Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 114 trang )

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN
CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả sử dụng vốn của doanh
nghiệp
1.1.1. Khái quát về vốn của doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm về vốn
Đối với mỗi doanh nghiệp để tiến hành bất kỳ một quá trình sản xuất
kinh doanh nào đó cũng phải có vốn. Vốn là điều kiện tiên quyết có ý nghĩa
quan trọng đối với quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Có vốn để đầu tư
mua sắm các yếu tố cho quá trình sản xuất kinh doanh, đó là tư liệu lao động,
đối tượng lao động, sức lao động. Do tác động của sức lao động vào đối
tượng lao động thông qua tư liệu lao động mà hàng hóa dịch vụ được tạo ra và
tiêu thụ trên thị trường, doanh nghiệp thu được tiền. Để đảm bảo sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp kết quả thu được từ hoạt động sản xuất kinh
doanh phải bù đắp toàn bộ chi phí đã bỏ ra và phải có lãi. Như vậy, có thể
thấy số tiền đã ứng ra ban đầu không chỉ được bảo tồn mà nó còn tăng thêm
do hoạt động kinh doanh mang lại. Tóm lại:
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài
sản hữu hình và vô hình được đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh nhằm
mục đích sinh lợi.
1.1.1.2. Phân loại vốn
Như đã trình bày ở trên, vốn giữ vai trò quan trọng, thiết yếu trong hoạt
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, việc phân loại vốn theo các cách
thức khác nhau sẽ giúp doanh nghiệp đề ra được các giải pháp quản lý và sử
dụng sao cho có hiệu quả. Có nhiều cách phân loại vốn doanh nghiệp theo các
giác độ khác nhau.
 Căn cứ vào phương thức chu chuyển
1
Dựa vào căn cứ này có thể chia vốn thành hai loại vốn cố định và vốn
lưu động.


a. Vốn cố định
“Vốn cố định của doanh nghiệp là giá trị ứng trước về tài sản cố định
hiện hữu của doanh nghiệp hoặc vốn cố định là sự biểu hiện bằng tiền về toàn
bộ tài sản cố định phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.” [5, tr
215]
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, sự vận động của vốn cố định được
gắn liền với hình thái biểu hiện vật chất của nó là tài sản cố định. Vì vậy, việc
nghiên cứu về nguồn vốn cố định trước hết phải dựa vào cơ sở tìm hiểu về tài
sản cố định.
 Tài sản cố định
Căn cứ vào tính chất và tác dụng trong khi tham gia vào quá trình sản
xuất, tư liệu sản xuất được chia thành hai bộ phận là đối tượng lao động và tư
liệu lao động. Đặc điểm cơ bản của tư liệu lao động là chúng có thể tham gia
trực tiếp hoặc gián tiếp vào chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó, mặc dù tư
liệu sản xuất bị hao mòn nhưng chúng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban
đầu. Chỉ khi nào chúng bị hư hỏng hoàn toàn hoặc xét thấy không có lợi về
kinh tế thì khi đó chúng mới bị thay thế, đổi mới.
“Tài sản cố định là những tư liệu lao động có giá trị lớn, thời gian sử
dụng dài” [5, tr 215]. Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, tài sản
cố định bị hao mòn dần và giá trị của nó được chuyển dịch từng phần vào chi
phí kinh doanh. Khác với đối tượng lao động, tài sản cố định tham gia nhiều
chu kỳ kinh doanh và giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu cho đến lúc hư
hỏng.
Để tăng cường công tác quản lý tài sản cố định cũng như vốn cố định và
nâng cao hiệu quả sử dụng của chúng cần thiết phải phân loại tài sản cố định.
• Căn cứ vào tính chất tham gia của tài sản cố định trong doanh nghiệp
thì tài sản cố định được phân loại thành:
2
- Tài sản dùng cho mục đích kinh doanh, loại này bao gồm tài sản cố
định hữu hình và tài sản cố định vô hình:

+ Tài sản cố định hữu hình: là những tư liệu lao động chủ yếu được biểu
hiện bằng các hình thái vật chất cụ thể như nhà xưởng, máy móc thiết bị,
phương tiện vận tải, các vật kiến trúc,… Những tài sản cố định này có thể là
từng đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ
phận tài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay một số chức năng nhất
định trong quá trình sản xuất kinh doanh.
+ Tài sản cố định vô hình: là những tài sản không có hình thái vật chất
cụ thể, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến
nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp như chi phí thành lập doanh
nghiệp, chi phí về đất sử dụng, chi phí mua bằng sáng chế, phát minh hay
nhãn hiệu thương mại,…
- Tài sản dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh quốc phòng.
- Tài sản cố định mà doanh nghiệp bảo quản và cất giữ hộ Nhà nước.
Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được vị trí và tầm quan
trọng của tài sản cố định dùng vào mục đích hoạt động sản xuất kinh doanh
và có phương hướng đầu tư vào tài sản hợp lý.
• Căn cứ vào tình hình sử dụng thì tài sản cố định của doanh nghiệp
được chia thành các loại sau:
- Tài sản cố định đang sử dụng.
- Tài sản cố định chưa cần dùng.
- Tài sản cố định không cần dùng chờ thanh lý.
Cách phân loại này cho thấy mức độ sử dụng có hiệu quả các TS của
doanh nghiệp như thế nào, từ đó có biện pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả sử
dụng chúng.
 Vốn cố định của doanh nghiệp
Việc đầu tư thành lập một doanh nghiệp bao gồm việc xây dựng nhà
xưởng, nhà làm việc và quản lý, lắp đặt các hệ thống máy móc thiết bị chế tạo
3
sản phẩm, mua sắm các phương tiện vận tải… Khi các công việc được hoàn
thành và bàn giao thì doanh nghiệp mới có thể bắt đầu tiến hành sản xuất

được. Như vậy vốn đầu tư ban đầu đó đã chuyển thành vốn cố định của doanh
nghiệp.
Với mỗi cách phân loại trên đây cho phép ta đánh giá xem xét kết cấu tài
sản cố định của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau. Kết cấu tài sản cố
định là tỷ trọng của một loại tài sản cố định nào đó so với tổng nguyên giá các
loại tài sản cố định của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Kết cấu tài
sản cố định giữa các ngành sản xuất khác nhau hoặc cùng một ngành sản xuất
cũng khác nhau.
Đối với các doanh nghiệp, việc phân loại và phân tích tình hình kết cấu
TSCĐ là việc làm cần thiết giúp doanh nghiệp chủ động biến đổi kết cấu
TSCĐ sao cho có lợi nhất.
Như vậy, vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư
ứng trước về tài sản cố định; đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng
phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài
sản cố định hết thời hạn sử dụng. Vốn cố định của doanh nghiệp đóng vai trò
quan trọng trong sản xuất kinh doanh. Việc đầu tư đúng hướng tài sản cố định
sẽ mang lại hiệu quả và năng suất rất cao trong kinh doanh, giúp cho doanh
nghiệp cạnh tranh tốt hơn và đứng vững trong thị trường và chiếm ưu thế hơn
so với các đối thủ cạnh tranh.
b. Vốn lưu động
 Tài sản lưu động
Trong quá trình sản xuất kinh doanh bên cạnh tài sản cố định, doanh
nghiệp luôn có một khối lượng tài sản nhất định nằm rải rác trong các khâu
của quá trình sản xuất như dự trữ chuẩn bị sản xuất, phục vụ sản xuất, phân
phối, tiêu thụ sản phẩm, đây chính là tài sản lưu động của doanh nghiệp. Đối
với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, giá trị của tài sản lưu động thường
chiếm 50% - 70% tổng giá trị tài sản.
4
Tài sản lưu động chủ yếu nằm trong quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp và là các đối tượng lao động. Đối tượng lao động khi tham gia

