Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Giải pháp công bằng xã hội trong giáo dục việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (633.49 KB, 9 trang )

Giải pháp thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục ở Việt Nam
TS. Nguyễn Ngọc Sơn
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội
Bảo đảm công bằng xã hội nói chung và công bằng trong lĩnh vực giáo dục nói riêng là một
mục tiêu phát triển của Việt Nam. Thực hiện mục tiêu này trong quá trình hội nhập khu vực và
quốc tế, đặc biệt sau khi gia nhập WTO đặt ra nhiều thách thức đối với Việt nam. Bài viết này
nghiên cứu về công bằng xã hội trong giáo dục, những vấn đề còn tồn tại và giải pháp nhằm
thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục ở Việt Nam.
1. Công bằng xã hội trong giáo dục
Công bằng xã hội trong giáo dục luôn được coi là một nội dung quan trọng của chính sách phát
triển giáo dục và phát triển kinh tế xã hội Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. “Chiến lược phát
triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010” chỉ rõ: “Thực hiện công bằng xã hội trong
giáo dục, tạo cơ hội bình đẳng để ai cũng được học hành. Nhà nước và xã hội có cơ chế, chính
sách giúp đỡ người nghèo học tập, khuyến khích những người học giỏi phát triển tài năng”.
Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, do có sự phân
hóa xã hội nên bao giờ cũng có sự phát triển không đồng đều giữa các khu vực, các vùng, các
dân tộc và giữa nam và nữ. Do đó khi xem xét công bằng xã hội trong giáo cần tập trung xem
xét sự khác biệt giữa các khu vực, giữa các vùng, giữa các nhóm xã hội, giữa nam và nữ và
giữa các dân tộc trong việc tiếp cận dịch vụ giáo dục ở các cấp học khác nhau.
Biểu hiện quan trong nhất của sự công bằng trong giáo dục là đảm bảo sự tiếp cận bình đẳng về
cơ hội học tập cho mọi người dân phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội, thể hiện ở việc đảm
bảo khả năng tiếp cận chuẩn tối thiểu về giáo dục cho tất cả mọi người không phân biệt nhóm
xã hội hay địa bàn sinh sống, đồng thời khuyến khích việc thực hiện các hoạt động giáo dục ở
mức cao hơn chuẩn cho các nhóm có điều kiện trong khuôn khổ quy định của pháp luật; là việc
tạo ra những cơ hội như nhau cho những người có khả năng ngang nhau để sự thành đạt trong
giáo dục chỉ phụ thuộc vào năng lực phấn đấu của mỗi cá nhân. Như vậy, việc thực hiện công
bằng xã hội trong giáo dục không chỉ thể hiện nguyên tắc cống hiến ngang nhau, hưởng thụ
ngang nhau mà còn mang đậm tính chất nhân đạo.
2. Những quan điểm, chính sách của nhà nước và những tồn tại trong việc đảm bảo công
bằng xã hội trong giáo dục ở Việt Nam
Luật giáo dục 2005 là cơ sở pháp lý và định hướng cho việc xây dựng định hướng chính sách


giáo dục của đất nước. Trong Luật giáo dục 2005 nêu rõ: “Nâng cao tính công bằng xã hội
trong giáo dục và tăng thêm cơ hội học tập cho nhân dân, đặc biệt là các đối tượng hưởng
chính sách xã hội, con em gia đình nghèo”. Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001 –
2010 và Kế hoạch hành động Giáo dục cho mọi người cũng nhấn mạnh đến việc nâng cao công
bằng xã hội trong giáo dục và tăng cường khả năng tiếp cận giáo dục cho trẻ em nghèo, trẻ em
1
có hoàn cảnh khó khăn. Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Xây dựng
xã hội học tập, tạo điều kiện cho mọi người, ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học thường
xuyên, học suốt đời. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục. Đẩy
mạnh xã hội hóa; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia phát triển
giáo dục. Các chính sách về công bằng xã hội trong giáo dục còn được đề cập trong “Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X”, Chiến lược tăng trưởng toàn diện và xóa đói giảm nghèo
2001 – 2010”, Kế hoạch hành động giáo dục 2003 – 2015”.
