Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Luận văn thạc sỹ: Hoàn thiện nội dung và phương pháp phân tích báo cáo tài chính tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Quân đội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (777.32 KB, 109 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BH Bảo hiểm
DN Doanh nghiệp
DNBH Doanh nghiệp bảo hiểm
TNDN Thu nhập doanh nghiệp
BCTC Báo cáo tài chính
DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ
BẢNG
SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa các chỉ tiêu phản ánh suất sinh lời theo
phương pháp Dupont Error: Reference source not found
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ khái quát bộ máy quản lý hoạt động kinh doanh của Công
ty Cổ phần Bảo hiểm Quân đội Error: Reference source not
found
Sơ đồ 2.2: Mô hình tổ chức bộ máy kế toán của Công ty CPBH Quân đội
Error: Reference source not found
Sơ đồ 2.3: Trình tự ghi sổ kế toán theo hình thức chứng từ ghi sổ Error:
Reference source not found
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hệ thống báo cáo tài chính là những báo cáo tổng hợp nhất về tình hình tài
chính của doanh nghiệp, về kết quả kinh doanh của doanh nghiệp sau một chu kỳ
kinh doanh. Thông tin của hệ thống báo cáo tài chính không chỉ cần thiết cho các
nhà quản lý doanh nghiệp mà còn là sự quan tâm của các nhà đầu tư, cơ quan quản
lý nhà nước, người lao động, các đối thủ cạnh tranh… Do đó việc phân tích hệ
thống báo cáo tài chính là công cụ mang tính chất nghiệp vụ trợ giúp đắc lực cho
từng đối tượng quan tâm kể trên. Tuỳ từng đối tượng mà nội dung và phương pháp
phân tích khác nhau cho phù hợp với mục đích.


Công ty Cổ phần Bảo hiểm Quân đội (Tên viết tắt bằng tiếng anh là MIC) được
thành lập ngày 8/10/2007 theo Giấy phép thành lập và hoạt động số 43GP/KDBH
của Bộ Tài chính và là doanh nghiệp bảo hiểm đầu tiên thành lập theo Nghị định số
45/CP ngày 27/3/2007 của Chính Phủ với vốn điều lệ là 300 tỷ đồng, hoạt động trong
lĩnh vực Bảo hiểm phi nhân thọ. Đặc biệt là trong giai đoạn tới, Công ty tiến hành
niêm yết chứng khoán trên sàn giao dịch thì hệ thống báo cáo tài chính hay còn gọi là
cáo bạch trở thành thông tin tổng hợp mang đầy đủ tính chất pháp lý cho các đối
tượng bên ngoài doanh nghiệp cần quan tâm phân tích. Do đó, việc phân tích hệ
thống báo cáo của Công ty Cổ phần Bảo hiểm Quân đội để đánh giá tình hình tài
chính cũng như khả năng của Công ty trong tương lai là rất cần thiết.
Chính vì những lý do trên mà em chọn “Hoàn thiện nội dung và phương
pháp phân tích báo cáo tài chính tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Quân đội” làm
đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về phân tích báo cáo tài chính của
doanh nghiệp, luận văn tập trung phân tích báo cáo tài chính tại Công ty Cổ phần
Bảo hiểm Quân đội để đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường quản lý tài chính
tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Quân đội.
Nhiệm vụ khoa học của luận văn:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về nội dung phân tích báo cáo tài chính;
- Phân tích báo cáo tài chính của Công ty Cổ phần Bảo hiểm Quân đội;
- Nêu lên định hướng và các giải pháp thiết thực để tăng cường quản lý tài
chính tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Quân đội trong giai đoạn hiện nay.
1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Cơ sở lý luận và thực trạng về phân tích hệ thống báo
cáo tài chính.
- Phạm vi nghiên cứu: Giới hạn tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Quân đội.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp duy vật biện chứng là cơ sở nền tảng để nghiên cứu. Ngoài ra

luận văn còn sử dụng các phương pháp toán học, hệ thống hoá kết hợp với lý luận
cơ bản của khoa học chuyên ngành kế toán tài chính để nghiên cứu đề tài này.
5. Những đóng góp của đề tài
- Hệ thống hoá lý luận về báo cáo tài chính và phân tích báo cáo tài chính
trong các doanh nghiệp.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng phân tích báo cáo tài chính tại Công ty Cổ
phần Bảo hiểm Quân đội.
- Đưa ra các phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện phân tích báo cáo tài
chính tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Quân đội nói riêng và các doanh nghiệp khác
nói chung nhằm thực hiện tốt chức năng cung cấp thông tin của các doanh nghiệp
Bảo hiểm trong điều kiện kinh tế thị trường ngày càng phát triển.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 phần:
Chương 1: Cơ sở lý luận về nội dung và phương pháp phân tích báo cáo tài
chính trong các Công ty Bảo hiểm
Chương 2: Thực trạng nội dung và phương pháp phân tích báo cáo tài chính tại
Công ty Cổ phần Bảo hiểm Quân đội
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện nội dung và phương pháp
phân tích báo cáo tài chính tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Quân đội.
2
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH TRONG CÁC
CÔNG TY BẢO HIỂM
1.1. Báo cáo tài chính và phân tích báo cáo tài chính
1.1.1. Báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính (BCTC) là hệ thống báo cáo được lập theo chuẩn mực và
chế độ kế toán hiện hành phản ánh các thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu của đơn
vị. Theo đó, BCTC chứa đựng những thông tin tổng hợp nhất về tình hình tài sản,
nguồn vốn chủ sở hữu và công nợ cũng như tình hình tài chính, kết quả kinh doanh

trong kỳ của doanh nghiệp (DN).
Theo quyết định số 15/2006/QĐ-BTC do Bộ Tài chính ban hành ngày
20/03/2006, quy định đối với các DN Nhà nước, hệ thống BCTC bao gồm:
1/ Bảng cân đối kế toán (Mẫu số B01-DN)
2/ Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (Mẫu số B02-DN)
3/ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (Mẫu số B03-DN)
4/ Thuyết minh BCTC (Mẫu số B09-DN)
Trong hệ thống BCTC, mỗi loại báo cáo trên lại có vai trò cung cấp thông tin đối
với việc phân tích tình hình tài chính DN dưới góc độ cụ thể khác nhau: [15,t9-t10]
- Bảng cân đối kế toán: Cung cấp những thông tin về tình hình tài sản, các
khoản nợ, nguồn hình thành tài sản của DN tại một thời kỳ nhất định, giúp cho việc
đánh giá phân tích thực trạng tài chính của DN, như: tình hình biến động về quy mô
và cơ cấu tài sản, nguồn hình thành tài sản, về tình hình thanh toán và khả năng thanh
toán, tình hình phân phối lợi nhuận. Đồng thời, giúp cho việc đánh giá khả năng huy
động nguồn vốn vào quá trình sản xuất kinh doanh của DN trong thời gian tới.
- Báo cáo kết quả kinh doanh: Cung cấp những thông tin về kết quả sản xuất
kinh doanh của DN trong kỳ, cung cấp những thông tin về tình hình thực hiện nghĩa
vụ đối với Ngân sách Nhà nước của DN. Từ sự phân tích các số liệu trên báo kết
quả kinh doanh, giúp quản trị DN và các đối tượng sử dụng thông tin đánh giá được
các thay đổi tiềm tàng về các nguồn lực kinh tế mà DN có thể kiểm soát trong tương
lai, đánh giá khả năng sinh lợi của DN, hoặc đánh giá tính hiệu quả của các nguồn
lực bổ sung mà DN có thể sử dụng.
3
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: cung cấp những thông tin về biến động tài chính
trong DN, giúp cho việc phân tích các hoạt động đầu tư, tài chính, kinh doanh của
DN, nhằm đánh giá khả năng tạo ra nguồn tiền và khoản tương đương tiền trong
tương lai, cũng như việc sử dụng các nguồn tiền này cho các hoạt động kinh doanh,
đầu tư tài chính của DN.
- Thuyết minh BCTC: Cung cấp những thông tin chi tiết hơn về tình hình sản
xuất kinh doanh, về tình hình tài chính của DN, giúp cho việc phân tích một cách cụ

