hối đoái;
- Khả năng kiểm soát hoạt động thị trường nước ngoài có thể là phương tiện để
hạn chế luồng vốn vào và ngăn chặn các áp lực đầu cơ;

- Các biện pháp hiệu quả hạn chế rủi ro của các giao dịch hợp pháp, bao gồm
đầu tư trực tiếp nước ngoài và các giao dịch phòng ngừa liên quan đến thương mại,
nhưng có thể làm tăng chi phí tiếp cận thị trường vốn quốc tế.
Đối với Việt Nam, quá trình tự do hóa tài chính cần được thực hiện theo những
định hướng cơ bản sau:
- Tự do hóa tài chính phải được tiến hành theo lộ trình thích hợp, đảm bảo ổn
định kinh tế vĩ mô và phát triển kinh tế với tốc độ cao và bền vững;
- Tự do hóa phải được coi là phương tiện, là khâu đột phá và được tiến hành
trước một bước trong tiến trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế;
- Tự do hóa tài chính phải chịu sự kiểm tra giám sát chặt chẽ nhằm đảm bảo an
ninh tiền tệ quốc gia;
- Tự do hóa tài chính phải được tiến hành cùng với việc tự do hóa kinh tế và
thương mại.
Chương 4: GIẢI PHÁP
Cho tới nay, Việt nam đã đi được hơn nửa chặng đường tự do hóa tài chính và
tự do hóa tài chính là sự lựa chọn hợp lý trong điều kiện thực hiện các cam kết hội
nhập trong khuôn khổ WTO, gắn tự do hóa tài chính và cải cách khu vực tài chính
20/46
TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH – TÍNH CHUYỂN ĐỔI ĐỒNG TIỀN
trong một lộ trình thống nhất. Tuy nhiên, Việt nam chưa có kế hoạch tổng thể về cải
cách và phát triển khu vực tài chính. Vì vậy, cần phải tập trung nghiên cứu và giải
quyết những vấn đề chủ yếu sau đây:
- Cần có sự phối hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa, chính
sách thương mại, chính sách tỉ giá và các chính sách kinh tế vĩ mô khác;
- Đổi mới căn bản hệ thống thiết chế an toàn và giám sát tài chính theo các
thông lệ và chuẩn mực quốc tế;
- Sự ngưng động đột ngột, sự đảo chiều nguồn vốn quá nhanh sẽ làm cho nền
kinh tế đi vào khủng hoảng, dẫn đến bất ổn trong điều hành các chính sách tiếp theo
của chính phủ như: lạm phát, thất nghiệp, tiền lương, ngân sách, rối loạn tỷ giá hối
đoái…, bên cạnh đó dòng vốn chảy ồ ạt - dòng vốn này có mối quan hệ chặt chẽ đến

nền kinh tế, nó làm tăng nguy cơ dễ bị tổn thương của nền kinh tế do tình trạng đầu
cơ vào thị trường bất động sản. Vì vậy cần có biện pháp hợp lý và linh hoạt về kiểm
soát các luồng vốn, nhất là nguồn vốn ra và nguồn vốn ngắn hạn vào TTCK;
- Đẩy nhanh tiến độ cải cách ngân hàng nhằm nâng cao tiềm lực tài chính, làm
cơ sở để đổi mới công nghệ và trình độ chuyên môn quản lý, góp phần nâng cao
năng lực cạnh tranh của hệ thống Ngân hàng Việt Nam;
- Đẩy nhanh tiến độ cải cách doanh nghiệp, nhất là khu vực doanh nghiệp Nhà
nước theo hướng cổ phần hóa, góp phần giảm gánh nặng đối với Ngân sách Nhà
nước. Đồng thời, nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện các Luật thuế nhằm củng cố
nguồn thu ngân sách trong khi nguồn thu thuế bị giảm mạnh trong quá trình thực
hiện các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ;
- Thực hiện các biện pháp chuẩn bị cho mở cửa thương mại nhằm đáp ứng yêu
cầu của WTO và AFTA, trong đó chú trọng đến việc đơn giản hóa và minh bạch
hóa các chính sách thuế, thủ tục hải quan, thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu, mở rộng
đối tượng được phép tham gia hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ;
- Nâng cao năng lực điều hành tiền tệ, lãi suất và tỷ giá theo nguyên tắc thị
trường nhằm hạn chế rủi ro thị trường đối với khu vực tài chính trong quá trình tự
do hóa;
- Quan tâm phát triển hệ thống thanh toán và dịch vụ hỗ trợ thị trường tài chính
theo hướng hiện đại hóa, đồng thời tăng cường quản lý, giám sát nhằm tạo môi
trường thuận lợi cho các hoạt động tài chính diễn ra thông suốt và an toàn;
21/46
TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH – TÍNH CHUYỂN ĐỔI ĐỒNG TIỀN
- Chính sách đầu tư nên tập trung vào việc giảm thiểu bảo hộ các ngành thay
thế nhập khẩu, đồng thời khuyến khích đầu tư vào các ngành xuất khẩu và các
ngành sản xuất có hàm lượng công nghệ cao;
- Trong quá trình tự do hóa tài chính, cần xử lý sớm, ngay từ đầu những vấn đề
liên quan đến sự lành mạnh của hệ thống tài chính, nhất là hệ thống ngân hàng và thị
trường chứng khoán. Cải cách tài chính ở Việt nam theo hướng tự do hóa thì hệ
thống Ngân hàng đóng một vai trò to lớn. Hiện đại hóa Ngân hàng chính là ngôn