Một số chính sách về đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục của Việt Nam:
- Các chính sách để đảm bảo chuẩn tối thiểu trong giáo dục bao gồm chính sách xóa mù chữ
và phổ cập giáo dục. Năm 1991, Quốc hội đã thông qua Luật phổ cập tiểu học, trong đó
quy định “Nhà nước thực hiện chính sách phổ cập tiểu học bắt buộc từ lớp 1 đến hết lớp 5
đối với tất cả trẻ em có độ tuổi từ 6 đến 14 tuổi”. Nhà nước cũng đã ban hành Chỉ thị 01 –
HĐBT “về công tác xóa mù chữ” và thành lập Ủy ban quốc gia chống nạ mù chữ. Bộ Giáo
dục và Đào tạo ra quyết định về việc “ban hành quy định kiểm tra, đánh giá và công nhận
phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi”.
- Các chính sách hỗ trợ vùng miền. Hiến pháp năm 1992, Chiến lược phát triển giáo dục giai
đoạn 2001 – 2010, Kế hoạch hành động quốc gia về giáo dục cho mọi người 2003 – 2015
nêu rõ: Nhà nước thực hiện chính sách ưu tiên đảm bảo phát triển giáo dục miền núi, các
vùng dân tộc thiểu số và các vùng đặc biệt khó khăn.
- Các chính sách hỗ trợ về tài chính bao gồm chính sách học bổng, học phí và tín dụng đề
cập đến chính sách học bổng và trợ cấp xã hội đối với học sinh, sinh viên các trường đào
tạo công lập. Mặc dù hệ thống giáo dục Việt Nam đã dựa nhiều hơn vào học phí, song
khoảng cách về đi học giữa người giàu và người nghèo vẫn tiếp tục được thu hẹp Ngành
giáo dục đang tiếp tục nỗ lực đảm bảo sao cho chất lượng trường học đối với các trẻ em là

như nhau, bất kể điều kiện về kinh tế - xã hội của các em như thế nào.
- Chính sách bình đẳng giới trong giáo dục được đề cập trong Kế hoạch hành động quốc gia
về giáo dục cho mọi người, trong đó nhấn mạnh đến việc đảm bảo quyền học tập cho trẻ
em gái…
Việc thực hiện đồng bộ các chính sách nêu trên đã mang lại kết quả đáng khích lệ trong việc
thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục Việt Nam. Trong những năm qua công bằng xã hội
trong giáo dục cơ sở về cơ bản được đảm bảo, giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số có những
chuyển biến tích cực, đã thành lập gần 250 trường dân tộc nội trú và hơn 100 trường bán trú.
Cả nước đã hoàn thành công tác xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và đang thực hiện phổ
cập trung học cơ sở. Gần 93% dân cư từ 15 tuổi trở lên biết chữ; số năm đi học trung bình đạt
7,3, chỉ số phát triển giáo dục cho mọi người (EDI) đạt 0,914 xếp hạng 64 trên 127 nước. Về
cơ bản nước ta đã đạt được sự bình đẳng nam nữ trong giáo dục cơ sở với chỉ số giới trong giáo
dục (GEI) đạt 0,925.
2
Mặc dầu đã đạt được những thành tựu nêu trên, nhưng nhìn chung việc thực hiện công bằng xã
hội trong giáo dục vẫn đang còn những tồn tại như: phạm vi đối tượng giáo dục không bao
trùm hết lên mọi đối tượng dân cư, khả năng trang trải cho dịch vụ giáo dục của người nghèo
còn thấp, đặc biệt là khả năng tiếp cận dịch vụ giáo dục của trẻ em gái nghèo, của người dân
tộc vùng sâu vùng xa đang còn rất hạn chế. Dưới đây là một sô biểu hiện cụ thể ở các cấp học:
Ở cấp học giáo dục mầm non
Cùng với xu hướng xã hội hoá giáo dục mầm non, sự khác biệt trong tỷ lệ nhập học rất lớn, thể
hiện khả năng tiếp cận dịch vụ nhà trẻ của trẻ em nghèo kém hơn nhóm trẻ em không nghèo.