thể một số chỉ tiêu, phản ánh tình hình tài chính khác không thể trình bày được.
Như vậy, có thể nói hệ thống BCTC là “bức tranh sinh động nhất”, đầy đủ
nhất, cung cấp toàn bộ những thông tin kế toán hữu ích, giúp cho việc phân tích
thực trạng tài chính của DN. Đồng thời, phản ánh khả năng huy động mọi nguồn
vốn vào quá trình sản xuất kinh doanh của DN trong thời gian tới. Trên cơ sở đánh
giá và nhận định, các nhà quản trị DN có thể căn cứ vào kết quả phân tích tình hình
tài chính của DN để đề ra những quyết định trong kinh doanh, nhằm đạt được kết
quả cao nhất trong hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Đồng thời cũng là quá
trình thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát đối với các hoạt động tài chính – khâu trung
tâm của mọi hoạt động, đảm bảo cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của DN
đạt kết quả cao, đúng hướng, đúng pháp luật.
BCTC theo chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS)
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam, BCTC phải phản ánh theo một cấu trúc
chặt chẽ tình hình tài chính, kết quả kinh doanh của một DN. Để hiểu sâu hơn về
BCTC, ta tìm hiểu về mục đích, yêu cầu, nguyên tắc lập, kết cấu và nội dung chủ
yếu của các BCTC theo chuẩn mực kế toán Việt Nam (chuẩn mực số 21 – VAS 21)
về “Trình bày báo cáo tài chính”.
Mục đích của BCTC là cung cấp các thông tin về tình hình tài chính, tình
hình kinh doanh và các luồng tiền của một DN, đáp ứng nhu cầu hữu ích cho số
đông những người sử dụng trong việc đưa ra các quyết định kinh tế. Để đạt mục
đích này BCTC phải cung cấp những thông tin của một DN về: tài sản, nợ phải trả;
vốn chủ sở hữu; doanh thu, thu nhập khác, chi phí, lãi và lỗ; các luồng tiền. Vì vậy,
theo VAS hệ thống BCTC của DN gồm:
- Bảng cân đối kế toán
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
- Bản thuyết minh BCTC.
Để đảm bảo yêu cầu trung thực và hợp lý các BCTC phải được lập và trình
4
bày trên cơ sở tuân thủ các chuẩn mực kế toán và các quy định có liên quan hiện

hành. Do đó khi lập BCTC DN phải tuân thủ các nguyên tắc sau: nguyên tắc hoạt
động liên tục, nguyên tắc cơ sở kế toán dồn tích, nguyên tắc nhất quán, nguyên tắc
trọng yếu, nguyên tắc bù trừ, nguyên tắc có thể so sánh. Từ mục đích và các nguyên
tắc lập, theo chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS 21) BCTC bao gồm 4 mẫu được
lập với nội dung như sau:
Bảng cân đối kế toán là BCTC cơ bản tổng hợp, toàn diện, cung cấp thông
tin tổng quát tình hình tài sản của DN theo giá trị ghi sổ của tài sản và nguồn hình
thành tài sản tại một thời điểm nhất đinh (cuối tháng, cuối quý, cuối năm). Bảng cân
đối kế toán được kết cấu dưới dạng bảng cân đối số dư các tài khoản kế toán và
được sắp xếp theo trật tự các chỉ tiêu (được mã hoá) theo yêu cầu của quản lý gồm
tài sản và nguồn vốn. Phần “Tài sản” phản ánh giá trị ghi sổ của toàn bộ tài sản hiện
có của DN đến cuối năm kế toán đang tồn tại dưới nhiều hình thái và trong tất cả
các giai đoạn, các khâu của quá trình kinh doanh. Phần “Nguồn vốn” phản ánh
nguồn hình thành các loại tài sản của DN đến cuối kỳ hạch toán.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là BCTC phản ánh tóm lược các khoản
doanh thu, chi phí, kết quả phát sinh từ kết quả hoạt động kinh doanh và ngoài hoạt
động kinh doanh của DN trong một thời kỳ nhất định. Đồng thời báo cáo kết quả kinh
doanh còn phản ánh chi phí thuế thu nhập và lợi nhuận thuần của DN trong kỳ đó.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là BCTC tổng hợp, phản ánh việc hình thành và sử
dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của DN. Thông tin về lưu chuyển tiền tệ
của DN cung cấp cho người sử dụng thông tin có cơ sở để đánh giá khả năng tạo ra
các khoản tiền và việc sử dụng những khoản tiền đã tạo ra đó trong hoạt động kinh
doanh của DN. DN trình bày các luồng tiền từ hoạt động kinh doanh, hoạt động
đầu tư và hoạt động tài chính theo cách thức phù hợp nhất với đặc điểm kinh doanh
của DN.
Thuyết minh BCTC là báo cáo nhằm thuyết minh và giải trình bằng lời, bằng
số liệu một số chỉ tiêu kinh tế - tài chính chưa được thể hiện trên các BCTC ở trên.
Bảng thuyết minh này cung cấp thông tin bổ sung cần thiết cho việc đánh giá kết
quả kinh doanh của DN trong năm báo cáo được chính xác.
BCTC theo chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS)

Do chế độ kế toán giữa từng quốc gia có nhiều điểm khác nhau nên chế độ
BCTC cũng không giống nhau. Việc hoàn thiện hệ thống BCTC của Việt Nam
nhằm cung cấp các thông tin kịp thời, chính xác cho những đối tượng sử dụng đồng
thời phù hợp với thông lệ kế toán quốc tế trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế
toàn cầu là mục tiêu mà chúng ta luôn hướng tới. Chính vì vậy, nghiên cứu nội dung
5
của BCTC theo chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) nhằm tìm ra những ưu điểm, vận
dụng linh hoạt vào thực tế Việt Nam là một việc làm cần thiết.
Chuẩn mực kế toán quốc tế về trình bày BCTC (Chuẩn mực số 1 – IAS1) mô
tả cơ sở cho việc trình bày các BCTC. Chuẩn mực này thiết lập khuôn khổ và trách
nhiệm của việc trình bày các BCTC, hướng dẫn cấu trúc và yêu cầu nội dung tối
thiểu trên các BCTC và được áp dụng cho tất cả các BCTC trên cơ sở các chuẩn
mực kế toán quốc tế [10,t13]. Một hệ thống đầy đủ các BCTC bao gồm:
- Bảng cân đối kế toán
- Báo cáo kết quả kinh doanh
- Báo cáo khác phản ánh những thay đổi về vốn chủ sở hữu, những thay đổi về
vốn chủ sở hữu ngoài các nghiệp vụ góp vốn và phân chia cho chủ sở hữu
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
- Các chính sách kế toán và các thuyết minh khác.
Cũng theo IAS 1, các nguyên tắc cơ bản phải tuân thủ khi lập BCTC bao gồm:
nguyên tắc hoạt động liên tục, nguyên tắc nhất quán với năm trước, nguyên tắc dồn
tích, nguyên tắc trọng yếu. Bên cạnh đó, IAS 1 còn quy định các yêu cầu phải tuân
theo khi lập BCTC: tính kịp thời; tính khả dụng của các phương pháp áp dụng; nêu
các chuẩn mực được áp dụng trước kia; cơ sở cho việc lựa chọn một chính sách kế
toán và cách thức trình bày các cơ sở này; quy tắc cho việc bù trừ tài sản và công nợ,
bù trừ chi phí và doanh thu; các chỉ tiêu mang tính so sánh. Từ các nguyên tắc và yêu
cầu lập BCTC trên, nội dung và kết cấu của các BCTC cũng được chỉ ra, tuy nhiên
không bắt buộc phải theo mẫu chuẩn tuyệt đối:
Bảng cân đối kế toán phải bao gồm các khoản mục hàng dọc trình bày các số
liệu bằng tiền sau: các tài sản cố định hữu hình, các tài sản cố định vô hình, các tài

