Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Nghiên cứu NHỮNG BIẾN ĐỔI VỀ CƠ CẤU XÃ HỘI VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.28 KB, 18 trang )

NHỮNG BIẾN ĐỔI VỀ CƠ CẤU XÃ HỘI VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA
TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI CỦA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA
Ở TÂY NGUYÊN VIỆT NAM
1. Đặt vấn đề
Tây Nguyên được xác định trên bản đồ Việt Nam là từ quần sơn Ngọc
Linh, cực Bắc tỉnh Kon Tum, giáp với tỉnh Quảng Nam, chạy dọc biên giới Lào -
Cămpuchia xuống đến hết Cao nguyên Lâm Viên. Nếu tính từ Bắc xuống Nam,
Tây Nguyên có các tỉnh: Kom Tum ở cực Bắc, Gia Lai, Đak lăk ở Trung và Đăk
Nông, Lâm Đồng ở Nam Tây Nguyên. Trên núi rừng bao la, hùng vĩ này có
nhiều dân tộc bản địa quần cư khá lâu đời, như: Giẻ-Triêng, B’râu, Rơ măm, Gia
rai, Ba na, Xơ đăng, Êđê, Mnông, Mạ, Chu ru, Cơ ho. Mỗi dân tộc nói trên đều
thuộc một trong hai ngữ hệ Malayo - polynésien và Môn - Khmer.
Hai dân tộc Gia rai và Ba na tiêu biểu cho hai ngữ hệ ở Tây Nguyên.
Người Gia rai thuộc ngữ hệ Malayo - Polynésien và có số dân đông nhất Tây
Nguyên, khoảng 350 ngàn người. Riêng tỉnh Gia Lai, người Gia rai có khoảng
250 ngàn người. Còn người Ba na có số dân đông thứ ba ở Tây Nguyên, sau
người Gia rai và Êđê, nhưng lại đứng đầu ngữ hệ Môn-Khmer, với khoảng 150
ngàn người. Riêng ở tỉnh Gia Lai, người Ba na có khoảng 120 ngàn người. Như
vậy có thể xem tỉnh Gia Lai là địa bàn cư trú tập trung nhất của hai dân tộc Gia
rai và Ba na ở Tây Nguyên Việt Nam
1
.
Do phạm vi của đề tài không cho phép nghiên cứu tất cả các dân tộc trên
Tây Nguyên, nên chúng tôi chọn tỉnh Gia Lai, nơi tập trung hai dân tộc đứng đầu
hai hệ ngôn ngữ để nghiên cứu trường hợp, căn cứ vào những tiêu chí quan trọng
sau đây:
- Hai dân tộc Gia rai và Ba na quần cư khá tập trung trên hai khu vực rộng
lớn của tỉnh Gia Lai. Người Gia rai sống ở phía Nam và Tây Nam tỉnh Gia Lai,
thuộc các huyện liền kề nhau: Krông pa, AJunpa, Chư sê, Chư prông, Chư păh,
Đức cơ và thành phố Pleiku. Người Ba na lại sống ở phía Đông Bắc của tỉnh,
gồm các huyện: Mang Yang, Đăk Đoa, An Khê, Kon chro, Kbang


2
.
- Hai dân tộc nói trên đều có truyền thống văn hóa rất lâu đời, đã trở thành
hệ thống luật tục khá chặt chẽ, được lưu truyền qua hàng ngàn năm lịch sử và đã
chi phối, ảnh hưởng rất lớn đến các dân tộc bản địa khác trong vùng Tây Nguyên.
- Nghiên cứu trường hợp ở hai dân tộc lớn, trên một địa bàn ở trung tâm
Tây Nguyên sẽ có cơ sở khoa học để đánh giá sự biến đổi hiện đại về cơ cấu xã
hội và bản sắc văn hóa trong các dân tộc của cả vùng Tây Nguyên. Có thể xem
đây là một mô hình để nghiên cứu và so sánh. Khi cần thiết, vấn đề sẽ được xem
xét trên bình diện chung của khu vực Tây Nguyên.
Ngoài ra, đề tài còn đặt ra những vấn đề hết sức nóng bỏng đã và đang xảy
ra trong quá trình đổi mới ở Tây Nguyên hiện nay, mà cả người dân và chính
quyền đang đứng trước những thách thức mới. Hiện nay, Việt Nam đang thực
hiện công cuộc đổi mới toàn diện. Những vấn đề về kinh tế-xã hội đang biến đổi
từng ngày. Từ đó kéo theo hàng loạt những biến đổi trong các lĩnh vực tín
ngưỡng, tôn giáo, văn hóa… Song vấn đề có tính cách nóng bỏng và mới mẻ nhất
là sự biến đổi do tác động của di dân tự do. Người Kinh và các dân tộc ở miền
núi phía bắc đổ về đây lập nghiệp, buộc người bản địa phải phân chia không gian
ruộng đất. Cùng với hàng loạt các dự án, công ty được thành lập, như: Công ty
cao su, cà phê, lâm trường trồng rừng, khai thác gỗ… và vấn đề đô thị hóa đã tác
động rất lớn đến đời sống người dân. Đó là những nguyên nhân tạo ra nhiều mâu
thuẫn và thách thức mới. Trong tiến trình đổi mới đã nảy sinh ra hàng loạt vấn đề
chưa thể khắc phục ngay được.
Do nội dung mới nên cần có tư duy và cách tiếp cận nghiên cứu mới.
Những câu hỏi được đặt ra: Nội dung của sự biến đổi là gì? Và nguyên nhân của
sự biến đổi đó? Người Tây Nguyên cần gì, muốn gì? Qua bao đời lầm than, đói
khổ và lạc hậu, nay là công dân của một quốc gia thống nhất, lại là người thiểu
số, họ có quyền được đòi hỏi có cuộc sống ấm no và hạnh phúc. Chúng tôi cũng
đặt ra các mô hình nghiên cứu: làng xen cư với người Kinh, làng không xen cư
(thuần Gia rai hoặc Ba na), làng xen cư nhiều dân tộc khác nhau. Từ đó áp dụng

các phương pháp nghiên cứu khoa học liên ngành và các chuyên ngành để so
sánh, trả lời xác đáng những câu hỏi đã đặt ra. Đặc biệt tìm ra những giải pháp
phù hợp, khả thi cho vùng dân cư đặc thù và đặc biệt nhạy cảm này.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1 Nhận thức lại địa bàn nghiên cứu
Nhận thức về Tây Nguyên với cách miêu tả lại toàn bộ đời sống, phong tục
của các cư dân, không khó. Vấn đề là nhận thức đúng bản chất, điều kiện xã hội
một cách khách quan, không áp đặt, không định kiến, không thiên vị. Như vậy
phải có cách nhìn khoa học và biện chứng mới có cơ may giải mã được những
“ẩn số” về Tây Nguyên nói chung và người Gia rai - Ba na nói riêng.
2.1.1. Tây Nguyên cổ truyền
Vào khoảng giữa thế kỷ thứ 19 trở về trước, vùng đất này hoàn toàn là
giang sơn của người Thượng. Mỗi tộc người sống thành một khu vực cư trú
riêng, lớn, nhỏ tùy theo số dân, số làng, được hình thành một cách tự nhiên. Đơn
vị cơ bản, cao nhất và duy nhất của tổ chức xã hội là làng đồng tộc
3
.
- Về kinh tế: Với kỹ thuật trồng lúa khô trên nương, rẫy, người Gia rai, Ba
na đã bước vào thời kỳ của nền văn minh nông nghiệp-hình thái “văn minh lúa
khô nương rẫy cao nguyên”. Cây lúa khô đã tạo nên các Plei (làng), và nó đã tồn
tại suốt chiều dài lịch sử. Tổ chức xã hội làng của người Gia rai, Ba na đều đạt
đến trình độ đồng đều đáng kinh ngạc. Không thấy sự khác biệt quá nhiều giữa
các làng, dù là họ ở những địa phương cách xa nhau
4
.
Phương thức canh tác cổ truyền của người Gia rai, Ba na là chặt cây, phá
rừng, chưa biết dùng phân để canh tác, nên họ phải luân canh trên một diện tích
rừng rộng lớn. Làng đã hình thành, nhà cửa đã ổn định nhưng có thể do dịch bệnh
hoặc do nương rẫy đã cằn cỗi, là họ lại dời làng đi tìm nơi dựng làng mới. Tuy
nhiên, với kỹ thuật lúa khô đã đưa cư dân Gia rai, Ba na thoát khỏi nền kinh tế

