BỆNH LÝ HỌC THÚ Y I
Câu 1: Nguyên nhân bệnh là gì? Trình bày quan niệm khoa học về nguyên nhân
bệnh học?
- Nguyên nhân bệnh
: Là yếu tố có hại, khi tác động lên cơ thể sẽ quyết định bệnh
phát sinh và các
đặc điểm phát triển của bệnh.
- Quan niệm
khoa học về nguyên nhân bệnh
học :
Quan niệm đúng đắn về nguyên nhân bệnh học phải nêu lên được mối liên hệ
chặt chẽ giữa nguyên nhân bệnh và điều kiện gây bệnh, trong đó có cả yếu tố cơ
thể.
- Nguyên
nhân
bệnh
có
vai
trò
quyết
định
và
điều
kiện
thì
phát
huy
tác
dụng
của
nguyên
nhân bệnh .
- Nguyên nhân
bệnh là yếu tố
có
hại, khi tác
động
lên cơ thể sẽ quyết
định bệnh
phát sinh và các đặc điểm phát triển của bệnh .
+ Yếu tố gây bệnh phải đạt tới một cường độ nhất định (độc lực, liều lượng ) thì
mới gây bệnh được.
+ Nguyên nhân bệnh quyết định đặc điểm của bệnh nên dựa vào đặc điểm của
bệnh có thể khám phá ra nguyên nhân bệnh để từ đó xác định phương pháp điều trị
hữu hiệu.
- Nguyên
nhân
bệnh
chỉ
có
thể
phát
huy
tác
dụng
trong
những
điều
kiện
cơ
thể
nhất
định.
VD. bệnh Tụ huyết trùng do vi khuẩn Pasteurella gây ra nhưng nó chỉ
phát bệnh
trong khi sức đề kháng của con vật bị giảm sút. Cường độ của nguyên nhân
bệnh
cũng là một điều kiện.
Khi
có
nguyên
nhân
bệnh
thì
bệnh
sẽ
phát
ra
trong
những
điều
kiện
nhật
định,
ngược
lại,
nếu
có
đầy
đủ
các
điều
kiện
mà
không
có
nguyên
nhân
bệnh
thì
bệnh
cũng không thể phát ra được .
Trong những điều kiện nhất định thì nguyên nhân bệnh có thể trở thành điều
kiện
gây bệnh, thí dụ: nuôi dưỡng kém là nguyên nhân của bệnh suy dinh dưỡng, thiếu
Vitamin là nguyên nhân của bệnh thiếu Vitamin, nhưng nó lại là điều kiện để con
vật
bị nhiễm khuẩn, là điều kiện của các bệnh truyền nhiễm.
Mối quan hệ nhân quả trong nguyên nhân bệnh học:
- Mỗi bệnh (tức
là hậu quả)
đều do
một
nguyên
nhân
gây ra nguyên
nhân
có
trước
hậu
quả có sau nhưng ta lại nhìn thấy hậu quả trước.
- Bất
cứ
bệnh
nào
cũng
đều
có
nguyên
nhân
của
nó ; mặc dù vậy, hiện nay còn
nhiều bệnh chưa tìm được nguyên nhân, song đó là do trình độ phát triển của khoa
học
còn hạn chế, chưa cho phép tìm ra nhưng nguyên nhân ấy, dần dần khi khoa học
càng
phát triển thì càng nhiều nguyên nhân bệnh phức tạp sẽ được tìm ra.
- Cùng
một
nguyên
nhân
có
thể
sẽ
có
nhiều
hậu
quả
khác
nhau
tuỳ
theo
điều
kiện
phát
triển
của
bệnh.Mặt
khác,
cùng
một
hậu
quả
cũng
có
thể
do
nhiều
nguyên
nhân
gây
ra
Như vậy một quan niệm
khoa học về nguyên nhân
bệnh học phải toàn diện, nhìn
nhận
cả
vai
trò
của
nguyên
nhân
bệnh
và
điều
kiện
gây
bệnh,
xác
định
đúng
đắn
tầm
quan
trọng
và
vị
trí
nhất
định
của
mỗi
yếu
tố
trong
quá
trình
gây
bệnh.
Ngăn
ngừa
nguyên
nhân
bệnh,
hạn
chế
tác
dụng
của
điều
kiện
gây
bệnh
và
tăng
cường
hoạt
động
tốt
của
thể
tạng là
phương pháp
điều
trị
bệnh
hữu
hiệu,
là
những
mặt
tích
cực
của
công
tác phòng chống bệnh .
Câu 2: Phân loại nguyên nhân bệnh? Ví dụ minh họa?
Yếu
tố bên ngoài
Yếu tố cơ học: Chủ
yếu
là
do
chấn
thương,
tai
nạn
Gây
tổn
thương
các
cơ
quan, làm hư hại các tổ chức của cơ thể
Yếu tố lý học:
- Nhiệt độ cao trên 50
O
C gây tác động cục bộ làm đông vón protít
của tế bào, đặc
biệt là phá huỷ các men, tuỳ theo nhiệt độ cao thấp và thời gian tác
động khác
nhau có thể gây nên mức độ tổn thương khác nhau từ ban đỏ đến bỏng, khi
nhiệt độ
tác động đến toàn thân có thể gây cảm nóng.
- Nhiệt độ
thấp
dưới
0
o
C cũng gây tổn thương các men của tế bào, tác động cục
bộ gây giá thương, gây hoại tử móng, tai, đuôi tác động tới toàn thân gây cảm
lạnh,
thường gặp ở những động vật sống ở các vùng giá rét hoặc trong những mùa
đông lạnh
giá.
- Tia
phóng
xạ
từ
nguồn
phóng
xạ
công
nghiệp
hoặc
trong
chiến
tranh gây
phá
huỷ các men và gây các phản ứng oxy hoá làm tổn thương tế bào sống. Các động
vật khác nhau có thể chịu đựng được phóng xạ ở các mức khác nhau.
- Dòng
điện , tác dụng của dòng điện phụ thuộc vào điện thế và tính chất của
dòng điện; dòng điện một chiều tác dụng nhanh hơn dòng xoay chiều, điện thế
càng
cao càng nguy hiểm. cơ chế gây tổn thương của dòng điện là gây co cứng cơ
nhất là cơ
tim, có thể làm tim ngừng đập, gây bỏng ở cường độ cao và gây hiện
tượng điện ly vì
cơ thể là một môi trường điện giải.
Yếu tố hoá học
Tác động của các chất hoá học phụ thuộc vào liều lượng và thành phần các chất
đó,
thường gây ngộ độc cho gia súc, gia cầm như axit, kiềm, kim loại nặng, chì, thuỷ
ngân, asen các alcaloit từ cây cỏ, độc tố nấm mốc, tồn dư thuốc trừ sâu, thuốc
diệt
cỏ…
Yếu tố sinh học
- Vi
khuẩn : rất nhiều bệnh do vi khuẩn gây ra, bao gồm cả bệnh truyền nhiễm
và
bệnh nhiễm trùng.
- Virus: hầu hết các loại virus đều gây bệnh trong các bệnh truyền nhiễm
Newcastle, dịch tả lợn, LMLM
- Ký
sinh
trùng bao gồm cả các loài giun sán ký sinh, nội, ngoại ký sinh trùng
và
các loại Protozoa
- Các loại nấm mốc …
- Các loại động, thực vật
khác như: rắn cắn, ong đốt, các cây độc…
Yếu tố bên trong
Yếu tố di truyền: đó là những
biến
đổi
bệnh
lý
thông
qua
cơ
chế
di
truyền
từ
thế
hệ
trước
sang
thế
hệ
sau
qua
tế
bào
sinh
dục
mang
gen
bệnh;
qua nghiên cứu cho
thấy
một
số
bệnh
phát
sinh
là
do
thiếu
gen
chỉ
huy
quá
trình
tổng hợp
một
số
loại
men,
khi
thiếu
men
đó
thì
sẽ
phát
sinh
bệnh , ví dụ bệnh Phenylxeton niệu là do thiếu
men
Parahydroxylaza nên Phenylalanin không chuyển thành Tyrozin được mà
phân huỷ
thành Phenylxeton, rồi được đào thải ra ngoài theo nước tiểuYếu tố di
truyền cũng có thế là điều kiện để cho bệnh phát sinh.