Nếu thời kỳ 1992-1993 tỷ lệ nhập học nhà trẻ của nhóm người giàu nhất cao gấp 1,12 lần so
với nhóm người nghèo nhất, thì tới thời kỳ 1997-1998 con số này lên tới 3,34 lần, thời kỳ
2002-2003, khoảng cách này có giảm còn 2,57 lần và năm 2004 giảm còn 2,24 lần. Các bé gái
con nhà nghèo lại càng chịu thiệt thòi nhiều hơn với các khoảng cách lần lượt là 1,33 lần, 3,71
lần và 2,75 lần. (Bảng 1).
Bảng 1: Tỷ lệ trẻ em đến nhà trẻ đúng tuối
Nhóm thu nhập
1992 1997 2002 2004

TS Nam Nữ TS Nam Nữ TS Nam Nữ TS
Tổng số 5,57 5,78 5,36 4,29 3,85 4,71 10,05 10,40 9,63 13,04
Nghèo nhất 5,45 6,74 4,42 0,77 1,06 0,52 3,95 4,09 3,79 7,53
Cận nghèo nhất 5,59 5,88 5,26 1,67 1,21 2,15 8,10 9,17 6,82 10,89
Trung bình 6,27 6,45 6,03 2,63 3,11 2,12 8,31 7,89 8,78 11,74
Gần giàu nhất 4,31 3,09 5,36 10,09 9,01 12,65 12,85 13,07 12,58 16,56
Giàu nhất 6,25 5,43 7,14 14,34 11,47 17,48 25,87 25,96 25,75 22,24
Nguồn: ĐTMSHGĐ 1992-1993, 1997-1998, 2002-2003 và năm 2004
Theo Bảng 1 khả năng tiếp cận giáo dục mần non của trẻ em thành thị cao hơn rất nhiều so với
trẻ em nông thôn, tỷ lệ đi học nhà trẻ và mẫu giáo đúng tuổi ở thành thị tương ứng là 21,84 %
và 65,74 %, trong khi tỷ lệ tương ứng của khu vực nông thôn là 10,24 % và 46,47%.
Cấp học THCS và THPT
Theo số liệu của Bộ GD&ĐT đến tháng 12/2006 cả nước đã có 64/64 tỉnh thành đều đạt chuẩn
quốc gia về mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Đây là một trong những thành tựu rất lớn của
Việt Nam trong việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ. Tuy nhiên khi xem xét chuẩn quốc
gia về chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, có thể nhận thấy diện nằm ngoài chuẩn còn
chiếm một tỷ lệ khá lớn. Khả năng tiếp cận giáo dục, càng lên cấp học cao, càng khó khăn hơn
đối với người nghèo.
3
Hình 2: Tỷ lệ đi học theo cấp học và theo nhóm thu nhập
Nguồn: Tác giả tính toán từ Điều tra mức sống hộ gia đình năm 2004
Theo hình trên ta thấy khoảng cách phân hoá giàu nghèo càng lớn khi cấp học càng cao. Và
trong những giai đoạn thay đổi cơ cấu kinh tế xã hội và cơ chế chính sách như thời kỳ 1997-
1998 thì nhóm người nghèo phải chịu những tác động xấu hơn so với nhóm người không
nghèo. Vẫn còn một khoảng cách khá lớn về tỷ lệ học sinh giữa bộ phận dân nghèo nhất và bộ
phận dân giàu nhất ở cả hai bậc trung học cơ sở và trung học phổ thông. Hơn nữa chênh lệch
về tỷ lệ học sinh giữa các dân tộc thiểu số và dân tộc kinh vẫn còn cao. Ở bậc trung học cơ sở
chỉ có 54,18 % trẻ em các dân tộc thiểu số đến trường so với 75,46% trẻ em người Kinh và
người Hoa.
