Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Về quá trình xây dựng Chiến lược phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.94 KB, 12 trang )

Về quá trình xây dựng Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội ở Việt Nam
Prof. KENICHI OHNO, Ph.D
GRIPS - Tokyo
BBT - Giáo sư Kenichi Ohno hiện đang làm việc tại Viện Quốc gia sau đại học về
Nghiên cứu chính sách (National Graduate Institute for Policy Studies - GRIPS) ở
Tokyo (Nhật Bản). Ông nhận học vị Ph.D về kinh tế học tại trường Stanford
University (Mỹ) tháng 6-1987 và bắt đầu giảng dạy tại Viện GRIPS từ tháng 10-1997.
Lĩnh vực chuyên môn đi sâu của ông là tài chính quốc tế và kinh tế học phát triển. Là
người rất quan tâm đến Việt Nam, từ năm 1995, ông thường xuyên sang Việt Nam và
tham gia nhiều hoạt động đa dạng, đặc biệt là tư vấn trong lĩnh vực chính sách phát
triển. Từ năm 2004, ông trở thành Đồng Giám đốc Diễn đàn Phát triển Việt Nam
(VDF), được thành lập trong khuôn khổ Dự án hợp tác nghiên cứu giữa Trường Đại
học Kinh tế Quốc dân Hà Nội và Viện GRIPS, với nguồn tài trợ của Chính phủ Nhật
Bản.
Như chính lời ông nói, Việt Nam là nơi ông gắn bó phần lớn thời gian và nhận thấy
rằng mình nên sống ở đây, nhưng sau một thời gian dài nghiên cứu kinh tế Việt
Nam,"đến bây giờ có thể kết luận rằng đất nước các bạn mới chỉ huy động được một
phần nhỏ trong tiềm năng lớn lao của mình. Vì vậy, đổi mới chính sách là cần thiết để
giải phóng sức phát triển của Việt Nam".
Theo thư mời của TS. Lê Đình Ân, Giám đốc Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh
tế - xã hội Quốc gia, GS. Ohno đã nhận lời tham gia góp ý về ý tưởng xây dựng Chiến
lược phát triển của Việt Nam thời kỳ 2011-2020, song do hạn chế về qũy thời gian cá
nhân, ông không có điều kiện viết bài riêng về chủ đề này. Thay vào đó, ông đã gửi tới
Trung tâm một bản đề cương ngắn và một số nghiên cứu từ trước của ông.
Tạp chí Thông tin và Dự báo Kinh tế - xã hội xin trân trọng giới thiệu bản dịch tóm
tắt và tổng thuật từ các tài liệu đó để bạn đọc cùng tham khảo.
1. Nét đặc thù riêng có trong quá trình phát triển của các nước Đông Á: chính
sách đúng vượt lên trên mọi tiền đề
(1)
Từ sau Chiến tranh Thế giới II, nhiều nước Đông Á có những bước phát triển hết


sức ngoạn mục, mà để mô tả nhiều người trên thế giới đã sử dụng danh từ "thần kỳ
kinh tế" và các mỹ từ khác. Song về nguyên nhân dẫn đến những thần kỳ này và bản
chất của chúng lại có những ý kiến rất khác nhau. So sánh với các khu vực khác không
có được những kết quả tương tự, không ít người, kể cả các tổ chức tài trợ quốc tế, đã
lầm tưởng cho rằng Đông Á có những thuận lợi hơn nơi khác về điều kiện tự nhiên
hay lịch sử, về vị trí địa - chính trị hay thậm chí về tôn giáo. Trong bối cảnh đó, việc
tìm hiểu, phân tích sâu các kinh nghiệm Đông Á có lẽ sẽ rất hữu ích, nhất là đối với
những nước đi sau, những người chuẩn bị bước vào giai đoạn tăng trưởng mạnh.
Xét một cách công bằng, thì đúng là ở nơi này hay nơi khác, các nước Đông Á cũng
có một số tài nguyên thiên nhiên với trữ lượng không nhỏ; Đông Á nói chung có lực
lượng lao động dồi dào, người dân cần cù, siêng năng và sống nhẫn nhịn theo tinh thần
của đạo Khổng. Nhưng đánh giá tổng quát, thì không thể nói là Đông Á thuận lợi hơn,
càng không thể nói là ngay từ đầu Đông Á đã có ưu thế vượt trội. Vùng đất này
thường xuyên phải gánh chịu thiên tai khắc nghiệt và không cần kể cuộc Chiến tranh
Thế giới II, từ đó tới nay, ở đây cũng đã xảy ra nhiều biến cố chính trị - quân sự khốc
liệt. Trong khi đó, theo số liệu thống kê lịch sử, thì vào thập niên 1950, châu Phi đã
từng có thu nhập bình quân đầu người cao hơn Đông Á. Trung Quốc nay là công
xưởng khổng lồ của thế giới, nhưng đã từng bị chìm đắm trong cảnh lộn xộn cả về
chính trị và kinh tế trong phần lớn thời gian của những thập niên 1950, 60 và 70.
Chiến tranh lạnh đã biến bán đảo Triều Tiên và Đông Dương thành những vùng đất
nóng, còn đến nay căng thẳng vẫn kéo dài trên eo biển Đài Loan; tất cả những điều đó
đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế chính trị của cả khu vực. Cuối thập niên
1950, Hàn Quốc bị đánh giá là một "cơ thể bất lực" dưới sự điều khiển của một vị lãnh
đạo kém cỏi với nạn tham nhũng lan tràn. Gần đây hơn, tăng trưởng bị gián đoạn bởi
nhiều sự kiện như "cú sốc dầu lửa" trong thập niên 1970, "thời kỳ bị đánh mất" của
Nhật Bản vào những năm 1980 và khủng hoảng tài chính châu Á giai đoạn 1997-1998.
Vì thế, khó có thể cho rằng Đông Á tăng trưởng nhanh là nhờ khu vực này có hòa bình
và ổn định, hay rằng khu vực này được thừa hưởng những điều kiện kinh tế tốt hơn so
với vùng cận Xahara ở châu Phi. Tất nhiên, để có được thành công của mình, chắc
chắn Đông Á phải có những nét đặc thù riêng, trong đó nổi bật nhất là thực tế rằng

