Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Chương 4. Vận dụng các nguyên tắc dạy học vào dạy học Địa lí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.49 KB, 7 trang )

Chương IV
VẬN DỤNG CÁC NGUYÊN TẮC DẠY HỌC VÀO DẠY HỌC ĐỊA LÍ
Các nguyên tắc dạy học có thể coi là các luận điểm có tính chất chỉ đạo, những quy định, yêu cầu
cơ bản mà người giáo viên cần phải tuân thủ để mang lại hiệu quả cao nhất cho quá trình dạy học.
Hiện nay, các nhà nghiên cứu lí luận dạy học đã nêu lên nhiều nguyên tắc, nhưng việc lựa chọn, sắp
xếp chúng thành một hệ thống nhất định chung cho toàn bộ các môn học thì vẫn chưa đạt được sự nhất
trí. Vì vậy mỗi môn học lại có một số nguyên tắc dạy học phù hợp với đặc điểm riêng của nó.
Dưới đây chỉ đề cập đến việc thể hiện một số nguyên tắc quan trọng nhất đối với việc dạy học Địa
lí như: bảo đảm tính khoa học và tính vừa sức đối với học sinh, bảo đảm tính hệ thống và mối liên hệ
với thực tiễn đồng thời đảm bảo tính giáo dục, tính tự lực và sự phát triển tư duy của học sinh.
I. NGUYÊN TẮC ĐẢM BẢO TÍNH KHOA HỌC VÀ TÍNH VỪA SỨC ĐỐI VỚI HỌC SINH
Nguyên tắc này trước hết chỉ đạo việc lựa chọn nội dung và sau đó là phương pháp dạy học.
+ Trong quá trình phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật ngày nay, khối lượng tri thức của
Khoa học Địa lí cũng như các ngành khoa học khác tăng lên vô cùng nhanh chóng. Trong khi đó, thời
gian học tập ở trường phổ thông lại hạn chế, không thể kéo dài vô tận, vì thế, một yêu cầu đặt ra là
phải lựa chọn nội dung học tập Địa lí ở nhà trường phổ thông như thế nào cho vừa phải, hợp với khả
năng nhận thức của học sinh, với quỹ thời gian dành cho môn học nhưng vẫn bảo đảm được hệ thống
tri thức hiện đại của Khoa học Địa lí. Để làm được điều này, một mặt bộ môn Địa lí phải tinh giản các
kiến thức cụ thể, có tính chất sự kiện để làm cho nội dung chương trình không nặng nề, quá tải, mặt
khác phải tăng cường việc chọn lọc các tri thức cơ bản, tối cần thiết cho một nền học vấn phổ thông.
Việc phát hiện các quy luật địa lí trong mấy chục năm gần đây đã cho phép bỏ qua hàng trăm trang
sách mô tả các hiện tượng xảy ra trên bề mặt Trái Đất trước đây của các nhà địa lí học thời Cổ đại và
Trung đại. Cần phải tận dụng những thành tựu khoa học đó để đổi mới và giảm nhẹ những giáo trình
Địa lí trong nhà trường phổ thông. Mặc khác, môn Địa lí cũng cần phải trang bị cho học sinh các
phương pháp học tập và nghiên cứu địa lí như: phương pháp quan sát, phương pháp bản đồ…Nhờ nắm
được các phương pháp đó, học sinh sẽ có thể tự mình mở rộng thêm những hiểu biết về địa lí, tự bổ
sung cho mình những kiến thức mới, làm cho môn Địa lí trong nhà trường vừa gắn với thực tiễn, vừa
xích lại gần hơn với Khoa học Địa lí.
+ Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học và tính vừa sức còn đòi hỏi nội dung của mỗi bài Địa lí phải
phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh cả về khối lượng lẫn mức độ.
