Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Những rào cản chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.03 KB, 25 trang )

Những rào cản đối với việc nâng cao chất lợng
tăng trởng ở Việt Nam
I.Tổng quan chung về chất lợng tăng trởng
1. Quan niệm về chất lợng tăng trởng
Thập kỷ cuối của Thế kỷ XX, thế giới đã chứng kiến những thay đổi lớn
lao của nền kinh tế thế giới, đặc biệt là kinh tế của các nớc đang phát triển ở
Châu á. Tuy vậy, cùng với sự thay đổi đó, vẫn còn những dấu hiệu suy thoái,
thậm chí là khủng hoảng kinh tế xảy ra ngay tại Đông á, nơi đã đạt tốc độ tăng
trởng cao trong ba thập kỷ qua. Những thay đổi bất thờng này đã chỉ ra rằng,
trung tâm của quá trình phát triển không chỉ là tăng trởng cao mà chất lợng tăng
trởng mới là vấn đề có ý nghĩa quan trọng. Trong thời gian qua nền kinh tế của
Việt Nam đã khôi phục đợc đà tăng trởng, giữ vững vị trí thứ hai châu á (sau
Trung Quốc), vợt qua giai đoạn suy giảm tốc độ tăng trởng để chuyển sang nhịp
tăng trởng mới. Năm 2004 tốc độ tăng trởng kinh tế của Việt Nam đạt cao nhất
từ năm 1997. Đặc biệt, công nghiệp và xuất khẩu có sự tăng trởng nhảy vọt dới
tác động của Hiệp định Thơng mại Việt - Mỹ. Trong bối cảnh tình hình quốc tế
và khu vực diễn biến nhanh và bất thờng, đạt đợc thành tích nh vậy là rất lớn và
có ý nghĩa tạo đà quan trọng cho giai đoạn tăng trởng tiếp theo.
Tuy nhiên, so với yêu cầu và khả năng, tăng trởng vẫn: dới mức tiềm năng;
hiệu quả và chất lợng thấp; cha bảo đảm bền vững và cha tạo lập đợc những cơ
sở tiền đề cần thiết để đẩy mạnh CNH, HĐH rút ngắn giai đoạn tiếp theo. Có thể
nói tăng trởng kinh tế trong thời gian qua cha đáp ứng đợc yêu cầu gay gắt của
cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế, của mục tiêu đòi hỏi thoát khỏi tình
trạng tụt hậu. Yêu cầu nâng cao chất lợng tăng trởng là hết sức cần thiết để Việt
Nam có thể rút ngắn đợc khoảng cách phát triển so với các nớc trong khu vực và
thế giới. Do vậy, nghiên cứu các rào cản đối với việc nâng cao chất lợng tăng tr-
ởng trong thời gian tới có ý nghĩa rất quan trọng để từ đó đa ra các giải pháp
nhằm nâng cao chất lợng tăng trởng ở Việt Nam trong thời gian tới.
Thời gian qua trong quá trình tăng trởng chúng ta mới chỉ chú trọng đến
một mặt của quá trình tăng trởng kinh tế - đó là số lợng, còn chất lợng của tăng
trởng mới chỉ đợc quan tâm trong mấy năm gần đây. Mặt số lợng của tăng trởng


kinh tế đợc thể hiện ở quy mô, trình độ, tốc độ của tăng trởng. Còn chất lợng
tăng trởng kinh tế là tính quy định vốn có của nó, là sự thống nhất hữu cơ các
thuộc tính làm cho hiện tợng tăng trởng kinh tế khác với các hiện tợng khác.
Chất lợng tăng trởng đợc quy định bởi các yếu tố cấu thành và phơng thức liên
kết giữa các yếu tố cấu thành nên tăng trởng kinh tế.
Do vậy, có thể hiểu khái niệm chất lợng tăng trởng kinh nh sau: Chất l-
ợng tăng trởng kinh tế là một khái niệm kinh tế dùng để chỉ tính ổn định của
trạng thái bên trong vốn có của quá trình tăng trởng kinh tế, là tổng hợp các
thuộc tính cơ bản hay đặc tính tạo thành bản chất của tăng trởng kinh tế trong
một hoàn cảnh và giai đoạn nhất định.
1
Theo quan điểm của Ngân hàng Thế giới, Chơng trình phát triển LHQ và
một số nhà kinh tế học nổi tiếng đợc giải Nobel gần đây nh G. Becker, R.
Lucas, Amartya Sen, J. Stiglitz chất lợng tăng trởng đợc quy định bởi các tiêu
chuẩn chính sau:
- Thứ nhất, tốc độ tăng trởng kinh tế ổn định trong dài hạn và tránh đợc
những biến động từ bên ngoài;
- Thứ hai, Tăng trởng kinh tế theo chiều sâu, đợc thể hiện ở sự đóng góp
của Yếu tố Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP Total factor of
Productivities) cao và không ngừng gia tăng;
- Thứ ba, tăng trởng phải đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh tế và nâng cao
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế;
- Thứ t, tăng trởng đi kèm với phát triển môi trờng bền vững;
- Thứ năm, tăng trởng hỗ trợ cho thể chế dân chủ luôn đổi mới, đến lợt nó
thúc đẩy tăng trởng ở tỷ lệ cao hơn;
1
Kinh tế và dự báo số tháng 5/2004.
- Thứ sáu, tăng trởng phải đạt đợc mục tiêu cải thiện phúc lợi xã hội và
giảm đợc đói nghèo.
Nh đã nói ở trên khi nghiên cứu quá trình tăng trởng cần phải xem xét một

cách đầy đủ hai mặt của hiện tợng tăng trởng kinh tế là số lợng và chất lợng của
tăng trởng kinh tế. Mối quan hệ giữa mặt lợng và mặt chất của quá trình tăng tr-
ởng là rất chặt chẽ. Để đạt đợc hai mục tiêu của quá trình tăng trởng, cần phải
chú trọng đến các nguyên lý của quá trình phát triển:
- Xác định đúng giá trị của các loại vốn: vốn vật chất, vốn tài nguyên thiên
nhiên và vốn nhân lực. Trên cơ sở đó để có đợc các chính sách để nâng
cao hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào của quá trình tăng trởng;
- Phải luôn đổi mới các hình thức phân phối để ngời nghèo có thể tiếp cận
đợc các dịch vụ xã hội cơ bản và tiếp cận đợc các loại vốn, hay nói một
cách khác tạo điều kiện để ngời nghèo tham gia vào quá trình phát triển
cũng nh đợc hởng thụ kết quả của quá trình tăng trởng đem lại.
- Tăng trởng kinh tế phải đi kèm với sự đổi mới cơ chế quản lý, thể chế
kinh tế và chính trị theo hớng dân chủ cho phù hợp với nền kinh tế thị tr-
ờng mở để nâng cao chất lợng tăng trởng.
2. Một số nhận định về thực trạng tăng trởng kinh tế của Việt Nam
Trong gần hai thập kỷ qua, kể từ khi áp dụng những chính sách cải cách
kinh tế toàn diện với nội dung cốt lõi là sự kết hợp của tự do hoá, ổn định hoá,
thay đổi thể chế, cải cách cơ cấu và mở cửa ra nền kinh tế thế giới, Việt Nam đã
đạt đợc những thành tựu kinh tế đáng ghi nhận. Từ chỗ hầu nh không có tăng
trởng trong giai đoạn 1976 1985, sang giai đoạn 1986 1990 nền kinh tế có
dấu hiệu phục hồi và phát triển tuy tốc độ cha cao. Từ năm 1990 đến nay tốc độ
tăng trởng GDP trung bình hàng năm đạt 7%; giảm tỷ lệ lạm phát từ 3 con số
xuống còn một con số; tổng đầu t xã hội tăng lên 35,9%/GDP; mở rộng và đa
dạng hoá đáng kể ngoại thơng.
Tăng trởng kinh tế cao kéo theo thu nhập bình quân đầu ngời củaViệt
nam đợc cải thiện, từ khoảng 140 USD năm 1990 lên 483 USD năm 2003 và
545 USD năm 2004. Tỷ lệ nghèo đói tính theo chuẩn quốc tế giảm mạnh từ trên
70% năm 1990 xuống còn 29 % năm 2003. Về điểm này, Việt nam đã đạt đợc
mục tiêu phát triển của Thiên niên kỷ do quốc tế đặt ra là giảm một nửa tỷ lệ đói
nghèo trong giai đoạn 1990 2015. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên hàng năm từ