chính yếu tố chính sách, chứ không phải bối cảnh bên ngoài, là cái đã làm nên sự khác
biệt cơ bản. Chính sách đúng sẽ vượt lên trên mọi tiền đề cho trước, mọi yếu tố định
sẵn.
Trong quá trình phát triển vừa qua, các nước Đông Á, kể cả Nhật Bản, chưa bao giờ
dựa hoàn toàn vào nguyên tắc thị trường tự do, mà trái lại, đều lấy vai trò của Chính
phủ và chính sách phát triển đúng đắn làm trụ cột. Thực tế lịch sử cho thấy, những
nước nào không làm như thế, hoặc làm không đầy đủ, đều không thật sự thành công.
Đến nay, có thể vẫn còn những đánh giá khác nhau về phạm vi, mức độ, đối tượng và
công cụ tác động của chính sách của Chính phủ (vả lại, ở mỗi quốc gia những nội dung
này lại cần được thể hiện khác nhau), nhưng về cơ bản, có thể thấy nội dung "chính
sách đúng" của các nước Đông Á thể hiện trên các khía cạnh chủ yếu sau đây.
Trước hết, đó là chính sách đề cao tinh thần dân tộc, động viên người dân quyết
tâm vượt qua đói nghèo. Tại hầu hết các quốc gia Đông Á, cả chính phủ và người dân
đều không coi giảm nghèo là mục đích tự thân, mà lấy tăng trưởng làm mục tiêu tối
thượng. Thực ra điều này hiện nay cũng đã được rộng rãi thừa nhận, vì rõ ràng là
người ta không thể giảm nghèo chỉ bằng cách dịch chuyển vòng quanh các nguồn lực
hiện có (nghĩa là khá hạn chế), từ chỗ này sang chỗ khác, mà điều quan trọng hơn
nhiều là làm cho các nguồn lực đó ngày càng gia tăng. Trên thực tế, đối với các nước
Đông Á, giảm nghèo chỉ là một mục tiêu nhỏ; các quốc gia này lúc nào cũng theo đuổi
mục tiêu tham vọng hơn nhằm nâng cao rõ rệt kỹ năng, công nghệ, sức cạnh tranh và
mức sống để đứng vào hàng ngũ các quốc gia tiên tiến và xác lập một vị thế xứng đáng
trong nền kinh tế thế giới. Ai đó đã từng nói Đông Á phát triển thành công chủ yếu
dựa trên yếu tố con người; nếu điều này là đúng, thì có lẽ nó thể hiện chính là ở đây,
tức là ở chỗ thông qua các chính sách đúng đắn, Nhà nước đã phát huy được ý chí
vươn lên và tiềm năng của từng con người, chứ không phải ở chỗ dân cư Đông Á đông
hơn và siêng năng hơn.
Thứ hai, đó là sự kết hợp chính sách tăng trưởng và chính sách bổ trợ một cách hài
hòa. Một khi đất nước bắt đầu có mức tăng trưởng cao, thay đổi về mặt xã hội là điều
không tránh khỏi. Điều này liên quan đến mọi khía cạnh của đời sống xã hội, từ tâm
lý, thái độ đối với lao động và giải trí, cuộc sống gia đình, quan hệ cộng đồng đến các

vấn đề về đô thị hóa, di dân, giao thông, môi trường, văn hóa Ở đây, chính sách tăng
2
trưởng được hiểu là bao gồm những biện pháp có tác dụng kích hoạt và duy trì động
lực của hoạt động đầu tư, kinh doanh, nhất là của khu vực tư nhân, như: cung cấp
những dự báo, chiến lược và kế hoạch mang tính định hướng, phát triển nguồn nhân
lực, công nghệ, hạ tầng cơ sở, thúc đẩy các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thu hút FDI,
cung cấp tài chính, trợ cấp
(2)
Còn các chính sách bổ trợ
(3)
là một tập hợp các biện
pháp nhằm giải quyết những vấn đề khó khăn đi liền với sự tăng trưởng nhanh, như:
gia tăng bất bình đẳng, ô nhiễm, đô thị hóa, dịch chuyển lao động, bong bóng tài sản,
tham nhũng, ma túy, HIV/AIDS, tâm lý quá coi trọng vật chất và sự suy giảm của các
giá trị và tập quán truyền thống Chính sách tăng trưởng là sơ cấp (cái đi trước) và
chính sách bổ trợ là thứ cấp (cái đi sau) theo nghĩa cái đi sau góp phần hoàn thiện cái
đi trước, bằng việc khắc phục những vấn đề phát sinh do sự tiến hành thành công cái
đi trước. Phát triển không thể duy trì được nếu cả chính sách tăng trưởng lẫn chính
sách bổ trợ không được triển khai một cách hiệu quả. Đương nhiên, những chi tiết cần
thiết của các chính sách này là khác nhau giữa các nước, vì vậy, chúng phải được thiết
kế và thực hiện một cách hết sức thận trọng sao cho phù hợp với nhu cầu thực tế của
từng quốc gia. Ở Đông Á, chỉ những nước nào biết cách xoay xở để làm được điều đó
một cách hoàn hảo, có thể nhiều ít khác nhau tùy từng nơi, mới đạt được các kết quả
thần kỳ về kinh tế.
Thứ ba, đó là xây dựng nhà nước đủ năng lực làm chủ quá trình phát triển. Để thoát
khỏi tình trạng nghèo khó và bắt đầu tăng trưởng, phần lớn các quốc gia Đông Á đã
thiết lập mô hình nhà nước phát triển độc đoán
(4)
(thực chất đây là một nhà nước ít
nhiều mang tính độc tài, nhưng có năng lực cao trong quản lý kinh tế). Trong các

thành phần của nhà nước như vậy, yếu tố "nhà lãnh đạo có đủ quyền lực và tinh thông
về kinh tế" [2] là thành phần thiết yếu, vì các điều kiện khác, nếu chưa tồn tại, đều có
thể được tạo ra bởi một nhà lãnh đạo tài ba. Nhà lãnh đạo phải là người mạnh mẽ,
đồng thời có tri thức kinh tế. Vị này cần có một tri giác sắc bén để nhận biết cái gì là
có lợi nhằm thúc đẩy tăng trưởng. Không nhất thiết phải có học vị cao, nhưng trực giác
để lựa chọn các chính sách đúng đắn và sử dụng, bổ nhiệm những chuyên gia giỏi là
vô cùng quan trọng.
Trong lịch sử Đông Á mấy chục năm gần đây, không phải chế độ độc tài nào và
không phải nhà độc tài nào cũng thành công, nhưng thực tế cho thấy rằng những giai
đoạn thành công nhất của các nước đều là khi có nhà độc tài với những năng lực đặc
biệt cầm quyền. Luận cứ cơ bản ở đây là để một đất nước có thể "cất cánh" về mặt
kinh tế từ một xuất phát điểm thấp đòi hỏi huy động nguồn lực to lớn và nhanh chóng.
Muốn thành công, nhà lãnh đạo độc tài phải có những chính sách phù hợp để thúc đẩy
được "vòng tròn huyền diệu"
(5)
giữa tăng trưởng kinh tế và ổn định chính trị. Hình vẽ
dưới đây trình bày hình thái chính sách phát triển mang tính hỗn hợp được vận dụng
rất phổ biến ở các nước Đông Á thành công.
Cuối cùng và đặc biệt nhất, đó là sự liên kết khu vực. Đành rằng trong bối cảnh toàn
cầu hóa ngày nay, có một sự thật đã được thừa nhận rộng rãi gần như chân lý rằng, đối
với các nước đi sau, phát triển là để liên kết và liên kết là để phát triển - các quá trình
này tuy hai mà là một, không tách rời. Quá trình phát triển được đặc trưng bởi dòng
chảy vào liên tục từ nước ngoài của các sản phẩm, ý tưởng, công nghệ và hệ thống.
Chúng được mang đến thông qua các kênh tư nhân hay thông qua sáng kiến chính sách
của Chính phủ, kể cả theo yêu cầu của các nhà tài trợ và các tổ chức quốc tế.
Song, nét đặc thù của Đông Á là mối quan hệ phát triển - liên kết này có một hình
thái rất riêng biệt. Có thể khẳng định rằng, tăng trưởng của Đông Á đạt được chính là
3
nhờ sự tồn tại của bản thân khu vực này với tư cách như một không gian dành cho sự
tương tác kinh tế giữa các thành viên. Người trước người sau, các nước trong khu vực