hái lượm nguyên thủy và bước vào xã hội tiền giai cấp, tiền quốc gia, tiền Nhà
nước.
Về tổ chức xã hội, làng cổ truyền Tây Nguyên mang tính biệt lập, gắn kết
khá hoàn chỉnh và khép kín về khu vực canh tác, khu vực cư trú và sinh hoạt
cộng đồng làng. Tổ chức làng được vận hành hoàn toàn theo lệ tục, tập quán và
kinh nghiệm lưu truyền. Mỗi làng sống biệt lập và khép kín nên quan hệ giữa các
làng không có gì đáng kể. Đứng đầu mỗi làng có già làng, là những người đứng
đầu các nóc nhà, có uy tín, được mặc nhiên giao phó một số công việc chung của
làng khi cần thiết, không thông qua tuyển chọn, bầu cử. Xã hội Tây Nguyên chưa
hề xuất hiện kinh thành đô thị, mà chỉ là một tập hợp khá vững chắc, có nề nếp,
có truyền thống rõ rệt, đã định hình và trở thành khuôn mẫu. Nhờ vậy mà người
Gia rai, Ba na đã sáng tạo nên một kho tàng văn hóa rất phong phú, đa dạng và
độc đáo, cả về trữ lượng và thể loại
5
.
Về đời sống vật chất, người Gia rai, Ba na dựa vào nguồn lương thực, thực
phẩm sau đây, để thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của đời sống.
- Nguồn chính do trồng trọt trên nương rẫy.
- Nguồn do săn bắt, hái lượm những thức có sẵn trong thiên nhiên.
- Nguồn do chăn nuôi, thuần dưỡng chế biến.
Người Gia rai, Ba na tuy đã có nghề rèn, làm gốm, mộc nhưng kỹ thuật
còn kém. Đặc biệt là việc chế biến thức ăn còn sơ sài và mất vệ sinh. Đồng bào
không sử dụng nguồn thịt trâu, bò, lợn, gà chăn nuôi được phục vụ bữa ăn hàng
ngày. Có khi trong một dịp lễ hội họ giết hàng chục con trâu, bò cho dân làng ăn
hết trong vài ngày, sau đó lại thiếu thốn cả năm. Hoặc trong một lễ Pơ thi (bỏ mả)
cả làng giết thịt và ăn hết hàng chục con trâu, bò mà không hề dùng nước để rửa.
Gia súc thường nuôi ở gầm nhà sàn, rất mất vệ sinh. Thức uống thường xuyên là
rượu cần. Sau mùa, lúa đã đầy bồ, đầy kho là những tháng ninh nơng (nghỉ ngơi),
đồng bào làm rượu cần uống thỏa thuê, không hề nghĩ đến mùa sau, trời mưa bão
sẽ sống bằng gì. Đồ mặc là do đồng bào tự trồng bông, kéo sợi và dệt lấy khố cho

đàn ông và váy cho đàn bà. Đây là công việc của phụ nữ, hầu như đã được phân
công theo giới tính. Còn đàn ông làm những công việc nặng nhọc như chặt cây,
làm nhà, đan lát, săn bắn…
6
Về văn hóa: Tín ngưỡng của người Gia rai, Ba na chưa trở thành tôn giáo,
mà chỉ là hình thái tín ngưỡng “đa thần”. Họ chưa có bàn thờ cố định, chưa có
hình tượng chân dung thần linh và chưa có lớp người chuyên hành nghề tôn giáo.
Đi liền với tín ngưỡng “đa thần” là một loạt các lễ thức rất phiền phức và tốn
kém. Tất cả trâu, bò, lợn, gà, lương thực nuôi trồng được, vất vả quanh năm
nhưng chủ yếu chỉ để cúng thần (Yàng). Người Gia rai, Ba na không quan niệm
“con trâu là đầu cơ nghiệp” như người Kinh, mà con trâu nuôi cho chóng lớn để
dâng lên Yàng, biểu hiện của lòng tôn kính và sợ hãi của con người. Vì Yàng có
thể gieo phúc, giáng họa hay cho một mùa màng bội thu, cho con người thoát
khỏi dịch bệnh
7
.
Người Gia rai, Ba na tuy chất phác, bình dị nhưng lại có một khả năng
sáng tạo văn hóa dồi dào và một đòi hỏi văn hóa nghệ thuật rất lớn. Đặc biệt là
kho tàng văn học dân gian và nghệ thuật diễn xướng.Vốn văn nghệ dân gian của
họ vừa cổ truyền vừa hiện đại, rất phù hợp với đời sống hiện nay. Người Gia rai,
Ba na rất say mê âm nhạc, ca hát, nhảy múa và kể chuyện. Đối với họ nếu thiếu
tiếng ca, điệu nhạc như thiếu cơm ăn, nước uống hằng ngày. Đêm đêm, quanh
ngọn lửa hồng, bập bùng dưới mái nhà Rông ấm cúng, những ông già kể chuyện
cho con cháu nghe (Hơ ri của người Gia rai, Hơmaon của người Ba na, Khan của
người Êđê). Đó là những thiên sử thi bất hủ, ca ngợi những nhận vật kỳ vĩ, là
người con dũng cảm, không sợ hi sinh, chiến đầu bảo vệ cộng đồng và tình yêu
trong sáng thủy chung. Những thiên sử thi ấy “cao vời vợi như đỉnh núi Chư
pông, trong suốt như dòng nước sông Ba, tỏa hương thơm ngào ngạt như mùa
hoa Ê pan nở trắng giữa núi rừng Tây Nguyên”. Người Gia rai, Ba na còn có một
kho tàng dân ca với nhiều hình thức hát khác nhau. Rồi ca dao, tục ngữ, thành