Yếu tố thể tạng: thể tạng có
thể
được
coi
như
là
tổng
hợp
các
đặc
điểm
chức
năng
và
hình
thái
của
cơ
thể.
Những
đặc
điểm
này
được
hình
thành
trên
cơ
sở
tính
di
truyền
và
quyết
định
tính
phản
ứng
của
cơ
thể
đối
với
tác
động
bên
ngoài
trong
quá
trình
sống.
Trước
một
yếu
tố
gây
bệnh
những
cơ
thể
có
thể
tạng
khác
nhau
sẽ
có
phản
ứng
khác nhau
Câu 3: Sinh bệnh học là gì? Vai trò của nguyên nhân bệnh trong sinh bệnh học?
- Sinh bệnh học là môn khoa học
nghiên
cứu
những
quy
luật
cơ
bản
của
sự
phát
sinh,
phát
triển,
diễn
biến
và
kết
thúc
của
một
quá
trình
bệnh
lý
hay
còn
gọi
là
cơ
chế
sinh
bệnh . Nắm
được cơ chế sinh bệnh là yêu cầu cơ bản trong công tác
phòng trị bệnh, trên cơ sở đó
có thể ngăn chặn sớm những diễn biến xấu, hạn chế
được tác hại của bệnh.
- Vai trò của nguyên nhân bệnh trong sinh bệnh học
Nguyên
nhân
bệnh
đóng
vai
trò
quan
trọng
trong
diễn
biến
của
bệnh.
Tuỳ
theo
cường độ, vị trí và thời gian tác động mà diễn biến của bệnh có thể khác nhau.
+ Khi cường độ
của nguyên nhân bệnh lớn thì bệnh diễn biến cấp tính, nhanh và
nguy hiểm, còn khi cường độ nhỏ thì bệnh diễn biến nhẹ, ít nguy hiểm.
+ Thời gian tác dụng
của nguyên nhân bệnh phụ thuộc vào cường độ của nguyên
nhân bệnh và sức đề kháng của cơ thể.
+ Vị
trí
tác
dụng
của nguyên nhân bệnh cũng có ảnh hưởng rõ rệt đến quá trình
phát triển của bệnh, khi nguyên nhân bệnh tác động ở những nơi có ái lực với
nó thì
bệnh diễn biến nặng hơn những nơi khác, ví dụ: vi khuẩn lao có ái lực
với phổi.
+ Đường
lan
rộng
của
nguyên
nhân
bệnh: Sau khi vào cơ thể nguyên nhân bệnh
muốn gây được bệnh thì phải lan rộng ra khắp cơ thể, gây nên các rối loạn trong
cơ thể.
Đường lan rộng thường phụ thuộc vào tính chất của nguyên nhân bệnh,
thông thường
nguyên nhân bệnh lây lan theo 3 đường chính là:
• Lan theo tổ chức, từ nơi phát bệnh lan ra xung quanh do tiếp xúc.
• Lan theo thể dịch, các loại vi khuẩn, virus và độc tố thường theo máu và dịch
lympho lan rộng đến các cơ quan khác nhau.
• Lan theo thần kinh, một số loại virus như virus dại, độc tố uốn ván có thể lan
theo
dây thần kinh. Trong thực tế khi bệnh phát sinh, nguyên nhân bệnh có thể đồng
thời lan theo nhiều đường khác nhau, song tuỳ từng loại nguyên nhân bệnh có
những
đường lan rộng chính và đường lan rộng phụ, dựa vào đặc tính chúng ta có
thể đề ra
các biện pháp ngăn chặn kịp thời.
Câu 4. Quan hệ giữa cục bộ và toàn thân trong quá trình sinh bệnh? Vòng xoắn
bệnh lý là gì?
Quan hệ giữa cục bộ
và toàn
thân trong
quá trình sinh
bệnh
- Theo
thuyết
thần
kinh
của
Pavlov
thì
cơ
thể
là
một
khối
thống
nhất,
các
cơ
quan,
mô
bào
có
sự
liên
hệ
chặt
chẽ
với
nhau
và
chịu
sự
điều
tiết
chung
của
hệ
thần
kinh trung
ương,
vì vậy các quá trình bệnh lý dù xảy ở cơ quan nào cũng phụ
thuộc vào
trạng thái chung
của của
cơ thể
và
ngược lại, thông qua cung
phản xạ
nó
ảnh
hưởng
tới
toàn thân .
- Ảnh hưởng của toàn thân tới cục bộ: toàn
thân
khoẻ
mạnh
thì
sức
đề
kháng tại
chỗ
cũng
tốt,
yếu
tố
gây
bệnh
khó
xâm
nhập
và
khi
đã
xâm
nhập
thì
việc
loại
trừ
cũng
rất nhanh chóng. Như vậy chế độ dinh dưỡng tốt
sẽ đảm bảo sức khoẻ cho cơ
thể.
- Ảnh hưởng của cục bộ tới toàn thân: bất
kỳ
một
tổn
thương nào
ở
cục
bộ
cũng
ảnh
hưởng
tới
toàn
thân,
các
kích
thích
đau
tác
động
tới
thần
kinh,
các
độc
tố
ngấm
vào
máu rồi tác động tới chức năng của các cơ quan trong cơ thể.
Vòng xoắn bệnh lý
- Trong
quá
trình
phát
triển,
bệnh
thường
diễn
biến
qua
nhiều
giai
đoạn,
mỗi
giai
đoạn
như
vậy
được
gọi
là
một
khâu.
Các
khâu
này
thường
kế
tiếp
nhau
theo
một
trình
tự nhất
định
và có
liên
quan
mật
thiết
với
nhau.
Trong
một
số
trường hợp,
những
khâu
sau
tác
động
ngược
trở
lại
khâu
trước
làm
cho
tình
trạng
bệnh
lý
nặng
thêm,
sự
tác
động như
vậy
gọi là vòng xoắn bệnh lý.
VD. trong bệnh lợn đóng đấu mãn tính; vi khuẩn lợn đóng dấu gây viêm
nội
tâm mạc, van tim bị loét sùi, do đó ảnh hưởng đến tuần hoàn chung
gây thiếu oxy; từ
thiếu oxy lại gây rối loạn chuyển hoá các chất rồi tác
động trở lại gây phì đại tim, gây suy tim; khi suy tim lại càng thiếu oxy, lặp
lại thành một vòng tròn nhưng với cung bậc
lớn hơn, cứ như vậy gọi là vòng
xoắn bệnh lý.
Câu 5. Các giai đoạn phát triển của bệnh? Ý nghĩa của việc nghiên cứu
các giai đoạn đó?
Các giai đoạn
phát
triển của
bệnh
Nhìn
chung, quá trình phát triển của bệnh không những diễn biến theo những
quy luật nhất
định mà còn có tính giai đoạn, người ta thường chia
ra
4
thời
kỳ
cơ
bản
trong quá
trình
phát triển của bệnh . Tuy nhiên, việc phân chia các thời kỳ cũng chỉ là
tương đối
trong quá trình phát triển liên tục của bệnh.
1.Thời kỳ nung bệnh
- Thời
kỳ
nung
bệnh
hay
còn
gọi
là
thời
kỳ
ủ
bệnh,
bắt
đầu
từ
khi
tác
nhân
gây
bệnh
xâm
nhập
vào
cơ
thể
và
bắt
đầu
phát
huy
tác
dụng
đến
khi
cơ
thể
có
những
triệu
chứng
đầu
tiên. Ở thời kỳ này khả năng thích ứng của cơ thể còn mạnh,
nên các rối
loạn chưa thể hiện. Thời kỳ này dài hay ngắn là phụ thuộc vào điều
kiện bên ngoài,
trạng thái cơ thể, đặc tính của nguyên nhân bệnh và vị trí tác
động của nguyên nhân
bệnh.