ở những giai đoạn phát triển khác nhau đã khởi đầu quá trình tăng trưởng kinh tế của
mình chính bằng việc trực tiếp tham gia vào mạng lưới sản xuất khu vực. Quá trình
công nghiệp hóa ở đây đã diễn ra một mặt thông qua sự lan rộng theo địa lý (từ nước
này sang nước khác) và mặt khác nhờ sự đào sâu về cấu trúc trong từng quốc gia. Hình
ảnh "đàn sếu bay" được sử dụng chính là nhằm mô tả những động thái có tính hệ
thống đó. Để hiểu cơ chế này, việc đánh giá chính sách của từng quốc gia là không đủ;
cần phân tích Đông Á như một tổng thể, với cơ cấu sản xuất, thương mại nội vùng và
các dòng vốn luân chuyển. Không một khu vực các nước đang phát triển nào khác trên
thế giới tạo lập được một sự phụ thuộc lẫn nhau mang tính hữu cơ và năng động như ở
Đông Á. Nếu muốn "sao chép" cơ chế đó sang khu vực khác mà không tính đến đặc
điểm này, thì khó thành công và cũng tức là chưa hiểu Đông Á.
Chính sách hỗn hợp của Đông Á
2. Việt Nam và con đường công nghiệp hóa
Từ mấy năm trước, Việt Nam đã tuyên bố mục tiêu gia nhập hàng ngũ những quốc
gia công nghiệp vào năm 2020, nhưng việc định nghĩa cho trường hợp của mình thế
nào là một nước công nghiệp lại chưa rõ ràng. Nay chắc đã đến lúc Việt Nam phải xác
định rõ hơn chương trình hành động của mình. Điều này sẽ cải thiện chất lượng của
việc xây dựng chính sách phát triển, nhất là phát triển công nghiệp, đồng thời góp
phần làm giảm tính bất ổn - yếu tố lâu nay đã khiến các doanh nghiệp và cộng đồng
còn e ngại, chưa an tâm đầu tư, kinh doanh.
Tuy nhiên, câu hỏi "thế nào là một nước công nghiệp" cần được trả lời một cách
thực tiễn, chứ không phải theo lối lý thuyết, nhằm tránh gây ra hiểu lầm và để có thể
xây dựng được một con đường hiệu quả đi tới đích mong muốn. Hơn thế nữa, ngay cả
việc định nghĩa thuần túy lý thuyết về một quốc gia công nghiệp cũng không dễ dàng.
Thực ra, không có sự cắt nghĩa rõ ràng nào về các thuộc tính cần có của một quốc gia
công nghiệp, cũng như về điểm kết thúc của quá trình công nghiệp hóa. Đối với Việt
Nam, nhiệm vụ mang tính chiến lược và thiết thực lúc này là làm thế nào để thực hiện
các mục tiêu quốc gia nhằm thúc đẩy sự phát triển. Mục tiêu quốc gia phải thể hiện
tham vọng, nhưng cũng phải thực tế để có thể đạt được bằng những nỗ lực cao nhất.
4

Tăng trưởng kinh tế
Chính sách tăng trưởng
Các vấn đề xã hội mới phát sinh
(bất bình đẳng, tội phạm, ô nhiễm )
Ổn định chính trị
Được kiềm chế
Chính sách bổ trợ
Sau vài thập kỷ
Tiến tới một xã hội dân chủ và thịnh vượng hơn
(Ví dụ: Hàn Quốc, Đài Loan)
Nó cần phản ánh được thực trạng nền kinh tế Việt Nam cũng như nền kinh tế toàn cầu.
Nếu mục tiêu đặt ra là khó thực hiện, nó sẽ không còn ý nghĩa và làm mất đi lòng tin.
Chúng tôi đề xuất cách suy nghĩ về công nghiệp hóa ở Việt Nam như sau.
Trước hết, không nên đặt ra mục tiêu quá cao cho năm 2020. Trong vòng 12 năm
nữa, Việt Nam chưa thể trở thành một nền kinh tế công nghiệp tầm cỡ như Hoa Kỳ,
EU hay Nhật Bản. Trong khoảng thời gian đó, Việt Nam có lẽ cũng khó có thể bằng
Đài Loan hoặc Hàn Quốc - những nước hiện nay đã không chỉ sản xuất ra một lượng
sản phẩm lớn mà còn rất ít cần sự trợ giúp của nước ngoài (xem bảng xếp hạng dưới
đây). Mục tiêu của Việt Nam cho năm 2020 nên ở mức vừa phải. Đây phải là quá trình
công nghiệp hóa dựa trên các ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động có kỹ năng,
những ngành phải từng bước vươn tới vị trí là một bộ phận của quá trình sản xuất toàn
cầu. Đối với Việt Nam, mục tiêu cho năm 2020 là trở thành một quốc gia công
nghiệp mới nổi với một số ngành sản xuất có vai trò đầu đàn trên thị trường thế giới,
chứ chưa phải là một quốc gia công nghiệp hóa hoàn toàn.
Công nghiệp hóa không nên đo lường bằng con số tuyệt đối về thu nhập bình quân
đầu người. Đương nhiên, tăng trưởng thu nhập là một dấu hiệu quan trọng của sự phát
triển thành công, song thu nhập bình quân đầu người chỉ nên coi là một chỉ số mang
tính biểu thị, chứ không phải là mục tiêu chủ yếu. Không có bất kỳ một lý thuyết nào
nói về mức thu nhập tương ứng với một quốc gia công nghiệp. Điều quan trọng hơn ở
đây là bảo đảm sao cho mức thu nhập đó tiếp tục tăng trưởng nhanh chóng với một tốc