Khả năng tiếp cận dịch vụ giáo dục thông qua tỷ lệ đi học đúng tuổi được thể hiện trong bảng

2. Theo bảng 2 ta thấy có sự khác biệt đáng kể trong việc tiếp cận dịch vụ giáo dục tiểu học,
trung học cơ sở và trung học phổ thông giữa các nhóm ngũ vị phân trong xã hội. Đối với cấp
học tiểu học tỷ lệ nhập học đúng tuổi của nhóm giàu nhất là 90,77 %, trong khi của nhóm
nghèo nhất là 88,54% năm 2004. Đặc biệt, tỷ lệ nhập học đúng tuổi cấp học trung học cơ sở và
trung học phổ thông có sự chênh lệch rất lớn giữa nhóm giàu nhất và nghèo nhât. Trong khi tỷ
lệ nhập học đúng tuổi cấp THCS và THPT của nhóm giàu nhất là 81,93 và 64,01 thì của nhóm
nghèo nhất chỉ có 60,69 và 26,26. Theo số liệu điều tra mức sống hộ gia đình năm 1993, 1998,
2002 và 2004 tỷ chênh lệch trong việc tiếp cận giáo dục ở tất cả các cấp tiểu học, trung học cơ
sở và trung học phổ thông đã giảm giữa các nhóm thu nhập từ năm 2002 đến 2004. Tuy nhiên
khoảng này này vẫn đang còn còn khá cao giữa các nhóm (hình 2, 3 và 4). Một trong những lý
do của sự khác biệt này là chi phí cơ hội của việc đứa trẻ đến trường. Lợi ích dài hạn của giáo
dục không thể bù đắp được những tổn thất về thu nhập ngắn hạn. Nguyên nhân phi tài chính
gây trở ngại cho việc tiếp cận dịch vụ giáo dục của trẻ em nghèo là việc đi học xa, khó khăn
trong phương tiện đi lại, vấn đề ngôn ngữ đối với trẻ em dân tộc thiểu số và chương trình giảng
dạy bị coi là không phù hợp. Riêng đối với nhóm trẻ em nghèo ở thành thị những vấn đề liên
quan đến hộ khẩu cũng tác động không nhỏ đến khả năng tiếp cận dịch vụ giáo dục của người
nghèo.
4
Bảng 2: Tỷ lệ đi học đúng tuổi ở các cấp
Theo phần trăm
Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông
93 98 02 04 93 98 02 04 93 98 02 04
Cả nước
86,7 91,0 90,1 88,54 30,1 61,7 72,1 72,21 7,2 28,6 41,8 43,30
Nghèo nhất
72,0 81,9 84,5 85,11 12,1 33,6 53,8 60,69 1,1 4,5 17,1 26,26
Cận nghèo nhất
87,0 93,2 90,3 88,40 16,6 53,0 71,3 70,90 1,6 13,3 34,1 38,70
Trung bình
90,8 94,6 91,9 90,20 28,8 65,5 77,6 74,96 2,6 20,7 42,6 44,32

Cạn giàu nhất
93,5 96,0 93,7 90,96 38,4 71,8 78,8 79,03 7,7 36,4 53,0 50,28
Giàu nhất
95,9 96,4 95,3 90,77 55,0 91,0 85,8 81,93 20,9 64,3 67,2 64,01
Người kinh và Hoa
90,6 93,3 92,1 89,91 33,6 66,2 75,9 75,47 7,9 31,9 45,2 47,24
Các dân tộc thiểu số
63,8 82,2 80,0 81,81 6,6 36,5 48,0 54,18 2,1 8,1 19,3 22,75
Thành thị
96,6 95,5 94,1 90,43 48,5 80,3 80,8 79,25 17,3 54,5 59,2 60,40
Nông thôn
84,8 90,6 89,2 88,10 26,3 69,9 69,9 70,56 4,7 22,6 37,7 39,56
Nguồn: Số liệu điều tra mức sống hộ gia đình 1993, 1998, 2002 và 2004
Hình 2: Tỷ lệ đi học đúng tuổi ở các cấp tiểu học theo nhóm thu nhập
Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu ĐTMSHGĐ 1993, 1998, 202 và 2004
Hình 3: Tỷ lệ đi học đúng tuổi ở cấp THCS theo nhóm thu nhập
Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu ĐTMSHGĐ 1993, 1998, 202 và 2004
5
Hình 4: Tỷ lệ đi học đúng tuổi ở cấp THPT theo nhóm thu nhập
Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu ĐTMSHGĐ 1993, 1998, 2002 và 2004
Nói tóm lại, vẫn còn tồn tại trong việc thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, cụ thể là:
- Tiếp cận không đồng đều tới dịch vụ giáo dục và sự khác nhau đáng kể về các chỉ số kết quả.