vào quá trình sản xuất không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu. Bộ phận
chủ yếu của đối tượng lao động sẽ thông qua quá trình sản xuất tạo thành thực
thể của sản phẩm, bộ phận khác sẽ hao phí mất mác đi trong quá trình sản
xuất. Đối tượng lao động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất do đó toàn bộ
giá trị của chúng được dịch chuyển một lần vào sản phẩm và được thực hiện
khi sản phẩm trở thành hàng hóa.
Đối tượng lao động trong các doanh nghiệp được chia thành hai thành
phần: một bộ phận là những vật tư dự trữ đảm bảo cho quá trình sản xuất
được liên tục, một bộ phận là những vật tư đang trong quá trình chế biến (sản
phẩm dở dang, bán thành phẩm,…) cùng với các công cụ, dụng cụ, phụ tùng
thay thế được dự trữ hoặc sử dụng, chúng tạo thành tài sản lưu động nằm
trong khâu sản xuất của doanh nghiệp.
Bên cạnh tài sản lưu động nằm trong khâu sản xuất, doanh nghiệp cũng
có một số tài sản lưu động khác nằm trong khâu lưu thông, thanh toán đó là
các vật tư phục vụ quá trình tiêu thụ, là các khoản hàng gửi bán, các khoản
phải thu,… Do vậy, trước khi bước vào sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp
cần có một lượng vốn thích đáng để đầu tư vào những tài sản ấy, số tiền ứng
trước về tài sản đó được gọi là VLĐ của doanh nghiệp.
 Vốn lưu động
Vốn lưu động luôn được chuyển hóa qua nhiều hình thức khác nhau, bắt
đầu từ hình thái tiền tệ sang hình thái dự trữ vật tư hàng hóa và quay trở về
hình thái tiền tệ ban đầu của nó. Vì quá trình SXKD diễn ra liên tục cho nên
vốn lưu động cũng tuần hoàn không ngừng có tính chất chu kỳ thành sự chu
chuyển của vốn.
Như vậy, “vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền về toàn bộ tài sản lưu
động của doanh nghiệp để phục vụ cho quá trình kinh doanh của doanh
nghiệp” [5, tr 216]. Trong doanh nghiệp việc quản lý tốt vốn lưu động có vai
5
trò rất quan trọng. Một doanh nghiệp được đánh giá là quản lý tốt vốn lưu
động có hiệu quả khi với một khối lượng vốn không lớn doanh nghiệp biết

phân bổ hợp lý trên các giai đoạn luân chuyển vốn để số vốn lưu động đó
chuyển biến nhanh từ hình thái này sang hình thái khác, đáp ứng được các
nhu cầu phát sinh. Muốn quản lý tốt vốn lưu động, các doanh nghiệp trước hết
phải nhận biết được bộ phận cấu thành của vốn lưu động, trên cơ sở đó đề ra
được các biện pháp quản lý phù hợp với từng loại.
• Căn cứ vào vai trò từng loại vốn lưu động trong quá trình sản xuất
kinh doanh vốn lưu động bao gồm:
- Vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất: là bộ phận vốn dùng để mua
nguyên vật liệu, phụ tùng thay thế dự trữ và chuẩn bị sản xuất.
- Vốn lưu động trong khâu sản xuất: là bộ phận vốn trực tiếp phục vụ
cho giai đoạn sản xuất như sản phẩm dở dang, nửa thành phẩm tự chế, chi phí
chờ phân bổ.
- Vốn lưu động trong khâu lưu thông: là bộ phận trực tiếp phục vụ cho
giai đoạn lưu thông như thành phẩm, vốn tiền mặt.
• Căn cứ vào hình thái biểu hiện vốn lưu động bao gồm:
- Vốn vật tư hàng hóa: là các khoản vốn lưu động có hình thái biểu hiện
bằng hiện vật cụ thể như nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm,
thành phẩm.
- Vốn bằng tiền: bao gồm các khoản vốn tiền tệ như tiền mặt tồn quỹ,
tiền gửi ngân hàng, các khoản vốn trong thanh toán, các khoản đầu tư ngắn
hạn.
Tóm lại, từ các phân loại trên, doanh nghiệp có thể xác định được kết
cấu vốn lưu động của mình theo những tiêu thức khác nhau. Kết cấu vốn lưu
động phản ánh các thành phần và mối quan hệ tỷ lệ giữa các thành phần trong
tổng số vốn lưu động của doanh nghiệp.
Ở các doanh nghiệp Nhà nước khác nhau thì kết cấu vốn lưu động khác
nhau. Việc phân tích kết cấu vốn lưu động của doanh nghiệp theo các tiêu
6
thức khác nhau sẽ giúp doanh nghiệp hiểu rõ thêm những đặc điểm riêng về
số vốn lưu động mà mình đang quản lý và sử dụng. Từ đó xác định đúng biện

pháp quản lý VLĐ có hiệu quả hơn và cũng có thể thấy được những biến đổi
tích cực hoặc những hạn chế về mặt chất lượng trong công tác quản lý vốn
lưu động của doanh nghiệp mình.
 Căn cứ vào nguồn hình thành
Nếu xem xét nguồn hình thành của các doanh nghiệp thì vốn được chia
thành hai loại.
a. Vốn chủ sở hữu
“Là nguồn vốn do doanh nghiệp sở hữu được chuyển sử dụng theo nhu
cầu mục đích kinh doanh của mình” [5, tr 218]. Với doanh nghiệp Nhà nước
thì vốn tự có do doanh nghiệp Nhà nước cấp từ lúc thành lập doanh nghiệp
hoặc cấp bổ sung theo nhu cầu sản xuất kinh doanh. Với doanh nghiệp tư
nhân thì nó là phần vốn của chủ doanh nghiệp bỏ ra để kinh doanh, còn với
công ty cổ phần thì do các cổ đông đóng góp thông qua việc nắm giữ cổ phiếu
của công ty.
Ngoài ra phần lợi nhuận không chia dùng để tái đầu tư cũng bổ sung vào
vốn tự có của doanh nghiệp.
 Vốn pháp định: vốn pháp định là số vốn tối thiểu phải có để thành lập
doanh nghiệp do pháp luật quy định đối với từng ngành nghề. Đối với doanh
nghiệp Nhà nước, nguồn vốn này do ngân sách nhà nước cấp.
 Vốn tự bổ sung: Thực chất nguồn vốn này là số lợi nhuận chưa phân
phối (lợi nhuận lưu giữ) và các khoản trích hàng năm của doanh nghiệp như
các quỹ xí nghiệp (quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ phúc
lợi,…).
 Vốn chủ sở hữu khác: Thuộc nguồn này gồm khoản chênh lệch do đánh
giá lại tài sản, do chênh lệch tỷ giá ngoại tệ, do được ngân sách cấp kinh phí,
do các đơn vị phụ thuộc nộp kinh phí quản lý và vốn chuyên dùng xây dựng
cơ bản.
b. Vốn huy động bên ngoài
7
Đối với một doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường, vốn