độ phản ánh đúng tiềm năng tăng trưởng của đất nước. Muốn vậy, cần xem xét nhiều
yếu tố trên một diện rộng hơn.
Theo các nhà nghiên cứu lịch sử kinh tế thế giới, công nghiệp hóa thường được xác
định là quá trình thỏa mãn những điều kiện sau:
• Khả năng duy trì - các ngành sản xuất tăng trưởng liên tục với tốc độ cao (thường
ở mức hai con số trong nhiều năm).
• Mức đóng góp cho tăng trưởng chung - các ngành sản xuất là những nhân tố đóng
góp lớn nhất vào tăng trưởng GDP.
• Sự thay đổi về cơ cấu - cơ cấu của các ngành công nghiệp sản xuất dịch chuyển
đều đặn từ quá trình đơn giản sang quá trình phức tạp hơn, đáp ứng những đòi hỏi về
công nghệ cao.
Tuy nhiên, đây thực chất mới chỉ là định nghĩa về quá trình công nghiệp hóa, về
một nước đang công nghiệp hóa (industrializing country), chứ không phải về một nước
công nghiệp hóa (industrialized country). Về nước công nghiệp hóa, chúng ta cần có
một định nghĩa mới. Đối với trường hợp Việt Nam, chúng tôi xin đưa ra 5 yếu tố sau
đây, trong đó đặc biệt nhấn mạnh quá trình liên kết với khu vực Đông Á năng động.
▪ Thu nhập tương đối - Việt Nam sẽ gia nhập nhóm các nước thành công ở Đông Á
với mức thu nhập tương đương với nhóm nước trung bình của khu vực (Trung Quốc
và ASEAN4, bao gồm Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia và Philípin). Hiện nay, Việt
Nam còn nằm trong số các nước có thu nhập thấp nhất khu vực Đông Á, chứ chưa
thuộc nhóm thu nhập trung bình.
▪ Cơ cấu xuất khẩu - hàng chế tác chiếm ít nhất là 75% khối lượng xuất khẩu. Điều
này có nghĩa là Việt Nam sẽ không còn xuất khẩu hàng sơ chế nữa, mà đã chuyển
mạnh sang xuất khẩu hàng chế tác.
▪ Một số ngành công nghiệp chế tác chất lượng cao có vị trí đầu đàn - đất nước sẽ
chiếm lĩnh được vị trí đầu đàn trên thị trường toàn cầu ít nhất trong một vài sản phẩm
hoặc quy trình sản xuất chế tác có chất lượng cao. Điều này đòi hỏi phải có sự tích tụ
5
sản xuất đủ cho phép Việt Nam trở thành một trong những nhà xuất khẩu lớn nhất thế
giới về những sản phẩm đó. Hơn nữa, quá trình này phải được thực hiện bằng chất

lượng và danh tiếng của hàng hóa, chứ không phải bằng số lượng khổng lồ với mức
giá và chất lượng thấp. Để làm được như vậy, vấn đề có ý nghĩa then chốt là huy động
tối đa tiềm năng của người lao động Việt Nam. Việt Nam có tiềm năng rất lớn về lao
động chất lượng cao, thậm chí là tiềm năng thuộc hạng lớn nhất Đông Á, nhưng chưa
được tận dụng một cách đầy đủ.
▪ Xây dựng các ngành công nghiệp phụ trợ - phát triển các ngành phụ trợ (linh phụ
kiện và vật liệu) phục vụ những ngành chế tác đầu đàn nói trên sẽ làm tăng nhanh tỷ lệ
nội địa hóa. Đối với một số ngành quan trọng như dệt may, điện tử, xe máy, mục tiêu
nội địa hóa cần được xác định dựa trên ý kiến của các nhà sản xuất trong nước và nhà
đầu tư nước ngoài và cần được cập nhật định kỳ. Tuy nhiên, nội địa hóa 100% không
phải là điều đáng mong đợi trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và phân công lao động quốc
tế sâu rộng hiện nay. Việt Nam nên thiết lập một mạng lưới sản xuất có liên kết khu
vực với miền Nam Trung Quốc và các địa bàn khác của ASEAN, trong đó xuất khẩu
một số linh phụ kiện cho họ và nhập khẩu một số đầu vào của họ. Mức độ nội địa hóa
tối ưu phải được xác định trên quan điểm chiến lược.
▪ Quốc tế hóa các dịch vụ hỗ trợ - đào tạo để có đủ lao động có kỹ năng ở trong
nước tham gia vào các ngành sản xuất chất lượng cao và không còn phụ thuộc nhiều
vào người nước ngoài nữa. Ít nhất 70% số lao động có kỹ năng phải sẵn có trong nước,
chỉ những lao động với yêu cầu kỹ năng đặc biệt (chẳng hạn như quản lý sản xuất,
thiết kế sản phẩm, tiếp thị toàn cầu, ) mới phải tìm kiếm ở nước ngoài.
Trên cơ sở trình độ tiếp thu kỹ thuật, có thể phân biệt các nấc thang của quá trình
công nghiệp hóa như trong Bảng 1 dưới đây [3]. Công nghiệp hóa ở các nước đang
phát triển thường bắt đầu từ nấc 1 với các quy trình công nghệ đơn giản, do nước
ngoài thiết lập. Tại nấc này, phần lớn đầu vào được nhập khẩu. Tới nấc 2, khi sản
lượng lắp ráp trong nước đạt mức đủ lớn, các ngành công nghiệp phụ trợ sẽ phát triển
(do các nhà cung cấp địa phương hoặc do các nhà cung cấp có vốn đầu tư nước ngoài).
Tuy nhiên, việc sản xuất vẫn phụ thuộc nhiều vào công nghệ và quản lý của nước
ngoài. Tại nấc 3, năng lực quản lý và công nghệ cũng được nội địa hóa và sự lệ thuộc
nước ngoài giảm đáng kể. Cuối cùng, tại nấc 4, quốc gia đạt được khả năng sáng tạo ra
các sản phẩm mới và dẫn dắt sự phát triển công nghiệp trên bình diện toàn cầu.

Bảng 1. Các nấc thang của quá trình công nghiệp hóa
Trình độ Đặc điểm Ví dụ xếp hạng quốc gia
<Nấc 1>
Chỉ lắp ráp
Không có các ngành phụ trợ. Phụ thuộc nặng
nề vào công nghệ và quản lý của nước ngoài.
Việt Nam
<Nấc 2>
Lắp ráp và sản
xuất linh kiện
Có các ngành công nghiệp phụ trợ quan trọng.
Vẫn phụ thuộc nặng nề vào công nghệ và
quản lý của nước ngoài.
Thái Lan, Malaixia,
(Trung Quốc)
<Nấc 3>
Năng lực nội
địa cao
Công nghệ và quản lý phần lớn được nội địa
hóa. Có thể sản xuất các sản phẩm chất lượng
cao, nhưng chưa thể đi đầu trong đổi mới
hoặc thiết kế sản phẩm.
Hàn Quốc, Đài Loan
<Nấc 4>
Đầy đủ năng
Trang bị đầy đủ năng lực nội địa, bao gồm cả
Nhật Bản, Hoa Kỳ, EU
6
lực đổi mới
việc đổi mới và thiết kế sản phẩm với vị trí