Phạm vi đối tượng dịch vụ giáo dục không bao trùm hết bộ phận dân cư nghèo nhất. Các số
liệu phân tích ở trên cho thấy với tỷ lệ đi học đúng tuổi thì khoảng cách giữa người giàu và
người nghèo nhất hoặc không được rút ngắn hoặc còn giảm chậm.
- Khả năng trang trải các dịch vụ giáo dục của người nghèo còn thấp và thực tế đang giảm
xuống. Trong lĩnh vực giáo dục chi phí đi học trực tiếp và gián tiếp càng làm tăng khoảng cách
tiếp cận đặc biệt đối với trung học cơ sở và cao hơn.
- Khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em nông thôn đang còn thấp hơn nhiều so với trẻ em ở
thành thị, đặc biệt là cấp học mầm non và THPT. Hơn nữa khả năng tiếp cận dịch vụ giáo dục

của trẻ em gái vẫn còn thấp hơn so với trẻ em trai, đặc biệt là đối với khu vực nông thôn và
vùng sâu, vùng xa.
- Với việc thực hiện chính sách ngày học hai buổi ở cấp tiểu học đã làm cho trẻ em nghèo bị
thiệt thòi trong việc tiếp cận giáo dục có chất lượng cao, vì số giờ dạy thêm không được trả từ
kinh phí nhà nước mà từ phần đóng góp của phụ huynh học sinh.
3. Giải pháp nhằm thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục ở Việt Nam
a. Định hướng lại vai trò của Nhà nước và tăng cường chi tiêu cho các dịch vụ giáo dục
Phân bổ lại tài chính cho các dịch vụ xã hội cơ bản, trong đó bao gồm gia tăng tài chính cho
giáo dục để giúp cải thiện chất lượng của các dịch vụ này. Với nguồn lực về tài chính và tổ
chức còn hạn chế, cả hai vấn đề tăng cường phân bổ tài chính cũng như tăng cường năng lực tổ
chức chỉ là hiện thực nếu như có việc định hướng lại vai trò của nhà nước đối với các dịch vụ
xã hội cơ bản Hiện nay, tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục nhìn chung đã giúp cho Việt Nam
ngang hàng với các nước khác có cùng trình độ phát triển. Tuy nhiên, mức chi tuyệt đối cho
giáo dục cơ bản vấn còn thấp hơn so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia.
6
Trong thời gián tới Chính phủ Việt Nam cần giảm trợ cấp cho giáo dục đại học đồng thời với
việc tăng trợ cấp cho giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Cách tiếp cận khác là tăng chi theo
mục tiêu hoặc theo đầu ra, vì theo cách phân bổ ngân sách theo quy mô học sinh như hiện nay
thì các vùng khó khăn thậm chí còn được nhận ngân sách cho giáo dục phổ thông thấp hơn các
vùng giàu có hơn. Tăng chi tiêu công theo mục tiêu cho những khâu yếu nhất trong chuối cung
cấp dịch vụ - các vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa là hết sức quan trọng.
b. Giải quyết tình trạng thiếu khả năng chi cho giáo dục của người nghèo
Trong quá trình tăng trưởng kinh tế nhanh và giảm đói nghèo đối với 20% hộ gia đình đang vật
lộn để thoát khỏi đói nghèo, trẻ em rất hạn chế tới trường vì phải làm việc để đóng góp vào thu
nhập của gia đình. Tăng chi tiêu cho các dịch vụ xã hội cơ bản sẽ làm tăng khả năng tiếp cận
của người nghèo, phụ nữ và trẻ em, với ý nghĩa chúng là các dịch vụ quan trọng nhất và quan
trọng nhất đối với nhóm dân cư này. Trong nội bộ ngành Giáo dục, đang có sự chuyển hướng
chi tiêu tập trung cho giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, đây là biện pháp tốt nhất để gia tăng
khả năng tiếp cận giáo dục cho người nghèo. Vì vậy, chiến lược cơ bản là cần phải tăng cường
sự tài trợ của Trung ương cho các cấp thấp hơn cho hệ thống giáo dục, đặc biệt là ở các vùng

nghèo, làm giảm “xã hội hóa” chi phí đối với cấp tiểu học và trung học cơ sở, mà thay thế vào
đó bằng việc tài trợ ngân sách nhiều hơn cho các cấp học đó. Đặc biệt cần phải đưa ra cách tiếp
cận mới để mở rộng phạm vi thụ hưởng của các nhóm đặc biệt như những người nhập cư
không đăng ký hộ khẩu, người tàn tật.