2,3% giảm xuống còn 1,4%. Tuổi thọ bình quân từ 65 tuổi tăng lên 71 tuổi.
Đồng hành với sự tăng trởng kinh tế nhanh là những thay đổi quan trọng
trong cơ cấu của nền kinh tế. Năm 1990, nông nghiệp chiếm 38,74% GDP, công
nghiệp chiếm 22,67% và dịch vụ 38,58% GDP. Sau 15 năm, tầm quan trọng
của nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân đã giảm đáng kể trong khi vị trí của
công nghiệp và dịch vụ đã tăng lên tơng ứng. Năm 2003, tỷ trọng giá trị gia tăng
của nông nghiệp chỉ còn 21,8% GDP, của công nghiệp là 39,97% và dịch vụ là
38,23%. Năm 2004 tỷ trọng của ngành nông, lâm, ng nghiệp giảm xuống còn
20,4 %, trong khi đó tỷ trọng của ngành công nghiệp và xây dựng tiếp tục tăng
trởng, đạt 41,1 %. Đặc biệt, tỷ trọng của ngành dịch vụ sau 3 năm liên tục giảm
thì trong năm 2004 đã có xu hớng phục hồi, đạt 38,5% (xem bảng 1). Hơn thế
nữa, cơ cấu các ngành dịch vụ bắt đầu có sự thay đổi theo hớng gia tăng tỷ trọng
các ngành dịch vụ có chất lợng cao nh tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch.
Bảng 1: Cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam
Năm Tỷ trọng của các ngành
Nông nghiệp Công nghiệp
Xây dựng
Dịch vụ
1990 100 38,74 22,67 38,59
1991 100 40,49 23,79 35,72
1992 100 33,94 27,26 38,80
1993 100 29,87 28,90 41,23
1994 100 27,43 28,87 43,70
1995 100 27,18 28,76 44,06
1996 100 27,76 29,73 42,51
1997 100 25,77 32,08 42,15
1998 100 25,78 32,49 41,73
1999 100 25,43 34,49 40,08
2000 100 34,53 36,73 38,74
2001 100 23,25 38,12 38,63

2002 100 22,99 38,55 38,46
2003 100 21,80 39,97 38,23
2004 100 20,40 41,10 38,50
Nguồn: Kinh tế Việt Nam 2003 2004
Kết quả của việc chuyển dịch hoạt động nông nghiệp sang các ngành
khác đã làm cho lao động trong nông nghiệp giảm xuống còn 57,9% tổng số
công ăn việc làm trong năm 2004 so với mức 73 % năm 1990. Sự phát triển
mạnh mẽ của các ngành công nghiệp, mở rộng dịch vụ, đa dạng hoá ngành nghề
trong nông nghiệp đã tạo thêm nhiều chỗ làm mới và tăng thêm việc làm cho
ngời lao động, bình quân hàng năm giải quyết việc làm cho 1,2 1,4 triệu ngời,
làm cho tỷ lệ thất nghiệp ở cả thành thị và nông thôn có xu hớng giảm.
Từ chỗ tất cả hàng hoá đều khan hiếm, đến nay Việt Nam đã trở thành
một nớc đợc đánh giá là có nền kinh tế phát triển nhanh, sản xuất trong nớc đã
đáp ứng đợc phần lớn nhu cầu sản xuất và tiêu dùng, xuất khẩu ngày một tăng,
đời sống vật chất và tinh thần của ngời dân đợc cải thiện rõ rệt.
Có thể khẳng định rằng Việt Nam đã đạt đợc những thành tựu quan trọng
về lợng, tuy nhiên còn phải giải quyết nhiều vấn đề về chất trong phát triển kinh
tế - xã hội.
3. Những biểu hiện yếu kém của chất lợng tăng trởng kinh tế Việt nam
Những biểu hiện yếu kém của chất lợng tăng trởng kinh tế Việt Nam đợc
thể hiện cụ thể ở các vấn đề sau:
a. Tăng trởng kinh tế cha ổn định và tơng xứng với tiềm năng.
Tốc độ tăng trởng kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua dù theo xu thế
tích cực nhng với quy mô nền kinh tế nớc ta còn quá nhỏ bé, thì tốc độ tăng tr-
ởng nh vậy là quá chậm để có thể rút ngắn khoảng cách phát triển với các nớc
trong khu vực và thế giới. Thời kỳ 1976 1980 tăng trởng bình quân chỉ đạt có
0,4 %/ năm, tăng lên 6,4 %/ năm trong thời kỳ 1981 1985, giảm còn 3,9 %
thời kỳ 1985 1990 và đạt cao nhất ở thời kỳ 1991 1995 với mức 8,2 %,
sau đó lại giảm còn 6,7 % giai đoạn 1996 2000 và ớc đạt 7,5 % giai đoạn
2001 2005. Trong năm 2004 tốc độ tăng trởng của Việt Nam cũng chỉ đạt có

7,7 %, thấp hơn so với Trung Quốc (8,8%), Singapore (8,1%). Tăng trởng cha
thực sự bền vững, chất lợng tăng trởng không cao và ít đợc cải thiện; mức tăng
trởng còn thấp xa so với tiềm năng tăng trởng lâu dài của đất nớc. Nếu so sánh
với các đối tác - đối thủ cạnh tranh phát triển chính, động thái tăng trởng của
nền kinh tế của Việt nam cha thể hiện rõ quyết tâm và khả năng thoát khỏi nguy
cơ tụt hậu phát triển, thậm chí còn bộc lộ ngày càng rõ những nguy cơ tiềm ẩn.
Trung Quốc là một quốc gia khổng lồ, có số dân hơn 1,3 tỷ ngời, nông dân
chiếm gần 70%. Khó ai hình dung đợc rằng với sự cồng kềnh, phức tạp và
phải đối mặt với rất nhiều khó khăn mà ít quốc gia nào gặp phải, Trung Quốc lại
có thể duy trì mức tăng trởng GDP bình quân hàng năm xấp xỉ 9% trong suốt
hai thập niên 1980 và 1990, là một kỳ tích mà cả Đông á thần kỳ trớc đây
cũng không so sánh đợc. Đa ra ví dụ đó để thấy rằng không có lý gì mà Việt
Nam, ít cồng kềnh phức tạp hơn, lại đang ở trình độ phát triển thấp hơn (nghĩa là
dễ đạt và duy trì tốc độ tăng trởng cao lâu bền hơn) Trung Quốc, lại không thể
tăng gấp đôi GDP sau 10 năm (tức là chỉ cần duy trì tốc độ tăng trởng bình quân
7,2%/năm, thấp xa so với kỷ lục mà Trung Quốc đạt đợc).
Bảng 2: So sánh khoảng cách GDP/ngời của Việt Nam và một số nớc
GNI/ngời (USD) Chênh lệch so với Việt
Nam (lần)
Theo tỷ giá
thị trờng
Theo ngang
giá sức mua
Theo giá
thực tế
Theo ngang
giá sức
mua
Việt Nam
480 2.490 1,0 1,0

Trung Quốc
1100 4.990 2,3 2,0
Thái lan
2190 7.450 4,5 3,0
Malaysia
3.780 8.940 7,8 3,6
Hàn quốc
12 020 17 930 25,0 7,2
Singapore
21.230 24.180 44,3 9,7
Nhật Bản
34 510 28.620 71,9 11,5
Trung bình các nớc
có thu nhập thấp và
thu nhập trung bình
1280 4 320 2,6 1,7
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ báo cáo phát triển thế giới năm 2005 của Ngân hàng thế
giới.
Khoảng cách tụt hậu của Việt Nam?
Theo quy luật 72, để nền kinh tế nhân đôi khối lợng GNI trong vòng 10 năm thì tốc
độ tăng trởng bình quân hàng năm phải đạt mức 7,2%.
Tuy nhiên, để nhân đôi mức GNI/ngời sau 10 năm thì tốc độ tăng trởng GNI phải đạt
cao hơn 7,2%, cụ thể là phải bằng 7,2% + mức tăng dân số hàng năm. Ví dụ, nếu mức tăng
dân số của Việt Nam bình quân hàng năm là1,4% thì để nhân đôi GNI/ngời sau 10 năm,
tốc độ tăng GDP phải đạt 8,5%.
Nhìn vào bảng 2 ta thấy so với Trung Quốc, thì Việt Nam tụt hậu ít nhất 10 năm (nhng
đó là 10 năm liên tục đạt tốc độ tăng trởng GDP 7,5% - 8%/năm). So với các nớc khác
trong khu vực khoảng cách tụt hậu của Việt Nam còn xa hơn: Thái lan: khoảng 15 năm;
Malaysia: 20 năm; Hàn Quốc: 25 năm; Singapore 35 năm và Nhật bản: 40 năm. Còn để
đạt đợc mức GNI / ngời trung bình của các nớc đang phát triển Việt Nam cũng mất khoảng