hàng đầu về công nghệ.
Tiêu chí xếp hạng ở đây liên quan đến sự tồn tại của (i) các ngành công nghiệp phụ
trợ; (ii) năng lực công nghệ và quản lý; và (iii) năng lực đổi mới, thiết kế sản phẩm,
theo mức độ khó tăng dần.
Tiến bước trên các nấc thang này là việc làm không hề dễ dàng đối với hầu hết các
nước đang phát triển. Ngay cả tại Đông Á, nơi công nghiệp hóa được cho là rất thành
công, thì cũng chỉ có Đài Loan và Hàn Quốc là đạt được nấc 3. Hiện tại, chưa một
quốc gia nào trong ASEAN phá vỡ được rào chắn giữa nấc 2 và nấc 3; như thể có một
cái "trần thủy tinh" [3] vô hình ngăn cản các nước ASEAN vượt lên cao hơn mức đó.
Trung Quốc có thể sẽ có khả năng nội địa hóa công nghệ trong tương lai, song xuất
khẩu hiện tại của họ còn phụ thuộc nhiều vào công nghệ và linh kiện nước ngoài.
Đến đây, con đường công nghiệp hóa của Việt Nam có lẽ đã có thể được hình dung.
Có một thực tế lịch sử là đối với các nước đi sau ở Đông Á, phát triển đã - và đang - có
nghĩa là "nhảy vào tham gia mạng lưới sản xuất khu vực và trở thành một mắt xích
năng động quan trọng của mạng lưới ấy" [2]. Bây giờ còn quá sớm để nói rằng liệu
Việt Nam có thể vượt qua cái "trần thủy tinh" trên kia hay không. Việt Nam vẫn đang
ở nấc 1 và con đường tiếp theo là tiến lên nấc 2. Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, Việt
Nam có một lợi thế trong dài hạn, mà các nước ASEAN khác không có, đó là lực
lượng lao động - cần cù, kiên nhẫn, khéo léo và có kỹ năng cao. Nếu lợi thế này được
kết hợp với việc cải tiến mạnh mẽ chính sách và công tác quản lý, đặc biệt là công tác
quản trị doanh nghiệp, Việt Nam sẽ có khả năng trở thành quốc gia đầu tiên trong
ASEAN vươn tới được nấc 3. Trong khi mục tiêu hiện tại đang là thu hút tối đa FDI,
Việt Nam cũng cần bắt đầu đẩy mạnh việc tiếp thu và tích lũy kỹ thuật
(6)
để chuẩn bị
cho những nấc thang phát triển tiếp theo.
Vấn đề lớn còn lại là lựa chọn cách đi phù hợp cho từng nhóm ngành công nghiệp.
Đối với nhóm ngành lắp ráp (điện và điện tử, xe máy và ô tô, cùng với việc sản xuất
linh phụ kiện cho các ngành này), chúng tôi muốn đề xuất lựa chọn phương thức "sản
xuất tích hợp" [4]; còn đối với những nhóm ngành khác cần có các nghiên cứu riêng.

Tiếp cận theo lý thuyết kiến trúc kinh doanh (business architecture), GS. Takahiro
Fujimoto của Trường Đại học Tokyo cho rằng, các nước ASEAN, đặc biệt là Thái Lan
và Việt Nam, phải làm chủ được quá trình sản xuất tích hợp, chứ không nên bắt chước
quá trình sản xuất theo mô-đun
(7)
kiểu Trung Quốc. Trong quá trình sản xuất tích hợp,
các linh kiện được thiết kế riêng rẽ cho từng sản phẩm và cần được điều chỉnh đồng
thời cho đến khi đạt độ chuẩn mực cao. Ngược lại, trong quá trình sản xuất theo mô-
đun, tất cả linh kiện được lắp ghép với nhau theo nhiều cách nhằm làm ra những sản
phẩm trong thời gian ngắn. Đối với các nước đang phát triển, sản xuất theo mô-đun sẽ
dễ dàng hơn, nhưng đi liền với nó là những hạn chế như lượng cung ứng quá mức, giá
sản phẩm bị hạ xuống, lợi nhuận thấp và thiếu động lực để cải tiến công nghệ. Các đặc
điểm chủ yếu của hai phương thức được trình bày trong Bảng 2 dưới đây.
Bảng 2. Sản xuất theo mô-đun và sản xuất tích hợp
Sản xuất theo mô-đun Sản xuất tích hợp
Giao diện
linh phụ kiện
Linh phụ kiện sản xuất đại trà và có
thể dùng cho mọi loại sản phẩm
Mỗi sản phẩm có linh phụ kiện
riêng, đặc biệt trong khâu thiết kế
7
Điểm mạnh Sản xuất nhanh và linh hoạt Không ngừng nâng cao chất lượng
Điểm yếu Không tạo sự khác biệt, quá nhiều
nhà cung cấp, lợi nhuận thấp, yếu về
nghiên cứu và phát triển (R&D)
Mất nhiều thời gian và sức lực để
đạt được kết quả như ý muốn
Yêu cầu về
tổ chức

Mở, quyết định nhanh, huy động
nguồn lực bên ngoài một cách linh
hoạt
Quan hệ lâu dài, xây dựng kỹ năng
và kiến thức mang tính nội bộ
3. Việt Nam cần thay đổi phương pháp xây dựng Chiến lược phát triển cho thời
kỳ mới
Từ sự phân tích tiến trình lịch sử gần đây và khung cảnh đương đại của khu vực
Đông Á, từ ý tưởng lựa chọn con đường công nghiệp hóa trình bày ở trên, câu hỏi đặt
ra tiếp theo là Việt Nam nên và phải xây dựng Chiến lược phát triển cho thời kỳ mới
như thế nào? Điều dễ thấy là với tình hình trong nước và bối cảnh bên ngoài đã có
những chuyển động mạnh mẽ theo nhiều chiều trong mấy thập niên vừa qua, việc xây
dựng chiến lược phát triển của Việt Nam sẽ phải thay đổi nhiều. Những thay đổi này
sẽ phải tiến hành cả trong phương pháp tiếp cận, quy trình soạn thảo và trong bản thân
nội dung của Chiến lược. Bởi lẽ mặc dù đã trải qua hai kỳ xây dựng và thực thi chiến
lược phát triển, cho tới nay, trong chính sách phát triển của Việt Nam, nhất là chính
sách phát triển công nghiệp, vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém, và nếu không có những
thay đổi cơ bản, thì mong ước lớn lao có một vị trí tương xứng trong đội hình "đàn sếu
bay" sẽ khó có thể thành hiện thực.
Sau các chuyến nghiên cứu, khảo sát về phương pháp xây dựng chính sách, do dự
án VDF tiến hành ở Thái Lan, Malaixia và Nhật Bản, chúng tôi nhận ra rằng "Việt
Nam đang bị tụt hậu quá xa so với họ trong việc hoạch định chính sách công nghiệp và
Việt Nam còn phải học hỏi rất nhiều từ kinh nghiệm của các quốc gia này" [4]. Có thể
nói, phương pháp hoạch định chính sách hiện nay của Việt Nam mới chỉ đang ở giai
đoạn ban đầu, còn rất nguyên sơ, có nhiều thiếu sót và còn chịu nhiều ảnh hưởng rơi
rớt lại từ thời kế hoạch hóa tập trung.
Về sự thiếu phối hợp giữa các bộ, ngành và thiếu hợp tác giữa các nhà hoạch định
chính sách và các bên liên quan, bao gồm cả những đối tượng chịu tác động và những
người được hưởng lợi từ chính sách, cũng như về một số biểu hiện yếu kém khác, đã
được nói đến nhiều trên các diễn đàn khác nhau và bản thân các nhà lãnh đạo Việt