Đương nhiên, vừa sức không có nghĩa là không đòi hỏi học sinh phải có sự cố gắng cần thiết, giúp


họ vươn tới những tri thức mới và phát triển những năng lực trí tuệ. Tuy nhiên, giới hạn trong vấn đề
này là một điều rất khó xác định. Trong thực tế, nhiều giáo viên bổ sung quá nhiều tài liệu trong khi
giảng dạy làm cho việc học tập của học sinh trơ nên căng thẳng, nặng nề, không cần thiết. Ngược lại,
nhiều giáo viên lại quá đơn giản hoá nội dung sách giáo khoa, biến nó thánh một bảng tóm tắt để học
sinh dễ học, dễ nhớ ngay tại lớp. Khi đặt câu hỏi cũng vậy, có giáo viên thường nêu nhiều câu hỏi quá
dễ, học sinh không cần suy nghĩ cũng có thể trả lời được, nhưng cũng có giáo viên đôi khi đặt ra
những câu hỏi quá khó, vượt khả năng trả lời của học sinh, làm cho các em không thấy hứng thú trong
học tập. Do đó, khi chuẩn bị bài dạy, giáo viên cần lựa chọn, cân nhắc kĩ khối lượng, mức độ kiến
thức, hệ thống câu hỏi sao cho học sinh, trên cơ sở nhận thức của mình, nắm được tri thức, phát triển
được năng lực trí tuệ. Những kiến thức địa lí nói chung đều có đặc tính không gian, vì vậy để bảo đảm
tính khoa học và chính xác trong nhận thức của học sinh, việc xác định chúng trên bản đồ, việc quan
tâm đến các kĩ năng bản đồ trong quá trình giảng dạy Địa lí là hết sức cần thiết. Ngoài những vấn đề
trên, nguyên tắc bảo đảm tính khoa học và vừa sức còn hống lại những thủ thuật thiếu tính sư phạm
như: quá sa đà vào những câu chuyện vụn gặt, giật gân, làm loãng trọng tâm của bài học hoặc lạm
dụng quá mức các đồ dùng dạy học như: treo la liệt các bản đồ, biểu đồ không cần thiết, làm cho bài
học mất cân đối, không đạt yêu cầu về mặt tri thức.
II. NGUYÊN TẮC ĐẢM BẢO TÍNH HỆ THỐNG VÀ LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN
Tính hệ thống là một dấu hiệu đặc trưng của tri thức khoa học. Khi xét riêng về nguyên tắc này,
chúng ta thấy nó yêu cầu bảo đảm không những đối với nội dung dạy học mà còn cả với việc tổ chức
lĩnh hội tri thức của học sinh.
+ Tính hệ thống của môn Địa lí được phản ánh trong hệ thống kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo của
chương trình và sách giáo khoa Địa lí dung trong nhà trường phổ thông.
Tất nhiên, hệ thống tri thức này không nhất thiết phải phản ánh hoàn toàn đúng trình tự hệ thống
Khoa học Địa lí, bởi vì chương trình học cũng như sách giáo khoa ở trường phổ thông còn phụ thuộc
vào một số yêu cầu khác nữa về mặt sư phạm, nhưng về cơ bản, nó vẫn phù hợp với logic của Khoa
học Địa lí. Ví dụ: Địa lí đại cương được học trước Địa lí khu vực, Địa lí tự nhiên được học trước Địa lí
kinh tế - xã hội v.v…
+ Nếu như nội dung tri thức địa lí đưa vào học trong nhà trường phổ thông đã được quy định theo
một hệ thống nhất định thì việc dạy học Địa lí cũng phải tuân theo hệ thống đó.
Giáo viên phải quan tâm đến việc nghiên cứu chương trình và sách giáo khoa không chỉ ở lớp

mình, cấp mình đang dạy mà cả ở những lớp, những cấp có liên quan. Có như vậy mới thấy được vị trí
của giáo trình mình phụ trách trong toàn bộ hệ thống tri thức ở nhà trường phổ thông, mới thấy hết
mối lien hệ của nó với các giáo trình khác. Đối với giáo trình từng lớp cũng vậy, ngay từ đầu năm học,
giáo viên phải nghiên cứu, nắm vững mục đích, yêu cầu và tinh thần cả toàn giáo trình, mối lien hệ
giữa các chương, mục, giữa các bài, có nghĩa là phải nắm vững hệ thống kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo của
toàn bộ giáo trình.