ngữ của hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống Ngân hàng phải được hiện đại hóa để
theo kịp sự phát triển kinh tế đất nước.
Dưới đây là một số giải pháp cụ thể tương ứng cho các mặt chủ yếu của Tự do hóa tài
chính
I. Tự do hóa lãi suất
Tìm giải pháp cho vấn đề lãi suất cơ bản, hiện tại trong dự thảo Luật ngân hàng
Nhà nước sửa đổi, quy định về lãi suất cơ bản hiện hành đã được đề nghị bỏ. NHNN
nên phát triển những công cụ thay thế tốt hơn và đủ mạnh để can thiệp khi cần thiết
mà không đem lại hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế như công cụ lãi suất cơ bản.
Hoàn thiện các quy định về lãi suất, đó là các lãi suất trên thị trường liên ngân
hàng (cả thị trường nội tệ lẫn ngoại tệ): hình thành và hoàn thiện cơ chế điều hòa
vốn trên thị trường liên ngân hàng để hình thành lãi suất chỉ đạo VIBOR, lãi suất tái
chiết khấu, lãi suất trên thị trường trái phiếu chính phủ
II. Tự do hóa tỷ giá
Xác định đúng giá trị của đồng VN. Chúng ta nên xem xét lại khả năng xác
định linh hoạt tỷ giá VND tương ứng với một rổ tiền tệ là các ngoại tệ mạnh có
tham gia thương mại với VN, có như vậy, đồng tiền VN mới được xác định đúng
giá trị và giảm thiểu tâm lý sùng bái USD, dẫn đến tình trạng đôla hóa nền kinh tế
của đại bộ phận dân cư hiện nay.
Nới lỏng dần biên độ tỷ giá và tiến tới lọai bỏ dần các công cụ kiểm soát tỷ giá
mang tính hành chính. Việc làm này giúp cho chúng ta tiến dần tới mục tiêu tự do
hóa tỷ giá mà vẫn phù hợp với tình hình hiện tại của đất nước. Điều này cũng một
bước thực tập cho các doanh nghiệp,các NHTM làm quen dần với việc kinh doanh
tiền tệ theo cơ chế cạnh tranh bình đẳng và sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro
tỷ giá, giảm thiểu tình trạng bị sốc do các biến động.
22/46
TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH – TÍNH CHUYỂN ĐỔI ĐỒNG TIỀN
Sử dụng công cụ gián tiếp để điều chỉnh tỷ giá trên thị trường. Muốn cho công
cụ điều chỉnh gián tiếp của NHNN thông qua nghiệp vụ trên thị trường ngoại tệ liên
ngân hàng có tác dụng, điều kiện cần là thị trường ngoại tệ liên ngân hàng phải thực