Vd. Nhiệt thán nung bệnh 1 - 5 ngày; Uốn ván 7 - 15 ngày, Dại 1 - 3 tháng,
Phòng chống bệnh cho gia súc, gia cầm cho tốt
2.Thời kỳ tiền phát
- Thời
kỳ
tiền
phát
bắt
đầu
từ
khi
con
vật
có
triệu
chứng
đầu
tiên
đến
khi
con
vật
xuất
hiện
những
triệu
chứng
điển
hình . Ở giai đoạn này nguyên nhân bệnh tác
động
mạnh, khả năng thích ứng của cơ thể giảm, các rối loạn chức năng đã rõ rệt
biểu hiện
thành các triệu chứng chủ yếu của bệnh. Nhờ có các triệu chứng này
chúng ta có thể
chẩn đoán sơ bộ và đưa ra phác đồ điều trị kịp thời.
3.Thời kỳ toàn phát
- Thời
kỳ
này
bắt
đầu
từ
khi
con
vật
có
những
triệu
chứng
rõ
rệt
đến
khi
bệnh
chuyển biến đặc biệt. Ở
thời
kỳ
này các rối loạn
chức năng
biểu hiện
rõ ràng
nhất,
điển hình
nhất,
sự
rối
loạn
trao
đổi
chất
và
tổn
thương
bệnh
lý
nặng
nề. Dựa trên
các triệu
chứng và bệnh tích điển hình nhất chúng ta có thể đưa ra chẩn đoán lâm
sàng xác định
để phòng chống bệnh cho bầy đàn.
4. Thời kỳ kết thúc
- Thời kỳ này dài
hay
ngắn
chủ
yếu
phụ
thuộc
vào
từng
loại
bệnh
và
trạng
thái
cơ
thể; thường có
3 dạng kết thúc bệnh như sau:
+ Khỏi hoàn toàn: các
nguyên
nhân
bệnh
hết
tác
dụng,
bệnh
dần
dần
thuyên
giảm,
cường
độ
các
triệu
chứng
giảm
dần
rồi
mất
hết,
chức
năng
các
cơ
quan
trở
lại
bình
thường,
khả
năng
lao
động
và
tính
năng
sản
xuất
được
phục
hồi
hoàn
toàn,
với
một số bệnh truyền nhiễm phát sinh trạng thái miễn dịch tốt .
+ Khỏi không hoàn toàn: Các nguyên
nhân
gây
bệnh
dã
ngừng
hoạt
động,
các
triệu
chứng
chủ
yếu
đã
đã
hết,
song
về
cấu
tạo
và
chức
năng
thì
chưa
được
khôi
phục
hoàn
toàn (Thí dụ: trâu bò
bị viêm khớp đã điều trị khỏi nhưng bị xơ cứng khớp,
bò bị viêm vú đã điều trị khỏi
nhưng lại mất khả năng tiết sữa.
Trong nhiều trường hợp lành bệnh chỉ là biểu hiện bề ngoài, nhưng nguyên nhân
bệnh chưa bị tiêu diệt hoàn toàn mà khu trú ở cục bộ một số cơ quan nào đó trong
cơ
thể, khi cơ thể giảm sức đề kháng thì mầm bệnh trỗi dậy, tăng độc lực gây
bệnh tái
phát. Đây cũng chính là nguồn lây bệnh nguy hiểm đối với các bệnh
truyền nhiễm.
+ Chết: Chết là giai đoạn cuối cùng của sự sống, khi cơ
thể không thể thích nghi
được
với
biến
đổi
của
điều
kiện
tồn
tại.
Dấu
hiệu
của
chết
là
ngừng tim,
ngừng hô
hấp.
Quá trình chết bao gồm các pha như sau:
• Thời
kỳ
ngưng
cuối
cùng : tim và hô hấp ngừng tạm thời khoảng 0,5 đến 1,5
phút, mất phản xạ mắt, đồng tử giãn rộng, vỏ não bị ức chế, các hoạt động sống đều
bị
rối loạn.
• Thời
kỳ
hấp
hối : xuất hiện hô hấp trở lại – thở ngáp cá, tim đập yếu, phản xạ có
thể
xuất hiện trong thời kỳ này, hoạt động của tuỷ sống ở mức tối đa để duy trì các
chức năng sinh lý (thời kỳ này kéo dài từ vài phút đến nửa giờ).
• Chết
lâm
sàng : hoạt động tim, phổi đều ngừng, thần kinh trung ương bị ức chế
hoàn toàn. Thời gian chết lâm sàng kéo dài 5 – 6 phút, khi tế bào não chưa bị
tổn
thương thì có thể hồi phục được.
• Chết sinh vật : hoạt động tim, phổi đều ngừng hẳn, tế bào não bị tổn thương, mọi
khả
năng hồi phục không còn nữa. Sau khi chết sinh vật các mô lần lượt chết theo, tuỳ
thuộc vào khả năng chịu đựng với sự thiếu oxy của từng loại mô; mô nào trong
khi
sống cần nhiều oxy thì sẽ chết trước, mô nào cần ít oxy khi sống thì sẽ chết sau.
- Ý nghĩa : Sự phân chia này có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu và giúp cho
quá trình
chẩn trị bệnh dễ dàng hơn.
+Ứng dụng trong chăn nuôi, cần nuôi cách ly trước khi nhập đàn khoảng 2 tuần.
Câu 6: Thế nào là nhiễm lạnh? Nguyên nhân, điều kiện và các rối loạn khi
nhiễm lạnh?
Thân
nhiệt
giảm
(Nhiễm
lạnh): là tình
trạng
mất
nhiều
nhiệt
của
cơ
thể
gây
rối
loạn
cân
bằng
giữa
thải
nhiệt
(TN)
và
sản
nhiệt
(SN)
làm
cho
thân nhiệt giảm
xuống và tỷ số
SN/TN < 1.
+ Người ta chia ra làm ba loại giảm thân nhiệt.
Giảm thân nhiệt sinh lý: gặp ở động vật ngủ đông
Giảm thân nhiệt bệnh lý: do nhiệt độ môi trường thấp hoặc trạng thái
bệnh lý
của cơ thể.
Giảm thân nhiệt nhân tạo: Dùng trong phẫu thuật, điều trị bệnh.
Nguyên nhân và điều kiện gây giảm
thân nhiệt:
- Do
rối
loạn
chuyển
hoá
trung gian nghiêm trọng
như ở các bệnh: xơ gan, thiếu
dinh dưỡng
- Tăng
thải
nhiệt
do
nhiệt
độ
của
môi
trường
bên
ngoài
thấp,
vượt
quá
khả
năng
sản nhiệt của cơ thể . Đó là nhiễm lạnh.
+ Nhiễm lạnh cũng có thể xảy ra ngay cả trong trường hợp nhiệt
độ
của
môi
trường bên ngoài
không thấp lắm, đặc biệt là trong môi trường
nước. Thường gặp
trong
khi
gia súc
ngâm
lâu dưới nước, đứng
lâu ở
nơi có gió lùa.
+ Ngoài ra, còn gặp trong các
trạng
thái
sốc
hoặc
sau
cơn
kịch
phát
của
bệnh
nhiễm
khuẩn
làm
hạ
huyết
áp,
trụy
tim
mạch .
- Trong những điều
kiện
như
nhau
của
điều
kiện
nhiệt
độ
môi
trường,
mức
độ
nhiễm lạnh
khác nhau tuỳ thuộc vào nhiều yếu
tố:
+ Thời gian chịu tác dụng của lạnh dài hay ngắn .
+ Độ ẩm
và tốc
độ của
không
khí chuyển
động : độ ẩm
cao làm
tăng
thải nhiệt do
khuếch tán nhiệt và dẫn truyền nhiệt. Tốc
độ
vận
chuyển
của
không
khí càng
nhanh
thì
lượng không khí lạnh tiếp xúc với bề mặt của cơ thể trong một đơn vị thời
gian càng
nhiều, cơ thể bị nhiễm lạnh.