Nam, kể cả lãnh đạo cấp cao, cũng đã thấy rõ. Tại đây, chúng tôi chỉ muốn nhấn mạnh
tình trạng thiếu thông tin trong quá trình hoạch định chính sách, trong đó lưu ý thêm
một vài điểm về bối cảnh quốc tế và khu vực mà ở Việt Nam có thể chưa được nhìn
nhận một cách đầy đủ.
Vì nhiều lý do, trong đó có sự thiếu phối hợp với các bên liên quan, thông tin mà
các nhà hoạch định chính sách Việt Nam có được thường không đầy đủ, thiếu chính
xác và không cập nhật. Hệ quả hiển nhiên là không thể xây dựng được một chính sách
tốt trên nền tảng những thông tin không được cập nhật như vậy.
Tương tự như tình hình ở Trung Quốc, mặc dù Việt Nam đạt được tốc độ tăng
trưởng khá cao trong những năm gần đây, nhưng theo đánh giá của các chuyên gia
quốc tế, đóng góp thực sự của Chính phủ là không lớn, mà tăng trưởng đó có được chủ
yếu là nhờ tính năng động và sự bùng nổ (tới mức khó kiểm soát) của khu vực tư nhân,
trong đó có khu vực FDI [2]. Những đóng góp của Chính phủ chỉ xoay quanh việc "cởi
8
trói" cho khu vực tư nhân bằng những biện pháp ít nhiều mang tính tình thế và thực
dụng; cải cách các thiết chế cho phù hợp với những thách thức mới; xây dựng cơ sở hạ
tầng, năng lượng (nhưng thường là muộn màng) Cũng có thể như vậy đã là một
thành tựu lớn về mặt chính sách, nhưng rõ ràng là ít hơn nhiều so với những gì mà các
chính phủ Đông Á khác đã làm được trong những giai đoạn tăng trưởng nhanh trước
đây của họ
(8)
.
Vừa qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực và có những cam kết mạnh mẽ trong quá
trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, và không ai nghi ngờ về tính nghiêm túc
của các cam kết đó. Tuy nhiên, chỉ với những chuẩn bị về ngoại giao và pháp chế như
vậy là chưa đủ. Để Việt Nam thực sự được hưởng lợi từ quá trình hội nhập quốc tế,
khu vực sản xuất - kinh doanh cũng phải được chuẩn bị. Các doanh nghiệp Việt Nam
cần có đủ năng lực cạnh tranh để không những "trụ lại" được mà thậm chí còn phát
triển khởi sắc trong môi trường mở cửa mới, nơi việc bảo hộ thông qua nhập khẩu và
các đặc quyền khác về nguyên tắc sẽ không còn được phép sử dụng nữa. Đây chính là

lĩnh vực mà sự chuẩn bị của Việt Nam hiện tỏ ra yếu nhất. Hơn thế nữa, việc chuẩn bị
cả từ phía các doanh nghiệp lẫn các cơ quan chính phủ lại còn bộc lộ nhiều lúng túng.
Trước hết, vấn đề ở đây là xác định cụ thể, loại chính sách nào là cần thiết? Thời
buổi kế hoạch hóa theo lối truyền thống đã qua rồi. Việt Nam không thể dùng cơ chế
quản lý cứng nhắc và tách biệt với thế giới được nữa. Chiến lược thúc đẩy "ngành
công nghiệp non trẻ" mà Nhật Bản và Hàn Quốc áp dụng trong thời gian đầu sau chiến
tranh cũng đã nằm ngoài diện thảo luận. Theo chiến lược này, các ngành công nghiệp
trong nước được bảo hộ và nuôi dưỡng cho tới khi đủ sức cạnh tranh. Do những cam
kết của mình đối với WTO và nhiều hiệp định thương mại tự do khác, từ nay, Việt
Nam không thể áp dụng sự bảo hộ như vậy.
Ngay cả chiến lược tăng trưởng dựa vào FDI, mà các nước ASEAN4 thực hiện
trong giai đoạn từ thập niên 1970 đến thập niên 1990 nay cũng không còn hoàn toàn
phù hợp đối với các nước đi sau như Việt Nam. Thời gian đó, mặc dù Malaixia, Thái
Lan, Inđônêxia và Philípin thu hút mạnh FDI, nhưng họ lại rất chậm chạp trong việc
loại bỏ các loại thuế, các hạn chế nhập khẩu và các yêu cầu về nội địa hóa. Tại những
nước này, khuyến khích FDI và bảo hộ công nghiệp trong nước đã cùng tồn tại song
song ít nhất là vài thập niên. Các rào cản đối với bên ngoài chỉ được loại bỏ sau khi họ
đã đạt được một mức độ tích tụ công nghiệp đáng kể. Còn Việt Nam lại phải loại bỏ
các rào cản và mở cửa ngay bây giờ [4], phải đối mặt với cạnh tranh toàn cầu trước
khi có được sự tích tụ đó.
Từ giữa thập niên 1990, trong bối cảnh khu vực và thế giới xuất hiện một yếu tố
mới, hết sức quan trọng, đó là sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc - một quốc gia
rộng lớn, đông dân với năng lực sản xuất công nghiệp được mở rộng nhanh chóng.
Thực tế này đặt ra cho các quốc gia, nhất là các nước trong khu vực, trong đó có Việt
Nam, đòi hỏi nghiên cứu điều chỉnh chiến lược phát triển của mình. Sẽ là không khôn
ngoan, nếu trực tiếp cạnh tranh với các sản phẩm của Trung Quốc trên thị trường thế
giới. Trái lại, mỗi quốc gia nên tìm cách "dị biệt hóa" sản phẩm của mình so với sản
phẩm của Trung Quốc để tạo ra cho mình một "thị trường ngách" và dưới dạng này
hay dạng khác trở thành đối tác sản xuất của Trung Quốc để tận dụng những yếu tố
đầu vào giá rẻ của nước này. Vận dụng phương thức sản xuất tích hợp, trình bày trong