10 năm nữa.
b. Tăng trởng kinh tế của Việt Nam vẫn còn chủ yếu dựa vào các nhân
tố tăng trởng theo chiều rộng.
Tăng trởng những năm qua chủ yếu dựa vào những nhân tố tăng trởng theo
chiều rộng, với những ngành, những sản phẩm truyèen thống, hao phí vật t cao,
cha đi mạnh vào chất lợng sản phẩm với phát triển khu vực công nghệ cao. Khi
phân tích đóng góp của các nhân tố tăng trởng ta thấy chất lợng tăng trởng đã đ-
ợc cải thiện, thể hiện ở sự đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP)
vào tăng trởng GDP hàng năm, đã tăng từ 15% thời kỳ 1992 1997 lên 22,5
thời kỳ 1998 - 2002. Tuy nhiên, phần đóng góp của vốn và lao động còn cao,
trong khi đó phần đóng góp của yếu tố tiến bộ khoa học, công nghệ còn quá ít.
Nói cách khác, năng suất tổng hợp của toàn bộ yếu tố sản xuất TFP rất thấp.
Phần trí tuệ, chất xám đóng góp vào tăng trởng kinh tế cha đợc bao nhiêu. Tăng
trởng do yếu tố vốn và lao động còn chiếm tới 77,5%, tức là chiếm tới trên 3/4
tổng cả ba yếu tố tác động đến tăng trởng (yếu tố vốn chiếm tới 57,5 %, lao
động 20, % và TFP chỉ có 22,5%). Nếu so sánh với các nớc trong khu vực thì tỷ
lệ đóng góp của TFP vào tăng trởng hàng năm của Việt Nam còn thấp hơn rất
nhiều: tỷ lệ tơng ứng của Thái Lan là 35%, của Philippins 41%, của Indonesia là
43%. Điều này đồng nghĩa với việc nớc ta cha thoát khỏi hình thái kinh tế dựa
vào tài nguyên, trong khi thế giới đã bớc sâu vào nền kinh tế tri thức.
Bảng 3: Tỷ trọng đóng góp của các nhân tố đầu vào đối với tăng trởng
GDP (%)
Các yếu tố 1993 - 1997 1998 - 2002
Vốn 69 57,5
Lao động 16 20
TFP 15 22,5
Tổng số 100 100
Nguồn: Kinh tế Việt nam 2003 2004, Thời báo kinh tế Việt Nam.
c. Hiệu quả kinh tế thấp.
Hiệu quả kinh tế đợc thể hiện thông qua hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu

vào của tăng trởng nh vốn, lao động, tài nguyên đất đai. Hiệu quả kinh tế cho
thấy cơ chế kinh tế đang vận hành kém hiệu quả. Đây là vấn đề rất nghiêm
trọng đối với một nền kinh tế còn nghèo, đang nỗ lực thoát khỏi tình trạng tụt
hậu phát triển của Việt nam. Điều này đợc thể hiện cụ thể nh sau:
Thứ nhất, sử dụng các nguồn lực còn lãng phí:
Việt Nam là nớc nghèo, kém phát triển và do hoàn cảnh đặc thù nên nguồn
vốn tài chính, tài nguyên đất đai và lao động có kỹ năng là những nguồn lực
khan hiếm nhất. Trong giai đoạn vừa qua, tuy nỗ lực rất cao, song nhiều nguồn
lực đã bị bỏ phí không sử dụng hoặc đợc sử dụng một cách kém hiệu quả.Trong
nền kinh tế Việt Nam hiện nay, một số lớn các nguồn lực khan hiếm không đ-
ợc đa vào sử dụng, nghiêm trọng hơn là hiệu quả sử dụng các nguồn lực đợc đa
vào sử dụng còn thấp.
- Nguồn nhân lực là lợi thế phát triển quan trọng của nớc ta hiện nay. Tuy
nhiên, lợi thế này không đợc sử dụng hết, thậm chí đang bị lãng phí nghiêm
trọng, bởi đến 5,6% (ngày 1/7/2004) lao động ở thành thị thất nghiệp và 20,66%
(1/7/2004) lao động ở nông thôn cha đợc sử dụng. Số thất thoát thời gian lao
động trên tơng đơng với gần 9 triệu lao động thất nghiệp hoàn toàn
1
. Trong số
này có không ít lao động trẻ, có sức khoẻ và không ít lao động đã qua đào tạo,
tỷ lệ lao động đã qua đào tạo cha có việc làm hoặc làm không đúng nghề còn
lớn, lãng phí rất nhiều chi phí đào tạo; cơ cấu lao động còn mất cân đối nghiêm
trọng. Có thể nói, nguồn lao động lớn cha sử dụng hoặc sử dụng cha hiệu quả
đang trở thành vấn đề xã hội.
- Một trong những sự lãng phí điển hình liên quan đến việc sử dụng đất đai,
loại tài sản quan trọng nhất của quốc gia và thuộc quyền sở hữu của nhà nớc.
Tổn thất này có thể tính thành tiền, có thể là sự mất mất vô hình do phí phạm
nguồn vốn khan hiếm này. Trên thực tế, tổn thất về đất có thể lên đến hàng
chục, thậm chí hàng trăm ngàn tỷ đồng.
- Trong thời gian qua, tốc độ tăng trởng GDP cao có đợc chủ yếu là nhờ vốn

đầu t (khoảng 60%). Với một nớc khan hiếm vốn, đây là kết quả của việc tích
cực huy động một lợng vốn lớn đa vào đầu t. Tuy nhiên, thực tế cho thấy vẫn có
một lợng vốn nhàn rỗi không nhỏ nằm dới trạng thái "chết " trong xã hội, chỉ
tính phần GDP tiết kiệm nhng không đợc chuyển thành đầu t, hàng năm có tới
30-40.000 tỷ đồng (5-7% GDP) rơi vào trạng thái vốn chết
2
. Đó là cha tính số
vốn ngời Việt Nam ở nớc ngoài chuyển về, khoảng 2,5-3 tỷ USD/năm, cha đợc
huy động đầu t một cách tích cực và 15-20% của quỹ tích lũy cha đợc huy động
vào đầu t.
- Hiệu quả tăng trởng thấp còn thể hiện ở Hệ số ICOR còn khá cao, năm
2004 hệ số ICOR khoảng 4,7, tuy có giảm đi so với các năm trớc nhng còn cao
so với các nớc trong khu vực, ICOR của Singapore là 4,3, của Trung Quốc là
3,5, của ấn Độ là 3,7, Malaysia là 4,6. Ngoài ra, lãng phí vốn do đầu t cha đúng
mục tiêu, trùng lắp, dàn trải, không giám sát dẫn đến chất lợng các dự án kém,
có khi không sử dụng đợc phải loại bỏ. Đây là hậu quả của tình trạng "đầu t theo
1
Theo tính toán của Vụ Lao động và Văn hoá xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu t.
2
Con số nêu trên do một số quan chức Bộ Kế hoạch và Đầu t đa ra. Có nhiều cơ sở để tin vào tính
đáng tin cậy của con số ớc đoán đó. Tính theo mức ICOR hiện nay, nếu chỉ 2/3 số vốn này đợc đầu t
thì GDP đã tăng thêm đợc 1-1,5%.
phong trào", của "hội chứng đầu t" đã kéo dài từ nhiều năm trớc. Chúng ta đã
chứng kiến sự ra đời của hàng loạt nhà máy bia, nhà máy xi măng lò đứng, nhà
máy đờng của những năm trớc. Thiệt hại to lớn do cách đầu t này gây ra cũng đã
đợc báo chí cảnh báo. Thế nhng, trong mấy năm gần đây, "hội chứng" này vẫn
cha dứt. Xuất hiện làn sóng đầu t xây dựng các cảng biển lớn, nhất là các cảng
nớc sâu, xây dựng hết "khu công nghiệp", đến "cụm công nghiệp", thậm chí
"điểm công nghiệp" ở cấp huyện. Và mới đay, làn sóng kêu gọi đầu t vào các
địa phơng bùng nổ với phơng thức chủ yếu là giảm thuế, giảm tiền thuê đất, hạ