ngữ, lời nói vần, kho tàng truyện cổ tích… Mỗi bài ca như một trang sử sinh
động, ghi lại những bước thăng trầm của cuộc sống con người8. Họ còn sáng tạo
ra một kho tàng nhạc khí rất phong phú, đa dạng, thuộc nhiều loại, nhiều họ,
nhiều nhóm và được chế bằng nhiều chất liệu khác nhau. Từ đá, tre, nứa, gỗ, dây
rừng đến đồng, chì, gang, sắt và các hợp kim khác
9
. Nghệ thuật dân gian Gia rai,
Ba na còn nổi bật ở mảng điêu khắc và kiến trúc, phương pháp chế tạo và sử
dụng nhà mồ, tượng mồ, tạo hoa văn trên trên vải, trên đồ đan lát, trên mái nhà
Rông… Đặc biệt, phải kể đến những con rối giật, biểu tượng của lòng khao khát
tự do và những pho tượng mồ rất thô phát mà gợi mở, sống động. Có thể coi như
một quần thể văn hóa sống động khép kín với lối kiến trúc mang bản sắc Tây
Nguyên dị biệt. Múa dân gian Gia rai, Ba na còn rất nguyên sơ. Kể cả khi sắp giết
một con vật, người ta múa chung quanh nó để xin lỗi, coi như số nó phải chết chứ
con người không hề muốn thế. Ở đây còn là một di chỉ văn hóa, qua các công
trình khai quật khảo cổ học ở Biển Hồ, Trà Dôm (Pleiku), đã thu được nhiều hiện
vật đá mới, đồ gốm
10
. Hiện nay còn có di vật, di tích lịch sử của người Chàm,
hiện tượng Vua Lửa (Potau Pui), Tây Sơn Thượng Đạo…
Về phong tục tập quán: Người Gia rai, Ba na có một hệ thống lễ thức tín
ngưỡng bao quanh “vòng đời người” và “vòng cây trồng”. Mỗi loại phong tục
được bố trí như những vòng tròn khép kín và liên kết với nhau rất chặt chẽ.
- Loại phong tục theo “vòng đời người” có các lễ thức: Khi đứa trẻ cất
tiếng khóc chào đời có lễ “thổi tai” công nhận đứa trẻ vào cộng đồng và cầu xin
các Thần cho con tôi hay ăn, chóng lớn, chân bước theo kịp gió, mưa, có sức
khỏe hơn người và làm ăn giàu có, con cháu đầy nhà, hạnh phúc muôn đời… Khi
lớn lên tổ chức lễ “Cà răng căng tai”, công nhận đứa trẻ đã trưởng thành. Khi lấy
vợ, lấy chồng có lễ “trao vòng”. Đến tuổi già, tổ chức lễ “Mơ pú” (cầu mong sức
khỏe). Khi chết tổ chức lễ tang. Cuối cùng là lễ “Pơ thi” (bỏ mả). Sau lễ này

người đời mới thực sự lãng quên người đã khuất và người góa bụa mới được
“giải phóng”, có quyền đi lấy vợ, lấy chồng mới.
- Lễ phong tục theo “vòng cây trồng” bắt đầu bằng lễ chọn đất. Khi đã
chọn được một cánh rừng làm rẫy mới, người ta mang lễ vật cầu xin thần rừng,
thần đất, thần núi, thần cây hãy phù hộ cho con người trồng được nhiều lúa, ngô
đầy rẫy, đầy kho. Tiếp đến là lễ phát rẫy, lễ đốt rẫy, lễ gieo hạt, lễ cầu mưa. Khi
thu hoạch có lễ mừng lúa mới, lễ chất thóc vào kho… Ngoài ra, người Gia rai, Ba
na còn có các loại lễ thức khác, như lễ đâm trâu tạ ơn, đâm trâu mừng chiến
thắng, lễ cúng bến nước, lễ mừng nhà mới, lễ mừng nhà Rông mới, lễ cúng trừ tà
ma, dịch bệnh…
11
- Trong quan hệ gia đình, dấu vết của chế độ mẫu hệ còn khá rõ nét. Người
đàn bà lớn tuổi trong nóc có quyền định đoạt mọi công việc trong một gia đình
lớn. Điều quan trọng hơn nữa là vai trò của người đàn ông rất mờ nhạt, chỉ có
bổn phận làm ra nhiều của cải, nhưng không may người vợ chết thì anh ta có thể
phải ra đi với hai bàn tay không, nếu bên vợ không còn cô nào chưa chồng để lấy
(tục nối dây). Trong khi người Gia rai có mười họ (Nay, Siu, Ksor, Rơmah, Kpa,
Rơchăm, Puih, Rơô, Hiao, Rơ lan), thì người Ba na hầu như chưa có họ. Cách cư
trú phổ biến là ở luân phiên bên vợ và bên chồng, cùng lưu trú trong một nhà dài.
Trong lao động sản xuất, chiến đấu, người Gia rai, Ba na đã sáng tạo ra những
công cụ, tuy đơn giản nhưng khá đặc biệt, như bộ công cụ làm rẫy, săn bắn, đo
lường, làm rượu cần, dệt vải…Nhìn chung các bộ công cụ này còn sơ sài, chưa
chuyên hóa, chưa trở thành hàng hóa, do xã hội cổ truyền chưa có chợ, chưa có
tiền tệ v.v…
Từ những nhận định và phân tích trên, có thể nêu lên những hằng số giá trị
của văn hóa xã hội cổ truyền Tây Nguyên nói chung và người Gia rai, Ba na nói
riêng:
- Tổ chức làng tiền giai cấp, tiền nhà nước, tiền quốc gia.
- Quan hệ xã hội mẫu hệ hoặc còn nhiều dấu vết mẫu hệ.
- Tín ngưỡng “đa thần” bao trùm, chưa trở thành tôn giáo.

- Chưa có chợ, chưa có tiền tệ và các công cụ đo lường chuẩn, chưa có lịch
chuẩn, chưa có giáo dục, chưa có chữ viết.
- Sinh hoạt văn hóa cộng đồng phong phú và đặc sắc.
Nếu xem xét trong tiến trình phát triển của lịch sử thế giới và trong bối
cảnh Đông Nam Á, Tây Nguyên còn sống trong nền văn hóa bản địa, trước khi
chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn, Trung. Riêng đối với Việt Nam, có thể tìm thấy
lại ở Tây Nguyên bóng dáng nền văn hóa cổ xưa của chính mình. Hơn thế nữa
Tây Nguyên là một vùng biên giới trọng yếu phía Tây nam, là địa bàn chiến lược
quan trọng của Việt Nam. Đây là vùng núi cao, đất rộng, người thưa. Tuy kinh tế,
văn hóa phát triển chậm nhưng lại có vị trí chiến lược về quốc phòng và an ninh
quốc gia. Trong lịch sử nơi đây là một trong những tuyến đầu chống mọi âm mưu
lấn chiếm, dòm ngó, xâm nhập vào Việt Nam qua đường biên giới. Mặt khác Tây
Nguyên còn là vùng đất đặc thù, có vai trò không thể thiếu được của nền kinh tế,
chính trị của cả nước.
12
Từ những giá trị văn hóa nói trên nên xem Tây Nguyên là một khu vực văn
hóa đặc biệt và cần có những chính sách đặc biệt.
2.1.2. Tây Nguyên trong bối cảnh “đổi mới”
Qua phân tích và đánh giá trên, đã nhận ra được Tây Nguyên nói chung và
Gia Lai nói riêng trong đời sống và xã hội cổ truyền. Một vùng dân cư còn mang
nhiều yếu tố bản địa với một nền kinh tế nương rẫy, tự túc, tự cấp. Khi gặp luồng
gió “đổi mới” họ đã tiếp nhận những gì và phản ứng ra sao? Nguyên nhân nào đã
phát sinh ra những mâu thuẫn xã hội? Và các cấp chính quyền đã làm gì để giải
quyết những vấn đề bức xúc ấy? Đó là những câu hỏi cần nghiên cứu và có
những giải pháp thỏa đáng.
Hiện nay xã hội Tây Nguyên đang diễn ta quá trình biến đổi nhanh chóng
sâu sắc. Đứng truớc quá trình “đổi mới” mạnh mẽ hòa nhập quốc gia và quôc tế,
điều tất yếu là xã hội cổ truyền sẽ nhanh chóng mất đi. Xưa kia tuy đất rộng,
người thưa, nhưng đó hoàn toàn là giang sơn của người bản địa. Ngày nay, nơi
đây đã trở thành khu vực đa dân tộc, đa văn hóa và đa tôn giáo, tác động trực