+ Trạng
thái
của
cơ
thể,
tuổi
tác
có
ảnh
hưởng
rất
lớn
đến
khả
năng
điều
nhiệt :
động vật già và non thì sức chịu đựng với lạnh rất kém do tính phản ứng giảm sút
hoặc
do hệ thần kinh phát triển chưa đầy đủ. Con vật ốm lâu ngày, gầy yếu dễ bị
nhiễm lạnh
hơn động vật khoẻ mạnh, béo tốt
+ Tình
trạng
nuôi
dưỡng : ăn uống đầy đủ nâng cao khả năng chống lạnh.
Những rối loạn của cơ thể khi bị giảm thân nhiệt
Khi bị nhiễm lạnh, phản ứng của cơ thể qua ba thời kỳ:
- Thơì kỳ đầu: thời kỳ hưng
phấn,
cơ
thể cố
duy
trì
thân
nhiệt : mạch
ngoại
vi
co
lại,
làm
giảm
thải
nhiệt,
tiết
adrenalin ,
tăng
chuyển
hoá trong
cơ
thể,
tăng
glucoza
huyết,
rùng
mình,
làm
tăng
sinh
nhiệt (tăng vận động, run, tăng
trương lực cơ, tăng tuần hoàn, tăng hô hấp, tăng hấp thụ
oxy).
Phản ứng
này
phát sinh
theo cơ chế phản xạ , chủ yếu do hưng phấn và tăng hoạt
động của thần kinh giao cảm và của hệ thống nội tiết. Phản
ứng cũng có
thể
không
xảy
ra nếu trung tâm điều hoà nhiệt bị ức chế .
- Thời kỳ 2: thời
kỳ ức
chế do
tác dụng
lâu dài của
lạnh, cơ thể tiếp
tục
mất
nhiệt,
những
phản
ứng
kể
trên
bị
giảm
sút:
tim
chậm,
hô
hấp
chậm,
cung
cấp
oxy
bị
giảm,
chuyển hoá bị rối loạn, các sản phẩm độc bị tích lại nhiều gây nhiễm độc
toàn thân.
Thời kỳ 3: thời
kỳ
kiệt
quệ,
thời
kỳ
này
các
chức
phận
sinh
lý
của
cơ
thể
bị
suy
sụp
hoàn
toàn,
con
vật
hôn
mê,
rồi
chết
trong
tình
trạng
liệt
hô
hấp.
Mổ
xác
chết
thấy
hiện tượng thoái hoá mỡ nội tạng và niêm
mạc bị xuất huyết.
Câu 9: Thân nhiệt tăng là gì? Biểu hiện của cơ thể khi thân nhiệt tăng?
Thân nhiệt tăng là một
tình
trạng cơ
thể
tích
luỹ
nhiệt,
do hạn chế quá trình thải
nhiệt vào
môi trường
hoặc do tăng sản nhiệt, cũng
có
khi phối
hợp cả hai . Có hai
loại tăng thân nhiệt:
- Tăng thân nhiệt do nhiệt do nhiệt độ môi trường quá cao (nhiễm
nóng): gặp
trong cảm nóng và say nắng.
- Tăng thân nhiệt do rối loạn trung tâm điều hoà nhiệt: gặp trong sốt.
Biểu hiện của
cơ thể khi thân nhiệt
tăng
Rối loạn của cơ thể khi nhiễm nóng: thường diễn biến qua ba giai đoạn
- Giai đoạn 1: Là giai đoạn thích
ứng
nhằm
tăng
cường
thải
nhiệt,
giãn
mạch
ngoại
biên,
máu
chảy
nhanh,
tăng
bài
tiết
mồ
hôi
và
hạn
chế
sản
nhiệt
như:
nằm
yên,
giảm chuyển hoá .
- Giai đoạn 2: Nếu sức
nóng
cứ
tiếp
tục
tác
động
thì
khả
năng
thích
ứng
thải
nhiệt
trên
đây
giảm
dần.
Nhiệt
lượng
tích
lại,
làm
cho
thân
nhiệt
tăng
lên,
cơ
thể
trong
trạng thái
hưng phấn,
giãy
giụa,
kêu
la, tăng
trương lực cơ, tăng phản
xạ,
hô
hấp nhanh
và
nông.
Chuyển
hoá
tăng,
đặc
biệt
là
chuyển
hoá
protit,
nitơ
đào
thải
qua
nước
tiểu
tăng lên
và kéo dài nhiều ngày sau khi nhiễm
nóng .
- Giai đoạn 3: Thân
nhiệt
tăng
cao,
động
vật
chuyển
qua
giai
đoạn
ức
chế :
nằm
yên, bất động, co giật, tuần hoàn, hô hấp giảm dần, mất phản xạ, rối loạn
chuyển hoá
năng lượng, rối loạn chuyển hoá nước - muối, axit - bazơ, làm
cho pH giảm, dự trữ
kiềm giảm, gây nhiễm axit; động vật chết vì ngừng hô hấp
và ngừng tim.
Câu 8. Sốt là gì? Các nguyên nhân gây sốt? Phân biệt sốt với cảm nắng và cảm
nóng?
Sốt là tình
trạng
tăng
thân
nhiệt
do
rối
loạn
trung
tâm
điều
hoà nhiệt, trước tác
dụng của các yếu tố có
hại, thường gặp nhất là yếu tố nhiễm
khuẩn.
Đó
là
một
phản
ứng
thích
ứng
toàn
thân
của
động
vật
máu
nóng.
Phản
ứng
đó
được
hình thành
trong quá trình tiến hoá của động vật .
Các nguyên nhân gây sốt : 2 loại lớn
1. Sốt do nhiễm khuẩn.
- Nhiễm khuẩn là nguyên
nhân
phổ
biến
nhất , đa
số
các
bệnh
nhiễm
vi
khuẩn
và
vi
rút
đều
có
sốt.
Tuy
nhiên
cũng
có
một
số
bệnh
nhiễm
khuẩn
không sốt
như
lỵ
amip;
thậm chí có khi thân nhiệt lại giảm như
trong bệnh
tả.
- Trong trường hợp
nhiễm
khuẩn,
sốt
xuất
hiện
chủ
yếu
là
do
tác
dụng
của
độc
tố
vi
khuẩn;
ngoài
ra
bản
thân
vi
khuẩn
và
các
sản
phẩm
hoạt
động
sống
của
chúng,
cũng
như các sản phẩm của huỷ hoại mô bào, đều có khả năng
gây sốt .
- Gần đây người ta đã
tinh chế được các
chất
gây sốt rất
mạnh từ
môi
trường
nuôi
cấy vi khuẩn ( cả vi khuẩn Gram âm và Gram dương), từ mủ và dịch rỉ viêm.
- Những chất
gây sốt do vi khuẩn sinh ra
có thể chịu được nhiệt đến 160
o
C.
2. Sốt không do nhiễm khuẩn: Bao gồm các loại nguyên nhân sau đây
- Sốt do protit lạ
Có
hai
loại
protit
lạ:
loại
từ
ngoài
đưa
vào
cơ
thể như kháng
huyết
thanh,
vacxin,
truyền
máu và một số loại protit được dùng gây sốt để điều trị; còn loại protit
nội
sinh do
sản phẩm phân huỷ protit của cơ thể, gặp trong xuất huyết nội, hoại tử tổ
chức (bỏng chấn
thương, gãy xương… )
- Sốt do muối
Khi
tiêm
vào
cơ
thể
dung
dịch
muối
ưu
trương,
nhất
là
khi
tiêm
vào
tổ
chức
dưới
da
hay
bắp
thịt,
có
thể
gây
ra
sốt . Người ta cho
rằng , trong trường hợp nây
có lẽ
dung dịch
muối làm
hoại tử tế bào sinh ra
những protit lạ khác .
- Sốt do tác dụng của dược chất
Một số chất có tác dụng gây rối loạn trung tâm
điều hòa nhiệt, hạn chế thải nhiệt
như
cafein,
phenamin,
adrenalin,
tetra-hydronaphlylamin,
kích
thích
sinh
nhiệt
như:
thyroxin
- Sốt do thần kinh
+Sốt do thần kinh có thể xuất hiện khi tổn thương hệ thần kinh như u não, chảy máu
não.