Ngoài ra, người giáo viên Địa lí còn phải chú ý tìm hiểu các mối quan hệ liên môn, bởi vì trong khi
xây dựng chương trình, chính những mối quan hệ liên môn đã được cân nhắc để quy định thứ tự sắp
xếp các môn học trong kế hoạch dạy học ở trường phổ thông. Điều đó có nghĩa là mỗi môn học đều có
những mối quan hệ về mặt tri thức với các môn khác, dựa vào các môn đó và phục vụ cho các môn đó.
Môn Địa lí là một môn có nhiều tri thức liên quan đến các môn: Toán, Lí, Sinh, Hoá, Sử, Kinh tế,
Kĩ thuật v.v…Vì vậy, việc nghiên cứu hệ thống tri thức của môn Địa lí không thể tách rời khỏi việc
nghiên cứu các mối quan hệ lien môn này.
+ Muốn nắm vững tri thức khoa học, nếu chỉ mới hiểu biết nó trong hệ thống không thôi thì chưa
đủ mà còn phải lien hệ nó trong thực tiễn. Mọi khoa học, trong đó có Địa lí, đều là kết quả nhận thức
của con người trong quá trình hoạt động thực tiễn. Trong nhà trường, muốn học sinh tiếp thu được các
cơ sở khoa học, cần khái quát những thành thành tựu khoa học đó bằng những kết quả thực tiễn. Vì thế
muốn nắm vững tri thức khoa học phải luôn luôn liên hệ với thực tiễn, với đời sống.
Đối với môn Địa lí, thực tiễn trước hết là đường lối và các chủ trương, chính sách xây dựng đất
nước, phát triển kinh tế- xã hội của Đảng và Nhà nước. Cơ sở xuất phát của các đường lối, chủ trương
đó phần lớn là dựa trên tình trạng các điều kiện, các nguồn lợi tự nhiên, nguồn lao động, tình hình khai
thác và sử dụng chúng v.v…tức là thực tiễn của đất nước ta. Đó cũng là nội dung học tập của môn Địa
lí.
Thực tiễn đối với bộ môn Địa lí còn là những diễn biến xảy ra trong đời sống kinh tế - xã hội ở
nước ta và trên thế giới mà sách giáo khoa không thể nào phản ánh được một cách cụ thể, nhanh chóng
và kịp thời. Thực tiễn còn bao gồm cả đời sống bản thân của học sinh, những kinh nghiệm của cá nhân
họ. Hang ngày, nhờ tiếp xúc với thiên nhiên, với các hoạt động kinh tế - xã hội, đọc sách báo, nghe
đài, xem vô tuyến truyền hình, thăm các cuộc triễn lãm, tham gia lao động sản xuất v.v…mà các em
tích luỹ được nhiều kiến thức thực tế. Nếu giáo viên biết khai thác những kinh nghiệm sống đócủa các
em thì việc dạy học Địa lí sẽ thuận lợi, sâu sắc và vững chắc hơn nhiều.

+ Liên hệ dạy học với thực tiễn cần được thực hiện theo hai chiều.
Một mặt lấy thực tiễn để bổ xung cho nội dung dạy học Để lí, làm cho nội dung đó thêm phong
phú, sinh động, mặt khác tập cho học sinh vận dụng tri thức địa lí vào cuộc sống, vào lao động sản
xuất và các hoạt động khác. Muốn cho học sinh làm được đều đó thì giáo viên phải chú ý rèn luyện
cho họ nắm được một cách vững chắc các kĩ năng, kĩ xảo địa lí cần thiết như: kĩ năng sử dụng bản đồ,
kĩ năng quan sát, phân tích, lập các bản thống kê, biểu đồ, kĩ năng tìm hiểu, điều tra thực tế, khảo sát
địa phương v.v…
III. NGUYÊN TẮC ĐẢM BẢO TÍNH GIÁO DỤC
Nội dung giáo dục mà nhà trường có nhiệm vụ trau dồi cho học sinh được gắn liền với nội dung
kiến thức khoa học dạy trong nhà trường. Nếu người giáo viên có ý thức đối với trách nhiệm giáo dục
của mình thì việc dạy những kiến thức khoa học, những quy luật v.v…sẽ trở thành niềm tin, thành thế
giới quan, thành những tình cảm, đạo đức cách mạng.