chủ sở hữu có vai trò rất quan trọng nhưng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng
nguồn vốn. Để đáp ứng nhu cầu cho SXKD, doanh nghiệp phải tăng cường
huy động các nguồn vốn khác dưới hình thức vay nợ, liên doanh liên kết, phát
hành trái phiếu và các hình thức khác.
 Vốn vay: doanh nghiệp có thể vay ngân hàng, các tổ chức tín dụng, các
cá nhân, đơn vị kinh tế để tạo lập hoặc tăng thêm nguồn vốn.
- Vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng rất quan trọng đối với các
doanh nghiệp. Nguồn vốn này đáp ứng đúng thời điểm các khoản tín dụng
ngắn hạn hoặc dài hạn tùy theo nhu cầu của doanh nghiệp trên cơ sở các hợp
đồng tín dụng giữa ngân hàng và doanh nghiệp.
- Vốn vay trên thị trường chứng khoán. Tại những nền kinh tế có thị
trường chứng khoán phát triển, vay vốn trên thị trường chứng khoán là một
hình thức huy động vốn cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể phát hành
trái phiếu, đây là một công cụ tài chính quan trọng dễ sử dụng vào mục đích
vay dài hạn đáp ứng nhu cầu vốn SXKD. Việc phát hành trái phiếu cho phép
doanh nghiệp có thể thu hút rộng rãi số tiền nhàn rỗi trong xã hội để mở rộng
hoạt động kinh doanh của mình.
 Vốn liên doanh liên kết: Doanh nghiệp có thể kinh doanh, liên kết, hợp
tác với các doanh nghiệp khác để huy động thực hiện mở rộng hoạt động sản
xuất kinh doanh. Đây là một hình thức huy động vốn quan trọng vì hoạt động
tham gia góp vốn liên doanh, liên kết gắn liền với việc chuyển giao cộng nghệ
thiết bị giữa các bên tham gia nhằm đổi mới sản phẩm, khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cũng có thể tiếp nhận máy móc, thiết bị nếu
hợp đồng liên doanh quy định góp vốn bằng máy móc thiết bị.
 Vốn tín dụng thương mại: “Trong nền kinh tế thị trường, các doanh
nghiệp có thể sử dụng tài trợ thông qua hình thức bán trả chậm của các nhà
cung cấp để có hàng hóa nguyên vật liệu để phục vụ sản xuất kinh doanh.
8
Hình thức tài trợ này gọi là tín dụng thương mại hay tín dụng nhà cung cấp”.
[7, tr 164]

Tín dụng thương mại luôn gắn với một luồng hàng hóa dịch vụ cụ thể,
gắn với một quan hệ thanh toán cụ thể nên nó chịu tác động của cơ chế thanh
toán cụ thể nên nó chịu tác động của cơ chế thanh toán, của chính sách tín
dụng khách hàng mà doanh nghiệp được hưởng. Đây là phương thức tài trợ
tiện lợi, linh hoạt trong kinh doanh và nó còn tạo khả năng mở rộng các quan
hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Tuy nhiên các khoản tín dụng
thương mại thường có thời hạn ngắn nhưng nếu doanh nghiệp biết quản lý
một cách khoa học nó có thể đáp ứng phần nào nhu cầu vốn lưu động cho
doanh nghiệp.
 Vốn tín dụng thuê mua [7, tr 169]
Tín dụng thuê mua là một hình thức tài trợ tín dụng thông qua các loại
tài sản, máy móc, thiết bị,… Thỏa thuận thuê mua là một hợp đồng giữa hai
hay nhiều bên, liên quan đến một hay nhiều tài sản. Người cho thuê (chủ sở
hữu tài sản) chuyển giao tài sản cho người thuê (người sử dụng tài sản) độc
quyền sử dụng trong một khoản thời gian nhất định. Đổi lại, người thuê phải
trả một số tiền cho chủ tài sản tương xứng với quyền sử dụng và quyền hưởng
dụng.
Các hoạt động thuê mua có hai phương thức giao dịch chính:
- Thuê vận hành (Operating lease):
+ Thời hạn thuê thường rất ngắn so với toàn bộ thời gian tồn tại hữu ích
của dự án, điều kiện chấm dứt hợp đồng chỉ cần báo trước trong thời gian
ngắn.
+ Người thuê chỉ phải trả tiền thuê theo thỏa thuận, người cho thuê phải
chịu mọi chi phí vận hành của tài sản như chi phí bảo trì, bảo hiểm, thuế tài
sản,… cùng với mọi rủi ro về hao mòn vô hình của tài sản.
- Thuê tài chính (leasing):
+ Thuê tài chính là một phương thức tài trợ tín dụng trung hạn và dài
hạn theo hợp đồng. Theo phương thức này, người cho thuê thường mua tài
sản, thiết bị mà người cần thuê và đã thương lượng từ trước các điều kiện mua
tài sản từ người cho thuê.