giá tất cả những gì còn "lách" đợc cơ chế để thu hút đầu t. Hậu quả là để tạo ra
đợc phong trào đầu t vào tỉnh nhà, nhiều lợi ích đã bị xâm hại: ngân sách thất
thu, tài nguyên bị bán rẻ, gây rối loạn cơ chế.
Thứ hai, năng suất lao động xã hội thấp. Năng suất lao động của Việt
Nam thấp hơn so với các nớc ASEAN từ 2 15 lần, và cha có dấu hiệu gia
tăng. Điều này ảnh hởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của Việt Nam.
Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp còn thấp. Theo kết quả
kiểm toán các DNNN thì hầu hết các DNNN đều làm ăn kém hiệu quả, dới khả
năng và có tỷ suất lợi nhuận trên vốn đạt rất thấp. Tỷ suất lợi nhuận trên chủ sở
hữu trung bình của các DNNN đợc kiểm toán ở Việt Nam trong năm 2004 là
Mía đắng - Đờng chua
Đến năm 2000 Việt Nam đã đạt đợc mục tiêu sản xuất một triệu tấn đờng.
Cái giá phải trả cho thành quả này là khoản lỗ 2. 048 tỷ đồng và 5 080 tỷ
đồng nợ gốc và lãi vay để đầu t của 36 nhà máy đờng (tính đến cuối năm
2002). Chơng trình một triệu tấn đờng đã để lại cho Việt Nam những bài
học cay đắng.
Tàu ở gần bờ, vốn trôi xa bờ
Chuyện mía đắng - đờng chua đang là một bài học nóng hổi về kiểu
đầu t theo phong trào, thì tiếp đến, chơng trình vay vốn u đãi đánh bắt hải
sản xa bờ đang làm cho chủ nợ nhức đầu vì khó có thể thu hồi nợ. Hai
chủ nợ là Quỹ hỗ trợ phát triển và Ngân hàng đầu t và phát triển đang
nhìn hơn 1 300 tỷ đồng của mình trôi xa khỏi bờ, còn những chiếc tàu
thì đang đắm ngay tại bờ hoăc không đủ sức đi xa.
Nguồn: Thời báo kinh tế Sài Gòn
7,6%, thấp hơn rất nhiều so với mức 12% của các doanh nghiệp tham gia thị tr-
ờng chứng khoán Trung Quốc và mức 24% của các doanh nghiệp tơng tự của ấn
Độ.
Giá bán của nhiều sản phẩm trong nớc cao hơn giá quốc tế. Đặc biệt là giá
điện, điện thoại, các cớc phí vận tải biển cao hơn hầu hết các nớc trong khu vực,
gấp đến 2- 3 lần nớc có mức giá trung bình trong khu vực. Hơn thế nữa, tốc độ

tăng trởng của GO (tổng giá trị sản xuất Gross output) khu vực công nghiệp
tăng bình quân 12 15%, trong khi giá trị gia tăng của khu vực này chỉ dới
10%. Điều này chứng tỏ nhiều ngành công nghiệp có giá trị gia tăng thấp.
Bảng 4: Tỷ lệ chi phí trung gian trong giá trị sản xuất (%)
1997 1998 1999 2000 2001 2002
Toàn bộ nền kinh
tế
48,76 47,83 47,75 50,35 51,57 52,1
Lĩnh vực công
nghiệp - xây dựng
65,16 63,76 62,30 63,90 64,58 65,12
Nguồn: TCTK. Số liệu Thống kê Tài khoản quốc gia thời kỳ 1995-2002
Sức cạnh tranh của nền kinh tế yếu. Theo báo cáo Cạnh tranh toàn cầu
năm 2004 của Diễn đàn Kinh tế Thế giới thứ hạng về năng lực cạnh tranh của
Việt Nam đã giảm 17 bậc so với năm 2003. Do chi phí sản xuất cao, năng suất
lao động thấp làm cho rất nhiều sản phẩm của các ngành không có khả năng
cạnh tranh trên thị trờng quốc tế.
Bảng 5: Xếp hạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam
1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004
Số nớc xếp hạng
53 53 59 75 80 102 104
Thứ hạng của Việt
Nam
39 48 53 60 65 60 77
Đứng trên (nớc)
14 5 6 15 15 42 27
Nguồn: Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF). Xếp hạng năng lực cạnh tranh hàng năm.
Nh vậy có thể khẳng định :
- Việt Nam luôn nằm ở nhóm nớc có năng lực cạnh tranh thấp của thế giới.
- Năng lực cạnh tranh của Việt Nam hầu nh không đợc cải thiện theo thời

gian, thậm chí còn xấu đi: số nớc tham gia xếp hạng càng tăng thì thứ
hạng cạnh tranh của Việt Nam càng bị tụt xuống. Đặc biệt chỉ số cạnh
tranh về công nghệ của Việt Nam đứng rất thấp, là một trong những nớc
bị xếp hạng gần áp chót.
- Năm 2004 là năm mà năng lực cạnh tranh của Việt Nam bị giảm nhiều
nhất 17 bậc, từ 60/ 102 nớc năm 2003 xuống 77/104, đồng thời các chỉ số
về năng lực cạnh tranh doanh nghiệp giảm 23 bậc, từ 50/92 xuống 73/98.
Chỉ số cạnh tranh của Việt Nam giảm sút là do kết quả thu đợc trong cuộc
khảo sát về mọi lĩnh vực đều kém so với trớc đây, trong đó yếu nhất là
việc ứng dụng công nghệ và chất lợng các tổ chức công.
Không những bị tụt hạng trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh quốc
gia Việt Nam còn bị tụt 7 bậc trong bảng xếp hạng sự giàu có của các quốc gia
đang phát triển do nhóm chuyên gia kinh tế WorldPaper phối hợp với Viện
nghiên cú các Vấn đề tiền tệ của Mỹ thực hiện về sự giàu có của các nớc đang
phát triển. Đây là một nghiên cứu đợc bắt đầu tiến hành vào những năm 1996
nhằm đo lờng mức độ giàu có của các quốc gia dựa trên ba nhóm tiêu chí về
môi trờng kinh tế, môi trờng trao đổi thông tin và môi trờng xã hội.
Mặc dù đây chỉ là những đánh giá của một số tổ chức nhng nó cũng thể
hiện một phần sự đánh giá của thế giới đối với kinh tế Việt Nam.
d. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch vẫn còn chậm cha phù hợp với yêu cầu
của thời kỳ mới.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm hơn dự kiến kể cả cơ cấu ngành, cơ cấu
lao động, cơ cấu công nghệ. Nhìn từ góc độ dài hạn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn chậm, quá trình chuyển dịch cơ
cấu cha diễn ra theo một quy hoạch chiến lợc tổng thể có tầm nhìn xa, với một
lộ trình hợp lý và đợc bảo đảm thực hiện nghiêm ngặt. Những năm qua là giai
đoạn diễn biến cơ cấu đợc định hớng bởi các quy hoạch mang tính cục bộ ngành
và địa phơng, nhằm phục vụ cho các lợi ích cục bộ và ngắn hạn, thậm chí mang
tính chụp giật. Chính vì thế, quy hoạch tổng thể thờng bị điều chỉnh, phá vỡ,
hiệu quả đầu t thấp, cơ cấu chuyển dịch không đúng yêu cầu thúc đẩy tăng trởng

cao bền vững và nâng cao sức cạnh tranh. Thực trạng cơ cấu ngành hiện nay
không có khả năng đáp ứng hiệu quả yêu cầu cải thiện năng lực cạnh tranh, thúc
đẩy CNH, HĐH rút ngắn và theo hớng từng bớc phát triển kinh tế tri thức nh
Đại hội IX đã xác định.
Nhìn rộng ra, đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu, có thể nói trong những
năm qua, chúng ta cha có những hành động thực tiễn mang tầm chiến lợc nhằm
tạo ra sự nhảy vọt cơ cấu và rút ngắn lộ trình tiến lên hiện đại của nền kinh tế.
Năm 2004 mặc dù có những khó khăn khách quan nhng ngành dịch vụ có
tốc độ phát triển tơng đối cao và đã có những tiến bộ vợt bậc so với các năm tr-
ớc. Tuy nhiên, ngành dịch vụ vẫn cha thực sự trở thành ngành mũi nhọn nh
Chính phủ đã xác định và cha phát triển theo hớng chất lợng cao.
Tất cả những điều nói trên phản ánh tầm nhìn cơ cấu hạn chế, nặng về hiện
vật và t duy chính sách ngành, cha theo kịp các các xu hớng công nghệ và quy
tắc phát triển hiện đại.
e. Sự chênh lẹch về thu nhập, mức sống giữa nông thôn và đô thị, giữa
miền núi và vùng đồng bằng, giữa các tầng lớn dân c, giữa vùng giàu và
vùng nghèo có xu hớng tiếp tục gia tăng.
Mặc dù, tăng trởng kinh tế cao đã làm cho tỷ lệ nghèo đói ở Việt Nam
giảm đáng kể trong thời gian qua. Tuy nhiên, nếu theo chuẩn nghèo quốc tế 1
USD thì tỷ lệ nghèo của Việt Nam vẫn đang ở mức cao (29%), còn nếu theo ng-
ỡng 2 USD thì tỷ lệ nghèo còn đến 56%. Hơn thế nữa còn khoảng 5 10 %
dân số Việt Nam vẫn nằm trong tình trạng dễ bị rơi vào tình trạng nghèo. Ngời
nghèo còn gặp nhiều hạn chế trong việc tiếp cận và hởng thụ các dịch vụ xã hội
cơ bản. Khả năng tiếp cận các dịch vụ, lợi ích của tăng trởng và thành quả do sự
phát triển mang lại cho mọi công dân một cách khách qua và công bằng cha
cao.
Khoảng cách giàu nghèo và phân tầng xã hội có xu hớng gia tăng. Mức thu
nhập của 20% dân số giàu nhất so với mức thu nhập của 20% dân số nghèo nhất
đã tăng từ 4,97 lần năm 1993 lên 6,03 lần năm 2002. Bảng 5 cho thấy xu hớng
bất bình đẳng gia tăng liên tục, mặc dù chỉ ở tốc độ khiêm tốn. Tỷ trong chi tiêu