tiếp, làm thay đổỉ cơ bản đời sống văn hóa-xã hội của người dân tộc.
Lịch sử di dân đối với Tây Nguyên bắt đầu vào cuối thế kỷ thứ 18, một số
người Kinh theo chân nhà Tây Sơn lên vùng An Khê xây dựng “Tây sơn Thượng
đại”, dấy binh đánh quân xâm lược nhà Thanh. Vào nửa cuối thế kỷ 19 có một số
người Kinh nữa lên vùng Kon Tum sau khi các linh mục Pháp tìm được cơ sở
truyền đạo Thiên chúa giáo. Từ đó dần dần người Kinh lên Tây Nguyên sinh
sống ngày càng đông. Nhất là sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước (30/04/1975), với chủ trương phân phối lao động trong cả nước, người Kinh
và một số dân tộc khác trong cả nước lần lượt lên Tây Nguyên với số lượng lớn.
Đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, họ ồ ạt lên lập nghiêp ngày càng đông, làm cho
cơ cấu dân cư ở Tây Nguyên ngày càng phức tạp, với nhiều ngôn ngữ, phong tục
tập quán khác nhau. Các dân tộc bản địa từ chỗ là cư dân chính, làm chủ núi
rừng, nay chỉ còn là một bộ phận nhỏ trong dân số địa phương và khu vực.
Dân cư biến đổi thì cơ cấu xã hội biến đổi theo. Trước đây núi rừng âm u,
các làng dân tộc sống biệt lập, tự cung tự cấp. Nay những vùng sâu ấy là các
nông trường cao su, cà phê, chè, lâm trường khai thác gỗ… Dân tứ xứ về tự do
lập nghiệp, mọc lên những thị tứ, thị trấn, tạo nên một bức tranh Tây Nguyên
phức tạp. Vấn đề di dân, bên cạnh những mặt tốt thì hàng loạt những vấn đề nảy
sinh mâu thuẫn. Người mới đến thì cho rằng ở đâu cũng là đất nước mình, nơi
nào dễ thì cứ ở, cứ làm ăn. Người bản địa thì cho là người Kinh lên chiếm đất của
họ, đẩy họ vào rừng sâu. Bởi người Kinh thường bám trụ ở các trục giao thông và
những nơi thuận tiện canh tác. Người bản địa sống gần người Kinh thấy mình
thua kén nên cứ thế bán dần đất đai, lùi vào rừng. Ý thức này luôn tiềm ẩn trong
suy nghĩ của người bản địa. Thực tế bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã và
đang làm đổi thay nhiều mặt ở đây. Các nhà máy thủy điện được xây dựng,
đường dây 500kv đi qua Tây Nguyên. Nhiều buôn làng đã được dùng điện lưới
Quốc gia. Mạng lưới phát thanh, truyền hình được phủ sóng, y tế, giáo dục đã
tiến bộ rõ rệt. Các công trình thủy lợi lớn đã được xây dựng và tưới tiêu cho hàng
nghìn héc ta đất khô cằn, trước đây chỉ là một vụ, nay đã là hai, ba vụ. Đời sống
các dân tộc được cải thiện đáng kể. Từ ăn, mặc, ở, làm nương rẫy, đồ dùng gia

đình, phong tục tập quán của đồng bào cũng dần dần thay đổi cho phù hợp với
điều kiện cuộc sống mới. Đồng bào được xem ti vi, nghe đài, đã biết làm ruộng
nước và dùng phân canh tác. Quần áo thì có vải công nghiệp dệt nên đồng bào ít
dệt vải thổ cẩm. Ốm đau phần nhiều đã dùng thuốc, ít cúng ma hơn trước. Tục
chết chôn chung, tin vào ma Lai và các hủ tục đã hạn chế nhiều. Các lệ làng lạc
hậu đã dần dần được thay thế bằng pháp luật Nhà nước. Nhiều nơi đồng bào dân
tộc còn trở thành công nhân nông trường cà phê, cao su. Với mô hình “xã - nông
trường”, đồng bào trở thành những người làm công ăn lương trên chính mảnh đất
quê hương mình. Từ chỗ chỉ quen đổi chác, nay họ dùng tiền mua bán và chợ
cũng đã được hình thành ngay tại bản làng, mà khởi đầu là các quán xá của người
Kinh đến sống xen cư.
Cơ cấu làng cổ truyền cũng đã khác xưa. Trước kia gia đình mở rộng gồm
nhiều cặp vợ chồng, thuộc nhiều thế hệ sống chung trong một ngôi nhà dài. Nay
các gia đình “hạt nhân” ra ở riêng để phát triển kinh tế, tạo ra một sự thay đổi to
lớn của cấu trúc làng cổ truyền. Hiện nay dân cư trong làng và cả hôn nhân cũng
không còn trong đồng tộc nữa. Nhiều dân tộc sống xen cư nên hôn nhân giữa
những nguời khác tộc ngày càng nhiều, tạo nên bức tranh dân cư mới trong thời
kỳ đổi mới. Tất cả những thay đổi ấy là quy luật tất yếu của một xã hội phát triển.
Song, văn hóa cổ truyền đã lại bị ảnh hưởng rất lớn. Nó như một tầng văn hóa
“mới” đang làm lấp đi tầng văn hóa “cũ” mà đồng bào đã sáng tạo, giữ gìn qua
hàng ngàn năm lịch sử
13
.
Hiện nay văn hóa cổ truyền Tây Nguyên ngày càng mất dấu đến mức báo
động. Có thời kỳ Cồng chiêng được cân lên bán như một thứ phế liệu. Những
năm 1980, mỗi làng có hàng nghìn bộ chiêng quí thì nay số lượng chiêng chỉ còn
đếm được trên đầu ngón tay. Thanh niên bây giờ không thích hoặc tự ti với các
nhạc cụ của dân tộc mình. Họ bỏ sáo Ala, đàn Goong, đàn Tơ rưng mà thích Ghi
ta và dàn nhạc điện tử. Các điệu múa Xoang uyển chuyển trước đây chẳng mấy
khi vắng bóng quanh ngọn lửa bập bùng hay dưới ánh trăng. Nay thay vào đó là

các điệu Disco, Pop, Rock, Rap…Trước đây cồng chiêng là vật thiêng, con người
dùng âm sắc để giao tiếp với thế giới siêu nhiên. Khi hệ tín ngưỡng đã thay đổi,
không cần giao tiếp nữa, thì cồng chiêng không còn giá trị.
Tiếng nói và chữ viết là tiêu chí quan trọng số một để xác định thành phần
dân tộc và bản sắc văn hóa tộc người. Tuy đã có chữ viết nhưng cả người Gia rai
và Ba na chưa tạo ra được một nền văn hóa thành văn. Kho tàng văn học, nghệ
thuật dân gian còn lưu truyền đến ngày nay là hoàn toàn nhờ vào truyền. Từ giữa
thế kỷ 19, bộ chữ Ba na do một số người Pháp xây dựng đầu tiên, chủ yếu là
dùng để phổ biến kinh thánh. Năm 1922, ông NayDer cùng với một số nhà giáo
Pháp xây dựng bộ chữ đầu tiên cho người Gia rai. Tuy nhiên, do dân cư và cơ cấu
xã hội biến đổi nên tiếng nói và chữ viết cũng mai một dần. Nhiều từ dân tộc đã
bị Kinh hóa. Tây Nguyên là vùng đất cổ, cư dân đã sống lâu đời. Từ người, sông,
núi, làng đều có tên theo tiếng nói của họ. Vậy mà giờ đây, nó đang bị biến dạng
cả trong cách nói và cách viết.
Ví dụ:
- Ia Nueng gọi là Biển hồ.
- Chư Hơ đrung gọi là Hàm rồng.
- Tong A gọi là Tô na
- Pleiku gọi là Pơlây cu…
Còn chữ viết, hiện nay các trường tiểu học hầu hết do các thầy cô giáo
người Kinh giảng dạy bằng tiếng Việt. Số lượng thầy cô là người dân tộc bản địa
không đáng kể. Vì vậy những cuốn sách xóa mù chữ tiếng dân tộc, không thể làm
cho tình hình tốt đẹp hơn, mà mới chỉ dừng lại ở hình thức. Riêng giáo dục phổ
thông hiện nay đã phát triển hơn trước rất nhiều. Làng, bản nào cũng có lớp, có
trường dạy cái chữ cho con em dân tộc. Nhưng tiếng nói dân tộc chỉ dùng trong
gia đình hoặc trong buôn. Mong muốn của người dân tộc là tiếng nói và chữ viết
của họ được phát triển. Nhưng thực tế đang đi ngược lại với khát vọng ấy. Họ
đang lo rằng với tình hình này thì chữ viết của họ sẽ bị mất dấu?
- Về tôn giáo: Do bức tranh dân cư có nhiều biến đổi nên bộ mặt tôn giáo ở
đây cũng biến đổi theo. Ngoài đạo Thiên chúa, đạo Phật đã có mặt trên cao