9
+ Các loại chi phí bảo trì, vận hành, bảo hiểm, thuế tài sản và mọi rủi ro
thường do người cho thuê phải chịu.
+ Thời hạn thuê tài sản của bên thuê phải chiếm phần lớn hữu ích của
tài sản và hiện giá thuần của toàn bộ các khoản tiền thuê phải đủ để bù đắp
những chi phí mua tài sản tại thời điểm bắt đầu hợp đồng.
+ Sự khác biệt so với một khoản vay nợ của hình thức này là người cho
thuê phải nắm giữ quyền sỡ hữu pháp lý và có quyền thu hồi ngay lập tức nếu
có những đe dọa an toàn đối với tài sản.
Trên đây là cách phân loại vốn theo nguồn hình thành, nó là cơ sở để
doanh nghiệp lựa chọn nguồn tài trợ phù hợp tùy theo loại hình sở hữu, ngành
nghề kinh doanh, quy mô trình độ quản lý, trình độ khoa học kỹ thuật cũng
như chiến lược phát triển và chiến lược đầu tư của doanh nghiệp. Bên cạnh
đó, đối với việc quản lý vốn ở các doanh nghiệp trọng tâm cần đề cập là hoạt
động luân chuyển của vốn, sự ảnh hưởng qua lại của hình thái khác nhau của
tài sản và hiệu quả quay vòng vốn. Vốn cần được xem xét dưới trạng thái
động với quan điểm hiệu quả.
 Căn cứ vào nội dung vật chất vốn
Căn cứ vào nội dung vật chất vốn thì vốn được chia thành hai loại:
a. Vốn thực: là toàn bộ hàng hóa phục vụ cho sản xuất và dịch vụ khác
như máy móc thiết bị, nhà xưởng,… phần vốn này phản ánh hình thái vật thể
của vốn, nó tham gia trực tiếp vào sản xuất kinh doanh.
b. Vốn tài chính: là biểu hiện dưới hình thái tiền, chứng khoán và các giấy
tờ có giá khác dùng cho việc mua tài sản, máy móc,… phần vốn này phản ánh
phương tiện tài chính của vốn.
1.1.1.3. Vai trò của vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp
Về mặt pháp lý: Mỗi doanh nghiệp khi muốn thành lập thì điều kiện đầu
tiên là doanh nghiệp đó phải có một lượng vốn nhất định, lượng vốn đó phải
tối thiểu bằng vốn pháp định (là lượng vốn tối thiểu mà pháp luật quy định
cho từng loại hình doanh nghiệp) và khi đó địa vị pháp lý của doanh nghiệp

mới được xác lập. Ngược lại, việc thành lập doanh nghiệp không thể thực
hiện được. Theo điều 4 – Chương II: Quy chế quản lý Tài chính và Hạch toán
kinh doanh đối với DNNN, nếu trong quá trình hoạt động kinh doanh, vốn
10
điều lệ không đạt điều kiện mà pháp luật quy định, tức là thấp hơn tổng mức
vốn pháp định của các ngành nghề mà doanh nghiệp đó kinh doanh thì cơ
quan có thẩm quyền quyết định thành lập doanh nghiệp đó phải cấp bổ sung
vốn điều lệ cho doanh nghiệp, hoặc giảm ngành nghề kinh doanh cho doanh
nghiệp hoặc phải tuyên bố chấm dứt hoạt động như: phá sản, giải thể, sát
nhập,… Như vậy, vốn có thể được xem là một trong những cơ sở quan trọng
nhất để đảm bảo sự tồn tại tư cách pháp lý của một doanh nghiệp trước pháp
luật.
Về mặt kinh tế: Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn là một trong
những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của từng doanh nghiệp. Một
doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường thì doanh nghiệp đó phải có
một lượng vốn nhất định, lượng vốn đó không những đảm bảo cho SXKD của
doanh nghiệp diễn ra liên tục mà còn dùng để cải tiến máy móc thiết bị, đầu
tư, hiện đại hóa công nghệ… Bởi chúng ta đã biết, trong nền kinh tế thị
trường các doanh nghiệp không chỉ tồn tại đơn thuần mà trong đó còn có sự
cạnh tranh gay gắt với nhau. Muốn tồn tại và vươn lên, tất yếu sản phẩm của
doanh nghiệp phải có chất lượng tốt, giá thành thấp, năng suất lao động cao.
Tất cả những yếu tố này muốn đạt được thì đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải có
một lượng vốn nhất định.
Bên cạnh đó, mỗi doanh nghiệp khi có một lượng vốn tương đối lớn thì
doanh nghiệp đó sẽ chủ động hơn trong việc lựa chọn phương án sản xuất
kinh doanh hợp lý, có hiệu quả. Vốn là yếu tố quan trọng quyết định đến năng
lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và xác lập vị thế của doanh nghiệp
trên thương trường. Điều này càng thể hiện rõ trong nền kinh tế thị trường
hiện nay với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, các doanh nghiệp phải không
ngừng cải tiến máy móc thiết bị, đầu tư hiện đại hóa công nghệ,… Tất cả

những yếu tố này muốn đạt được thì đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng
vốn đủ lớn. Chỉ cần một phép so sánh đơn giản, nếu doanh nghiệp A và B
ngang bằng nhau về trang thiết bị công nghệ, trình độ quản lý, tay nghề công
11
nhân,… nhưng doanh nghiệp A có nguồn tài chính lớn hơn vững mạnh hơn
thì tất yếu doanh nghiệp A sẽ được rất nhiều lợi thế trên thương trường. Vốn
có vai trò thực sự quan trọng đối với doanh nghiệp.
Vốn cũng là yếu tố quyết định doanh nghiệp nên mở rộng hay thu hẹp
phạm vi hoạt động của mình. Thật vậy khi đồng vốn của doanh nghiệp ngày
càng sinh sôi nảy nở, thì doanh nghiệp sẽ mạnh dạn mở rộng phạm vi hoạt
động vào các thị trường tiềm năng mà trước đó doanh nghiệp chưa có điều
kiện thâm nhập. Ngược lại, khi đồng vốn hạn chế thì doanh nghiệp nên tập
trung vào một số hoạt động kinh doanh mà doanh nghiệp có lợi thế trên thị
trường.
Vốn với đặc trưng của nó là vận động sinh lời. Do vậy, một doanh
nghiệp khi đã tồn tại được trên thị trường thì doanh nghiệp đó phải ngày càng
phát triển, tức là đồng vốn của doanh nghiệp ngày càng tăng theo sản xuất
kinh doanh.
Trên đây là một số vai trò quan trọng, cơ bản của vốn đối với doanh
nghiệp trong hoạt động SXKD nói chung trong nền kinh tế thị trường. Nhận
thức được vai trò của vốn một cách sâu sắc, giúp các doanh nghiệp sử dụng
nó một cách tiết kiệm, có hiệu quả hơn và luôn tìm cách nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn.
1.1.2. Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn
Để đánh giá trình độ quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh
của một doanh nghiệp, người ta sử dụng thước đo là hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp đó. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được đánh giá trên
hai giác độ: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Trong phạm vi quản lý doanh
nghiệp, người ta chủ yếu quan tâm đến hiệu quả kinh tế. Đây là một phạm trù
phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt được kết