Mỗi môn học trong nhà trường phổ thông đều có nội dung giáo dục phong phú do đặc trưng của
môn học quyết định. Nội dung giáo dục của môn Địa líđược thể hiện trong các mặt sau:
+ Bồi dưỡng cho học sinhthế giới quan duy vật biện chứng.
Nhiệm vụ của môn Địa lí ở trường phổ thông là cung cấp cho học sinh bức tranh về tự nhiên được
coi như một thể thống nhất, hoàn chỉnh về hoạt động sản xuất của con người, trong mối liên hệ với tự
nhiên. Trong quá trình lĩnh hội những tri thức địa lí, dưới sự chỉ dẫn của giáo viên, học sinh phải luôn
luôn phân tích những mối quan hệ nhân quả, giữa các hiện tượng tự nhiên cũng như kinh tế - xã hội,
giữa các yếu tố thành phần của tự nhiên, giữa tự nhiên và các hoạt động sản xuất của xã hội. Từ những
phân tích trên, qua quá trình học tập từng năm, giáo viên sẽ giúp cho học sinh khái quát hoá và hệ
thống hoá những kiến thức khoa học đã lĩnh hội, củng cố nhận thức của họ về tính khách quan của các
hiện tượng tự nhiên và xã hội, về mối liên hệ phổ biến giữa các hiện tượng tự nhiên, kinh tế - xã hội và
về sự vận động không ngừng của các sự vật.
Nhận thức đó đươc học sinh rút ra từ nội dung học tập Địa lí, dưới sự hướng dẫn của giáo viên sẽ
dần dần trở thành niềm tin và thế giới quan cho học sinh.
+ Bồi dưỡng cho học sinh phẩm chất, đạo đức của người công dân tốt, người lao động mới.
Phẩm chất đầu tiên cần bồi dưỡng cho học sinh là lòng yêu Tổ quốc. Các giáo trình Địa lí tự nhiên
và kinh tế - xã hội có nhiều khả năng về mặt này. Lòng yêu Tổ quốc mà chúng ta giáo dục cho học
sinh không phải là lòng yêu nước chung chung mà nó phải thể hiện từng bước một cách cụ thể long

say mê học tập, nắm vững tri thức, ở ý thức lao động xây dựng trường, lớp, ở tinh thần tham gia các
hoạt động xã hội, ở ý thức bảo vệ môi trường, ở thái độ trách nhiệm trước tình hình dân số nước ta
hiện nay, ở sự hiểu biết nhiệm vụ của người công dân trong đời sống xã hội sau khi rời ghế nhà trường
v.v…
Phẩm chất thứ hai mà môn Địa lí có khả năng bồi dưỡng cho học sinh là tinh thần đoàn kết, bình
đẳng và tôn trọng con người, tôn trọng các dân tộc khác trên đất nước mình và trên thế giới. Qua giáo
trình Địa lí các nước, học sinh sẽ hiểu được đời sống kinh tế, xã hội, chính trị của dân tộc, của nhân
dân các nước khác nhau. Các em sẽ hiểu tại sao trên thế giới hiện nay lại có nước giàu, nước nghèo, tại
sao nhân dân ở đa số các nước đang phát triển vẫn có nhiều khó khăn, gian khổ trong công cuộc xây
dựng đất nước v.v…
Từ thực tế đó, các em sẽ cảm phục tinh thần lao động, bất chấp gian khổ trong đấu tranh với thiên
nhiên để phát triển kinh tế - xã hội của nhân dân ta, cũng như của nhân dân các nuớc khác trên thế
giới.