nguyên hàng thế kỷ thì đạo Tin lành nay có cơ hội phát triển mạnh trong đồng
bào dân tộc bản địa. Đạo Tin lành đã len lỏi đến từng nhà, từng buôn nhỏ xa xôi.
Nhiều nơi còn “xơi đỗ”, nhưng một số nơi đã “toàn tòng”. Theo sau đạo Tin lành
là tất cả các truyền thống văn hóa bị bãi bỏ. Trước thực trạng ấy, một số chính
quyền cấp cơ sở còn lúng túng, chưa đánh giá đúng, đầy đủ về đạo Tin lành trên
các vần đề lịch sử, tôn giáo, dân tộc và quan hệ quốc tế. Từ đó có những đối sách
chưa phù hợp. Đi tìm nguyên nhân của vấn đề này? Nhiều người cho rằng đây là
vùng đất “mới”, các cư dân bản địa nơi đây chưa có một tôn giáo nào chính
thống. Văn hóa nói chung của họ tuy phong phú, đa dạng nhưng chưa đủ mạnh
và hoàn chỉnh như của người Kinh, bởi còn thiếu nhiều yếu tố để tự thân bảo vệ.
Đến nay, trước “luồng gió mới”, tín ngưỡng cũ của họ không còn đủ sức làm chỗ
dựa tinh thần và đang dần suy thoái. Trong nhiều thế kỷ qua nó vẫn tồn tại được
là do có dãy Trường sơn hiểm trở che chắn, không có sự giao lưu với thế giới bên
ngoài. Nay nó tỏ ra yếu ớt, không đủ sức chống đỡ với trào lưu mới vừa mạnh
mẽ, vừa hấp dẫn và thiết thực hơn.
Bên cạnh sự chuyển biến đáng kể về cơ cấu xã hội và bản sắc văn hóa, thì
chính sách quản lí, điều hành xã hội nói chung của chính quyền (nhất là chính
quyền cơ sơ) còn nhiều bất cập. Họ hay dùng sức ép hành chính để buộc người
dân tuân theo, trong khi nguời dân bản địa quen sống theo lệ làng hơn là pháp
luật. Ví dụ: Chính sách định canh, định cư dời làng vế tập trung dọc hai bên quốc
lộ, tuy có những thuận tiện nhưng không phù hợp với thói quen sống giữa thiên
nhiên của người dân. Họ bị hạn chế về không gian sống và đất canh tác. Trước
đây rừng là của họ, nay Nhà nước quản lí, họ chỉ còn một phạm vi hẹp. Điều này
đã gây nên những mâu thuẫn rất lớn trong đời sống.
Văn hóa Tây Nguyên nếu nhìn ở góc độ dân tộc và thời đại đang lâm vào
tình trạng khó xử. Theo sau nền kinh tế nhiều thành phần là sản phẩm của các
dòng văn hóa ngoại lai đang tấn công ồ ạt vào văn hóa dân tộc. Bên cạnh dòng
“trong” còn có cả dòng “đục”, làm ảnh hưởng không nhỏ đến truyền thống văn
hóa dân tộc. Nhiều lúc văn hóa cổ truyền Tây Nguyên tỏ ra yếu ớt, có vẻ như
không sánh kịp với những hình thức, phương tiện tuyên truyền hiện đại của các

dòng văn hóa khác.
Tóm lại những tác động qua lại giữa cái cũ và cái mới đã tạo nên những
mâu thuẫn và thách thức mới. Các cấp chính quyền phải đối mặt với những vấn
đề cấp bách cần giải quyết, mà những chủ trương chưa theo kịp yêu cầu thực tế
của người dân. Thực tiễn sinh động của sự biến đổi ấy, cần có những giải pháp
khoa học, khả thi, góp phần đưa Tây Nguyên tiến tới sự phát triển bền vững.
(Nhà rông và sinh hoạt của người Xơđăng. Nguồn: thegioivemaybay.vn)
3. Các giải pháp
3.1. Nhóm giải pháp về kinh tế, xã hội và lao động việc làm
- Có chính sách ưu tiên đào tạo nghề, bảo đảm quyền được có việc làm cho
họ. Thực tế thanh niên người dân tộc có trình độ văn hóa thấp hơn thanh niên
người Kinh, nhưng khi tuyển dụng các công ty đều đưa ra tiêu chuẩn văn hóa, tay
nghề chung. Vì vậy, họ rất ít cơ hội được bảo đảm quyền có việc làm.
- Tăng cường đào tạo cán bộ người dân tộc bản địa và tin dùng họ ở các vị
trí công tác chủ chốt trong việc hoạch định chính sách và chủ trì triển khai công
việc.
- Cần nghiên cứu phong tục tập quán, nguyện vọng của đồng bào khi xây
dựng làng định canh, định cư. Kiểu làm nhà hai bên đường sát nhau, lại thiếu
nguồn nước, thiếu đất sản xuất nên kinh tế không phát triển. Kiểm tra, xem xét và
cấp đất cho những hộ hiện thiếu đất sản xuất.
- Đồng bào dân tộc đa số có nghề thủ công truyền thống như nghề dệt thổ
cẩm, nghề đan lát. Những sản phẩm này rất hợp với thị hiếu của xã hội hiện đại.
Cần tổ chức những dự án đào tạo nghề, tổ chức sản xuất hàng dệt, đồ đan lát ngay
tại các địa phương, tạo thành hàng hóa để xuất khẩu, tạo công ăn việc làm cho bà
con.
- Vấn đề giàu nghèo ở vùng dân tộc bản địa đang phân hóa ngày càng rõ.
Có tình trạng do thiếu ăn đã bán đất, thậm chí phá rừng bán đất cho người Kinh.
Có nơi người dân tộc đi làm thuê cho người Kinh trên 50%. Muốn cứu người dân
tộc thoát khỏi tình trạng đói nghèo và dân trí thấp, bài toán mang tính chiến lược
là không thể đốt cháy thời gian ngay được, mà phải bắt đầu từ giáo dục, nâng cao