sản tài chính, các khoản đầu tư được hạch toán theo phương pháp nguồn vốn chủ sở
hữu, hàng tồn kho, các khoản phải thu của khách hàng và các khoản phải thu khác,
tiền mặt và tương đương tiền mặt, các khoản phải trả cho nhà cung cấp và các
khoản phải trả khác, các khoản thuế phải thu và phải trả, các khoản dự phòng, các
khoản nợ cố định chịu lãi, các phần của cổ đông thiểu số không thuộc quyền sở hữu
của DN, nguồn vốn phát hành và các khoản dự trữ.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh phải bao gồm các khoản mục hàng dọc
trình bày tối thiểu các số liệu bằng tiền sau: thu nhập, kết quả phát sinh từ các hoạt
động kinh doanh, các chi phí tài chính, phần trăm kết quả của các công ty thành
viên và các liên doanh được hạch toán theo phương pháp nguồn vốn chủ sở hữu, chi
phí thuế, kết quả phát sinh từ các hoạt động bình thường, các khoản mục bất
6
thường, phần của các cổ đông thiểu số không thuộc quyền sở hữu của DN, kết quả
thuần của niên độ.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cần trình bày các luồng tiền trong kỳ được phân
loại theo các hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư, hoạt động tài chính. Các
luồng tiền từ hoạt động kinh doanh chủ yếu bắt nguồn từ các hoạt động sinh lời cơ
bản của DN, thường là kết quả của các giao dịch và sự kiện có tham gia vào việc
xác định lãi hay lỗ ròng. Các luồng tiền từ hoạt động đầu tư thể hiện phạm vi mà
các chi phí được thực hiện cho các nguồn dự dịnh sẽ tạo ra lợi nhuận và các luồng
tiền trong tương lai: thu từ bán các cổ phiếu, trái phiếu của các công ty khác. Các
luồng tiền từ hoạt động tài chính thường gồm tiền ròng thu được từ việc phát hành
cổ phiếu hay các công cụ về vốn khác, tiền trả cho các chủ sở hữu để mua hay thanh
toán các cổ phiếu của DN, tiền ròng thu từ việc phát hành trái phiếu, thương phiếu,
tiền trả các khoản đã vay.
Phần thuyết minh các BCTC của một DN trình bày các thông tin về cơ sở tiêu
chí dùng để lập BCTC và các chính sách kế toán cụ thể được chọn và áp dụng đối
với các nghiệp vụ giao dịch và các sự kiện quan trọng. Thuyết minh BCTC cũng
nêu ra các thông tin cần phải được cung cấp theo quy định của các Chuẩn mực Kế
toán Quốc tế nhưng không được trình bày trong các bảng BCTC khác và cung cấp

các thông tin bổ sung không được trình bày trong các bảng BCTC khác nhưng lại
cần thiết cho việc trình bày trung thực.
Như vậy, qua nghiên cứu về chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế
toán quốc tế ta thấy về cơ bản chế độ kế toán Việt Nam đã tuân thủ và kế thừa được
những ưu điểm của chuẩn mực kế toán quốc tế. Tuy nhiên, để hệ thống BCTC thực
sự tiết kiệm công sức trong khâu chuẩn bị, minh bạch, dễ hiểu, dễ kiểm tra, kiểm
soát đòi hỏi chúng ta phải sửa đổi và hoàn thiện hơn nữa cho phù hợp với nền kinh
tế thị trường còn nhiều bước phát triển.
1.1.2. Phân tích BCTC
Phân tích BCTC là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so sánh số liệu về
tài chính trong kỳ hiện tại với các kỳ kinh doanh đã qua. Thông qua việc phân tích
BCTC sẽ cung cấp cho người sử dụng thông tin có thể đánh giá BCTC sẽ cung cấp
cho người sử dụng thông tin có thể đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng
như những rủi ro về tài chính trong tương lai của DN. Phân tích BCTC nhằm cung
cấp những thông tin hữu ích không chỉ cho quản trị DN mà còn cung cấp những
thông tin kinh tế - tài chính chủ yếu cho các đối tượng sử dụng thông tin ngoài DN.
Bởi vậy, phân tích BCTC không phải chỉ phản ánh tình hình tài chính của DN tại
một thời điểm nhất định, mà còn cung cấp những thông tin về kết quả hoạt động sản
7
xuất kinh doanh của DN đã đạt được trong một kỳ nhất định. [15,t8]
Phân tích BCTC xét theo nghĩa khái quát đề cập tới nghệ thuật phân tích và
giải thích các BCTC. Để áp dụng hiệu quả nghệ thuật này đòi hỏi phải thiết lập một
quy trình có hệ thống và logic, có thể sử dụng làm cơ sở cho việc ra quyết định.
Trong phân tích cuối cùng, việc ra quyết định là mục đích chủ yếu của phân tích
BCTC. Dù cho đó là nhà đầu tư cổ phần vốn có tiềm năng, một nhà cho vay tiềm
tàng, hay một nhà phân tích tham mưu của một công ty đang được phân tích, thì
mục tiêu cuối cùng đều như nhau - đó là cung cấp cơ sở cho việc ra quyết định hợp
lý. Các quyết định xem nên mua hay bán cổ phần, nên cho vay hay từ chối hoặc nên
lựa chọn giữa cách tiếp tục kiểu trước đây hay là chuyển sang một quy trình mới, tất
cả sẽ phần lớn sẽ phụ thuộc vào các kết quả phân tích tài chính có chất lượng. Loại