+ Sốt còn xuất hiện do phản xạ đau đớn, sợ hãi…
Phân biệt sốt với cảm nóng và cảm nắng
Đ
2
pb Sốt Cảm nóng( say nóng ) Cảm nắng ( say nắng )
Nguyê
n nhân
Thân nhiệt tăng do rối
loạn của trung tâm
điều hoà nhiệt.
Thân nhiệt tăng do môi
trường có nhiệt độ quá cao,
làm hạn chế thải nhiệt.
Thân nhiệt tăng do nhiệt độ
bên ngoài tăng, dưới tác
dụng trực tiếp của tia nắng
lên gáy và đỉnh đầu.
Các biểu
hiện
- Thân nhiệt tăng lên nhanh
chóng
- Các chức phận bị rối loạn
nghiêm trọng, thở nhanh,
nông, thở có chu kỳ, mạch
nhanh yếu, huyết áp hạ, đái
ít hoặc vô niệu, không bài
tiết mồ hôi, đôi khi hôn mê
và co giật
- Chuyển hoá trung gian bị
rối loạn, nhất là chuyển hoá
protit làm cho amoniac
tăng, axit tăng.
- Nhiễm độc nặng con vật
có thể chết sau vài giờ trong
tình trạng trụy tim mạch
- Nhiệt độ vùng đầu tăng lên
đột ngột.
- Con vật bị nhẹ thì con vật
ủ rũ, nôn, vã mồ hôi, tuần
hoàn và hô hấp nhanh, thân
nhiệt tăng.
- Nhưng cứ tiếp tục bị nắng
chiếu dọi thân nhiệt tiếp tục
tăng lên, các rối loạn
chuyển hoá và chức phận
càng trở nên nghiêm trọng,
cuối cùng dẫn tới tử vong.
- Khi chết, khám nghiệm
xác chết thấy xung huyết ở
màng não và não (chất xám
của vỏ não và hành tuỷ);
còn có thể bị phù não và
phù phổi.
Say nóng hay gặp trong
những ngày hè nóng bức,
độ ẩm cao hoặc trong
những điều kiện thông
thoáng kém.
thường xảy ra ở xứ nóng,
nhất là những động vật
không quen chịu nắng
Câu 9. Quá trình sốt diễn ra như thế nào? Phân loại sốt?
Quá trình sốt chia ra làm 3 giai đoạn
- Giai đoạn sốt tăng.
Trong giai đoạn này, sản
nhiệt
tăng
và
thải
nhiệt
giảm,
do
đó
tỷ
số
SN/TN
>
1 .
Phản
ứng
tăng
nhiệt
đầu
tiên
là
run
rẩy,
sởn
da
gà,
rung
cơ. Mặt khác phản
ứng
giảm
thải
nhiệt
là
co
mạch
dưới
da,
da
tái
nhợt,
tư
thế
co
quắp,
không
tiết
mồ
hôi. Vì máu
dồn vào trong nên mới đầu bệnh súc có thể đái nhiều hơn bình thường .
- Giai đoạn sốt đứng.
Giai
đoạn
này
sản
nhiệt
vẫn
cao
hơn
bình
thường,
song
thải
nhiệt
tăng
do
giãn
mạch toàn
thân: da trở nên đỏ
và nhiệt độ ngoại
vi tăng . Một thăng bằng mới xuất
hiện,
nhưng ở mức cao. Khi này nếu tạo điều kiện cho tăng thải nhiệt bằng
cách
chườm
lạnh,
dùng thuốc
hạ
nhiệt
sẽ
đem lại
nhiều
kết
quả
. Mặc dù trung tâm
điều hoà nhiệt có rối
loạn nhưng nó vẫn còn hoạt động và duy trì thân nhiệt ở mức
độ cao hơn bình thường.
- Giai đoạn sốt lui
Thải nhiệt
chiếm ưu thế qua
mồ hôi,
hơi
thở
mạnh.
Mạch
ngoại biên
giãn
tạo
điều
kiện cho sự bốc nhiệt tăng lên. Như
vậy thải nhiệt mạnh hơn sản nhiệt, nhiệt độ hạ
xuống
cho đến khi cân bằng lúc đầu được lặp lại
và thân nhiệt trở lại bình thường.
Cũng cần chú
ý là có thể có những bệnh súc thân nhiệt
giảm đột ngột do đái nhiều,
ra
mồ hôi nhiều làm
mất nước, huyết áp hạ gây trụy tim mạch lúc hết sốt .
Phân loại sốt:
Theo cường độ cơn sốt người ta chia ra:
+ Sốt nhẹ khi thân nhiệt tăng ít hơn 1
o
C
+ Sốt
vừa tăng 1 - 2
o
C
+ Sốt nặng
tăng 2 - 3
o
C
+ Sốt rất nặng
tăng trên 3
o
C
Theo đường biểu diễn nhiệt độ, lại chia ra bốn loại:
+ Sốt
liên
tục
: nhiệt độ giữ ở mức cao trong một thời gian, sáng chiều thay đổi
không quá 1
o
, thường gặp trong viêm phổi, phó thương hàn bê.
+ Sốt
dao
động : nhiệt độ sáng chiều chênh nhau quá 1
o
, gặp trong nhiễm khuẩn
huyết, trong lao phổi, viêm mủ, giai đoạn cuối của thương hàn.
+ Sốt
cách
quãng : có sự luân phiên giữa cơn sốt và thời kỳ không sốt, gặp trong
các bệnh ký sinh trùng đường máu, sốt rét ở người.
+ Sốt
hồi
quy : khác loại cách quãng ở chỗ khoảng thời gian không sốt kéo dài
hơn, gặp trong bệnh xoắn khuẩn.
Ngoài ra còn có loại sốt không điển hình, là dạng sốt không tuân theo quy luật
gặp trong bệnh tỵ thư ngựa.
Câu 10. Trình bày rối loạn chuyển hóa trong sốt? Giải thích tại sao con vật sút cân
nhanh trong sốt cao kéo dài?
Rối loạn chuyển hóa trong sốt:
1. Rối loạn chuyển hoá năng lượng
Trong
đa
số
trường
hợp
sốt,
đều
có
tăng
chuyển
hoá , do đó hấp thụ oxy tăng
(trung bình 5 – 10%). Khả năng này tăng mạnh nhất ở giai đoạn đầu và giảm dần ở
các
giai đoạn sau của sốt. Trên thực nghiệm thấy, nếu nhiệt độ tăng 1
o
, thì chuyển
hoá tăng
3,3%.
2. Chuyển hoá Gluxit.
Tăng chuyển hoá
gluxit, lượng
dự
trữ
glycogen giảm,
glucoza huyết
tăng, có thể
có
glucoza niệu, lượng axit lactic tăng.
3. Chuyển hoá Lipit.
Chuyển
hoá
lypit
chỉ
tăng mạnh
trong sốt
cao
và
kéo
dài, lượng dự trữ glycogen
giảm làm cho lipit huyết tăng, xuất hiện thể xê ton trong máu.
4. Chuyển hoá protit .
Chuyển
hoá
protit
tăng
mạnh
trong
sốt
do
nhiễm
độc,
nhiễm
khuẩn
và
đói
ăn
của
cơ
thể,
lượng
nitơ
đào
thải
qua
nước
tiểu
tăng
5. Chuyển hoá vitamin
Do tăng chuyển hoá nói chung nên nhu cầu
vitamin cũng
tăng,
nhất là vitamin C
và
B
1
.
6. Chuyển hoá nước và muối.
Trong giai
đoạn
đầu,
chuyển
hoá
nước
và
muối
hơi
tăng.
Sang
giai
đoạn
hai
nước bị giữ lại trong cơ thể, tiểu tiện ít. Sang
giai
đoạn
ba,
sự
bài
tiết
nước
tiểu
lại
tăng, bài tiết mồ hôi tăng, làm
tăng
quá trình thải nhiệt.