Để đảm bảo nguyên tắc giáo dục trong quá trình dạy học Địa lí, cần phải chú ý một số vấn đề sau
đây:
- Phân tích nội dung giáo dục, nội dung tri thức dạy học cho học sinh trong mỗi bài lên lớp, tuyệt
đối tránh gò bó, gán ghép một chiều. Chẳng hạn khi nói về Địa lí Việt Nam, không nên chỉ nêu những
thuận lợi mà phải đề cặp đến cả những khó khăn, trở ngại. Không chỉ nên phân tích sự giàu đẹp của
đất nước ta mà phải nói đến cả những mặt hạn chế. Nêu lên những mặt khó khăn, hạn chế chính là để
giáo dục cho học sinh tinh thần trách nhiệm và long mong muốn cống hiến nhiều nhất cho Tổ quốc.
- Khi dạy Địa lí kinh tế - xã hội phải luôn luôn lien hệ những kiến thức địa lí với thực tiễn sản xuất,
với tình hình xã hội ở địa phương và ở trong nước, đặc biệt là với các chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn đổi mới hiện nay. Về mặt này, môn Địa lí có nhiều
thuận lợi bởi vì đường lối, chính sách là nguồn quan trọng nhất để phát triển nền kinh tế - xã hội của
đất nước.
- Một biện pháp rất có hiệu quả trong việc giáo dục học sinh là phải tổ chức cho họ khảo sát, tìm
hiểu địa phương về mọi mặt: tự nhiên, dân cư, kinh tế, xã hội. Thực tế địa phương được phân tích sâu
sắc chính là cơ sở có tính thuyết phục cao, có thể chuyển biến tư tưởng, tình cảm của các em.
- Để cho việc giáo dục học sinh them sâu sắc, cũng cần chú ý đến thực tế của bản thân các em. Phải
quan tâm đến tình cảm, những suy nghĩ, những hành động của các em trong đời sống hàng ngày để từ

đó có biện pháp giáo dục thích hợp nhất.
- Một điều quan trọng có tác dụng lớn nữa là bản than giáo viên phải phấn đấu trở thành tấm gương
sáng cho học sinh noi theo. Chỉ khi nào người thầy có những tư tưởng, tình cảm cao đẹp thì mới
truyền cảm được cho các em, mới trở thành người :kĩ sư tâm hồn thực sự”.
IV. NGUYÊN TẮC ĐẢM BẢO TÍNH TỰ LỰC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN TƯ DUY CHO HỌC
SINH
Nguyên tắc này được rút ra từ tính quy luật về sự thống nhất giữa hoạt động dạy và học trong quá
trình dạy học. Bảo đảm nguyên tắc này thực chất là đòi hỏi sự kết hợp tối ưu giữa vai trò chủ động, tự
lĩnh hội tri thức của người học sinh với vai trò chỉ đạo, hướng dẫn của giáo viên. Trong những năm
gần đây, nhiều công trình về lí luận dạy học đã phê phán khuynh hướng dạy học của nhà trường truyền
thống là không đáp ứng được yêu cầu về bồi dưỡng, đào tạo thế hệ trẻ trong giai đoạn mới của cuộc
Cách mạng khoa học kĩ thuật. Dựa trên cơ sở của việc vận dụng trí nhớ, khuynh hướng dạy học cũ
không phát huy được đầy đủ khả năng, không tạo điều kiện phát triển tu duy và năng lực sáng tạo cho
học sinh. Khuynh hướng dạy học đó cũng không làm cho học sinh biết cách tự lĩnh hội tri thức, phát
huy năng lực tự giáo dục, mở rộng và đào sâu tri thức - điều quan trọng đối với mỗi công dân trong
thời đại hiện nay.
Tuy nhiên, trong quá trình dạy học, việc bảo đảm tính tự lực và phát triển tư duy cho học sinh cũng
không phải là một việc dễ dàng.