quả cao nhất với chi phí hợp lý nhất. Do vậy, các nguồn lực kinh tế đặc biệt là
nguồn vốn của doanh nghiệp có tác động rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Từ đó, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu
cầu mang tính thường xuyên và bắt buộc đối với doanh nghiệp. Đánh giá hiệu
12
quả sử dụng vốn sẽ giúp ta thấy được hiệu quả của hoạt động kinh doanh nói
chung và trình độ quản lý sử dụng vốn nói riêng.
Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản
ánh trình độ khai thác, sử dụng và quản lý nguồn vốn làm cho đồng vốn sinh
lời tối đa nhằm mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là tối đa hóa giá trị tài
sản của chủ sở hữu.
Hiệu quả sử dụng vốn được lượng hóa thông qua hệ thống các chỉ tiêu về
hiệu suất sử dụng vốn cố định, vốn lưu động, sức sinh lời của vốn, tốc độ luân
chuyển vốn… Nó phản ánh quan hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình sản
xuất kinh doanh thông qua thước đo tiền tệ hay cụ thể là mối tương quan giữa
kết quả thu được với chi phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh.
Kết quả thu được càng cao với chi phí vốn bỏ ra thì hiệu quả sử dụng vốn
càng cao. Do đó, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là điều kiện quan trọng để
doanh nghiệp phát triển vững mạnh.
Ngoài ra, doanh nghiệp phải thường xuyên phân tích đánh giá hiệu quả
sử dụng vốn để nhanh chóng có biện pháp khắc phục những mặt hạn chế và
phát huy những ưu điểm của doanh nghiệp trong quản lý và sử dụng vốn.
Thông qua phân tích hiệu quả sử dụng vốn sẽ cung cấp hình ảnh về việc sử
dụng vốn tại doanh nghiệp, những ưu điểm và hạn chế trong công tác tài
chính tại doanh nghiệp. Có hai phương pháp để phân tích tài chính cũng như
phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp đó là phương pháp so sánh
và phương pháp phân tích tỷ lệ.
 Phương pháp so sánh: để áp dụng phương pháp này cần phải đảm bảo
các điều kiện so sánh được của các chỉ tiêu tài chính (thống nhất về không
gian, thời gian, nội dung, tính chất và đơn vị tính toán…) và theo mục đích

phân tích mà xác định gốc so sánh. Gốc so sánh được chọn là gốc về thời gian
hoặc không gian, kỳ phân tích được chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá
trị so sánh có thể được lựa chọn bằng số tuyệt đối, số tương đối hoặc số bình
quân. Nội dung so sánh có thể là so sánh giữa số thực hiện năm nay và năm
13
trước, so sánh giữa số thực hiện và số kế hoạch, so sánh số thực hiện của
doanh nghiệp với số liệu trung bình của ngành…
 Phương pháp tỷ lệ: trong phân tích tài chính của doanh nghiệp, các tỷ
lệ tài chính được phân thành các nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh những nội
dung cơ bản theo mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ
về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn và nguồn vốn, nhóm tỷ lệ
về năng lực hoạt động kinh doanh, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời. Mỗi
nhóm tỷ lệ lại bao gồm nhiều tỷ lệ phản ánh riêng lẻ, từng bộ phân của hoạt
động tài chính, trong mỗi trường hợp khác nhau, tùy theo giác độ phân tích,
người phân tích lựa chọn những nhóm chỉ tiêu khác nhau. Để phục vụ cho
việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp người ta thường dùng
một số các chỉ tiêu mà ta sẽ trình bày cụ thể trong phần sau.
1.1.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là tất yếu khách quan và
xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu sau:
• Xuất phát từ mục đích hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Mọi doanh nghiệp khi tham gia vào kinh doanh đều kỳ vọng vào việc tối
đa hóa lợi nhuận, lợi nhuận là kết quả, là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh sẽ
là một trong số các biện pháp tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm và là
một hướng để nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp.
• Xuất phát từ vai trò và vị trí của vốn kinh doanh trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Chúng ta đều biết doanh nghiệp muốn tồn tại và bền vững trong thì phải

cần tới vốn kinh doanh. Hiệu quả sử dụng vốn sẽ quyết định kết quả kinh
doanh cuối cùng của doanh nghiệp. Do đó, trong quá trình hoạt động và sản
xuất kinh doanh, việc bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
đã trở thành một trong số các mục tiêu đặt ra cho mỗi doanh nghiệp.
• Xuất phát từ yêu cầu bảo toàn vốn kinh doanh của doanh nghiệp
14
Lợi nhuận là mục tiêu hoạt động của mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế
thị trường.Tuy nhiên, việc bảo toàn vốn kinh doanh cũng là một vấn đề đặt ra
đối với các nhà quản lý doanh nghiệp.Vì vậy, yêu cầu bảo toàn vốn để từ đó
không chỉ dừng lại ở bảo toàn vốn mà còn mở rộng và phát triển quy mô vốn.
• Xuất phát từ yêu cầu hạch toán kinh doanh đầy đủ của doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường.
Từ khi chuyển sang nền kinh thế thị trường, bất kỳ một doanh nghiệp khi
tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh cũng phải tuân theo nguyên tắc hạch
toán kinh doanh là: kinh doanh phải lấy thu bù chi và phải có lợi nhuận. Nếu
không đạt được yêu cầu này các doanh nghiệp sẽ có nguy cơ phá sản. Chính
vì vậy, các doanh nghiệp phải luôn có những biện pháp để đảm bảo an toàn
vốn và nâng cao hiệu quả sản xuât kinh doanh để khẳng định vị trí của mình
trên thị trường.
• Xuất phát từ yêu cầu cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
Trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển
mạnh mẽ thì sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là vô cùng gây gắt. Doanh
nghiệp nào tận dụng tối đa năng lực sản xuất và nâng cao hiệu quả vốn thì sẽ
có điều kiện tốt để đứng vững trên thị trường.Việc nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp tạo khả năng cạnh tranh và tạo những lợi thế
nhất định đến doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển.
Từ đó, ta có thể thấy việc nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn kinh
doanh có vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động kinh doanh của mỗi
doanh nghiệp, là điều kiện cấp thiết và là tiền đề để doanh nghiệp tồn tại và
phát triển.

1.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
Mục đích cũng như ý tưởng của hoạt động sản xuất kinh doanh đều
hướng tới hiệu quả kinh tế trên cơ sở khai thác và sử dụng triệt để mọi nguồn
lực hiện có. Tạo lập, khai thác và sử dụng các tiềm lực về vốn hợp lý hay
không sẽ có tác động tích cực hay tiêu cực tới hiệu quả sử dụng vốn nói riêng
và hiệu quả hoạt động kinh doanh. Vì vây, việc nâng cao hiệu quả sử dụng
15
vốn là yêu cầu mang tính thường xuyên và bắt buộc, đánh giá đúng hiệu quả
sử dụng vốn sẽ thấy được chất lượng của việc kinh doanh và khả năng quản lý
vốn của doanh nghiệp. Để thấy rõ được vấn đề trên, thông qua các chỉ tiêu sau
đây để nhận xét đánh giá.
1.2.1. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
1.2.1.1 Hiệu suất sử dụng tổng tài sản
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản hay còn gọi là vòng quay toàn bộ vốn. Chỉ
tiêu này đo lường 1 đồng vốn đầu tư vào doanh nghiệp tham gia vào quá trình
sản xuất kinh doanh sẽ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu.
- Công thức:
Vòng quay càng lớn hiệu quả càng cao. Nếu chỉ số này quá cao cho thấy
doanh nghiệp đang hoạt động gần hết công suất và rất khó để mở rộng hoạt
động nếu không đầu tư thêm vốn[8, tr 86].
1.2.1.2. Tỷ suất lợi nhuận thuần trên doanh thu (doanh lợi tiêu thụ)
- Công thức tính:
DLDT =
Lợi nhuận sau thuế
x 100%
Doanh thu thuần
Tỷ suất sinh lợi trên doanh thu thuần được tính bằng cách lấy Lợi nhuận
sau thuế chia cho Doanh thu thuần.
Chỉ tiêu này cho biết với một đồng doanh thu thuần từ bán hàng và cung
cấp dịch vụ sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Ta thấy độ lớn của chỉ tiêu