của 80% nghèo nhất trong dân số giảm dần theo thời gian trong khi tỷ trọng đó
của nhóm giàu nhất lại tăng lên. Sự phân hoá này hoàn toàn trùng khớp với sự
phân hoá thành thị và nông thôn ở Việt Nam, vì gần 80% dân số Việt nam vẫn
sống ở nông thôn và 20% sống ở thành thị. Mặc dù ở Việt Nam vẫn ở vào hàng
các nớc có phân phối tơng đối bình đẳng, nhng Hệ số GINI cũng cho ta thấy bất
bình đẳng cũng có xu hớng tăng dần.
Bảng 6: Chi tiêu theo các ngũ phân vị trong dân số và hệ số GINI ở
Việt Nam
Phần trăm hoặc tỷ
lệ
1993 1998 2002
Nghèo nhất
Gần nghèo nhất
Trung bình
Gần giàu nhất
Giàu nhất
8,4
12,3
16,0
21,5
41,8
8,2
11,9
15,5
21,2
43,3
7,8
11,2
14,6
20,6

45,9
Tổng cộng 100 100 100
Giàu nhất/ nghèo nhất 4,97 5,49 6,03
Hệ số GINI 0,34 0,35 0,37
Nguồn: Tổng cục thống kê
f. Sự phát triển trong gần 20 năm qua của Việt Nam mang trong mình
những hiểm hoạ ô nhiễm môi trờng sinh thái.
Do chú trọng vào tăng trởng kinh tế ít chú ý tới bảo vệ môi trờng, nên hiện
tợng khai thác bừa bãi và sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên, gây nên suy
thoái môi trờng và làm mất cân đối các hệ sinh thái đang diễn ra phổ biến.
Những tiềm ẩn này đang bắt đầu bộc lộ mà bằng chứng là những trận lụt lớn th-
ờng xảy ra ở miền Trung và Nam bộ. Hạn hán cũng đe doạ tới cuộc sống của
nhiều ngời dân ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Quá trình đô thị hoá tăng
nhanh kéo theo sự khai thác quá mức nguồn nớc ngầm, ô nhiễm nguồn nớc mặt,
không khí và ứ đọng chất thải rắn. Đặc biệt, các khu vực đa dạng sinh học, rừng,
môi trờng biển và ven biển cha đợc chú ý bảo vệ và ngày càng bị khai thác kiệt
quệ.Tuy các hoạt động bảo vệ môi trờng đã có những tiến bộ đáng kể, nhng mức
độ ô nhiễm, sự suy thoái và suy giảm chất lợng môi trờng vẫn tiếp tục gia tăng.
Môi trờng xấu đi ảnh hởng rất lớn đến sản xuất và sức khoẻ của con ngời.
Đặc biệt ảnh hởng rất lớn đến cuộc sống của ngời nghèo, bởi vì những ngời
nghèo sống ở những vùng có điều kiện xấu hơn và họ dễ bị tổn thơng hơn.
Các mục tiêu xã hội (giảm đói nghèo, tạo điều kiện phát triển nền tảng cho
các vùng và các tầng lớp dân c nghèo, tăng quyền chủ động cho cấp cơ sở, v.v.)
vẫn đợc giữ vững theo định hớng XHCN. Đã có những tiến bộ đáng kể trong
việc thể hiện tính nghiêm minh của chế độ (đa ra xét xử công khai nhiều vụ án
lớn), củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nớc.
Song, nhiều vấn đề xã hội cha đợc quan tâm giải quyết, trở nên gay gắt
hơn, cụ thể nh:
- Tốc độ giảm nghèo chậm lại nhng thiếu giải pháp cụ thể và đa dạng để
xử lý số hộ nghèo còn tồn đọng và tình trạng tái nghèo; mức độ phân hoá giàu

nghèo giữa các vùng, giữa các tầng lớp dân c tăng nhanh.
- Tính minh bạch và công khai chính sách thấp; bất bình đảng xã hội ở một
số địa phơng tăng và lan rộng do kỷ cơng không nghiêm, đặc biệt ở một số vùng
nông thôn, vùng núi làm cho lòng tin của dân vào cán bộ, vào hiệu lực của bộ
máy công quyền suy giảm.
- Các tệ nạn và tiêu cực xã hội (mại dâm, ma tuý, bạo lực, tham nhũng, hối
lộ, các loại gian lận) lan rộng, cha đợc ngăn chặn có hiệu quả.
- Các cú sốc do quá trình CNH, HĐH và tăng trởng nhanh gây ra nh ô
nhiễm môi trờng, tắc nghẽn giao thông đô thị, cấp thoát nớc đô thị, v.v.
- Môi trờng tự nhiên bị xuống cấp nhanh.
IV. Những rào cản đối với việc nâng cao chất l-
ợng tăng trởng
1. Các yếu tố của cơ chế cũ mà điển hình là trục tam giác: xin cho -
độc quyền doanh nghiệp nhà nớc - bảo hộ nhà nớc vẫn chi phối quá trình
phân phối nguồn lực trong khu vực kinh tế chủ đạo - kinh tế nhà nớc làm
cho việc phân phối và sử dụng các nguồn lực không hiệu quả.
Trong thời gian qua một số yếu tố cơ bản của cơ chế kinh tế cũ nh bao
cấp, độc quyền và bảo hộ có xu hớng phục hồi trở lại và diễn ra còn mạnh hơn
trong những năm gần đây.
Về bao cấp:
Gia tăng trên cả 2 mặt - bao cấp vốn và bao cấp chức năng. Thông qua chủ
trơng kích cầu, nhiều DNNN yếu kém, làm ăn thua lỗ, đáng lẽ phải bị giải thể
thì lại đợc tiếp sức cứu nguy. Nhà nớc cung cấp vốn theo các điều kiện u đãi cho
nhiều DNNN, bao gồm cả các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Đồng thời,
khối lợng nợ xấu khổng lồ của các DNNN đợc khoanh, giãn và xoá cơ
bản chỉ bằng những thao tác hành chính đơn giản. Những con số mà Thủ tớng
Phan Văn Khải đã nêu tại hội nghị về sắp xếp đổi mới DNNN minh chứng cho
điều này: mới khoanh nợ, xoá nợ cho DNNN 18 000 tỷ đồng năm nay, qua năm
sau đã thấy 18 000 19 000 tỷ đồng nợ xấu khác. Kết cục là nền kinh tế phải
chịu một khoản chi phí rất lớn để làm sạch tạm thời bảng quyết toán của các

ngân hàng thơng mại nhà nớc và tiếp tục duy trì hàng ngàn DNNN hoạt động
kém hiệu quả.
Trong vấn đề bao cấp vốn, đáng chú ý là mục tiêu, cơ chế và phơng thức
hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển. Nguồn tiền nhà nớc từ Quỹ này cấp cho
các chơng trình quốc gia u tiên là rất lớn. Tuy nhiên, không ít chơng trình đã
thất bại (ví dụ chơng trình mía đờng, chơng trình phát triển đánh bắt hải sản xa
bờ) hay nhẹ hơn, chỉ đạt hiệu quả rất thấp (nhiều dự án giao thông ở tất cả các
cấp, thuỷ lợi ở Tây Nguyên, các chơng trình 135, 327).
Sai lầm ở đây có nguồn gốc từ bản thân cơ chế. Thứ nhất, tuy gọi là các ch-
ơng trình u tiên, song chúng lại mang tính đại trà, đợc trải trên một diện rất
rộng, quy mô rất lớn, bao gồm hàng trăm, hàng ngàn dự án. Vì vậy, nói chung,
các dự án này không đợc luận chứng và thẩm định kỹ càng trong quá trình
hoạch định; không thể kiểm soát, giám sát chặt chẽ khi triển khai. Thứ hai,
trong nhiều trờng hợp cụ thể, quyết định cấp vốn đơn thuần chỉ là để thực hiện
một chủ trơng đã đợc thông qua về nguyên tắc. Quy trình phê duyệt vì thế, dựa
trên những cân nhắc chính trị và mang tính thủ tục hành chính hơn là dựa trên
các nguyên tắc và mục tiêu kinh tế dài hạn. Mà đây thờng là những dự án rất
lớn, số vốn đầu t lên tới hàng trăm triệu USD.
Nh vậy là do cách làm (theo phong trào hoặc xem nhẹ các nguyên tắc kinh
tế) nên khi sai là đồng loạt, thất bại và thiệt hại là mang tầm quốc gia. Và một
khi thiệt hại đã mang tính đồng loạt thì việc lợi dụng tình thế để "tát nớc theo m-
a" nhằm chiếm dụng vốn nhà nớc đã cấp dễ vợt ra khỏi tầm kiểm soát của luật
pháp.
Chi tiêu cho các dự án công nói chung, trong đó, có một luồng rất lớn đi
qua Quỹ Hỗ trợ Phát triển, là một trong những nguồn gốc trực tiếp và quan
trọng nhất của nạn tham nhũng, hối lộ ở nớc ta hiện nay. Trong bối cảnh không
có một cơ chế giám sát tốt, hoạt động triển khai dự án lại dựa chủ yếu vào
nguyên tắc hành chính chứ không phải là nguyên tắc kinh tế, nguyên tắc thị tr-
ờng, khi nguyên tắc tiền đầu t phải đợc hoàn trả lại đủ cho ngời đầu t (là nhà n-
ớc) trên thực tế đợc ngầm hiểu không phải là một nguyên tắc bắt buộc thì số dự