Con vật sút cân nhanh trong sốt cao kéo dài vì:
Khi sốt con vật hay bỏ ăn nên thiếu chất dinh dưỡng, trong khi đó thân nhiệt tăng làm
tăng quá trình trao đổi chất nên chất dinh dưỡngcàng thiếu hụt chất dinh dưỡng
hơn. Ngoài ra, cơ thể con vật bị rối loạn chuyển hóa, cơ thể mất nhiều nướckhi con
vật sốt cao cần bù nước cho con vật để hạn chế việc sút cân của con vật.
Câu 11. Trình bày rối loạn chức năng của các cơ quan trong sốt?
1. Rối loạn thần kinh.
Trong sốt, thần
kinh
ở
trạng
thái
hưng
phấn
rồi
ức
chế,
bệnh
súc
thường
khó
chịu, không yên tĩnh ,
ủ rũ, mệt mỏi, nếu nặng hơn có thể bị co giật.
2. Rối loạn tuần hoàn
- Khi sốt, tim đập nhanh, nhiệt độ tăng 1
0
C thì tim tăng lên khoảng 10 nhịp
do thần
kinh giao cảm bị hưng phấn, do nhiệt độ cao tác
động trực tiếp vào thần kinh tự
động của tim và do nhu cầu oxy của tăng chuyển hoá.
- Rối
loạn
tuần
hoàn
còn
thể
hiện
ở
sự
thay
đổi
huyết
áp.
Trong
giai
đoạn
đầu
huyết
áp
có
thể
hơi
tăng do co mạch quản ngoại vi. Sang
giai
đoạn
2
và
nhất
là
giai
đoạn
3,
huyết
áp
hạ
do giãn mạch quản ngoại vi, đôi
khi
giảm
quá
mạnh
gây
truỵ
tim
mạch .
3. Rối loạn hô hấp
Rối loạn hô hấp trong sốt thường
diễn
ra
song
song
với
rối
loạn
tuần
hoàn
do
tăng nhiệt độ, tăng nhu cầu oxy và tăng axit của máu.
Tăng hô hấp có tác dụng
điều hoà thân nhiệt .
4. Rối loạn tiêu hoá
Rối
loạn
tiêu
hoá
thường
đến
sớm
với
các
triệu
chứng
chán
ăn,
giảm
tiết
dịch
tiêu
hoá,
trắng
lưỡi,
khô
miệng,
tiêu
hoá
và
hấp
thu
giảm,
giảm
nhu
động
ruột
gây
táo
bón.
Tăng
quá
trình
lên
men
trong
ruột
gây
chướng
hơi
và
nhiễm
độc.
Vì
vậy
khi
sốt
cần cho con
vật
ăn các
thức
ăn dễ
tiêu
hoá.
5. Rối loạn chức phận của thận
Do tác động của độc tố vi khuẩn và do rối loạn tuần hoàn nên hoạt động của
thận cũng bị ảnh hưởng; giai
đoạn
đầu
tăng bài
tiết
nước
tiểu,
sang giai
đoạn
2
sẽ
giảm
bài
tiết
nước
tiểu do tích nước ở mô bào, giai
đoạn
hạ
sốt
lại
tăng
bài
tiết
nước
tiểu .
Chất
lượng
nước
tiểu
cũng
thay
đổi,
tăng
lượng
albumin,
tăng
amoniac
và
nhiều
chất
khác trong nước tiểu .
6. Rối loạn nội tiết
Trong sốt, hoạt động
nội tiết tăng, đặc biệt là hạ
não và thượng thận . Sự tăng
tiết
ACTH
và
cortison
trong
máu
có
tác
dụng
chống
viêm,
chống dị
ứng.
Tăng
nội tiết
còn
có tác dụng tăng giữ nước
và muối trong cơ thể .
7. Tăng chức phận gan
Trong sốt, chức
phận chuyển hoá
tại
gan tăng
lên
rất nhiều . Theo một số tác giả,
có
thể tăng tới 30 – 40%,
phospholipit trong
gan cũng được
đổi
mới nhanh, chuyển hoá
năng lượng
tăng
lên,
tăng
chức năng
chống độc,
tăng khả
năng
tạo
urê,
tạo
fibrinogen,
chuyển hoá nitơ , tăng chức năng gan có tác dụng tăng
sức đề kháng
chung của cơ thể .
8. Tăng chức phận miễn dịch
Khi bị sốt, thành phần máu có nhiều biến đổi, đặc biệt là sự thay đổi về bạch cầu
và
kháng
thể.
Lượng
bạch
cầu
tăng,
khả
năng
thực
bào
của
nó
tăng
lên,
tổ
chức
võng
mạc nội
mô cũng
tăng sinh
và phì đại. Lượng kháng thể
và bổ thể trong máu đều
tăng.
Câu 12. Ý nghĩa của phản ứng sốt? Vẽ vòng xoắn bệnh lý trong sốt cao kéo dài?
Ý nghĩa của phản ứng sốt
Về cơ bản sốt là một phản ứng bảo vệ của cơ thể, ảnh hưởng tốt trong diễn
biến
của quá trình nhiễm khuẩn, vì sốt có tác dụng:
- Tăng số lượng
bạch cầu và khả năng thực bào
của bạch cầu.
- Tăng sản xuất kháng thể và bổ thể.
- Tăng khả năng
chống độc và
khử độc của gan.
- Tăng chức phận tạo
máu .
- Tăng khả năng
phân huỷ vi khuẩn
- Tăng các chức năng
sinh lý,.
- Tăng sức đề
kháng chung .
- Tăng khả năng
phục hồi sức khoẻ .
Tác hại của sốt: Khi
sốt
quá
cao,
chức
năng
của
các
cơ
quan
bị
rối
loạn
nghiêm
trọng,
cơ
thể
không
thể
kiểm
soát,
điều
chỉnh
được
tạo
ra
vòng
xoắn
bệnh
lý
làm
nghiêm trọng
các triệu chứng bệnh,
có thể gây hôn mê và
gây chết.
Trong thực hành thú y, khi điều trị bệnh chúng ta cần tôn trọng phản ứng sốt,
nhất là trong các trường hợp sốt nhẹ. Chỉ nên dùng thuốc hạ sốt trong những
trường
hợp cần thiết. Mặt khác, có thể tạo ra phản ứng sốt nhân tạo để điều trị
một số bệnh
mãn tính, như viêm khớp, loét dạ dày
Câu 13: Trình bày các nguyên nhân gây tổn thương tế bào?
Vật lý:
- Cơ học: Chèn ép, dập nát, vết cắt…
- Điện: Điện cao tần, sét, điện trường…
- Nhiệt: quá nóng, quá lạnh…
- Phóng xạ, bức xạ mặt trời…
- áp suất: quá cao, quá thấp…
Hoá học:
- Độc tố sinh học: độc tố vi khuẩn, nấm mốc…
- Tồn dư thuốc bảo vệ thực vật
- Môi trường: axit, kiềm, kim loại
nặng…
Sinh học: - Virus
- Vi khuẩn
- Nấm mốc
- Nguyên sinh động vật (Protozoa)
- Động vật đa bào (Metazoa)
Phương thức tác động:
+ Các yếu tố vật lý:
- Tác động trực tiếp gây tổn thương tế bào: hư hại màng, đông vón protein,
cháy tế
bào…
- Tác động làm hạ oxy huyết, tổn thương thành mạch quản
- Tác động bức xạ ion hoá hình thành các gốc tự do
(O2;
H2O2 OH) phá huỷ tế
bào
+ Các yếu tố hoá học:
- Trực tiếp gây hư hại màng (các dung môi hoà tan lipit, tác động vào các thụ thể
- Gây rối loạn chuyển hoá các chất
+ Yếu tố dinh dưỡng:
Thiếu protein, thiếu vitamin… gây rối loạn chuyển hoá của tế bào, quá trình sinh
tổng
hợp bị ảnh hưởng; thiếu sắt gây thiếu oxy…; ứ thừa các chất cũng gây
thoái hoá tế
bào…
+ Yếu tố sinh học: gây tổn thương tế bào bằng nhiều cách:
- Virus làm biến đổi quá trình chuyển hoá của tế bào chủ
- Vi khuẩn sản sinh độc tố gây tổn thương tế bào
- Vi khuẩn, virus tác động gây sản sinh miễn dịch và phản ứng miễn dịch gây
tổn
thương tế bào .