này phụ thuộc vào doanh thu thuần và lợi nhuận sau thuế. Mà doanh thu thuần
thì phụ thuộc vào doanh thu từ hoạt động kinh doanh và thu nhập khác, doanh
thu từ hoạt động kinh doanh cao hay thấp thì phụ thuộc vào khả năng tiêu thụ
của doanh nghiệp trong kỳ.[8, tr 90]
Tỷ suất này càng lớn thì hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp càng cao.
1.2.1.3. Tỷ suất doanh lợi tài sản (ROA)
16
Hiệu suất sử dụng
toàn bộ tài sản
Doanh thu thuần
Tổng tài sản bình quân
=
Doanh lợi tài sản (Return on assets – ROA) được tính theo công thức:
Tỷ suất sinh
lợi tài sản
=
Lợi nhuận sau thuế
x 100%
Giá trị TS bình quân
Để đánh giá một cách tổng quát và chính xác về khả năng sinh lợi của
đồng vốn thì ta sử dụng chỉ tiêu tỷ số doanh lợi tài sản (ROA). Tỷ số ROA
phản ánh bình quân 100 đồng tài sản tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận
sau thuế, chỉ tiêu này càng cao thì sử dụng vốn càng hiệu quả.[8, tr 91]
Tỷ số này phản ánh khả năng sinh lời của một đồng tài sản đầu tư, phản
ánh hiệu quả của việc quản lý và sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Tỷ số này cho biết cứ 100 đồng tài sản ngắn hạn được sử dụng trong sản xuất
kinh doanh sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh
nghiệp. Tỷ số này càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả.
1.2.1.4. Tỷ suất lợi nhuận thuần trên vốn chủ sở hữu (ROE)
Tỷ số lợi nhuận thuần trên vốn chủ sở hữu hay doanh lợi VCSH (Return

on Equity – ROE) được tính theo công thức:
ROE =
Lợi nhuận sau thuế
x 100%
VCSH bình quân
Chỉ số này phản ánh khả năng sinh lời của nguồn vốn chủ sở hữu đầu tư
kinh doanh. Chỉ tiêu này cho biết bình quân 100 đồng vốn chủ sở hữu tạo ra
được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế; đây được xem là chỉ tiêu phản ánh
hầu như các mặt của doanh nghiệp, bao gồm tốc độ luân chuyển vốn, khả
năng quản lý chi phí nhằm tăng lợi nhuận và mức độ sử dụng nợ của doanh
nghiệp.[8, tr 91]
1.2.1.5. Tỷ số sức sinh lời căn bản (BEPR)
Tỷ số này phản ánh khả năng sinh lợi căn bản của doanh nghiệp, nghĩa là
chưa kể tới ảnh hưởng của thuế và đòn bẩy tài chính. Công thức xác định tỷ
số này như sau:
BEPR =
EBIT
x 100%
Tổng TS bình quân
17
Tỷ số này phản ánh khả năng sinh lời trước thuế và lãi của doanh nghiệp.
Nó cho biết bình quân cứ mỗi 100 đồng tài sản của doanh nghiệp tạo ra được
bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế và lãi vay. Tỷ số này phản ánh khả năng
sinh lời căn bản chưa kể đến ảnh hưởng của thuế và đòn bẩy tài chính cho nên
thường được sử dụng để so sánh khả năng sinh lợi trong trường hợp các
doanh nghiệp có thuế suất thuế thu nhập và mức độ sử dụng nợ rất khác nhau.
[8, tr 90]
1.2.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
1.2.2.1. Hàm lượng vốn cố định
Hàm lượng

VCĐ
=
VCĐ bình quân
x 100%
Doanh thu thuần
Hệ số này cho biết để có một đồng doanh thu cần bao nhiêu đồng vốn cố
định. Hệ số này càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn cố định càng cao, số
vốn cố định tiết kiệm được càng nhiều.
1.2.2.2. Hiệu suất sử dụng vốn cố định
Hiệu suất sử dụng vốn cố định: được đo bằng tỷ lệ giữa doanh thu tiêu
thụ sản phẩm trong kỳ và số vốn cố định bình quân trong kỳ.
Hiệu suất sử
dụng VCĐ
=
Doanh thu thuần
x 100%
VCĐ bình quân trong kỳ
Trong công thức trên vốn cố định bình quân trong kỳ là bình quân giá trị
còn lại của tài sản cố định đầu kỳ và cuối kỳ. Hiệu suất sử dụng vốn cố định
phản ánh một đồng vốn cố định phản ánh một đồng vốn cố định trong kỳ tạo
ra bao nhiêu đồng doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hóa trong kỳ.
1.2.2.3. Sức sinh lời vốn cố định
Sức sinh lời
VCĐ
=
Lợi nhuận trước thuế
x 100%
VCĐ bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định sử dụng trong kỳ có thể tạo
ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế (hoặc lợi nhuận sau thuế thu

nhập). Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao.
1.2.2.4. Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
18
Tỷ số này nói lên 1 đồng Nguyên giá TSCĐ tạo ra được bao nhiêu đồng
doanh thu. Qua đó đánh giá được hiệu quả sử dụng TSCĐ ở doanh nghiệp.
Công thức tính:
Muốn đánh giá việc sử dụng TSCĐ có hiệu quả không phải so sánh với
các doanh nghiệp khác cùng ngành hoặc so sánh với các thời kỳ trước.
Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu suất sử dụng vốn cố định ngày càng
cao.[8, tr 85]
1.2.3. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
1.2.3.1. Hàm lượng vốn lưu động
Hàm lượng
VLĐ
=
VLĐ bình quân
x 100%
Doanh thu thuần
Hệ số này cho biết để có một đồng doanh thu cần bao nhiêu đồng vốn
lưu động. Hệ số này càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao, số
vốn tiết kiệm được càng nhiều.
1.2.3.2. Hiệu suất sử dụng vốn lưu động
Hiệu suất sử
dụng VLĐ
=
Doanh thu thuần
x 100%
VLĐ bình quân
Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn lưu động hay số vòng quay của vốn lưu
động cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ. Nếu số vòng quay

tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn tăng và ngược lại. Đẩy nhanh tốc độ luân
chuyển vốn sẽ góp phần giải quyết nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, góp
phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
1.2.3.3. Sức sinh lợi của vốn lưu động
Sức sinh lời
của VLĐ
=
Lợi nhuận
x 100%
VLĐ bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này còn được gọi là doanh lợi vốn lưu động, nó phản ánh khả
năng sinh lời của vốn lưu động. Chỉ tiêu này được xây dựng trên cơ sở lợi
nhuận của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao cho biết doanh nghiệp đã sử
dụng vốn lưu động có hiệu quả, ngược lại chỉ tiêu này thấp có nghĩa là lợi
19
nhuận trên một đồng vốn là nhỏ. Doanh nghiệp được đánh giá là sử dụng vốn
lưu động kém hiệu quả hay không là chỉ tiêu này phản ánh một phần.
1.2.3.4. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động
Việc sử dụng hợp lý tiết kiệm vốn lưu động được biểu hiện trước hết ở
tốc độ luân chuyển VLĐ của doanh nghiệp nhanh hay chậm. VLĐ luân
chuyển càng nhanh thì hiệu suất sử dụng VLĐ càng cao và ngược lại.
Công thức tính như sau:
L = M/VLĐ
Trong đó:
L: số lần luân chuyển (số vòng quay) của VLĐ trong kỳ
M: tổng mức luân chuyển vốn trong kỳ
VLĐ: VLĐ bình quân trong kỳ
Kỳ luân chuyển VLĐ phản ánh số ngày để thực hiện một vòng quay
VLĐ.
Công thức được xác định như sau:

K = 360/L hay K = (VLĐ x 360)/M
Trong đó: K là kỳ luân chuyển VLĐ
Vòng quay VLĐ càng nhanh thì kỳ luân chuyển vốn càng được rút ngắn
và chứng tỏ VLĐ càng được sử dụng có hiệu quả.
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh
nghiệp
Các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường chịu tác động của nhiều
nhân tố, bao gồm cả những nhân tố khách quan và chủ quan. Do vậy hiệu quả
kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng cũng chịu ảnh hưởng
sâu sắc của những yếu tố đó.
1.3.1. Các nhân tố khách quan
1.3.1.1. Môi trường pháp luật
Hoạt động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế phải tuân theo những
quy định pháp luật do Nhà nước ban hành, qua đó có tác dụng hướng hoạt
20
động kinh tế của họ tuân theo ý muốn chủ quan của Nhà nước. Tuy nhiên mục
tiêu này không phải lúc nào cũng đạt được kết quả mong muốn bởi vì hệ
thống luật pháp ở nhiều quốc gia còn chưa được kiện toàn. Chính vì vậy đã
tạo ra kẽ hở trong luật và bị các cá nhân, tổ chức lợi dụng để hoạt động kinh
doanh bất hợp pháp hay dựa vào những điều luật còn chồng chéo, thiếu tính
cụ thể nghiêm minh nên dẫn tới việc coi thường luật pháp trong hoạt động
kinh tế mà hậu quả có thể là đơn phương phá ngang hợp đồng kinh tế đã ký
kết, hoặc chiếm dụng vốn mà không thanh toán, gây thiệt hại về kinh tế cũng
như hiệu quả sử dụng vốn cho doanh nghiệp là nạn nhân. Vì thế, để chấm dứt
được tình trạng này thì biện pháp tối ưu là phải khắc phục những mặt hạn chế
trong hệ thống luật pháp, xử lý thật nghiêm minh những tội phạm kinh tế để
làm gương răn đe, giáo dục. Có như vậy mới tạo được sự ổn định trong hoạt
động kinh tế và mục tiêu của Nhà nước mới thực hiện được triệt để.
1.3.1.2. Chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước
Nhà nước điều tiết nền kinh tế thông qua các chính sách cơ bản là chính

sách thuế, giá cả và lãi suất.
Chính sách thuế thay đổi sẽ ảnh hưởng đến công tác hạch toán kế toán và
các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật mà đơn vị đang áp dụng.
Chính sách giá cả thay đổi sẽ làm thay đổi giá thành sản phẩm cũng như
giá bán của sản phẩm đó, vì thế sản lượng tiêu thụ, doanh thu bán hàng…
cũng sẽ chịu ảnh hưởng.
Chính sách về lãi suất thay đổi sẽ ảnh hưởng đến thu nhập tài chính của
khoản tiền gửi ngân hàng, mức độ thuận lợi hay khó khăn của việc vay vốn,
số lượng tiền được vay nhiều hay ít, và chi phí tài chính của đơn vị đi vay.
Tóm lại, khi các chính sách kinh tế kể trên thay đổi sẽ có tác động tích
cực hoặc tiêu cực đến hiệu quả sử dụng vốn cũng như hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn, trong thời kỳ nền kinh tế tăng trưởng
thấp thì Nhà nước có thể đối phó bằng cách: hạ lãi suất cho vay, tiền gửi, tăng
thuế nhằm khuyến khích các tổ chức cá nhân tham gia mạnh mẽ hơn vào hoạt
21
động kinh tế của Đất nước, nhờ đó mà nền kinh tế sẽ có mức tăng trưởng cao
hơn. Với một chính sách nới lỏng như vậy, nếu doanh nghiệp nào có những
dự án đầu tư tốt, có tinh khả thi cao mà số vốn cần thiết để thực hiện dự án
chưa đủ thì có thể bổ sung bằng cách huy động số vốn còn thiếu thông qua hệ
thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng. Nhờ vậy, các doanh nghiệp sẽ hạn chế
được những cơ hội kinh doanh tốt bị bỏ qua và có thời cơ kiếm lợi nhuận,
tăng quy mô vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đồng thời giảm dần sự phụ
thuộc về vốn vào các tổ chức tài chính. Ngược lại, trong thời kỳ nền kinh tế
“nóng” thì giải pháp đối phó là hoàn toàn ngược lại. Với chính sách này sẽ
hạn chế được những doanh nghiệp thành lập mới, đồng thời ảnh hưởng đến kế
hoạch đầu tư phát triển của các doanh nghiệp đang hoạt động cũng như hiệu
quả sử dụng vốn của từng doanh nghiệp. Vì thế trong bất kỳ hoàn cảnh nào
các doanh nghiệp luôn mong muốn có sự ổn định trong chính sách kinh tế của
Nhà nước, trên cơ sở đó để thiết lập chiến lược kinh doanh phù hợp, có như
vậy mới tạo tâm lý an toàn cho các nhà đầu tư, bởi vì chỉ một thay đổi nhỏ