hình quyết định đang được xem xét sẽ là yếu tố quan trọng của phạm vi phân tích,
nhưng mục tiêu ra quyết định là không thay đổi. Chẳng hạn, cả những người mua
bán cổ phần lẫn nhà cho vay ngân hàng đều phân tích các BCTC và coi đó như là
một công việc hỗ trợ cho việc ra quyết định, tuy nhiên phạm vị chú ý chính trong
những phân tích của họ sẽ khác nhau. Nhà cho vay ngân hàng có thể quan tâm
nhiều hơn tới khả năng cơ động chuyển sang tiền mặt trong thời kỳ ngắn hạn và giá
trị lý giải của các tài sản có tính cơ động. Còn các nhà đầu tư cổ phần tiềm năng
quan tâm hơn đến khả năng sinh lợi lâu dài và cơ cấu vốn. Tuy nhiên, trong cả hai
trường hợp, sự định hướng vào việc ra quyết định của công tác phân tích là đặc
trưng chung.
Có hai mục đích hoặc mục tiêu trung gian trong phân tích BCTC, đồng thời là
mối quan tâm cho mọi nhà phân tích thông minh.
- Thứ nhất, mục tiêu ban đầu của việc phân tích BCTC là nhằm để "hiểu được
các con số" hoặc để "nắm chắc các con số", tức là sử dụng các công cụ phân tích tài
chính như là một phương tiện hỗ trợ để hiểu rõ các số liệu tài chính trong báo cáo.
Như vậy, người ta có thể đưa ra nhiều biện pháp phân tích khác nhau nhằm để miêu
tả những quan hệ có nhiều ý nghĩa và chắt lọc thông tin từ các dữ liệu ban đầu.
- Thứ hai, do sự định hướng của công tác phân tích tài chính nhằm vào việc ra
quyết định, một mục tiêu quan trọng khác là nhằm đưa ra một cơ sở hợp lý cho việc
dự đoán tương lai. Trên thực tế, tất cả các công việc ra quyết định, phân tích tài
chính hay tất cả những việc tương tự đều nhằm hướng vào tương lai. Do đó, người
ta sử dụng các công cụ và kĩ thuật phân tích BCTC nhằm cố gắng đưa ra đánh giá
có căn cứ về tình hình tài chính tương lai của công ty, dựa trên phân tích tình hình
tài chính trong quá khứ và hiện tại, và đưa ra ước tính tốt nhất về khả năng của
những sự cố kinh tế trong tương lai.Trong nhiều trường hợp người ta nhận thấy
8
rằng, phần lớn công việc phân tích BCTC bao gồm việc xem xét cẩn thận, tỷ mỉ các
BCTC, thậm chí cả việc đọc kỹ lưỡng hơn đối với các chú thích và việc sắp xếp lại
hoặc trình bày lại các số liệu sẵn có để đáp ứng nhu cầu của người phân tích. Khi
đó, người ta có thể hỏi tại sao không thể chấp nhận các BCTC đã chuẩn bị theo các

mệnh giá, nói cách khác là tại sao lại “can thiệp vào các con số” ngay từ đầu? Câu
trả lời hiển nhiên là, hầu như luôn luôn phải có can thiệp đôi chút để “hiểu rõ các
con số”. Nhìn chung, đòi hỏi phải có sự phân tích nào đó với tư cách là bước đầu
tiên đối với BCTC đã được chuẩn bị nhằm chắt lọc các thông tin từ các số liệu trình
bày trong báo cáo. Thứ hai, hầu hết các quyết định được thực hiện trên cơ sở phân
tích BCTC là khá quan trọng, cho nên việc chấp nhận các số liệu tài chính đã trình
bày lúc đầu thường là một cách làm không tốt. Về mặt tài chính, hầu hết các quyết
định đều đòi hỏi phải sử dụng một kết cấu logic, trong đó, các cảm nghĩ và các kết
luận có thể được phát triển một cách có hệ thống và có ý kiến đánh giá hợp lý.[16]
1.2. Nội dung và phương pháp phân tích BCTC trong các công ty bảo hiểm
1.2.1. Đặc điểm của các công ty bảo hiểm có ảnh hưởng đến nội dung và
phương pháp phân tích BCTC
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm là hoạt động hết sức đặc thù bắt đầu xuất
hiện ở nước ta vào năm 1993 sau khi có sự ra đời của Nghị định 100/1993/NĐ-CP.
Hiện nay, loại hình kinh doanh này chịu sự quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm
số 24/2000/QH10 của Quốc hội và hai nghị định mới nhất: nghị định 45/2007/NĐ-
CP của Chính phủ về việc quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh
doanh bảo hiểm và nghị định 46/2007/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định chế
độ tài chính đối với DNBH và DN môi giới BH. Đối với từng loại hình DN, việc áp
dụng phương pháp và thực hiện nội dung phân tích sẽ có những khác biệt nhất định.
Chính vì vậy, để phục vụ cho việc phân tích BCTC của Công ty Cổ phần Bảo hiểm
Quân đội, trong chương này, ta đi nghiên cứu đặc điểm tổ chức hoạt động kinh
doanh, đặc điểm quản lý tài chính và đặc điểm doanh thu, chi phí, kết quả của các
công ty bảo hiểm nói chung.
Đặc điểm tổ chức hoạt động kinh doanh
Theo điều 60 của Nghị định số 46/2007/NĐ-CP ngày 27/03/2007 của Chính
phủ về việc Quy định chế độ tài chính đối với DN bảo hiểm (BH) và DN môi giới
BH, ho t ng c a ạ độ ủ DNBH bao g m:ồ
- Kinh doanh BH, kinh doanh tái BH;
- phòng, h n ch r i ro, t n th t;Đề ạ ế ủ ổ ấ

- Giám nh t n th t;đị ổ ấ
9
- i lý giám nh t n th t, xét gi i quy t b i th ng, yêu c u ng i th ba b i ho n;Đạ đị ổ ấ ả ế ồ ườ ầ ườ ứ ồ à
- Qu n lý qu v u t v n;ả ỹ à đầ ư ố
- Các ho t ng khác theo quy nh c a pháp lu t.ạ độ đị ủ ậ
Trong đó, kinh doanh BH l ho t ng c a DNBH nh m m c ích sinh l i, theoà ạ độ ủ ằ ụ đ ợ
ó DNBH ch p nh n r i ro c a ng i c BH, trên c s bên mua BH óng phí BHđ ấ ậ ủ ủ ườ đượ ơ ở đ
DNBH tr ti n BH cho ng i th h ng ho c b i th ng cho ng i c BH khiđể ả ề ườ ụ ưở ặ ồ ườ ườ đượ
x y ra s ki n BH.ả ự ệ
Kinh doanh tái BH l ho t ng c a DNBH nh m m c ích sinh l i, theo óà ạ độ ủ ằ ụ đ ợ đ
DNBH nh n m t kho n phí BH c a DNBH khác cam k t b i th ng cho các tráchậ ộ ả ủ để ế ồ ườ
nhi m ã nh n BH. Kinh doanh tái BH bao g m:ệ đ ậ ồ
+ Chuyển 1 ph n trách nhi m ã nh n BH cho m t hay nhi u DNBH khác;ầ ệ đ ậ ộ ề
+ Nhận BH l i m t ph n hay to n b trách nhi m m DNBH khác ã nh n BHạ ộ ầ à ộ ệ à đ ậ
Cũng theo nghị định này, DNBH không c phép ng th i kinh doanh BHđượ đồ ờ
nhân th v BH phi nhân th , tr tr ng h p DNBH phi nhân th kinh doanh d ch vọ à ọ ừ ườ ợ ọ ị ụ
BH s c kho v BH tai n n con ng i b tr cho BH nhân th .ứ ẻ à ạ ườ ổ ợ ọ
Đặc điểm quản lý tài chính
Theo quy định của Nghị định số 46/2007/NĐ-CP, DNBH, DN môi giới BH tự
chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm về quản lý giám sát hoạt động tài chính, kết
quả hoạt động kinh doanh và thực hiện các nghĩa vụ, cam kết của mình theo quy
định của pháp luật. Theo điều 4 của Nghị định số 46/2007/NĐ-CP, mức vốn pháp
định của DNBH được quy định như sau:
+ Kinh doanh BH phi nhân thọ: 300.000.000.000 đồng Việt Nam;
+ Kinh doanh BH nhân thọ: 600.000.000.000 đồng Việt Nam.
Mức vốn pháp định của DN môi giới BH: 4.000.000.000 đồng Việt Nam.
Sau khi các thành viên, cổ đông góp hoặc cam kết góp vốn trong một thời hạn
nhất định, khoản vốn đó chính là vốn điều lệ của DNBH, khoản vốn này sẽ được ghi
vào điều lệ DNBH. Trong quá trình hoạt động, DNBH, DN môi giới BH phải luôn
duy trì mức vốn điều lệ đã góp không thấp hơn mức vốn pháp định và phải được bổ