mục 2, là một cách đi theo hướng đó.
Trong bối cảnh phức tạp với những cơ hội và thách thức đan xen, những yếu tố bất
định khó lường như vậy, chiến lược phát triển của Việt Nam chắc chắn sẽ phải đổi mới
9
một cách cơ bản, sẽ phải chứa đựng những nhân tố mạnh dạn hơn và khác biệt nhiều
so với chiến lược của các nước khác trong quá khứ. Chiến lược đó phải phản ánh được
thực tế là ngay cả những nước đi sau cũng cần mở cửa rất nhanh. Toàn cầu hóa là một
tất yếu khách quan và Việt Nam phải đặt mình vào vị trí của một tác nhân có trọng
lượng trên "sân chơi" toàn cầu, bảo đảm chắc chắn rằng đóng góp của mình đối với
Đông Á và thế giới sẽ tăng lên theo thời gian.
Từ tất cả những thông tin, đánh giá và phân tích trên đây, chúng tôi xin đề xuất một
số vấn đề về phương pháp luận và nội dung cần được tập trung nghiên cứu trong quá
trình xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ mới.
Phương pháp luận
Khó khăn chính đối với việc xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
Việt Nam hiện nay là chưa có chủ đề tập trung, chưa có tiêu điểm. Điều này bắt nguồn
từ chính quá trình soạn thảo, trong đó các bản dự thảo từ các cơ quan khác nhau được
tổng hợp lại mà không có sự sắp xếp ưu tiên. Điều tương tự đã xảy ra đối với Kế
hoạch 5 năm 2006-2010 và tôi đã nêu ý kiến đóng góp từ tháng 8/2005.
Để có định hướng chính sách rõ ràng, quá trình soạn thảo cần được cải tổ. Sau khi
nghe các ý tưởng ban đầu từ các chuyên gia và quan chức khác nhau, Văn phòng Thủ
tướng Chính phủ cần hình thành một nhóm nhỏ các cố vấn cao cấp để lựa chọn vấn đề.
Bản thân Thủ tướng cần trực tiếp "vào cuộc" và lãnh đạo quá trình lựa chọn này. Số
lượng các vấn đề then chốt được lựa chọn cuối cùng không nên quá nhiều (chỉ nên
xung quanh con số 10).
Sau khi các vấn đề then chốt được lựa chọn, đối với từng vấn đề cần thành lập một
tổ công tác đặc nhiệm làm việc trong thời gian khoảng 1 năm. Mỗi tổ công tác cần tiến
hành thu thập dữ liệu, đi sâu phân tích và đề xuất các hoạt động cụ thể. Các báo cáo
của họ cần được công bố cho công chúng, được tiến hành thảo luận trong các nhà
hoạch định chính sách và các đối tượng thụ hưởng cũng như liên quan. Về cơ bản, đây

chính là phương pháp đã được Nhóm công tác liên tịch về Công nghiệp xe máy
(9)
vận
dụng, khi dự thảo Quy hoạch tổng thể Công nghiệp xe máy trong thời gian 2006-2007.
Hình thức tổ công tác đặc nhiệm được sử dụng ở nhiều nước để hoạch định chính
sách, tuy không phải lúc nào những tổ này cũng thành công. Thành công phụ thuộc rất
nhiều vào (i) sự tham gia tích cực của bản thân ngài Thủ tướng; và (ii) việc lựa chọn
tốt các nhân sự trong nhóm cố vấn cao cấp cũng như trong chính các tổ đặc nhiệm.
Nội dung
Như đã trình bày chi tiết trong mục 1, các quốc gia thành công ở Đông Á đều đã
thực hiện một cách hiệu quả cả chính sách tăng trưởng và chính sách xã hội (còn được
gọi là chính sách bổ trợ). Cả hai loại chính sách đều cần thiết đối với sự ổn định chính
trị và tăng trưởng bền vững. Mọi chương trình, kế hoạch phát triển phải bao quát cả
hai lĩnh vực với những phân tích và chiến lược cụ thể.
Từ những phân tích ở trên về thực trạng phát triển của Việt Nam, bước đầu, chúng
tôi đề xuất các nội dung dưới đây là những vấn đề then chốt. Tất nhiên, cũng có thể
lựa chọn những nội dung và cách gộp nhóm khác.
Những vấn đề tăng trưởng:
(1) Lộ trình huy động tiết kiệm (các chiến lược tổng thể dài hạn để huy động phục
vụ mục tiêu phát triển các nguồn thu từ thuế, từ ngân hàng, trái phiếu, chứng
khoán, ODA, FDI, kiều hối, );
10
(2) Học hỏi và từng bước vận dụng phương thức sản xuất tích hợp - (i) nguồn
nhân lực công nghiệp, (ii) công nghiệp phụ trợ, và (iii) tiếp thị FDI mang tính
chiến lược;
(3) Chiến lược, tiến độ và nguồn vốn để xây dựng kết cấu hạ tầng quy mô lớn
(năng lượng và vận tải), bao gồm cả các quy trình thẩm định và giám sát;
(4) Nâng cấp lĩnh vực giáo dục và đào tạo;
(5) Chiến lược phát triển nông thôn, bao gồm cả các vấn đề về nông nghiệp, công
nghiệp hóa nông thôn và di dân trong nước giữa các vùng.

Những vấn đề xã hội:
(6) Chênh lệch thu nhập và tài sản;
(7) Đầu cơ đất đai và khó khăn trong tái định cư;
(8) Mạng lưới bảo hiểm và an sinh xã hội;
(9) Bảo vệ môi trường;
(10) Các khó khăn trong giao thông - ùn tắc và tai nạn.
Chú thích:
(1) Các tiêu đề do Ban Biên tập đặt. Các chú thích cũng do Ban Biên tập biên tập lại hoặc bổ sung.
(2) Một số biện pháp cũ như bảo hộ bằng thuế quan, hạn ngạch và cấm nhập khẩu, trợ cấp xuất khẩu,
yêu cầu nội địa hóa, yêu cầu cân đối ngoại tệ, nay đã không còn phù hợp trong khuôn khổ WTO.
Tuy nhiên, hiện vẫn còn nhiều biện pháp không vi phạm các quy định của WTO có thể được huy động
phục vụ cho việc xây dựng chính sách phát triển.
(3) Thuật ngữ "chính sách bổ trợ" (complementary/supplementary policies) được dùng theo tác giả Y.
Murakami (1994). Ông này phân biệt chính sách (phát triển) ngành và chính sách phân phối theo nghĩa
rộng. Theo ông, những chính sách phân phối thích hợp là những chính sách bao giờ cũng phải bổ
sung, hỗ trợ cho chính sách ngành, nhằm khắc phục những mặt tiêu cực của học thuyết phát triển. Ở
Việt Nam, danh từ tương đương được dùng phổ biến hiện nay là "chính sách xã hội".
(4) Thuật ngữ tiếng Anh được dùng ở đây là "authoritarian developmental state" hoặc gọn hơn
"authoriatarian developmentalism". Hình thức nhà nước này được áp dụng khá phổ biến ở các nước
Đông Á, nhưng vẫn được khẳng định chỉ là hình thức quá độ. Thực chất đây là mô hình nhà nước kỹ
trị (technocratic) cải biên, trong đó tính chất độc đoán thể hiện ở quyền lực tập trung của nhà lãnh đạo
và ở quy trình ra quyết định được rút ngắn. Những người ủng hộ mô hình này lập luận rằng, nếu có sự
tham gia về mặt chính trị của tất cả các nhóm xã hội liên quan và nếu tất cả các luật lệ và chính sách
đều phải được thảo luận kỹ tại nghị viện, thì sẽ mất quá nhiều thời gian; trong khi tại những giai đoạn
xuất phát ban đầu, nếu một số lượng lớn các chính sách không được thông qua một cách nhanh chóng
và đồng thời, đất nước không thể bắt đầu hoặc duy trì tăng trưởng.
(5) Trong kinh tế học, các học giả thường dùng hai hình ảnh tương phản về "vòng tròn huyền diệu"
(virtuous circle/cycle) và "vòng tròn luẩn quẩn" (vicious circle/cycle) để cùng mô tả những trạng thái
lặp đi lặp lại theo chu trình mà không đi đến điểm cân bằng của các yếu tố (hay đại lượng) có tác động
tương hỗ nhau, cái này kích hoạt cái kia. Sau mỗi vòng lặp, đại lượng thứ nhất (động lực của cả chu