trong chính sách kinh tế sẽ có tác động lớn đến chỉ tiêu chi phí, lợi nhuận và
hiệu quả sử dụng vốn.
1.3.1.3. Thị trường và hoạt động canh tranh
Tất cả các loại hình doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường
đều chịu sự tác động của nhân tố thị trường. Có thể nói, nếu vốn giúp cho
doanh nghiệp bước vào hoạt động thì thị trường là nhân tố quyết định sự tồn
tại của doanh nghiệp, nó ảnh hưởng đến “đầu ra” – doanh thu và thị trường
“đầu vào” – các yếu tố sản xuất của doanh nghiệp. Sự tác động của thị trường
đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp thể hiện ở một số khía cạnh cơ
bản sau:
Nếu doanh nghiệp huy động vốn vay để tiến hành hoạt động sản xuất
kinh doanh nhưng hàng sản xuất ra hay nhập về lại không tiêu thụ được sẽ
làm cho vốn lưu động của doanh nghiệp không luân chuyển được, vốn không
22
sinh lời trong khi đó doanh nghiệp vẫn phải trả lãi vay, mục tiêu của doanh
nghiệp không những không đạt được mà còn đứng trước nguy cơ thua lỗ.
Sự biến động của thị trường cũng là nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử
dụng vốn của doanh nghiệp. Điều đó thể hiện ở cả đầu ra và đầu vào của
doanh nghiệp.
Sự biến động của thị trường đầu vào các yếu tố sản xuất, nguồn lực đầu
vào trở nên khan hiếm, giá cả biến động lớn dẫn đến sản phẩm hàng hóa của
doanh nghiệp không đủ bù đắp chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có
được các hàng hóa đó.
Sự biến đổi của thị trường đầu ra, như thay đổi nhu cầu của người tiêu
dùng, hàng hóa bán được nhưng không đủ bù đắp chi phí… Tất cả các yếu tố
này tác động đến rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp.
Những ảnh hưởng của nhân tố thị trường đối với hiệu quả sử dụng vốn
của doanh nghiệp không chỉ dừng ở đây mà còn thể hiện ở tính cạnh tranh cố
hữu. Ta biết rằng, trong nền kinh tế hiện nay nhu cầu của thị trường về các
loại hàng hóa dịch vụ rất đa dạng, phong phú, những yêu cầu liên quan đến

sản phẩm khi tham gia vào thị trường ngày càng tăng. Sản phẩm sản xuất ra
muốn tiêu thụ được thì phải đáp ứng được 3 tiêu chí cơ bản của thị trường là
chất lượng tốt, giá thành hạ, phù hợp với thị hiếu và thu nhập của đa số người
tiêu dùng. Để đáp ứng được những yêu cầu ấy đòi hỏi các doanh nghiệp phải
tăng cường công tác quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng
thời đầu tư vốn đổi mới công nghệ sản xuất. Rõ ràng là dưới sức ép của thị
trường doanh thu tiêu thụ sản phẩm cũng như chi phí sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng. Vì thế, chắc chắn cũng sẽ tác động đến hiệu
quả sử dụng vốn của doanh nghiệp ấy. Măt khác, bên cạnh sự cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh cùng một mặt thì do cơ chế chính
sách về kinh tế của Đảng và Nhà nước đã tạo ra sự tăng nhanh số lượng của
các loại hình doanh nghiệp mới, trong đó có những doanh nghiệp đăng ký sản
xuất kinh doanh những mặt hàng thị trường đã có. Vì thế, càng làm tăng thêm
23
sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, làm ảnh hưởng đến doanh thu và hiệu
quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
1.3.1.4. Tính chất ổn định của môi trường
Kết quả sản xuất kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng vốn của một
doanh nghiệp tốt hay xấu không những chỉ phụ thuộc vào trình độ quản lý,
điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của ban lãnh đạo công ty mà còn
phụ thuộc vào tính chất của môi trường kinh doanh tốt được coi là có thể chế
pháp lý chặt chẽ nghiêm minh, các chính sách quản lý về kinh tế của Nhà
nước có tính ổn định rõ ràng, cụ thể. Trên cơ sở đó các doanh nghiệp mới
thực sự an tâm sản xuất, lập kế hoạch đầu tư cho tương lai, nhờ đó hiệu quả
sử dụng vốn sẽ tốt hơn. Ngược lại, các kế hoạch đầu tư dài hạn cũng như hiệu
quả sử dụng vốn của doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực gây tâm lý chán
nản cho các nhà đầu tư. Do đó sẽ làm giảm khả năng thu hút vốn đầu tư nước
ngoài và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
1.3.2. Các nhân tố chủ quan
1.3.2.1. Cơ cấu vốn của doanh nghiệp

Cơ cấu vốn (capital structure) là tỷ trọng của từng loại vốn trong tổng số
vốn của doanh nghiệp. Tùy thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp mà cơ cấu
vốn của chúng cũng khác nhau, trong các doanh nghiệp thương mại thì vốn
lưu động chiếm tỷ trọng chủ yếu. Chính điều này có tác động đến hiệu quả sử
dụng vốn của doanh nghiệp trên hai giác độ là:
Với cơ cấu vốn khác nhau thì chi phí bỏ ra để có được nguồn vốn đó
cũng khác nhau.
Cơ cấu vốn khác nhau thì khi xét đến tính hiệu quả của công tác sử dụng
vốn người ta tập trung vào những khía cạnh khác nhau. Chẳng hạn như đối
với doanh nghiệp thương mại thì khi xét hiệu quả sử dụng vốn người ta chủ
yếu tập trung vào xét hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Cơ cấu vốn sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn thông qua sự ảnh
hưởng của nó đến chi phí vốn của doanh nghiệp. Việc sử dụng vốn của doanh
24
nghiệp chỉ được coi là có hiệu quả nếu nó đem lại một tỷ suất lợi nhuận lớn
hơn chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để có được nguồn vốn đó.
1.3.2.2. Chi phí vốn
Chi phí vốn được hiểu là chi phí trả cho nguồn vốn huy động và sử dụng,
chi phsi vốn được đo bằng tỷ suất doanh lợi mà doanh nghiệp cần phải đạt
được trên tổng vốn huy động để giữ không làm thay đổi tỷ lệ sinh lời cần thiết
dành cho cổ đông cổ phiếu thường hay vốn tự có của doanh nghiệp.
Tuy nhiên nguồn vốn của doanh nghiệp được chia thành hai nguồn huy
động chính đó là: vốn vay và vốn chủ sở hữu. Từ đó, ta xác định được chi phí
bình quân gia quyền của vốn theo công thức:
WACC = W
d
*k
d
+ W
e

*k
e
Trong đó: W
d
: Tỷ trọng vốn vay trong tổng nguồn vốn
k
d
: Chi phí vốn vay sau thuế
W
e
: Tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn
K
e
: Chi phí vốn chủ sở hữu
WACC ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp,
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải tạo ra được tỷ
suất lợi nhuận tối thiểu là WACC thì doanh nghiệp mới được coi là sử dụng
vốn có hiệu quả.
Từ hai nhân nguồn vốn trên sẽ giúp cho doanh nghiệp xác định được cho
mình một cơ cấu vốn tối ưu. Điều này sẽ giúp cho doanh nghiệp nếu cần mở
rộng quy mô huy động vốn mà vẫn giữ nguyên tỷ trọng này thì chi phí vốn
vẫn là thấp nhất.
1.3.2.3. Nhân tố con người
 Trình độ quản lý doanh nghiệp
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp luôn trăn trở phải
làm gì để có vốn để đầu tư, sử dụng nó như thế nào, quản lý tài sản hiện có ra
sao để mang lại hiệu quả sử dụng vốn cao nhất. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp
sẽ đề ra giải pháp nhằm đối phó với tình hình thực tế. Những giải pháp này có
25

×