sự tạo niềm tin cho các NHTM bằng cách biến đây thành chỗ dựa của họ và nhu cầu
được tham gia giao dịch ngọai tệ trên thị trường trở nên không thể thiếu. Hệ thống
thanh tóan liên ngân hàng cần được đầu tư đúng mức để đạt được hiệu quả nhất, tiết
kiệm thời gian cũng như nhân lực, đồng thời giúp cho cả NHNN và các NHTM có
thể cập nhật những thông tin thị trường và ra quyết định nhanh nhất trong giao dịch
trên thị trường này. Có như vậy, các nghiệp vụ ngoại hối mới có thể được thực hiện
và phát triển trên thị trường, tránh sự đơn điệu về nghiệp vụ ngọai hối hiện nay của
TTNTLNH và công cụ điều chỉnh của Nhà nước thông qua thị trường này mới có
tác dụng.
III. Tự do hóa hoạt động của các ngân hàng thương mại
Phải chủ động tự do hoá tài chính trên cơ sở: Minh bạch hoá mối quan hệ giữa
CSTT và CSTK, làm cho cả 2 chính sách này ngày càng lành mạnh bằng cách trao
nhiều quyền lực cho NHTW trong việc hoạch định và thực thi CSTT. NHTW phải
đủ sức và đủ công cụ để bảo đảm ổn định sức mua của đồng tiền Việt nam; Đủ sức
kiểm soát và làm chủ các nghiệp vụ chính của NHTW như: Điều hành thị trường
tiền tệ; Điều hành và kiểm soát toàn bộ hệ thống thanh toán quốc gia; Đảm bảo trên
đất Việt nam chỉ tiêu tiền VN và nhanh chóng thực hiện lộ trình tự do chuyển đổi
cho đồng tiền VN; Đổi mới cơ chế và quyền lực trong hoạt động thanh tra – giám
sát hoạt động Ngân hàng của mọi loại Định chế tài chính (ngay cả khi có Uỷ Ban
giám sát tài chính ngoài NHTW);
- Mọi hoạt động có tính chất đầu tư của khu vực tài chính công phải thực hiện
thống nhất theo cơ chế thị trường, đều phải bị điều chỉnh thống nhất bởi Luật
chuyên ngành về Ngân hàng; Hạn chế dần và có kỷ cương minh bạch, công khai về
các hoạt động tín dụng chính sách ưu đãi đối với khu vực thuộc đối tượng chính
sách ưu đãi của Nhà nước; Thống nhất một mạng thanh toán quốc gia đối với mọi
Pháp nhân có quan hệ thanh toán với Ngân hàng, kể cả khu vực NSNN và khu vực
tài chính Nhà nước ngoài NSNN.
- Cần phải đứng trên lợi ích của Nhà nước để dẫn dắt thị trường bằng cách có
chính sách “dãn” rộng hơn khoảng cách giữa các lần cổ phần hoá từng NHTMNN
23/46

TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH – TÍNH CHUYỂN ĐỔI ĐỒNG TIỀN
hay từng DNNN nếu không, một bộ phận tài sản của Nhà nước sẽ có xu hướng rơi
vào tay cá nhân các nhà đầu cơ!
- Đào tạo và từng bước phổ cập kiến thức phổ thông về cung ứng và “mua” các
dịch vụ tiện ích từ Ngân hàng. Mở rộng việc chuyển quan hệ tín dụng trực tiếp giữa
cá nhân với Ngân hàng sang quan hệ tín dụng gián tiếp thông qua các Công ty, Nhà
máy chế biến, Tập đoàn công nghiệp, Tập đoàn thương mại đồng thời có chính sách
khuyến khích phát triển mạnh mẽ việc mở tài khoản thanh toán qua Ngân hàng của
cả Pháp nhân và thể nhân để cùng với các giải pháp công nghệ nhanh chóng nhất thể
hóa thẻ thanh toán trên lãnh thổ Việt nam
IV. Tự do hóa về giao dịch vốn
Để thực hiện tự do hóa GDV, vấn đề ổn định chính sách kinh tế vĩ mô đóng vai
trò quan trọng và là điều kiện tiên quyết, nhất là chính sách tài khóa. Theo đó, tự do
hóa GDV chỉ có thể thành công nếu đi kèm với nó là cải cách chính sách tài khóa và
giảm thâm hụt ngân sách xuống mức thấp nhất theo thông lệ quốc tế, sử dụng chi
tiêu chính phủ một cách hiệu quả, duy trì mức lạm phát thấp. Điều này đòi hỏi phải
tiếp tục đổi mới chính sách tài khóa, nhất là chính sách thu chi ngân sách, giảm
thiểu tác động tiêu cực lên giá cả và cơ cấu thu chi, duy trì ổn định trong hệ thống
thuế suất và mức chi ngân sách, đảm bảo nhất quán với các chính sách kinh tế vĩ mô
khác, tăng cường quản lý nợ công và hạn chế rủi ro thanh toán.
Phối hợp đồng bộ giữa các chính sách kinh tế vĩ mô, nhất là giữa chính sách tài
khóa với CSTT và chính sách tỉ giá, tạo điều kiện cho sự phát triển thị trường tài
chính trong nước và duy trì tính thanh khoản của thị trường ngoại hối, đảm bảo cho
các luồng vốn chu chuyển phù hợp với trình độ phát triển của hệ thống tài chính và
khả năng giám sát các luồng vốn quốc tế.
Xác định rõ mục tiêu của CSTT, trong đó mục tiêu hàng đầu là kiểm soát lạm
phát, tạo sự chủ động của NHNN trong việc áp dụng các biện pháp chính sách, kịp
thời ứng phó trước những biến động kinh tế trong và ngoài nước, đặc biệt là các
luồng vốn quốc tế, theo dõi chặt chẽ diễn biến cán cân thanh toán và tỉ giá để có
những điều chỉnh thích hợp.