sung tương xứng với nội dung, phạm vi và địa bàn hoạt động kinh doanh của DN.
Nếu trong trường hợp thay đổi vốn điều lệ, DNBH, DN môi giới BH phải có đơn đề
nghị và văn bản giải trình gửi Bộ Tài chính. Đối với trường hợp DNBH được thành
lập, tổ chức và hoạt động trước ngày Nghị định này có hiệu lực, có số vốn điều lệ
thấp hơn mức vốn pháp định quy định như trên thì trong thời hạn 3 năm, kể từ ngày
Nghị định này có hiệu lực, DNBH phải bổ sung đủ vốn điều lệ theo quy định.
Hoạt động kinh doanh BH là hoạt động kinh doanh hết sức đặc thù: kinh
doanh rủi ro, chính vì vậy, Nhà nước mà cụ thể là Bộ tài chính rất quan tâm, bảo vệ
10
đối tượng mua bảo hiểm thể hiện ở việc DN kinh doanh BH phi nhân thọ và nhân
thọ phải trích lập dự phòng nghiệp vụ theo từng nghiệp vụ BH đối với phần trách
nhiệm giữ lại của DN. Đối với DN kinh doanh BH phi nhân thọ, dự phòng nghiệp
vụ bao gồm: dự phòng phí, dự phòng bồi thường và dự phòng dao động lớn. Trong
đó nội dung của các khoản dự phòng được quy định như sau:
+ Dự phòng phí chưa được hưởng, được sử dụng để bồi thường cho trách nhiệm
sẽ phát sinh trong thời gian còn hiệu lực của hợp đồng BH trong năm tiếp theo;
+ Dự phòng bồi thường cho khiếu nại chưa giải quyết, được sử dụng để bồi
thường cho các tổn thất đã phát sinh thuộc trách nhiệm BH chưa khiếu nại hoặc đã
khiếu nại nhưng đến cuối năm tài chính chưa được giải quyết;
+ Dự phòng bồi thường cho các dao động lớn về tổn thất, được sử dụng để bồi
thường khi có dao động lớn về tổn thất hoặc tổn thất lớn xảy ra mà tổng phí BH giữ
lại trong năm tài chính sau khi đã trích lập dự phòng phí chưa được hưởng và dự
phòng bồi thường cho khiếu nại chưa giải quyết không đủ để chi trả tiền bồi thường
đối với phần trách nhiệm giữ lại của DNBH.
Trong khi đó, đối với DN kinh doanh BH nhân thọ ngoài ba khoản dự phòng
được trích lập giống DN kinh doanh bảo hiểm nhân thọ còn bao gồm thêm hai
khoản dự phòng sau đây:
+ Dự phòng toán học là khoản chênh lệch giữa giá trị hiện tại của số tiền BH
và giá trị hiện tại của phí BH sẽ thu được trong tương lai, được sử dụng để trả tiền
BH đối với những trách nhiệm đã cam kết khi xảy ra sự kiện BH;

+ Dự phòng chia lãi, được sử dụng để trả lãi mà DNBH đã thoả thuận với bên
mua BH trong hợp đồng BH;
Đối với bất kỳ một công ty BH nào, hoạt động đầu tư cũng luôn được chú
trọng. Từ đặc thù hoạt động kinh doanh BH luôn trích lập nguồn dự phòng vì vậy
nguồn vốn đầu tư của DNBH, DN môi giới BH ngoài nguồn vốn chủ sở hữu, các
nguồn hợp pháp khác theo quy định của pháp luật còn có thêm nguồn vốn nhàn rỗi
từ dự phòng nghiệp vụ BH. Theo đó, việc đầu tư từ nguồn vốn chủ sở hữu phải bảo
đảm an toàn, hiệu quả và tính thanh khoản theo hướng dẫn của Bộ Tài chính. DNBH,
DN môi giới BH được phép đầu tư ra nước ngoài theo quy định của pháp luật đối với
phần vốn chủ sở hữu vượt quá mức vốn pháp định hoặc biên khả năng thanh toán tối
thiểu, tùy theo số nào lớn hơn. Còn nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ BH
của DNBH là tổng dự phòng nghiệp vụ BH trừ các khoản tiền mà DNBH dùng để
bồi thường BH thường xuyên trong kỳ đối với BH phi nhân thọ (không thấp hơn
25% tổng dự phòng nghiệp vụ BH và được gửi tại các tổ chức tín dụng hoạt động
tại Việt Nam), trả tiền BH thường xuyên trong kỳ đối với BH nhân thọ (không thấp
11
hơn 5% tổng dự phòng nghiệp vụ BH và được gửi tại các tổ chức tín dụng hoạt
động tạị Việt Nam).
Để đảm bảo được khả năng thanh toán của DNBH, cũng theo nghị định này,
DNBH phải luôn duy trì khả năng thanh toán trong suốt quá trình hoạt động kinh
doanh BH. DNBH được coi là có đủ khả năng thanh toán khi đã trích lập đầy đủ dự
phòng nghiệp vụ BH và có biên khả năng thanh toán không thấp hơn biên khả năng
thanh toán tối thiểu. Trong đó, biên khả năng thanh toán tối thiểu của DN kinh
doanh BH phi nhân thọ là số lớn hơn của một trong hai kết quả tính toán sau:
+ 25% tổng phí BH thực giữ lại tại thời điểm tính biên khả năng thanh toán;
+ 12,5% của tổng phí BH gốc và phí nhận tái BH tại thời điểm tính biên khả
năng thanh toán.
Còn biên khả năng thanh toán tối thiểu của DN kinh doanh BH nhân thọ:
+ Đối với hợp đồng BH nhân thọ có thời hạn 5 năm trở xuống bằng tổng của
4% dự phòng nghiệp vụ BH và 0,1% số tiền BH chịu rủi ro;

+ Đối với hợp đồng BH nhân thọ có thời hạn trên 5 năm bằng tổng của 4% dự
phòng nghiệp vụ BH và 0,3% số tiền BH chịu rủi ro.
Sau khi đã tính biên khả năng thanh toán tối thiểu, DNBH tính biên khả năng
thanh toán của DNBH để tiến hành so sánh. Biên khả năng thanh toán của DNBH là
phần chênh lệch giữa giá trị tài sản và các khoản nợ phải trả của DNBH tại thời
điểm tính biên khả năng thanh toán. Tuy nhiên, các tài sản tính biên khả năng thanh
toán của DNBH phải bảo đảm tính thanh khoản (tức là phải tính đến các tài sản bị
loại trừ toàn bộ hoặc một phần thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Tài chính). DNBH
bị coi là có nguy cơ mất khả năng thanh toán khi biên khả năng thanh toán của
DNBH thấp hơn biên khả năng thanh toán tối thiểu. Khi đó, DNBH phải chủ động
thực hiện ngay các biện pháp tự khôi phục khả năng thanh toán đồng thời báo cáo
Bộ Tài chính về thực trạng tài chính, nguyên nhân dẫn đến nguy cơ mất khả năng
thanh toán và phương án khôi phục khả năng thanh toán. Trong trường hợp DNBH
không tự khôi phục được khả năng thanh toán thì Bộ Tài chính có quyền yêu cầu
DNBH thực hiện khôi phục khả năng thanh toán, gồm những biện pháp sau: bổ
sung nguồn vốn chủ sở hữu; Tái BH; thu hẹp nội dung, phạm vi và địa bàn hoạt
động; đình chỉ một phần hoặc toàn bộ hoạt động; củng cố tổ chức bộ máy và thay
đổi người quản trị, điều hành của DN; yêu cầu chuyển giao hợp đồng BH; các biện
pháp khác. Trong trường hợp DNBH không khôi phục được khả năng thanh toán
theo yêu cầu của Bộ Tài chính, DNBH sẽ bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt.
Một phần rất quan trọng trong đặc điểm quản lý tài chính của DNBH là chế độ
12
kế toán, kiểm toán, thống kê và BCTC. Về chế độ kế toán: DNBH, DN môi giới BH
phải thực hiện ghi chép đầy đủ chứng từ ban đầu, cập nhật sổ kế toán và phản ánh
đầy đủ, kịp thời, trung thực, chính xác, khách quan các hoạt động kinh tế, tài chính.
Cũng giống như tất cả các hoạt động kinh doanh khác, năm tài chính của DNBH,
DN môi giới BH bắt đầu từ ngày 01 tháng 01 và kết thúc vào ngày 31 tháng 12
cùng năm dương lịch. Cũng theo nghị định này thì DNBH, DN môi giới BH có
trách nhiệm lập và gửi các BCTC, báo cáo thống kê, báo cáo nghiệp vụ định kỳ, đột
xuất theo quy định của pháp luật hiện hành và hướng dẫn của Bộ Tài chính. Riêng