dân trí, phát triển cộâng đồng. Việc cứu trợ cho họ là cần thiết nhưng cứu cứu trợ
mãi chỉ tạo sự ỷ lại.
3.2. Nhóm giải pháp về giáo dục
- Xây dựng cơ sở vật chất cho giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc cần đặt
trong tổng thể về con người và môi trường văn hóa. Tạo cho nhà trường gắn liền
với môi trường văn hóa ở địa phương.
- Đối với chủ trương giảng dạy, cần đưa nội dung văn hóa truyền thống địa
phương vào học đường ở những nơi có người dân tộc bản địa. Vốn văn hóa
truyền thống được truyền dạy ngay từ cấp tiểu học sẽ không cắt đứt với quá khứ.
- Đối với giáo viên, cần nâng cao nhận thức về văn hóa bản địa. Ưu tiên
đào tạo giáo viên mẫu giáo và tiểu học là người dân tộc tại chỗ. Tiến dần tới việc
phần lớn giáo viên mẫu giáo và tiểu học là người bản địa, vừa dạy văn hóa phổ
thông, vừa dạy văn hóa truyền thống cho học sinh dân tộc. Hạn chế dần tình trạng
giáo viên người Kinh chỉ dạy văn hóa phổ thông cho con em dân tộc mà không
hiểu biết về văn hóa của họ.
- Đối với học sinh, đề nghị Nhà nước bao cấp toàn bộ từ mẫu giáo đến Đại
học cho con em người dân tộc bản địa. Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho con em
người dân tộc được học lên cao. Do khó khăn về kinh tế, con em dân tộc thường
bỏ học để lao động kiếm sống.
- Nghiên cứu, đề ra chính sách ngôn ngữ trong nhà trường. Hiện nay tiếng
mẹ đẻ của dân tộc chỉ sử dụng trong gia đình, buôn làng, khi đến trường thì dùng
tiếng phổ thông. Ngoài tiếng phổ thông, cần có chuơng trình dạy tiếng mẹ đẻ cho
con em dân tộc, tiến dần đến việc phổ cập tiếng nói và chữ viết cho học sinh. Bên
cạnh đó là việc cho con em dân tộc học ngoại ngữ, tạo điều kiện cho các em hội
nhập trong tương lai.
- Đối với cộng đồng, hội nhập nhà trường vào môi trường văn hóa cộng
đồng, tạo sự liên kết và giao lưu văn hóa. Nâng cao nhận thức của cha mẹ học
sinh và cộng đồng về quyền tham gia tư vấn giáo dục, quyền được đưa văn hóa
bản địa vào nhà trường để giữ gìn và phát huy bản sắc
3.3. Nhóm giải pháp về tín ngưỡng - tôn giáo

3.3.1. Đối với tín ngưỡng và lễ thức
- Trong xã hội phát triển, tín ngưỡng “đa thần” không còn phù hợp, vì nó
không có khả năng phát triển thành tôn giáo như nó đã từng diễn ra trong các nền
văn hóa cổ đại. Nhưng nó đã ăn sâu vào đời sống người dân từ lâu đời và chi phối
toàn bộ tư duy, cản trở sự phát triển xã hội rất sâu sắc. Vì vậy việc “tách” họ ra
khỏi tư duy thần bí, tiến đến tư duy kinh nghiệm và khoa học là cả một con
đường dài, với nhiều cản trở, cam go. Con đường đi có cơ sở nhất có lẽ phải bắt
đầu từ đầu tư cho giáo dục, tạo ra một lớp người mới có tri thức văn hóa, khoa
học kỹ thuật và chính họ sẽ làm thay đổi xã hội bằng tư duy khoa học. Lúc ấy tín
ngưỡng “đa thần” sẽ tự nó mất đi trong đời sống theo quy luật đào thải.
- Vận động người dân tộc giảm bớt việc giết trâu, bò, heo, gà cúng cấp các
thần. Chú ý vệ sinh trong ăn, uống, bỏ các yếu tố phản văn hóa. Cần tuyên
truyền, giải thích cho họ hiểu các hiện tượng của tự nhiên: mưa, nắng, bão, lụt;
nguyên nhân sinh ra bệnh tật và cách phòng, chữa bệnh…hoàn toàn không phải
do thần linh hay ma quỷ gây nên.
- Cần tuyên truyền loại bỏ những lễ thức không còn phù hợp, mang yếu tố
dị đoan, phản văn hóa. Nên giữ lại những lễ thức tiêu biểu về bản sắc dân tộc.
Tăng cường nội dung văn hóa, nghệ thuật, tạo cơ hội cho nhiều đối tượng, lứa
tuổi cùng tham gia.
3.3.2. Đối với tôn giáo
- Những xung đột tôn giáo vừa qua ở một số dân tộc Tây Nguyên là xung
đột dân tộc. Những biến đổi từ tín ngưỡng “đa thần” sang “độc thần”, cơ bản là
sự thay đổi hệ tín ngưỡng. Cần coi chính sách tôn giáo là một bộ phận quan trọng
của xã hội và là một thiết chế văn hóa bình thường của đời sống. Mở rộng giao
lưu giữa các nhóm địa phương có những Tôn giáo khác nhau. Tạo điều kiện cho
Tôn giáo tồn tại song song với chũ nghĩa Xã hội.
- Kịp thời đấu tranh chống những kẻ lợi dụng tôn giáo, phá hoại đời sống
hòa bình, khối đại đoàn kết và xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân.
Làm cho các tôn giáo gắn bó với dân tộc, đạo gắn với đời, tuân thủ pháp luật, tích
cực góp phần vào công cuộc đổi mới kinh tế, xã hội, dân giàu nước mạnh, xã hội

công bằng, dân chủ và văn minh.
- Hiện nay, rừng thay đổi, dân cư thay đổi, văn hóa thay đổi thì tôn giáo
cũng thay đổi. Tình trạng tăng dân số cơ học đã phá vỡ quan hệ môi trường và
quan hệ dân cư, khiến tôn giáo càng phát triển mạnh. Các cấp chính quyền, đoàn
thể và mặt trận Tổ quốc cần có kế hoạch phối hợp chăm lo việc đạo, việc đời cho
người dân. Tạo mọi điều kiện để người dân tộc tự lựa chọn quyền được theo hoặc
không theo tôn giáo.
3.4. Nhóm giải pháp bảo tồn văn hóa truyền thống
Hiện nay, đời sống của người dân tộc đang diễn ra quá trình biến đổi nhanh
chóng và sâu sắc. Bản sắc văn hóa đang mất dần, nhưng chính nó lại có giá trị
lịch sử vô giá. Vì vậy cần làm ngay một số việc:
- Tạo điều kiện cho nhân dân sáng tạo ra văn hóa tại chỗ phục vụ chính họ
và đưa văn hóa Nhà nước đến tận buôn làng phục vụ nhân dân.
- Bảo vệ di sản văn hóa dân tộc bằng chính sách và pháp luật.
- Phục hồi các loại hình văn hóa truyền thống bằng phương pháp truyền
dạy, do các nghệ nhân đảm nhiệm hoặc đưa vào nhà trường qua các chương trình
về địa phương.
- Tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, ghi giữ tư liệu về lịch sử chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, khảo cổ học, quan hệ thân tộc, dòng họ, gia đình, ngôn ngữ, chữ
viết các tộc người… Sưu tầm và lưu giữ toàn bộ hiện vật văn hóa vật thể và phi
vật thể cho các nhà bảo tàng địa phương.
- Thành lập các xí nghiệp chuyên sản xuất đồ mỹ nghệ dân tộc. Đưa văn
hóa dân tộc vào du lịch, xây dựng khách sạn ăn ở kiểu dân tộc.
- Giới thiệu, công bố những kết quả sưu tầm, nghiên cứu, ứng dụng phát
triển về văn hóa dân tộc, nhằm thu hút mọi tìm tòi và phổ biến kịp thời các tác
phẩm văn hóa bản địa.
3.4.1. Đối với bản sắc văn hóa tộc người
Bản sắc văn hóa là đặc trưng quan trọng của tính dân tộc. Nhiều dân tộc có
nền văn hóa khác nhau tạo nên sự phong phú của nền văn hóa đất nước. Vì vậy
trong hội nhập toàn cầu chúng ta cần tránh những biểu hiện sau:

- Vì lợi ích kinh tế trước mắt, hủy hoại bản sắc văn hóa riêng của các tộc
người.
- Vô ý thức, hủy hoại những giá trị văn hóa, lịch sử…
- Áp đặt các mô hình văn hóa của người Kinh vào vùng dân tộc bản địa.
- Lấy quan điểm của cá nhân, đứng từ một nền văn hóa khác, chê bai nền
văn hóa của dân tộc bản địa. Đứng từ góc độ người ăn nước máy chê bai người
ăn nước suối, nước giọt…
3.4.2. Đối với tri thức, nghệ sĩ dân tộc
Nếu muốn xây dựng một nền văn hóa dân tộc phát triển đúng nghĩa, phải
có một tầng lớp tri thức và văn nghệ sĩ của chính họ. Hiện nay, người Kinh đang
làm thay người dân tộc từ quản lý hành chính, tổ chức xã hội đến quản lí và phát
triển văn hóa… Tuy có những mặt mạnh, nhưng cũng có những hạn chế rất lớn,
do không biết tiếng nói, phong tục tập quán, dẫn đến hiệu quả thấp. Hiện nay, các
tộc người bản địa Tây Nguyên chưa có một tầng lớp trí thức, nghệ sĩ dân tộc đủ
mạnh. Cần chú ý đào tạo một tầng lớp trí thức, nghệ sĩ dân tộc có tâm huyết gắn
bó với nền văn hóa của dân tộc mình. Có thể bắt đầu từ giáo dục và những việc
làm cụ thể:
- Tập hợp và tạo điều kiện làm việc cho những trí thức, nghệ sĩ dân tộc sẵn
có ở các địa phương.
- Tận dụng các trí thức người dân tộc đã nghỉ hưu để sưu tầm, giới thiệu
vốn văn hóa truyền thống của họ.
- Phát hiện và nuôi dưỡng những tài năng văn hóa, nghệ thuật trong quần
chúng. Đào tạo đội ngũ cán bộ người dân tộc để sưu tầm, khai thác vốn văn hóa
truyền thống.
- Tổ chức cho các nghệ nhân có tay nghề giỏi, có vốn văn hóa dân gian
phong phú, truyền dạy cho con em dân tộc.
3.4.3. Đối với di sản văn hóa dân tộc
Các dân tộc bản địa ở Tây Nguyên đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử. Từ
thời kỳ đồ đá đến thời kỳ đồ sắt, đồ đồng. Từ các tộc người đến khi chia thành
những nhóm địa phương, nhóm lai. Từ chỗ sống biệt lập đến khi có những mối

giao lưu, quan hệ với các dân tộc khác và cuối cùng là hòa nhập với quốc gia. Di
sản văn hóa đó bao gồm nhiều mặt, từ phương thức sản xuất đến ăn, mặc, ở,
những lệ làng, lệ tục, các lễ thức, tín ngưỡng và văn hóa, nghệ thuật dân gian…
Nó có một giá trị đặc biệt trong việc tìm hiểu lịch sử, nguồn gốc tộc người, nền
văn hóa quá khứ của Việt Nam và nhân loại. Trước sự biến đổi xã hội, di sản văn
hóa đó đang bị đe dọa nghiêm trọng. Vì vậy, cần cảnh giác thái độ coi thường,
hủy hoại di sản văn hóa dân tộc. Trước mắt cần tiến hành khảo sát đánh giá trữ
lượng, phân vùng hiện vật, hiện tượng văn hóa. Tiến hành nghiên cứu một cách
có hệ thống các vấn đề sau:
- Những bộ chiêng quý.
- Những mô típ trang trí dân gian.
- Cấu trúc buôn làng, nhà dài.
- Hoa văn, trang phục, đồ trang sức.
- Kho tàng văn học dân gian (truyện kể, tục ngữ, thành ngữ, sử thi…).
- Kho tàng âm nhạc dân gian: nhạc khí, dân ca.
- Nghệ thuật múa dân gian.
- Các loại lễ hội truyền thống theo vòng đời và vòng cây trồng.
- Các phong tục tập quán.
- Luật tục.
- Ngôn ngữ và chữ viết các dân tộc.
Văn học, nghệ thuật bản địa tuy mang tính cổ truyền nhưng cũng rất mới
mẻ, có sức sống dồi dào. Cần đưa nó hòa nhập, thích nghi với xã hội mới, một bổ
sung quan trọng cho nền văn hóa vừa truyền thống vừa hiện đại của cả nước.

(Lễ hội tộc người Bana và J’rai. Nguồn: phaply.net.vn)
3.5. Nhóm giải pháp xây dựng đời sống văn hóa
Việc tổ chức, xây dựng đời sống văn hóa cho người dân tộc bản địa hiện
nay đang
đặt ra những yêu cầu cấp thiết, gồm nhiều mặt:
- Nhu cầu tổ chức đời sống.

- Nhu cầu sinh hoạt văn hóa.
- Nhu cầu sáng tạo văn hóa.
- Nhu cầu hưởng thụ văn hóa.
- Nhu cầu giao lưu văn hóa.
- Nhu cầu thông tin.
3.5.1. Nhu cầu tổ chức đời sống
- Đồng bào các dân tộc bản địa có tập quán ăn bốc từ xưa, không dễ thay
đổi ngay được. Cần tuyên truyền động viên đồng bào ăn bằng thìa, đũa để giữ vệ
sinh. Thói quen ăn bằng tay nếu chưa bỏ được thì trước khi ăn nên rửa tay sạch
sẽ.
- Đồng bào quen dùng nước chảy tự nhiên từ các khe núi, nước mạch, nước
giọt, nước suối. Nên tôn trọng hình thức này và cải tiến bến nước, xây hồ chứa.
Tạo dần thói quen uống nước đun sôi, vệ sinh cá nhân rửa mặt, đánh răng buổi
sáng.
- Về mặc: Trang phục truyền thống là đóng khố, mặc váy, cởi trần đã
không còn tồn tại. Nay người dân tộc mặc hoàn toàn giống người Kinh. Nếu nhìn
bề ngoài rất khó phân biệt. Cần khuyến khích và cải tiến nghề dệt truyền thống.
Tổ chức truyền dạy nghề dệt để giữ gìn bản sắc trong trang phục. Các sản phẩm
dệt còn là hàng hóa thủ công mỹ thuật, rất được khách ưa chuộng.
- Cần cải tiến nhà sàn cũ, thành nhà sàn có gầm cao hơn để tận dụng cả mặt
bằng dưới đất. Nhốt gia súc tách biệt chỗ ở của người. Mở nhiều cửa sổ cho
thoáng, có nơi cho con em học tập. Nhà ở có vườn, có nguồn nước sạch gần nhà,
có nhà vệ sinh.
- Mở đường cho các phương tiện giao thông vào được tận làng. Cải tiến
các loại gùi do người đeo thành sọt cho súc vật thồ hoặc xe cho súc vật kéo để
giải phóng sức người. Du nhập một số nghề thiết thực, như mộc, nề, gạch ngói…
phục vụ cuộc sống trước mắt của người dân.
3.5.2. Nhu cầu sinh hoạt văn hóa cộng đồng
Nên duy trì các lễ hội truyền thống. Nội dung không dừng lại ở lễ thức cổ
truyền mà nên có những nội dung mới. Biến các lễ thức cổ truyền thành những