án công càng tăng, nạn tham nhũng và hối lộ càng nghiêm trọng, càng trở thành
một tất yếu không kiểm soát đợc. Đây là một thực tế đang diễn ra trong nền
kinh tế Việt Nam. Sự bùng nổ các vụ án tham nhũng, hối lộ lớn trong mấy năm
gần đây (chắc chỉ là phần nổi rất nhỏ của tảng băng tham nhũng và chi tiêu vô
tội vạ tiền bạc của nhà nớc, của nhân dân) chứng tỏ điều đó.
Việc gia tăng số dự án công gắn liền với hiện tợng tăng bao cấp chức năng
của nhà nớc. Nhà nớc vẫn ôm đồm nhiều việc liên quan đến phát triển mà thị tr-
ờng và doanh nghiệp có thể đảm nhiệm tốt hơn (các dự án đầu t phát triển). Việc
quy hoạch phát triển quá chi tiết, đến từng sản phẩm, với địa chỉ, thời gian, quy
mô cụ thể do nhà nớc thực hiện trong điều kiện cơ chế thị trờng là không thích
hợp. Trong trờng hợp này, nhà nớc đã ôm đồm chức năng định hớng kinh doanh
của thị trờng, của cạnh tranh. Điều này giải thích tại sao các dự án phát triển
theo chơng trình nh chơng trình mía đờng đã bị thất bại.
Thanh hoá: 77% công trình xây dựng miền núi bị móc ruột
Kết qủa thanh tra 103 công trình xây dựng cơ bản ở miền núi trên địa bàn tỉnh và 6 dự
án cho thấy tổng số tiền bị chiếm đoạt, thất thoát, lãng phí lên tới hơn 9,66 tỷ đồng.
Tình trạng rút ruột các công trình phổ biến đến mức trong số 86 công trình thuộc Ch-
ơng trình 135 và Trung tâm cụm xã thì có 82 công trình sai phạm với số tiền gần 35 tỷ
đồng; 17 công trình thuỷ lợi thì 2 không phát huy hiệu quả, 5 mới đa vào sử dụng đã h
hỏng, 11 hạng mục thi công thiếu hụt khối lợng; 6 dự án giao thông thì 5 dự án ăn đứt
5,9 tỷ đồng. Tính ra, 77% công trình xây dựng miền núi sai phạm là một tỷ lệ quá lớn.

Tuổi trẻ. 1.10.02
Các dự án công chủ yếu đợc giao cho các DNNN thực hiện. Đây vừa là
cách tài trợ - bao cấp cho DNNN, vừa là sự bao cấp chức năng hiểu theo nghĩa
nhà nớc không cho các doanh nghiệp t nhân cơ hội tham gia vào các dự án phát
triển. Nguyên tắc đấu thầu dự án nhiều khi chỉ là hình thức, thậm chí bị bỏ qua.
Đấu thầu biến thành cuộc chạy dự án. Do vậy, cạnh tranh bị thu hẹp, trở nên
không công bằng. Kết cục là dự án không đợc giao cho những doanh nghiệp có
năng lực nhất làm cho chất lợng công trình thấp, chi phí cao, môi trờng đầu t bị

méo mó nghiêm trọng.
Về độc quyền:
Hiện nay, trong một số lĩnh vực, độc quyền nhà nớc bị biến thành độc
quyền của DNNN. Đại diện rõ nhất là độc quyền điện, nớc, hàng không, điện
thoại và viễn thông của các Tổng Công ty lớn của Nhà nớc. Việc lợi dụng độc
quyền nhà nớc, chuyển nó thành độc quyền doanh nghiệp đã làm méo mó
nghiêm trọng môi trờng kinh doanh. Xét trong chiến lợc tổng thể và dài hạn, sự
biến dạng độc quyền này gây ra những tổn thất lớn cho sự phát triển kinh tế.
Điều này thể hiện trên hai khía cạnh.
Thứ nhất, làm tăng các chi phí yếu tố đầu vào, dẫn tới suy yếu khả năng
cạnh tranh của tất cả các sản phẩm Việt Nam. Điển hình là: giá điện, giá vé máy
bay, cớc phí điện thoại và cớc phí internet. Kết cục của điều này là lợi nhuận
của các doanh nghiệp độc quyền tăng lên. Ngân sách nhà nớc cũng có phần tăng
lên. Nhng ngợc lại, toàn bộ nền kinh tế bị thiệt về sức cạnh tranh, lợi nhuận của
hàng ngàn doanh nghiệp bị giảm. Trong phép tính tổng thể, Ngân sách nhà nớc
đã đánh đổi lợi ích dài hạn (bị thiệt hại lớn) để lấy lợi ích ngắn hạn (phần ngân
sách tăng lên do doanh nghiệp độc quyền mang lại).
Thứ hai, tạo nguy cơ hình thành nhóm lợi ích độc quyền có thế lực mạnh
và khả năng chi phối, định hớng chính sách rất lớn. Khi những nhóm này định
hình và liên kết với nhau thì tạo ra khả năng chính sách bị thao túng và hớng vào
việc phục vụ cho lợi ích của họ. Trong nền kinh tế nớc ta hiện nay, xu hớng này
đang bộc lộ rõ dần. Tuy cách tác động, biểu hiện của lợi ích nhóm là rất kín
đáo, khó nhận biết và phát hiện, song vẫn có thể định dạng đợc, ví dụ nh lợi ích
nhóm thay thế nhập khẩu; lợi ích nhóm hớng về xuất khẩu; lợi ích nhóm theo
ngành, theo sản phẩm (lợi ích độc quyền ngành). Có thể dễ dàng nhận thấy
phạm vi độc quyền kinh doanh ở Việt Nam rông hơn các độc quyền tự nhiên
ở các quốc gia khác rất nhiều. Một số tỉnh xuất hiện độc quyền địa phơng, độc
quyền cục bộ nh tỉnh đó chỉ đợc dùng bia hoặc xi măng của doanh nghiệp Nhà
nớc của tỉnh đó sản xuất dẫn đến những biến dạng nghiêm trong trên thị trờng.
Đây là vấn đề rất báo động hiện nay, cần đợc Đảng, Nhà nớc và Chính phủ tập