đối với BCTC năm của DNBH, DN môi giới BH thì phải được tổ chức kiểm toán
độc lập hoạt động hợp pháp tại Việt Nam kiểm toán và xác nhận các vấn đề tài
chính trọng yếu trước khi nộp Bộ Tài chính và sau đó phải công khai BCTC theo
quy định của pháp luật.
Bộ Tài chính cũng yêu cầu DNBH, DN môi giới BH thực hiện công tác quản
trị tài chính theo các nguyên tắc, chuẩn mực do Bộ Tài chính quy định đồng thời
DNBH, DN môi giới BH phải xây dựng, triển khai và giám sát việc thực hiện quy
chế tài chính, quy chế đầu tư, quy chế kiểm soát và kiểm toán nội bộ và các quy
trình thủ tục tương ứng.
Đặc điểm doanh thu, chi phí, kết quả
Với đặc điểm tổ chức hoạt động của DNBH đã trình bày ở trên, doanh thu của
DNBH bao gồm thu từ hoạt động kinh doanh BH, thu từ hoạt động tài chính, thu
nhập hoạt động khác
Doanh thu hoạt động kinh doanh BH là số tiền phải thu phát sinh trong kỳ sau
khi đã trừ các khoản phải chi để giảm thu phát sinh trong kỳ:
+ Số tiền phải thu phát sinh trong kỳ bao gồm: thu phí BH gốc, thu phí nhận
tái BH, thu hoa hồng nhượng tái BH, thu phí về dịch vụ đại lý bao gồm giám định
tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn, xử lý hàng bồi
thường 100%, thu phí giám định tổn thất không kể giám định hộ giữa các đơn vị
thành viên hạch toán nội bộ trong cùng một DNBH hạch toán độc lập.
+ Các khoản phải chi để giảm thu phát sinh trong kỳ bao gồm: hoàn phí BH,
giảm phí BH, phí nhượng tái BH, hoàn phí nhận tái BH, giảm phí nhận tái BH, hoàn
hoa hồng nhượng tái BH, giảm hoa hồng nhượng tái BH.
Doanh thu hoạt động tài chính: thu hoạt động đầu tư, thu từ hoạt động mua
bán chứng khoán, thu lãi trên số tiền ký quỹ, thu cho thuê tài sản, thu khác theo quy
định của pháp luật.
Thu nhập hoạt động khác: thu từ nhượng bán, thanh lý tài sản cố định, các
13
khoản nợ khó đòi đã xoá nay thu hồi được, thu khác theo quy định của pháp luật.
Theo điều số 21, cũng tại nghị định này thì chi phí của DNBH là số tiền phải

chi, phải trích phát sinh trong kỳ bao gồm: chi phí hoạt động kinh doanh BH, chi
phí hoạt động tài chính và chi phí hoạt động khác.
Trong đó chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm là số tiền phải chi, phải trích
phát sinh trong kỳ sau khi đã trừ các khoản phải thu để giảm chi phát sinh trong kỳ:
+ Số tiền phải chi, phải trích phát sinh trong kỳ bao gồm: bồi thường BH gốc
đối với BH phi nhân thọ; trả tiền BH đối với BH nhân thọ; chi bồi thường nhận tái
BH; trích lập dự phòng nghiệp vụ; chi hoa hồng BH; chi giám định tổn thất; chi phí
về dịch vụ đại lý bao gồm giám định tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu
người thứ ba bồi hoàn; chi xử lý hàng bồi thường 100%; chi quản lý đại lý BH; chi
đề phòng, hạn chế rủi ro, tổn thất; chi đánh giá rủi ro của đối tượng BH; các khoản
chi, trích khác theo quy định của pháp luật.
+ Các khoản phải thu để giảm chi phát sinh trong kỳ bao gồm: thu bồi thường
nhượng tái BH; thu đòi người thứ ba bồi hoàn; thu hàng đã xử lý, bồi thường 100%.
Chi phí hoạt động tài chính: chi phí hoạt động tài chính của DNBH bao gồm 5
loại chi phí sau: chi phí hoạt động đầu tư; thu nhập đầu tư phải trả cho bên mua BH
theo cam kết tại hợp đồng BH nhân thọ; chi phí cho thuê tài sản; chi thủ tục phí
ngân hàng, trả lãi tiền vay; chi, trích khác theo quy định của pháp luật.
Chi phí hoạt động khác: chi nhượng bán, thanh lý tài sản cố định; chi phí cho
việc thu hồi khoản nợ phải thu khó đòi đã xoá nay thu hồi được; chi, trích khác theo
quy định của pháp luật.
Căn cứ vào đặc điểm doanh thu và chi phí của DNBH, kết quả kinh doanh của
DNBH bao gồm kết quả của ba hoạt động trên: lợi nhuận hoạt động kinh doanh BH,
lợi nhuận hoạt động tài chính và lợi nhuận hoạt động khác. Sau khi tính được kết
quả kinh doanh BH, DNBH, DN môi giới BH phải làm đầy đủ nghĩa vụ với ngân
sách nhà nước theo quy định của pháp luật như: nộp thuế Thu nhập doanh nghiệp
(TNDN) theo luật định, trích lập quỹ dự trữ bắt buộc (được tính bằng 5% lợi nhuận
sau thuế, tối đa có thể bằng 10% mức vốn điều lệ của DN), sau đó DNBH, DN môi
giới BH mới được phân phối lợi nhuận còn lại theo quy định của pháp luật.
1.2.2. Nội dung phân tích BCTC
Phân tích BCTC là việc sử dụng các phương pháp nhằm đánh giá tình hình

tài chính và kết quả kinh doanh của DN trong một thời gian hoạt động nhất định.
Trên cơ sở đó, giúp cho các nhà quản trị DN cũng như các đối tượng quan tâm bên
ngoài DN đưa ra các quyết định chuẩn xác trong quá trình kinh doanh và đầu tư.
Theo PGS.TS.Nguyễn Năng Phúc nhằm phát huy vai trò và nhiệm vụ phân
tích BCTC trong quản lý DN, nội dung cơ bản của phân tích BCTC trong các DN
14
bao gồm [15,t16]:
- Phân tích hệ thống chỉ tiêu thông tin kế toán đã được trình bày trên các
BCTC DN.
- Phân tích mối liên hệ giữa các chỉ tiêu trên từng BC và trên các BCTC
nhằm đánh giá những nội dung cơ bản của hoạt động tài chính:
+ Đánh giá khái quát tình hình tài chính
+ Phân tích cấu trúc tình hình tài chính và tình hình đảm bảo vốn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của DN
+ Phân tích tình hình và khả năng thanh toán
+ Phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của DN
+ Phân tích khả năng sinh lời của tài sản
+ Định giá DN và phân tích tình hình rủi ro tài chính của DN
+ Dự báo các chỉ tiêu tài chính chủ yếu của DN.
Theo PGS.TS.Nguyễn Văn Công tùy theo vị trí và mục đích sử dụng thông
tin của người phân tích mà nội dung phân tích BCTC có thể không giống nhau giữa
các nhóm phân tích khác nhau. Tuy nhiên, phân tích BCTC thường bao gồm những
nội dung chủ yếu sau [10.t445]:
+ Đánh giá khái quát tình hình tài chính
+ Phân tích cấu trúc tài chính và tình hình bảo đảm vốn cho hoạt động KD
+ Phân tích tình hình và khả năng thanh toán
+ Phân tích hiệu quả kinh doanh
+ Phân tích tốc độ luân chuyển của tài sản ngắn hạn
+ Phân tích rủi ro tài chính
+ Phân tích giá trị DN và dự báo nhu cầu tài chính