+ Muốn đảm bảo tính tự lực của học sinh trong việc lĩnh hội tri thức, mỗi giáo viên phải giáo dục
cho học sinh tự giác nhận thức được nhiệm vụ học tập của mình, làm cho họ hiểu rõ: vì sao họ phải cố
gắng học tập, nhiệm vụ học tập đòi hỏi họ phải làm những gì và kết quả ra sao? v.v…
Nói chung, trước hết đó là vấn đề làm cho học sinh ý thức được động cơ học tập.
Đối với môn Địa lí, một trong những môn học chưa được học sinh quan tâm đúng mức trong nhà
trường phổ thông thì việc làm cho học sinh có được động cơ học tập đúng đắn là một vấn đề khó khăn
đối với giáo viên.
Ngoài ra, bản than học sinh cũng phải được chuẩn bị chu đáo và cụ thể về mặt kĩ năng học tập bộ
môn thì mới có thể lĩnh hội được những tri thức địa lí mới.
Học sinh phải biết tự lực phân tích các sự kiện, hiện tượng địa lí, biết khái quát hoá, hệ thống hoá
cũng như vận dụng tri thức địa lí vào thực tiễn học tập dưới sự hướng dẫn và chỉ đạo của giáo viên.
Điều đó có nghĩa là học sinh phải nắm được các thao tác tư duy, biết vận dụng tri thức vào các tình

huống mới và bước đầu biết vận dụng các thao tác tư duy sang tạo như: biết phát hiện vấn đề và giải
quyết vấn đề v.v…
+ Nguyên tắc bảo đảm sự phát triển của tư duy, cũng là bảo đảm sự ưu tiên của tư duy so với trí
nhớ.
Cho đến nay, nhiều học sinh vẫn quan niệm rằng: Địa lí là một môn học đòi hỏi phải học thuộc
lòng kiến thức như: phải nhớ số liệu, địa danh, vị trí của các lãnh thổ trên bản đồ v.v…Muốn cho học
sinh khỏi có nhận thức sai lầm này giáo viên phải tránh lối dạy nhồi nhét kiến thức thiên về mô tả,
trình bày số liệu làm cho học sinh thụ động thu nhận thông tin, mà phải biết tổ chức cho học sinh tự
giác nắm tài liệu cần lĩnh hội theo một trình tự logic chặt chẽ. Những nội dung cơ bản cần phải được
khắc sâu và làm nổi bật. Về phía học sinh, ngoài việc nắm vững các thao tác tư duy cần phải thương
xuyên vận dụng các tri thức để giải thích các sự vật, hiện tượng địa lí được đề cập đến trong quá trình
học tập cũng như trong đời sống thực tế.
Họ cần thuờng xuyên được kiểm tra, đánh giá và phân tích trình độ phát triển về tư duy của mình.
Câu hỏi và thảo luận
1. Ý nghĩa của việc đề cao các nguyên tắc dạy học? Những nguyên tắc của việc dạy học Địa lí có
thực sự cần thiết không? Ngoài các nguyên tắc nêu trên, anh (chị) còn biết những nhuyên tắc dạy học
nào khác nữa?
2. Theo ý kiến anh (chị) thì nguyên tắc nào được vận dụng trong dạy học Địa lí là có ý nghĩa quan
trọng nhất? Vì sao?
3. Nguyên tắc bảo đảm tính khoa học và tính vừa sức có mâu thuẫn nhau không? Chúng thể hiện như
thế nào trong việc dạy học Địa lí.
4. Về nguyên tắc bảo đảm tính hệ thống và liên hệ với thực tiễn, anh (chị) hãy cho một số ví dụ minh
hoạ sự cần thiết của nguyên tắc này đối môn Địa lí.
5. Anh (chị) hãy liên hệ xem từ trước đến nay trong dạy học Địa lí đã thực hiện nguyên tắc bảo đảm
tính giáo dục như thế nào?
6. Theo anh (chị) thì chương trình và sách giáo khoa Địa lí hiện nay đã bảo đảm được các nguyên tắc
nêu ra chưa?

×