Tác dụng không mong muốn của phản ứng miễn dịch có thể gây hư hại màng,
làm giảm oxy huyết hoặc tổn thương thành mạch quản.
- Sư gắn và hoạt hoá bổ thể đục các “lỗ” nhỏ trên màng tương tế bào đích (Tế
bào đích có thể là vi khuẩn, các sinh vật khác, hoặc tế bào túc chủ bị nhiễm virus)
Câu 14.Thế nào gọi là hoại tử? Biến đổi của nhân tế bào bị hoại tử?
a. Hoại tử:
- Hoại tử là sự chết cục bộ của tế bào và mô, kèm theo sự mất đivề chức năng xảy ra
trong cơ thể sống.
- Quá trình hoại tử thường diễn ra từ từ: bắt đầu là rối loạn chuyển hoá các chất,
giảm sinh tổng hợp, giảm dự trữ năng lượng, huỷ hoại từng phần và cuối cùng là huỷ
hoại hoàn toàn, biến đổi tuần tự như vậy gọi là sinh hoại tử .
+ Hoại tử sinh lý: xảy ra trên cơ sở của sự lão hoá các tế bào, không gây ra rối loạn
về chức năng cũng như thay đổi về cấu trúc mô bào vì đã có tế bào khác thay thế;
vd: niêm mạc ruột, da…
+ Hoại tử bệnh lý: do tác nhân bệnh lý tác động, gây ra rối loạn chức năng và biến
đổi về cấu trúc mô bào, có thể gây ra các hậu hoạ nguy hiểm khác.
b. Biến đổi của nhân tế bào bị hoại tử:
- Nhân đông: nhân
co cụm thành một khối, rất kiềm
tính, không còn
thấy hình ảnh
của
chất nhiễm
sắc, hình thái thay đổi
ít, bắt
màu đậm.
- Nhân vỡ: nhân chết rồi vỡ ra thành các
mảnh nhỏ
nằm ở vị trí
của nhân hay
xếp quanh
màng
nhân,
hay gặp trong hoại tử
bã đậu .
- Nhân tiêu: đến
sau
nhân vỡ, thành phần
chủ yếu của nhân là
nuclein (1 hợp chất
gồm protein và
a.nucleic), khi
nhân vỡ, nuclein bị
phân
giải, protein và a.nucleic
đƣ ợc giải
phóng sẽ tan biến trong
bào tư ơng. Các chất nhân bị
dung
giải rồi tiêu
biến đi
hoàn toàn, bắt màu nhạt để lại vết tích màng
nhân (bóng ma).
- Nhân hình thành không bào: Nhân
trương to hình thành các hốc sáng trong
chứa chất lỏng.
Các dạng biến đổi
của
nhân có thể xuất hiện
trên cùng
1 tổ
chức
bị
hoại tử .
Câu 15. Biến đổi của nguyên sinh chất của tế bào bị hoại tử
- Tăng tính ưa axit của bào tƣơng: bắt màu nhanh hơn và đỏ hơn với thuốc nhuộm
Eosin, do protein bị biến chất, giảm nucleoprotein.
- Nguyên sinh chất đông: tế bào bị mất nước, teo vón hình dáng tế bào còn có thể
nhận biết đƣợc, bắt màu đậm hơn bình thường.
- Nguyên sinh chất tan: tế bào trương to, bị dung giải bởi các men nội bào, bắt màu
nhạt, mất hình dáng tế bào.
- Thay đổi trạng thái nhuộm màu: do các chất hữu cơ bị biến đổi nên bắt màu khác
thường.
- Sự khuyết tổn tế bào: thường xảy ra ở các tế bào trên bề mặt da, niêm mạc…hiện
tượng “long”, “tróc” tế bào.
Câu 16. Đặc điểm của các loại hoại tử?
Hoại tử khô : Sau khi chết tế bào bị khô lại,
có thể nhìn rõ hình thái tế bào.
Đặc
điểm
chính :
- Vi thể: hình dáng và cấu trúc tế bào còn rõ, nhưng
chi tiết đã bị mất đi, nhân
đông hoặc nhân tan, các mảnh nhân bắt màu kiềm, tế bào
chất bắt màu axit mạnh.
- Đại thể: vùng hoại tử dễ nhận biết với xung quanh, ranh giới rõ màu xám hoặc
trắng,
lõm so với phần lành (nhồi huyết trắng).
- Hay gặp ở cơ quan giàu protein, ít gluxit vàlipit như gan, thận, cơ, tim…
- Hậu quả của thiếu máu cục bộ (nhồi huyết), do độc tố có độc lực cao - trực trùng
hoại
tử (Necrobacillosis), hoá chất, bỏng nhiệt, điện hoặc bức xạ…
Hoại tử bã đậu: Tế bào và mô bị huỷ hoại có trạng thái mềm,
mủn, lổn
nhổn, nát màu vàng nhạt giống như bã đậu, khi hút nước sẽ dẻo, dính.
+ Vi thể: Tế bào và các thành phần của mô bị phá huỷ hoàn toàn về cấu trúc, hình
thành
đám vô định hình, bắt màu hồng với Eosin, rải rác có các mảnh nhân bắt
màu kiềm
hoặc các hạt can xi bắt màu xanh sẫm.
+ Đại thể: Vùng hoại tử khô, lổn nhổn, mủn, dễ vỡ - khi hút nước sẽ dẻo, dính,
màu
trắng hoặc vàng nhạt, rất hay bị can xi lắng đọng, khi cắt có tiếng lạo xạo.
+ Hay gặp trong các ổ lao của bệnh lao, hoặc vi khuẩn Corynebacterium ovis gây
viêm
hạch lympho dạng bã đậu
Hoại tử ướt Tế bào và mô bị huỷ hoại chứa nhiều nước nên
mềm nhũn.
+ Vi thể: Tế bào và các thành phần khác của mô trương to, tan rữa thành một
đám
không cấu trúc, bắt màu hồng, lẫn với các mảnh nhân, có thể hình thành các
“túi” nước
lẫn protein, có các bạch cầu trung tính nếu vi khuẩn gây mủ.
+ Đại thể: hoại tử ướt thường hình thành túi nước đục, vách túi xốp, mềm, không
nhẵn
mà lởm chởm có khi tạo thành các khoang, ngách…
+ Thường gặp ở các cơ quan chứa nhiều nước, nhiều lipit như mô thần kinh.
Thí dụ bệnh nhũn não – Encephalomalacia; nhũn tuỷ - Myelomalacia
Hoại tử mỡ: Là loại hoại tử của mô mỡ.
Do tác động của lipaza phân huỷ triglyxerit thành glyxerit và axit béo.
+ Vi thể: Tế bào mỡ bị mất nhân, Nguyên sinh chất không chứa mỡ nên không bắt
màu
với thuốc nhuộm Sudan III, mà thay vào đó là chất đồng nhất, chắc, mờ bắt
màu hơi
xanh, hồng nhạt, hoặc đỏ tía phụ thuộc vào ion kim loại là Na, K hay Ca.
Vùng phản ứng xung huyết, có đại thực bào hoặc tế bào khổng lồ.
+ Đại thể: hình thành chất chắc, mịn, mờ như nến, không đồng đều về kích
thước,
bằng hạt đậu, hạt
Hoại tử kiểu Zenker: chỉ xảy ra ở cơ vân, thực chất là sự đông vón
protein ở cơ
tương (hoại tử sáp).
+ Hay gặp ở tuỵ, màng bụng, mỡ dưới da hay vùng xương ức của bò.
Câu 17. Tiến triển và hậu quả của hoại tử?