+ Phân tích bản thân từng BCTC
Như vậy, có thể nói về cơ bản, việc thực hiện phân tích BCTC theo những
nội dung khá giống nhau. Trong khuôn khổ bài luận văn này, nhận thức được tầm
quan trọng của mục đích phân tích BCTC, kế thừa những nội dung phân tích BCTC
ở trên, theo tác giả, nội dung phân tích BCTC sẽ bao gồm những nội dung sau:
+ Đánh giá khái quát tình hình tài chính và phân tích cấu trúc tài chính.
+ Phân tích tình hình bảo đảm vốn cho hoạt động kinh doanh
+ Phân tích tình hình và khả năng thanh toán
+ Phân tích hiệu quả kinh doanh
15
+ Phân tích rủi ro tài chính
+ Phân tích giá trị DN
+ Dự báo nhu cầu tài chính
Đánh giá khái quát tình hình tài chính và phân tích cấu trúc tài chính.
Hoạt động tài chính là những hoạt động gắn với sự vận động và chuyển hoá
các nguồn lực tài chính, tạo ra sự chuyển dịch giá trị trong quá trình kinh doanh và
làm biến động vốn cũng như thay đổi cấu trúc vốn của DN. Nói cách khác, hoạt
động tài chính là những hoạt động gắn với việc xác định nhu cầu, tạo lập, tìm kiếm,
tổ chức, huy động và sử dụng với một cách hợp lý, có hiệu quả. Hoạt động tài chính
là một trong những nội dung cơ bản thuộc hoạt động kinh doanh của DN và có vai
trò hết sức quan trọng đối với hoạt động kinh doanh. Hoạt động tài chính tốt sẽ có
tác động thúc đẩy sự phát triển của hoạt động kinh doanh và ngược lại; hoạt động
kinh doanh có hiệu quả thì mới bảo đảm cho hoạt động tài chính được vận hành trôi
chảy; từ đó thúc đẩy được sản xuất – kinh doanh phát triển, nâng cao được hiệu quả
kinh doanh. Bằng việc xem xét hoạt động tài chính, các nhà quản lý có thể đánh giá
chính xác thực trạng tài chính DN. Có thể khái quát vai trò của hoạt động tài chính
trên các điểm sau: [15,t167]
+ Đáp ứng đủ vốn cho hoạt động và phát triển của DN
+ Huy động vốn với chi phí thấp nhất
+ Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn

+ Quyết định việc tăng, giảm vốn và quyết định đầu tư vốn
Đánh giá khái quát tình hình tài chính là việc dựa trên những dữ liệu tài chính
trong quá khứ và hiện tại của DN để tính toán và xác định các chỉ tiêu phản ánh
thực trạng và an ninh tài chính của DN. Từ đó, giúp các nhà quản lý nhìn nhận đúng
đắn về vị trí hiện tại và an ninh tài chính của DN nhằm đưa ra những quyết định tài
chính hữu hiệu. Bởi vậy, yêu cầu đặt ra khi đánh giá khái quát tình hình tài chính là
phải chính xác và toàn diện. Có đánh giá chính xác thực trạng tài chính và an ninh
tài chính của DN trên tất cả các mặt mới giúp các nhà quản lý đưa ra các quyết định
hiệu quả, phù hợp với tình trạng hiện tại của DN và định hướng phát triển trong
tương lai. Việc đánh giá chính xác và toàn diện còn giúp các nhà quản lý có các kế
sách thích hợp để nâng cao năng lực tài chính, năng lực kinh doanh và năng lực
cạnh tranh của DN. Với mục đích trên, khi đánh giá khái quát tình hình tài chính,
các nhà phân tích chỉ dừng lại ở một số nội dung mang tính khái quát, tổng hợp,
phản ánh những nét chung nhất phản ánh thực trạng hoạt động tài chính và an ninh tài
chính của DN như: tình hình huy động vốn, mức độ độc lập tài chính, khả năng thanh
16
toán và khả năng sinh lợi của DN. Đồng thời, phương pháp sử dụng để đánh giá khái
quát cũng khá đơn giản, chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh. Mặt khác, hệ thống
chỉ tiêu sử dụng để đánh giá khái quát tình hình tài chính trên các mặt chủ yếu của
hoạt động tài chính cũng mang tính tổng hợp, đặc trưng; việc tính toán những chỉ tiêu
này cũng hết sức đơn giản, dễ tính toán và có thể ước tính được. [15,t168]
Cấu trúc tài chính là một khái niệm rộng, phản ánh cấu trúc tài sản, cấu trúc
nguồn vốn và cả mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn của DN. Phân tích cấu trúc
tài chính là việc phân tích khái quát tình hình huy động, sử dụng vốn và mối quan
hệ giữa tình hình huy động với tình hình sử dụng vốn của DN. Qua đó, giúp các nhà
quản lý nắm được tình hình phân bổ tài sản và các nguồn tài trợ tài sản, biết được
nguyên nhân cũng như các dấu hiệu ảnh hưởng đến cân bằng tài chính. Để phân tích
khái quát tình hình huy động vốn và sử dụng vốn, nhà phân tích tiến hành phân tích
cơ cấu tài sản và cơ cấu nguồn vốn. [10, t465]
• Phân tích cơ cấu tài sản:

Khi xem xét cơ cấu tài sản, ngoài việc so sánh tổng số tài sản cũng như từng
loại tài sản cuối năm so với đầu năm còn phải xem xét tỷ trọng từng loại tài sản
chiếm trong tổng số và xu hướng biến động của chúng để thấy được mức độ hợp lý
của việc phân bổ. Tỷ trọng này được tính như sau:
Tỷ trọng của từng bộ phận TS = Giá trị của từng bộ phận TS
Tổng số tài sản
Việc đánh giá mức độ hợp lý trong việc phân bổ tài sản phải căn cứ trên tính
chất của lĩnh vực, ngành nghề hoạt động sản xuất kinh doanh, tính thời vụ hoặc
chính sách đầu tư của DN. Có thể kể ra những điểm cần lưu ý khi đánh giá sau đây:
+ Về tiền và các khoản tương đương tiền: Để khắc phục những nhược điểm
mà chỉ tiêu “Tiền và các khoản tương đương tiền” trên bảng cân đối kế toán có thể
đem lại do tính thời điểm của chỉ tiêu này, khi xem xét cần liên hệ với tình hình
biến động của chỉ tiêu “Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của tiền và các
khoản tương đương tiền” đồng thời căn cứ vào nhu cầu thực tế về tiền của DN trong
từng giai đoạn để nhận xét. Khoản mục này có thể (tăng hoặc giảm) không phải do
ứ đọng (hay thiếu tiền) mà có thể do DN đang có kế hoạch tập trung tiền để chuẩn
bị đầu tư mua sắm vật tư, tài sản, … hay do DN vừa đầu tư vào một số lĩnh vực
kinh doanh,…[15,t182]
+ Về đầu tư tài chính: Khi xem xét khoản đầu tư này, cần liên hệ với chính
sách của DN cũng như môi trường đầu tư trong từng thời kỳ; bởi vì, không phải DN
nào cũng có điều kiện đầu tư tài chính. Hơn nữa, môi trường đầu tư cũng ảnh hưởng
nhiều đến tỉ trọng của khoản đầu tư này. Một điều có thể khẳng định rằng, trong
17
điều kiện hội nhập của nền kinh tế, đầu tư tài chính là cơ hội cần thiết để giúp DN
sử dụng vốn dôi thừa có hiệu quả; đồng thời tạo cho DN có nhiều cơ hội để nắm
bắt, học hỏi được kinh nghiệm và kiến thức quản lý kinh tế tiên tiến, góp phần thức
đẩy tăng trưởng kinh tế cũng như có điều kiện để ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào
sản xuất. [15,t182-t183]
+ Về các khoản phải thu: Đối với khoản phải thu khách hàng, tỷ trọng của loại
tài sản này phụ thuộc vào phương thức bán hàng, chính sách bán hàng, khả năng