c. Mở rộng phạm vi và tăng chất lượng giáo dục ở những vùng nghèo nhất
Như là một nguyên tắc cơ bản, những vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa đang đối mặt với những
thách thức đặc biệt, cần phải tăng cường nguồn lực cũng như sử dụng các mô hình khác nhau.
Tăng sự trợ giúp tài chính cho các tỉnh tương đối nghèo là hết sức cần thiết. Hơn nữa, đầu tư
vào nâng cao chất lượng và tăng cường nguồn nhân lực cơ sở - những giáo viên, đội ngũ quản
lý giáo dục là một trong những cách tiếp cận cốt lõi. Một số biện pháp khởi đầu đang được
thực hiện để tăng cường đội ngũ giáo viên người dân tộc ở những tỉnh nghèo nhất là rất phù
hợp và cần mở rộng trong vòng mười năm tới. Bên cạnh việc quan tâm đến khía cạnh cung cấp
dịch vụ cơ bản cũng phải quan tâm đến cầu giáo dục của người nghèo. Các nhóm khó tiếp cận
như dân tộc thiểu số ở miền núi, người nghèo sẽ chỉ hoàn thành tiếp cận với giáo dục cơ bản
khi họ thấy được lợi ích thực sự với con cái và gia đình mình.
d. Cải thiện đào tạo và khuyến khích cung cấp dịch vụ cơ sở
Thành tựu giáo dục và kết quả học tập có thể suy giảm do các nhà cung cấp dịch vụ giáo dục
không thực hiện đúng chức năng của mình. Mặc dù phần lớn các giáo viên đều cố gắng thực
hiện các công việc của mình một cách tận tâm, nhưng tại các vùng sâu, vùng xa vẫn còn thiếu
giáo viên trầm trọng. Có thể nhận thấy động cơ thúc đẩy và năng lực của các nhà cung cấp dịch
vụ giáo dục còn kém. Có nhiều bước để giúp quản lý nguồn nhân lực một cách hữu hiệu hơn.
Bước đầu tiên là xem xét lại phương pháp và chương trình đang áp dụng cho đối tượng này.
7
Các biện pháp cần phải mang tính thực tế hơn so với hiện nay. Nên khuyến khích các hình thức
đào tạo khác ở các vùng sâu, vùng xa. Hơn nữa cần phải cải thiện về lâu dài chất lượng của
người cung cấp dịch vụ giáo dục và cần được thực hiện bằng cải cách tiền lương. Nói chung
lương còn thấp so với trung bình trong xã hội. Tuy vậy, phải thấy rằng cải thiện chính sách tiền
lương về lâu dài trong điều kiện bị hạn chế ngân sách nhà nước hiện nay cũng cần duy trì và
trong một số trường hợp phải mở rộng chi cho các yếu tố ngoài lương.
e. Xã hội hóa giáo dục và khuyến khích, điều tiết tham gia của khu vực ngoài nhà nước

trong cung cấp dịch vụ
Xóa hội hóa giáo dục là một giải pháp quan trọng nhằm tận dụng mọi nguồn lực vào thực hiện
các mục tiêu xã hội, trong đó có mục tiêu đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục và tăng
cường khả năng tiếp cận dịch vụ giáo dục cho người nghèo.
Trước tiên cần hiểu xã hội hóa giáo dục là làm cho toàn bộ xã hội hiểu đúng hiện trạng của
giáo dục, mục tiêu phấn đấu của nó, những trở ngại và thách thức, cũng như vai trò đặc biệt
của giáo dục trong việc làm cho dân giàu nước mạnh, để đóng góp trí tuệ, để đóng góp sức lực
và tiền cho giáo dục, hình thành môi trường thuận lợi phát triển giáo dục.