NHNN cần nâng cao hiệu quả điều hành tiền cung ứng và lãi suất, từng bước
tổ chức lại thị trường tiền tệ, nhất là thị trường tiền tệ liên ngân hàng, tăng số lượng
và chủng loại giấy tờ có giá, gắn kết thị trường tiền tệ và thị trường vốn nhằm giảm
24/46
TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH – TÍNH CHUYỂN ĐỔI ĐỒNG TIỀN
thiểu rủi ro. Nâng cao năng lực quản lý giám sát hệ thống ngân hàng và năng lực
cạnh tranh của TCTD, hình thành khuôn khổ pháp lý đồng bộ và bình đẳng, áp dụng
đầy đủ các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn kinh doanh tiền tệ. Từng bước
chuyển đổi sang cơ chế tỉ giá linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường, hoàn thiện
tổ chức thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nhằm ngằn ngừa rủi ro tỉ giá, nâng cao
chất lượng quản lý ngoại hối nhằm đảm bảo nguồn dự trữ thích hợp, nâng cao tính
chuyển đổi của VND và khắc phục tình trạng đô la hóa.
Tóm lại: “tự do hóa” tài chính là quá trình nới lỏng những hạn chế về các
quyền tham gia, cũng như tiếp cận dịch vụ trên TTTC cho các bên kiếm tìm lợi ích
trong phạm vi kiểm soát được của Pháp Luật. Tự do hóa tài chính do đó trước hết
luôn gắn chặt với năng lực minh bạch và khả năng kiểm soát lưu thông tiền tệ, khả
năng thanh tra giám sát các dòng chu chuyển vốn trong nền kinh tế cũng như chu
chuyển vốn giữa trong nước với nước ngoài của NHTW để thúc đẩy nền kinh tế nói
chung, các chủ thể kinh tế nói riêng ngày càng phát triển một cách vững chắc. Điều
đó cũng có nghĩa: không thể có cái gọi là tài chính tự do hoàn toàn ở bất kỳ quốc gia
hay tổ chức kinh tế quốc tế nào. Mức độ tự do hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực
quản trị, công nghệ, kiểm soát rủi ro và tính minh bạch trong các quan hệ theo Luật
pháp liên quan ở trong nước và thông lệ quốc tế từng thời kỳ phát triển. Mặt khác,
tự do hoá tài chính cũng là một xu thế khách quan không thể nhẫn nại “ngồi chờ” sự
hoàn thiện năng lực và môi trường Luật Pháp của từng quốc gia thành viên WTO, vì
vậy nhất thiết Việt nam phải chủ động và tích cực tiếp cận với tự do hoá tài chính
bằng một thái độ kiên quyết và cẩn trọng cần thiết nhất có thể được.
PHẦN II:
THỰC TIỄN TÍNH CHUYỂN ĐỔI ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍNH CHUYỂN ĐỔI CỦA ĐỒNG TIỀN

VÀ HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA
I.1. TÍNH CHUYỂN ĐỔI CỦA ĐỒNG TIỀN
I.1.1. Tính chuyển đổi của đồng tiền
a Khái niệm: Tiền tệ tự do chuyển đổi là những tiền tệ mà luật tiền tệ của nước hoặc
khối kinh tế có tiền tệ đó cho phép bất cứ ai có thu nhập tiền tệ này đều có quyền yêu
25/46

×