+ Hoá lỏng rồi hấp thu đi
+ Hoá lỏng, hình thành nang chứa dịch lỏng.
+ Hoá lỏng và hình thành túi mủ (Do vi khuẩn sinh mủ)
+ Tạo thành bao xơ
+ Hình thành sẹo
+ Can xi hoá: muối can xi lắng đọng dần dần
+ Long tróc tế bào, loét
+ Chuyển thành hoại thư (grangrena)
+ Hậu quả của hoại tử phụ thuộc vào vị trí, mức độ hoại tử, và tình trạng nhiễm
trùng
và các sản phẩm do hoại tử tạo ra
Câu 18. Thế nào gọi là hoại thư? Phân loại hoại thư?
Hoại thư là tổ chức hoại tử bị tác động của vi khuẩn và điều kiện ngoại
cảnh
phát sinh những biến đổi phức tạp hơn.
Hoại thư = Hoại tử + Thối rữa.
+ Hoại thư hay xảy ra ở các mô bào dễ tiếp xúc với môi trường bên ngoài như
da,
phổi, ruột, tử cung…
Phân loại hoại thư
+ Hoại thư khô: xảy ra trên cơ sở của hoại tử đông chịu sự tác
động của không
khí khô nóng gây mất nước nên bị teo nhỏ, nhăn nheo, nhưng không
mất cấu trúc.
+ Hoại thư ướt: Do mô bào hoại tử bị nhiễm vi khuẩn gây thối rữa. Vùng hoại thư
mềm, mủn, nhão, màu xanh xám hay đen, mùi thối, xung huyết, phù, khi
cắt có nhiều
nước chảy ra. Thí dụ viêm vú hoại thư, hoại thư phổi…
+ Hoại thư sinh hơi: Xảy ra trên cơ sở của hoại thư ướt có sự phát triển cua vi
khuẩn yếm khí.Bệnh thuỷ thũng ác tính, bệnh đen chân ở gia súc, các vết thương
nhiễm
trùng…
Câu 19. Trình bày những biến đổi của xác chết? Ý nghĩa của việc nghiên cứu
những biến đổi đó trong mổ khám xác chết?
Những
biến đổi
của xác chết
a. Xác lạnh:
- Sau khi chết, quá trình sinh nhiệt ngừng nên thân nhiệt dần
dần ngang bằng với
nhiệt độ môi trường.
- Tốc độ hạ thân nhiệt phụ thuộc vào điều kiện
bên ngoài và trạng thái cơ thể khi
chết. Có thể phụ thuộc cả vào lý do chết: Uốn ván,
trúng độc Stricnin…
- Kiểm tra nhiệt độ xác chết có ý nghĩa xác định thời gian chết của vật và dư đoán
lý do chết.
b. Xác cứng:
- Lúc mới chết xác mềm do tê liệt thần kinh, sau đó các cơ co lại và xác sẽ cứng
chắc, giữ nguyên tư thế của con vật khi chết, hiện tượng này được gọi là xác
cứng.
-
Thời gian cứng của xác phụ thuộc vào trạng thái cơ thể khi chết và điều kiện
môi
trường. Thông thường sau 1- 6 giờ xác bắt đầu cứng, 10 -12 giờ cứng hoàn toàn
và sau
24 giờ xác lại mềm trở lại.
- Cơ tim và cơ trơn cũng co cứng, nếu trước khi chết tim đã bị suy, tử cung đã bị
liệt thì sẽ không cứng.
- Kiểm tra xác cứng có ý nghĩa xác định thời gian chết của vật và
dư đoán lý do
chết.
c. Hình thành vết ban
- Vết ban là những đám màu đỏ sẫm hình thành ở phần thấp cúa xác chết (ngoài
da hoặc trong nội tạng).
-Khi chết toàn bộ máu dồn vào hệ tĩnh mạch, theo trọng lực
máu sẽ dồn vào các
mạch quản ở phía thấp nhiều hơn vì tim đã ngừng đập, lúc đầu là
xung huyết sau
đó các mạch quản bị phá huỷ, Hb nhuộm đỏ mô bào.
- Với gia súc có màu đen thì xác định vết ban trên da khó, nhưng khi lột da, hoặc
kiểm
tra nội tạng có thể thấy rõ vết ban ở phía trong. Cần lưu ý phân biệt vết ban
với các dấu
hiệu bệnh lý hình thành trước khi chết.
d. Hình thành cục máu đông
- Sau khi chết máu ngừng chảy, đông lại trong xoang tim và các mạch quản.
- Khi nhiễm độc NO
máu đông nhanh hơn, khi chết ngạt hoặc chết do bại huyết
máu khó đông hoặc không
đông.
- Sau 24 -72 giờ các cục máu động sẽ tự phân huỷ, chảy lại trong các mạch quản.
-
Quan sát sự hình thành cục máu đông có ý nghĩa xác định thời gian chết của vật
và dự
đoán lý do tử vong.
d. Xác tự phân huỷ và thối rữa
- Sau khi chết, các men nội bào được giải phóng gây ra quá trình tự tiêu huỷ. Đồng
thời hàng rào phòng ngự của cơ thể không còn nữa, vi khuẩn xâm nhập
nhanh vào
các mô bào gây nên sự thối rữa.
- Tốc độ tự tiêu và thối rữa phụ thuộc vào điều kiện môi trường: nhiệt độ, độ ẩm,
nguồn gốc của các loại vi khuân.
+ Các cơ quan trong nội tạng thường có biến đổi sớm.
+
Vi khuẩn có trong máu cũng là nguồn vi khuẩn gây thối rữa nhanh chóng và đều
khắp
ở các mô, tuy nhiên nó còn phụ thuộc vào đặc tính của các mô.
+ Gan, thận, não dễ thối giữa hơn là răng, xương…
- Tự tiêu và thối rữa gây nên những biến đối khác thường của xác chết như mềm
xác, trương to, lệch vị trí các cơ quan, biến màu mô bào, lên men sinh hơi, gây
chướng
bụng, gây rách thủng dạ dày, ruột, chảy nước hoặc bốc mùi hôi thối…
Như vậy sau khi chết, xác chết có những biến đổi khác thường làm thay đổi
hoặc lu mờ các dấu hiệu bệnh lý, vì vậy muốn chẩn đoán bệnh bằng phương pháp
mổ
khám xác chết cần phải mổ khám càng sớm càng tốt.
• Hiểu biết về những biến đổi có tính chất tự nhiên này giúp cho người
bác sỹ
tránh được các nhầm lẫn khi chẩn đoán giải phẫu bệnh.
•
Câu 20. Nguyên nhân gây giảm glucoza huyết? Hậu quả của giảm glucoza huyết?
Nguyên
nhân gây
giảm glucoza huyết
- Giảm nguồn bổ sung từ ruột; Thức ăn kém phẩm chất, khẩu phần không đảm
bảo đủ lượng gluxit cần thiết, thiếu các men tiêu hoá, các bệnh đường ruột gây trở
ngại
quá trình tiêu hoá gluxit và hấp thu glucoza.
- Do rối loạn dự trữ tại gan: giảm dự trữ của gan trong các bệnh viêm gan, xơ
gan, thoái hoá tế bào gan; không huy động được nguồn dự trữ do thiếu hụt các
men
phosphorylaza, amylo1.6. glucozidaza.
- Do tăng mức tiêu thụ: lao động nặng nhọc kéo dài, bệnh mãn tính, sốt cao kéo
dài Rối loạn quá trình phosphoryl hoá ở ống thận, ảnh hưởng tới quá trình tái hấp
thu
glucoza ở các tế bào ống thận.
- Do rối loạn điều hoà thần kinh nội tiết như ức chế giao cảm, cường phó giao
cảm, giảm tiết các hormon glucagon, adrenalin, glucococticoit, STH hoặc tăng
tiết
insulin.
Hậu quả của giảm glucoza huyết:
- Gây thiếu G.6.P trong tế bào cảm thụ nên tạo cảm giác đói.
- Kích thích giao cảm dẫn tới tim đập nhanh, run rẩy, vã mồ hôi.