trung theo dõi, nghiên cứu để có giải pháp giải quyết kịp thời.
Về bảo hộ
Có đủ căn cứ để nói rằng trong hàng chục năm qua, sự phát triển của nền
kinh tế nói chung, của công nghiệp nói riêng có đợc là nhờ một phần quan trọng
ở sự bảo hộ của Nhà nớc. Đây là một sự thật cần đợc làm sáng tỏ, đặc biệt là
trong bối cảnh của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra rất nhanh
hiện nay.
Trên thực tế, sự phát triển mạnh hơn của các ngành công nghiệp thay thế
nhập khẩu (kể cả trong khu vực có vốn đầu t nớc ngoài) đợc dẫn dắt bởi ý thức
bảo hộ phát triển của nhà nớc. Trong thời gian qua chúng ta vẫn tập trung phát
triển một cơ cấu ngành thiên về hớng nội và thay thế nhập khẩu, làm cho những
yếu kém cơ cấu nội tại do định hớng đầu t của hơn 10 năm đổi mới trớc đó gây
ra đã không đợc khắc phục mà còn trở nên trầm trọng hơn. Hậu quả là hiện nay,
chúng ta đang tồn tại một cơ cấu công nghiệp có năng lực cạnh tranh rất thấp.
Mặc dù vấn đề này đã đợc cảnh báo từ một số năm trớc, song định hớng
đầu t và định hớng chính sách của nhà nớc trong những năm trở lại đây vẫn
không thay đổi. Những dự án đầu t phát triển các sản phẩm hớng nội giá thành
cao, sức cạnh tranh thấp vẫn đợc tiếp tục triển khai. Chiến lợc phát triển xi
măng, thép xây dựng là những ví dụ đắt giá. Kết cục là để duy trì sự sinh tồn của
những doanh nghiệp này, để cho vốn đầu t hàng chục, hàng trăm ngàn tỷ đồng
không bị đổ xuống sông xuống biển, Chính phủ buộc phải giữ lấy con đê bảo
hộ. Khi đó, sẽ hình thành một vòng luẩn quẩn: đầu t hớng nội - tăng bảo hộ -
sức cạnh tranh yếu - tăng bảo hộ - tăng đầu t. Điều này đã dẫn tới tình thế bế tắc
về giải pháp chính sách hiện nay, khi đất nớc thực sự bớc vào hội nhập.
Trong tổng thể cơ chế, phải thấy rằng 3 yếu tố bao cấp, độc quyền và bảo
hộ có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, dựa vào nhau tồn tại và củng cố cơ chế đó.
Sự gắn kết chặt chẽ này là nguồn gốc sâu xa của tham nhũng, hối lộ, của việc
định hớng chiến lợc và chính sách bị thiên lệch sang phía phục vụ lợi ích nhóm
chứ không phải phục vụ lợi ích của nền kinh tế. Nó tạo thành trở lực lớn nhất
của quá trình đổi mới theo hớng thị trờng và xung đột với nỗ lực hội nhập và

đua tranh phát triển quốc tế. Do vậy, cần phải có một quyết tâm mới rất mạnh,
từ những cấp cao nhất, nhằm phá bỏ toàn bộ cấu trúc tam giác này chứ không
phải là từng yếu tố đơn lẻ. Nếu không nh vậy, các nỗ lực tiếp tục đổi mới và hội
nhập sẽ khó đạt đợc.
2. Phát triển các thể chế thị trờng không đồng bộ, không theo logic hệ
thống; vẫn cân đo nhiều trên lợi ích cục bộ của các DNNN chứ cha thực sự
hớng tới việc tạo môi trờng kinh doanh bình đẳng.
Sau 15 năm chuyển sang cơ chế kinh tế thị trờng, nhiều yếu tố thể chế thị
trờng nền tảng, cơ bản nhất vẫn cha đợc xây dựng. Hiện nay, cơ chế vận hành
của nền kinh tế ở nớc ta vẫn thiếu thị trờng một số yếu tố đầu vào chủ chốt nh
thị trờng đất đai, thị trờng lao động và những thể chế nền tảng cho sự vận hành
của thị trờng nh Luật Cạnh tranh, Luật Chống độc quyền, Luật Chống phá giá,
v.v. Đó là cha kể đến việc cha hiện diện hoặc hiện diện ở trình độ thấp của thị
trờng các sản phẩm khoa học - công nghệ, luật đấu thầu, v.v.
Trong khi đó, Chính phủ lại dành sự quan tâm nhiều hơn cho sự ra đời của
các thể chế thị trờng bậc cao mà thị trờng chứng khoán là một ví dụ. Cách xây
dựng thể chế nh vậy không đáp ứng đợc yêu cầu về bớc đi, trật tự logic của quá
trình hình thành hệ thống thể chế kinh tế thị trờng. Khi yếu tố cấu trúc cơ bản
của thị trờng là các công ty và các thị trờng tài chính nền tảng nh: thị trờng tiền
tệ, thị trờng vốn - và xa hơn là các thị trờng yếu tố sản xuất đầu vào khác nh thị
trờng đất đai, thị trờng lao động cha phát triển đủ mức, thì khó có thể nói đến sự
tồn tại bình thờng của thị trờng chứng khoán.
Đối với các thị trờng tài chính - tiền tệ truyền thống, tình hình cũng tơng
tự. Tình trạng các dòng vốn không thể lu thông bình thờng, các kênh tín dụng
hay bị tắc nghẽn, lợng nợ xấu tăng nhanh và mức độ rủi ro hệ thống cao trong
hoạt động ngân hàng bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân; trong đó, có một nguyên
nhân sơ đẳng nhng rất căn bản là cho đến nay, các quyền sở hữu đất đai vẫn cha
đợc quy định rõ ràng, thị trờng đất đai chính thức vẫn cha tồn tại để các quyền
sở hữu đó có thể vận hành bình thờng và có hiệu quả.
Nói rộng ra, nhìn trong lộ trình tổng thể, cách phát triển hệ thống thể chế

thị trờng của ta cha diễn ra theo đúng lộ trình khách quan, theo đúng trật tự bớc
đi tất yếu. Nó phản ánh sự nhận thức lý luận của chúng ta về quá trình hình
thành thể chế thị trờng cha đúng, không đủ sâu sắc, dẫn tới chỗ đa ra các quyết
sách hành động không phù hợp, có phần đảo lộn trật tự bớc đi tự nhiên. Đáng lẽ
phải xây dựng và phát triển đầy đủ các thị trờng hàng hoá và thị trờng yếu tố sản
xuất cơ bản (thị trờng bậc thấp, bao gồm thị trờng hàng hoá, thị trờng đất đai,
thị trờng lao động), trên cơ sở đó mới xây dựng các thị trờng bậc cao hơn (thị tr-
ờng tiền tệ, thị trờng chứng khoán, v.v.) thì quy trình của Việt Nam có phần ng-
ợc lại. Kết cục là mặc dù cố gắng rất lớn, hệ thống thể chế thị trờng đợc tạo ra
vẫn không thể đồng bộ, các thị trờng yếu tố trong đó không thể phối hợp vận
hành có hiệu quả.
3. Quá trình hoạch định chiến lợc, chính sách đang còn chậm và không
đồng bộ, có sự chồng chéo và hay thay đổi, nhìn chung cha phù hợp với cơ
chế mới. Quy hoạch phát triển vẫn duy trì phơng pháp cũ nên chất lợng
thấp, không đáp ứng đợc yêu cầu của thị trờng.
Việc ban hành các quy định, chính sách là đặc điểm phổ biến của bất kỳ
Nhà nớc hiện đại nào. Tuy nhiên thời gian gần đây có quá nhiều quy định, cho
dù với mục đích hay ý định tốt, nhng vẫn có thể gây thơng tổn cho nền kinh tế
và cản trở các hoạt động thơng mại, đầu t cũng nh nhiều hoạt động kinh doanh
khác. Rõ ràng quá trình hoạch định chiến lợc, chính sách ở Việt Nam còn quá
chậm và mất rất nhiều thời gian để bàn bạc và thảo luận. Chiến lợc quốc sách
hàng đầu đợc định ra nhng không đợc tập trung thực hiện. Nhiều chính sách khi
bắt tay vào thực hiện lại có sự chồng chéo giữa các bộ, ngành. Quy trình làm
chính sách cha minh bạch và môi trờng chính sách không dự đoán đợc là
nguyên nhân hàng đầu làm giảm chỉ số cạnh tranh của Việt Nam và làm nản
lòng các nhà đầu t. Đáng sợ hơn là việc các quy định đợc ban hành dựa theo lợi
ích của một nhóm đối tợng nào đó, thờng chính là doanh nghiệp nhà nớc do bộ
đó là cơ quan chủ quản, do vậy trong thời gian tới cần phải tách các DNNN khỏi
Bộ chủ quản.
Phó thủ tớng Vũ Khoan nói rằng ông đã từng là nạn nhân của sự thay đổi