ngày hội trồng cây đầu xuân, hội cồng chiêng, hội mừng quốc khánh…
3.5.3. Nhu cầu giao lưu văn hóa
Là một trong những yếu tố làm nên lẽ sống của mọi cộng đồng người. Văn
hóa của dân tộc này phải được đặt trong xu thế giao lưu với các dân tộc khác. Có
như vậy mới hiểu thêm về nhau mà biết mình, biết người. Trước đây người ta hay
chú ý đến kinh tế mà chủ quan về văn hóa. Ngày nay không thể chấp nhận một
nền văn hóa tồn tại biệt lập, coi văn hóa của dân tộc mình hơn hoặc khác dân tộc
khác… Nên khuyến khích những hình thức giao lưu văn hóa giữa các làng gần
nhau, giữa các tộc người cạnh nhau và với người Kinh sống lân cận. Cần tránh
thái độ coi thường, kỳ thị, đối xử bất bình đẳng với nền văn hóa của người dân
tộc. Ngoài ra, có thể tổ chức cho đồng bào đi giao lưu văn hóa khu vực hoặc quốc
gia.
3.5.4. Nhu cầu sáng tạo văn hóa
Trước đây, nhu cầu sang tạo văn hóa thường gắn với phong tục tập quán, lễ
nghi và mang tính tự phát. Nay cần khuyến khích đồng bào sáng tạo văn hóa
nghệ thuật tại chỗ một cách chủ động và tự giác. Phát hiện, nuôi dưỡng và phát
huy những nhân tài trong quần chúng, thông qua các hình thức: thi trình diễn ca,
múa, nhạc dân tộc, thi kể truyện cổ tích và hát kể trường ca, các nghề đan lát, dệt
thổ cẩm, trang trí hoa văn dân tộc.
3.5.5. Nhu cầu hưởng thụ văn hóa
Thực tế còn quá thấp, nhiều nơi hầu như đồng bào chưa được hưởng gì.
Hiện nay, mức hưởng thụ văn hóa là thước đo đúng nghĩa của chính sách văn
hóa, xã hội đối với đồng bào dân tộc. Cần tăng cường mức hưởng thụ văn hóa
của đồng bào bằng các hình thức:
- Đưa văn hóa, nghệ thuật nhà nước đến tận cơ sở.
- Tổ chức các hoạt động văn hóa tại chỗ và giao lưu văn hóa.
- Tổ chức các nhóm văn nghệ nhỏ, lẻ đến tận buôn làng phục vụ đồng bào.
- Đưa ảnh Bác Hồ, Quốc Kỳ, bản đồ Tổ quốc, tranh, ảnh cổ động, lịch
hàng năm…đến tận buôn làng.
3.5.6. Nhu cầu thông tin

Ngày nay thông tin là phương tiện hữu hiệu nhất để biến đổi văn hóa nhận
thức cho đồng bào. Cần có sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trang bị phương
tiện thông tin đến tận buôn, làng, như điện thoại, truyền hình, phát thanh,
internet, sách báo, thông tin, cổ động trực quan…
3.6. Nhóm giải pháp xây dựng thiết chế văn hóa
Mọi can thiệp, xây dựng và đầu tư cho vùng dân tộc phải phù hợp với
nguyện vọng và phong tục tập quán của đồng bào. Tránh lấy ý muốn chủ quan,
quyền hoặc thiếu hiểu biết về văn hóa dân tộc để áp đặt những thiết chế văn hóa
không phù hợp với họ.
Mục tiêu chính xây dựng thiết chế văn hóa là phá vỡ thiết chế cũ, mang
tính khép kín, tính biệt lập của làng cổ truyền, phát huy tính cộng đồng, thúc đẩy
nhanh quá trình hội nhập quốc gia và dân tộc. Xây dựng cuộc sống văn hóa, văn
minh, bỏ lại các hủ tục lạc hậu, bảo tồn các giá trị của văn hóa truyền thống.
Thỏa mãn các nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo văn hóa cơ bản của người dân.
Chú thích:
1. Vũ Ngọc Bình, Đào Huy Quyền,…Địa chí Gia Lai. Nxb Văn hóa dân tộc,
H.1998, 887 tr.
2. Đào Huy Quyền, Nhạc khí dân tộc ở Gia Lai, Nxb Giáo Dục, H.1993, 270 tr.
3. Đặng Nghiêm Vạn, Các dân tộc tỉnh Gia Lai-Kom Tum. Nxb KHXH, H.1981,
342 tr
4. Nguyễn Tấn Đắc, Văn hóa xã hội và con người Tây Nguyên, Nxb KHXH,
H.2005, 316 tr.
5. Đào Huy Quyền, Nhạc khí dân tộc Gia rai, Ba na. Nxb Trẻ 1998, 347tr.
6. Vũ Ngọc Bình, Đào Huy Quyền,…Địa chí Gia Lai. Nxb Văn hóa dân tộc,
H.1998, 887 tr.
7. Đào Huy Quyền, Tượng gỗ Tây Nguyên (sách ảnh), Nxb TP. Hồ Chí Minh
2007, 178 tr.
8. Đào Huy Quyền, Tìm hiểu đặc trưng trong dân ca Gia rai, Ba na, Nxb KHXH,
H.2005, 350 tr.
9. Đào Huy Quyền, Nhạc khí dân tộc Gia rai, Ba na. Nxb Trẻ 1998, 347tr.

10. Nguyễn Khắc Sử, Vũ Ngọc Bình, Đào Huy Quyền: Tiền sử Gia Lai, Sở
VHTT Gia Lai 1993, 305 tr.
11. Đào Huy Quyền, Tượng gỗ Tây Nguyên (sách ảnh), Nxb TP. Hồ Chí Minh
2007, 178 tr.
12. Đào Huy Quyền, Văn hóa cổ truyền Tây Nguyên trong xu thế đổi mới, hội
nhập, Tạp chí Cộng sản, ngày 16/4/2008.
13. Nguyễn Tấn Đắc, Văn hóa xã hội và con người T/Nguyên, Nxb KHXH,
H.2005, 316 tr.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Ngọc Bình, Đào Huy Quyền,…Địa chí Gia Lai. Nxb Văn hóa dân tộc,
H.1998, 887 tr.
2. Đặng Nghiêm Vạn, Các dân tộc tỉnh Gia Lai-Kom Tum. Nxb KHXH, H.1981,
342 tr.
3. Đào Huy Quyền, Nhạc khí dân tộc ở Gia Lai, Nxb Giáo dục, H.1993, 270 tr.
4. Ngô Văn Doanh, Nhà mồ tượng mồ Gia rai, Ba na, Sở VHTT Gia Lai 1993,
215 tr.
5. Đào Huy Quyền, Nhạc khí dân tộc Gia rai, Ba na. Nxb Trẻ 1998, 347tr.
6. Vũ Ngọc Bình, Đào Huy Quyền, Nguyễn Chí Bền… Văn học dân gian Gia
Lai, Sở
VHTT Gia Lai 1995, 512 tr.
7. Nguyễn Khắc Sử, Vũ Ngọc Bình, Đào Huy Quyền: Tiền sử Gia Lai, Sở VHTT
Gia Lai
1993, 305 tr.
8. Đào Huy Quyền, Tượng gỗ Tây Nguyên (sách ảnh), Nxb TP. Hồ Chí Minh
2007, 178 tr.
9. Nguyễn Tấn Đắc, Văn hóa xã hội và con người Tây Nguyên, Nxb KHXH
2005, 316 tr.
10. Đào Huy Quyền, Tìm hiểu đặc trưng trong dân ca Gia rai, Ba na, Nxb
KHXH, H.2005,
350 tr.

11. Đào Huy Quyền, Văn hóa cổ truyền Tây Nguyên trong xu thế đổi mới, hội
nhập, Tạp chí Cộng sản, ngày 16/4/2008.

×