Đa dạng hóa các loại hình giáo dục, hệ thống các trường lớp và các con đường học tập như
phát triển các trường ngoài công lập ở những nơi có điều kiện và các cấp bậc học thích hợp,
mở rộng các hình thức đào tạo không tập trung, đào tạo từ xa, đảm bảo tính liên thông giữa các
nhánh, các luồng của hệ thống giáo dục …có ý nghiã đặc biệt quan trọng trong việc tạo cơ hội
cho mọi người dân có thể lựa chọn cách học phù hợp với nhu cầu, hoàn cảnh và khả năng của
mình.
f. Lồng ghép dân số vào quá trình kế hoạch hóa (KHH) phát triển giáo dục và định hướng
lại chương trình dân số
Như đã phân tích ở trên những bất lợi liên quan đến giáo dục là mang tính nhiều mặt và thường là
kết quả của mối quan hệ tác động qua lai giữa các yếu tố dân số - phát triển. Như vậy công tác
KHH để thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ về giáo dục nhấn mạnh việc giải quyết những khác
biệt bằng việc chú trọng vào đạt được những tiến bộ về bình đẳng giới, về bình đẳng trong cơ hội
và thụ hưởng dịch vụ giáo dục phổ cập của trẻ em trong hộ gia đình giữa các nhóm thu nhập, dân
tộc và vị trí địa lý. Việc lồng ghép dân số vào KHH phát triển là một bộ phận hữu cơ quan trọng
và là yếu tố hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho mỗi cá nhân, mỗi gia đình
và toàn xã hội.
Việc thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở
một quan điểm đúng đắn, một chiến lược khoa học và đồng bộ, những giải pháp thiết thực với
những kế hoạch hành độngkhả thi. Hướng tới công bằng xã hội trong giáo dục cũng có nghĩa
là hướng tới quan điểm phát triển mà Việt Nam đã lựa chọn:“ Phát triển nhanh, hiệu quả và
bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với việc thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội”.
8

Tài liệu tham khảo
1. Báo cám giám sát toàn cầu về GDCMN 2005, Giáo dục cho mọi người – Yêu cầu khẩn
thiết về chất lượng, UNESCO năm 2005.
2. Báo cáo chung của Chính phủ Việt Nam và Ngân hàngThế giới, Việt Nam quản lý chi tiêu
công để tăng trưởng và phát triển,Tập 1 và 2, NXN Tài chính năm 2005.
3. Báo cáo giám sát toàn cầu về GDCMN 2007, UNESCO xuất bản
4. Báo cáo phát triển thế giới từ năm 1998 đến 2007 của WB
5. Báo cáo phát triển Việt Nam từ năm 2000 đến 2007
6. Bộ Kế hoạch đầu tư và UNDP, Việt Nam hướng đến năm 2010, Tuyển tập báo cáo phối
hợp nghiên cứu Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các chuyên gia quốc tế và Việt Nam,
NXB Chính trị quốc gia 2001.
7. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Quỹ dân số Liên hợp quốc, Cơ sở lý luận về dân số - phát triển và
lồng ghép dân số vào kế hoạch hóa phát triển, Dự án VIE P14, 2005.
8. Chiến lược phát triển giáo dục Việt nam giai đoạn 2001 – 2010.
9. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 – 2010.
10. Chiến lược Tăng trưởng toàn diện và Xóa đói giảm nghèo 2001 – 2010.
11. Điều tra mức sống hộ gia đình năm 1992, 1998, 2002 và 2004, Tổng cục thống kê.
12. Kế hoạch hành động quốc gia về Giáo dục cho mọi người giai đoạn 2003 – 2015.
13. PGS.TS. Trần Xuân Cầu và Ths. Ngô Quỳnh An, Đánh giá khả năng tiếp cận đối với người
nghèo, Tạp chí Kinh tế Phát triển tháng 10/2006.
14. TS. Võ Thị Ánh Tuyết, Nghiên cứu giải pháp nhằm thực hiện công bằng xã hội trong giáo
dục – đào tạo ở Việt Nam giai đoạn hiện nay, Đề tài cấp bộ, Viện nghiên cứu phát triển
giáo dục.
9

×