chính sách liên quan đến ôtô, xe máy. Tôi sang Nhật thì bị đấu về xe máy,
sang Mỹ thì bị đấu về ôtô.
Môi trờng kinh doanh ở Việt Nam vẫn cha đợc cải thiện so với yêu cầu của
xu hớng hội nhập. Hệ thống các luật lệ, chính sách, quy định của Nhà nớc còn
rất phức tạp, chồng chéo. Chính sự phức tạp, không đồng bộ trong cơ chế chính
sách đã tạo thói quen đi đờng vòng cho đợc việc của các doanh nghiệp và đó
chính là tiền đề cho tệ nạn hối lộ, tham nhũng ngày càng tăng ở Việt Nam.
Công tác quy hoạch vẫn duy trì theo phơng pháp cũ vẫn nặng về hành
chính và kế hoạch hoá tập trung nên chất lợng thấp, không đáp ứng đợc yêu cầu
của thị trờng. Quy hoạch sai hoặc buông lỏng quản lý quy hoạch. Đây là một
trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả đầu t lớn nhất. Định hớng quy
hoạch u tiên phát triển quá mức các ngành thay thế nhập khẩu; hoặc đầu t theo
kiểu "hội chứng" đi ngợc lại nguyên tắc thị trờng. Đó là các phong trào đầu t
xây dựng các nhà máy xi măng lò đứng, nhà máy "bia", quy hoạch phát triển
vùng trồng mía và nhà máy đờng, hàng loạt cảng biển, khu công nghiệp ở rất
nhiều địa phơng. Kết quả là cung vợt quá cầu, hàng hoá không tiêu thụ đợc, giá
Xoá bỏ độc quyền viễn thông - đến lúc phải làm!
Mặc dù Thủ tớng Phan Văn Khải đã nhiều lần yêu cầu chấm dứt độc quyền trong lĩnh
vực bu chính viễn thông, nhng kết quả của cuộc khả sát của d Dự án nâng cao năng lực
cạnh tranh Việt Nam, Viện quản lý kinh tế trung ơng và Trung tâm T vấn công nghệ và
đầu t Viebid cho thấy Tổng công ty Bu chính viễn thông còn lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trờng và nếu không có những cải thiện tích cực thì sẽ không tạo đợc sự cạnh tranh
lành mạnh.
Theo kết quả cuộc khảo sát cho đến 9 2004, VNPT chiếm tới 97% thị phần, có mặt ở
hầu hết các hoạt động và loại hình dịch vụ viễn thông Việc hai mạng điện thoại
Vinaphone và MobiFone không thu phí kết nối khi các thuê bao của họ gọi cho nhau mà
chỉ phân chia doanh thu khiến các doanh nghiệp mới tham gia thị trờng gặp khó khăn rất
lớn khi cạnh tranh về giá.
Khảo sát của dự án trên cho thấy, thủ tục cấp giấy phép cũng nh quá trình cấp phép để
doanh nghiệp tham gia thị trờng bu chính viễn thông còn rờm ra, nhiêu khê, khiến doanh

nghiệp khó tiên lợng. Từ đó, không thể đặt câu hỏi: phải chăng cơ quan quản lý nhà nớc
về bu chính viễn thông vẫn bảo vệ sự độc quyền của VNPT? Thực tế cho thấy làm
sao có sự bình đẳng khi VNPT vẫn quản lý hoàn toàn hệ thống đờng trục quốc gia và các
doanh nghiệp khác nh Viettel, SPT phải ký sinh vào mạng của VNPT! .
Thời báo kinh tế Sài gòn số 47- 2004.
cả rớt, dẫn tới vòng luẩn quẩn trong việc tăng nợ quá hạn của ngân hàng, làm
suy yếu hệ thống tài chính; nhà nớc thì tiếp tục đầu t tập trung vào các ngành
thay thế nhập khẩu trong khi thu nhập của ngời lao động lại chậm đợc cải thiện,
dẫn tới chỗ chênh lệch ngày càng tăng.
Mặc dù các báo cáo của Chính Phủ khẳng định trong thời gian qua đã có
nhiều nhiều văn bản hạn chế tình trạng quy hoạch sai và thất thoát trong xây
dựng cơ bản, tuy nhiên các dự án đầu t từ ngân sách nhà nớc trong thời gian
2001 đến nay vẫn không ngừng gia tăng từ 6. 942 dự án năm 2001 lên 7.614
năm 2002, 10 .596 năm 2003 và 12.355 dự án trong năm 2004. Với 12.355 dự
án đợc triển khai liệu có bộ máy nào có thể kiểm tra tất cả các dự án này đợc.
4. Bộ máy nhà nớc cồng kềnh, sự yếu kém về hiệu lực và hiệu quả của
công tác quản lý nhà nớc, tình trạng tham nhũng, lạm dụng công quyền vì
mục đích trục lợi cá nhân ngày càng gia tăng.
Bộ máy nhà nớc còn quá cồng kềnh, hoạt động còn thiếu hiệu quả. Một số
bộ, ngành, địa phơng chấp hành không nghiêm pháp luật và pháp lệnh của nhà
nớc nên cha phát huy đợc sức mạnh tổng thể của nhân dân và các thành phần
kinh tế để phát triển kinh tế - xã hội. Sự yếu kém về hiệu lực và hiệu quả của
công tác quản lý nhà nớc, tình trạng tham nhũng, lạm dụng công quyền vì mục
Lãng phí quy hoạch
Nhiều chuyên gia nớc ngoài đã không khỏi ngạc nhiên khi thấy rằng ở đất nớc có
tới gần 80% là nông dân với thu nhập hàng năm trên dới 500 USD / ngời, tổng kim
ngạch xuất khẩu dới 30 tỷ USD Mỹ / năm mà lại có tới 110 cảng biển và 61 cảng
hàng không, sân bay. Đáng chú ý hơn là có nhiều cảng biển, sân bay đợc quy
hoạch xây dựng quá gần nhau đã hạn chế sự phát triển của nhau và lãng phí nguồn
lực của đất nớc. Cảng Hòn la (Quảng Bình) chỉ cách cảng Vũng áng 25 Km, cảng

Chân Mây (Thừa thiên Huế cách cảng tiên Tiên Sa (Đà Nẵng 30 Km và cảng
Dung Quất cách cảng Kỳ Hà 10 Km. Sân Bay Quảng Bình vừa đợc khởi công xây
dựng , cũng nằm cách sân bay Phú Bài (Thừa Thiên _ Huế) không xa trong khi đi
đờng bộ chỉ mất vài giờ.
Nguồn: Thời Báo Kinh tế Sài gòn. 18/11/2004
đích trục lợi các nhân của một bộ phận cán bộ, công chức tồn tại từ nhiều năm
nay đã dẫn đến việc phân bổ sai nguồn lực, lãng phí và tác động xấu tới niềm tin
của xã hội và hiệu quả quản lý nhà nớc, và là trở lực lớn đối với việc nâng cao
chất lợng tăng trởng trong thời gian tới.
Tiến bộ trong cải cách hành chính còn hạn chế, cha tạo đợc bớc đột phá
mới. Cải cách hành chính tốn không ít tiền của nhng hiệu quả đem lại cho ngời
dân hoàn toàn không tơng xứng. Hơn thế nữa, cải cách hành chính cha gắn với
chống tham nhũng và cha đi vào những yếu kém cơ bản của bộ máy hành chính.
Việc thực hiện thí điểm mô hình một cửa vẫn cha có bớc đột biến và cha đợc
nhân rộng trên toàn quốc. Phẩm chất của một bộ phận cán bộ công chức, viên
chức còn thấp, thiếu tinh thần trách nhiệm, lại thiếu sự kiểm tra giám sát, nên
vẫn còn một bộ phận không nhỏ viên chức lợi dụng gây phiền hà, sách nhiễu,
khó khăn chậm chễ trong việc giải quyết các yêu cầu của dân, của doanh
nghiệp.
Tình trạng tham nhũng vẫn diễn ra phổ biến, thậm chí có nơi, có lĩnh vực
còn diễn nghiêm trọng hơn trớc. Chính Thủ tớng Phan Văn Khải đã phát biểu
Cái h hỏng, đồi bại chính từ sự thoái hoá (quan liêu, tham nhũng, ham chức
Nỗi lo canh cánh
Bộ máy của chúng ta h hỏng, đó là điều tôi luôn canh cánh trong lòng Thủ t-
ớng Phan Văn Khải đã nói nh vậy vào ngày cuối của hội nghị gặp gỡ doanh
nghiệp hôm 14 10.
Chỉ cần nhìn lại những vụ tham nhũng gần đây khiến d luận xã hội cực kỳ bức
xúc nh vụ tham nhũng ở Vụ xuất nhập khẩu Bộ Thơng mại liên quan đến đờng
dây chạy hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may đi Mỹ, vụ tham nhũng ở Tổng công
ty Dầu khí Việt Nam, vụ Lã Thị Kim Oanh, Vụ Lơng Quốc Dũng cũng đủ thấy

rằng những nhận định của Thủ tớng Phan Văn KhảI là hoàn toàn chính xác, và
hoạ có bịt mắt mới không thấy điều đó.
Vấn đề đặt ra là vì sao biết rằng bộ máy h hỏng mà chúng ta, dù đã nói nhiều,
vẫn cha làm đợc mấy để hạn chế, ngăn ngừa tiêu cực, tham nhũng.
Ngời dân chờ đợị và cũng lo canh cánh, vì mỗi ngày qua đi lại thêm tài
sản quốc gia, tài sản của ngời dân, của doanh nghiệp chảy vào túi tham nhũng
hoặc thất thoát, lãng phí. Ngời dân còn phải chờ đợi bao lâu nữa?
Thời báo kinh tế Sài Gòn số 43 2004 .

×