trình) lại được tăng cường. Điểm khác nhau là vòng huyền diệu đưa đến kết quả có lợi, còn vòng luẩn
quẩn đưa đến kết quả bất lợi. Các vòng lặp sẽ tiếp diễn cho tới khi có một yếu tố ngoại sinh can thiệp
và chấm dứt cả chu trình.
(6) Để tiến từ nấc 1 lên nấc 2 đòi hỏi sự "tích tụ công nghiệp" (industrial agglomeration - cũng có thể
dịch là sự tập trung), từ nấc 2 lên nấc 3 đòi hỏi sự "tiếp thu và tích lũy kỹ thuật" (technical absorption -
cũng có thể dịch là sự hấp thụ), còn từ nấc 3 lên nấc 4 đòi hỏi sự sáng tạo. Trong khi nhiệm vụ trực
tiếp của Việt Nam hiện nay đang là tích tụ, thì vẫn phải chuẩn bị ngay cho việc tiếp thu và tích lũy. Bài
học của Thái Lan và Malaixia cho thấy, để làm được việc đó đòi hỏi những nỗ lực vượt bậc từ nhiều
phía. Chính phủ hai nước này đã nhận ra vấn đề yếu kém của mình ít nhất là hai thập kỷ, nhưng cho
đến nay vẫn chưa khắc phục được. Theo GS Ohno [4], nguyên nhân có thể bắt nguồn cả từ yếu tố con
người (ông đặt câu hỏi phải chăng những người Hàn Quốc và Đài Loan "bẩm sinh" đã có khả năng
làm việc trong môi trường sản xuất công nghệ cao), nhưng rõ ràng ở đây có cả vấn đề của chính sách
phát triển lẫn năng lực của các doanh nghiệp. Năng lực của các doanh nghiệp Thái Lan và Malaixia
hiện còn yếu nhiều so với những yêu cầu rất cao của các doanh nghiệp FDI Nhật Bản mà họ phải đáp
11
ứng. Các quốc gia này sẽ còn phải tăng cường năng lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo ra các
mối liên hệ giữa các doanh nghiệp đó, phát triển các kỹ năng công nghiệp, thúc đẩy hơn nữa các ngành
công nghiệp phụ trợ, tăng cường hoạt động R&D, đồng thời chú trọng phát triển nguồn nhân lực. Từ
việc nghiên cứu sâu hơn thực tiễn của cả 4 nước trên trong từng giai đoạn phát triển, chắc chắn Việt
Nam có thể học hỏi được nhiều điều.
(7) Phương thức sản xuất chế tác tích hợp (integral manufacturing) là một phát kiến của Nhật Bản sau
Chiến tranh Thế giới II, được áp dụng tại nhiều hãng công nghiệp của nước này, điển hình là tại công
ty Toyota trong sản xuất ô tô. Phương thức này thường được so sánh đối chiếu với phương thức sản
xuất chế tác theo mô-đun (modular manufacturing), mà Hoa Kỳ và ngành sản xuất máy tính là những
đại diện tiêu biểu.
(8) Ví dụ, Chính phủ Hàn Quốc đã hợp tác chặt chẽ với các chaebols và ngân hàng để giữ vai trò làm
cầu nối, làm chất xúc tác thúc đẩy việc phát triển các ngành công nghiệp thép, đóng tàu và ô tô. Ở
Nhật Bản thời Minh Trị (1868-1912), Chính phủ đã khuyến khích mạnh mẽ việc sản xuất thay thế
nhập khẩu trong các ngành vận tải biển, đóng tàu, kéo sợi, sản xuất thép, đầu máy và toa xe lửa, và
đưa ra kế hoạch 10 năm xây dựng hiến pháp và tổ chức nghị viện.

(9) GS. Ohno đã tham gia với tư cách thành viên chủ chốt trong Nhóm công tác xây dựng Quy hoạch
tổng thể Công nghiệp xe máy của Việt Nam. Bản dự thảo Quy hoạch đã qua nhiều vòng lấy ý kiến
đóng góp, hiện đang được hoàn chỉnh để trình lên Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1] K. Ohno (2007): On Socio-Economic Development Planning (Về kế hoạch hóa
phát triển kinh tế - xã hội). Draft (revised 02 June 2007).
[2] K. Ohno (2007): The East Asian Growth Regime and Political Development (Cơ
chế tăng trưởng và tiến trình chính trị ở Đông Á). Bài viết cho Hội nghị bàn tròn về
chủ đề "Kinh tế chính trị của sự phát triển bền vững", tổ chức tại trường Đại học
Thanh Hoa, Bắc Kinh, tháng 7/2007.
[3] K. Ohno (2004): Thiết kế một chiến lược phát triển công nghiệp toàn diện và
hiện thực. Chương 1 trong cuốn sách "Hoàn thiện chiến lược phát triển công nghiệp
Việt Nam" (K. Ohno và Nguyễn Văn Thường chủ biên). Diễn đàn Phát triển Việt
Nam. Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
[4] K. Ohno (2006): Sản xuất tích hợp: Hướng đi cho Việt Nam. Chương 1 trong
cuốn sách "Hoạch định chính sách công nghiệp ở Thái Lan, Malaysia và Nhật Bản:
Bài học kinh nghiệm cho các nhà hoạch định chính sách Việt Nam" (K. Ohno chủ
biên). Diễn đàn Phát triển Việt Nam. Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
Ngoài ra, Ban Biên tập đã tham khảo thêm các tài liệu trên website cá nhân của GS.
Ohno tại địa chỉ: và trên website của
Diễn đàn Phát triển Việt Nam tại địa chỉ: .
12

×