quản lý nợ của DN. Nếu DN bán lẻ, bán hàng thu tiền ngay thì tỷ trọng khoản phải
thu thấp và ngược lại đối với DN bán buôn thì tỷ trọng này lại lớn. Nếu thời hạn tín
dụng dài, số dư định mức cho khách hàng cao thì tỷ trọng khoản phải thu lớn và
ngược lại. Tuy nhiên, tín dụng bán hàng lại ảnh hưởng đến doanh số bán hàng nên
khi đánh giá tính hợp lý của chỉ tiêu này cần đặt trong mối quan hệ với doanh thu
tiêu thụ của DN.
+ Về hàng tồn kho: Đối với hàng tồn kho, tỷ trọng loại tài sản này cũng phụ
thuộc đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của từng loại hình DN. Trong các
DN sản xuất có chu kỳ kinh doanh dài như xây lắp, đóng tàu, tỷ trọng hàng tồn kho
sẽ cao. Các DN thương mại, hàng tồn kho là đối tượng cơ bản trong kinh doanh nên
tỷ trọng cũng tương đối cao hơn so với các loại tài sản khác. Ngược lại, DN kinh
doanh dịch vụ thì tỷ trọng hàng tồn kho thấp. Tỷ trọng loại tài sản này còn phụ
thuộc vào chính sách dự trữ và tính thời vụ trong hoạt động kinh doanh của DN.
Ngoài ra khi phân tích tỷ trọng hàng tồn kho cần xem xét trong mối tương quan với
tăng trưởng DN.
+ Về tài sản cố định: Đối với TSCĐ, tỷ trọng của tài sản này trong tổng số đối
với từng ngành nghề là khác nhau. Tỷ trọng này thường cao đối với các DN sản
xuất, nhất là hoạt động trong những ngành có hàm lượng kỹ thuật cao: như công
nghiệp thăm dò khai thác dầu khí (90%) , ngành luyện kim (70%). Ngược lại, trong
các ngành kinh doanh thương mại, dịch vụ, thông thường tỷ trọng TSCĐ thấp,
ngoại trừ trong trường hợp kinh doanh khách sạn và hoạt động vui chơi giải trí. Do
những đặc điểm trên, để đánh giá tính hợp lý trong đầu tư TSCĐ cần xem xét đến
số liệu trung bình ngành. Ngoài ra, tỷ trọng TSCĐ còn phụ thuộc vào chính sách
đầu tư, phương pháp khấu hao mà DN đang áp dụng.
Trong trường hợp thu thập đầy đủ số liệu, nên phân tích sự biến động về tỷ
trọng của từng bộ phận tài sản chiếm trong tổng số tài sản của DN qua nhiều năm
khác nhau, đồng thời có thể so sánh với cơ cấu chung của ngành để việc đánh giá
được toàn diện hơn.
• Phân tích cơ cấu nguồn vốn:
18

Phân tích cơ cấu nguồn vốn được thực hiện nhằm đánh giá tình hình huy động
vốn của DN. Việc phân tích cơ cấu nguồn vốn cũng tiến hành tương tự với việc
phân tích cơ cấu tài sản. Ngoài ra việc so sánh sự biến động trên tổng số nguồn vốn
cũng như từng nguồn vốn cuối kỳ so với đầu năm, các nhà phân tích còn phải xem
xét tỷ trọng từng loại nguồn vốn chiếm trong tổng số và xu hướng biến động của
chúng nhằm đánh giá được khả năng tự chủ về mặt tài chính của DN cũng như mức
độ tự chủ, chủ động trong kinh doanh.
Tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn trong tổng số nguồn vốn được xác định
như sau:
Tỷ trọng của từng bộ phận NV = Giá trị của từng bộ phận NV
Tổng số nguồn vốn
Nếu nguồn vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng cao trong tổng số NV thì DN đủ
khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính và mức độ độc lập của DN đối với các chủ nợ
là cao và ngược lại. Qua việc xem xét cơ cấu nguồn vốn và sự biến động về cơ cấu
nguồn vốn của nhiều kỳ kinh doanh, gắn với điều kiện kinh doanh cụ thể các nhà
quản lý sẽ có quyết định huy động nguồn vốn nào với mức độ bao nhiêu là hợp lý,
bảo đảm hiệu quả kinh doanh cao nhất.
Cơ cấu nguồn vốn được xem là tối ưu là cơ cấu nguồn vốn với mục tiêu tối
thiểu hoá chi phí sử dụng vốn. Vì vậy, các nhà phân tích thường kết hợp phân tích chỉ
tiêu “chi phí sử dụng vốn bình quân”. Chỉ tiêu này được xác định bằng công thức:
CP
=
cfi
NV
nvi
n
i

=1
=

cfiTti
n
i
×

=1
[1.3]
Trong đó: nvi: Mức huy động của nguồn vốn i
NV: Tổng nhu cầu tài trợ (Tổng số vốn dự kiến huy động)
Cfi: Chi phí sử dụng nguồn vốn i
Tti: Tỷ trọng nguồn vốn i
Bằng phương pháp so sánh chi phí vốn bình quân kỳ phân tích với chi phí
vốn bình quân kỳ gốc để xác định chênh lệch sau đó tìm hiểu những nguyên nhân
dẫn đến chênh lệch, đặc biệt đề cập đến những lý do khiến DN lựa chọn chính sách
tài trợ có chi phí vốn cao.[2,t33]
Phân tích tình hình bảo đảm vốn cho hoạt động kinh doanh
Để tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, các DN cần phải có tài sản, bao
gồm tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn. Việc bảo đảm đầy đủ nhu cầu về tài sản là
một vấn đề cốt yếu để bảo đảm cho quá trình kinh doanh được tiến hành liên tục và
19
có hiệu quả. Phân tích tình hình bảo đảm vốn cho hoạt động kinh doanh chính là
việc xem xét mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn hình thành tài sản của DN.
Mối quan hệ này phản ánh cân bằng tài chính của DN. Vì thế, khi phân tích tình
hình bảo đảm vốn cho hoạt động kinh doanh, các nhà phân tích thường xem xét tình
hình bảo đảm vốn theo quan điểm luân chuyển vốn và tình hình bảo đảm vốn theo
quan điểm ổn định nguồn tài trợ cùng với cân bằng tài chính của DN.[15,t193-t194]
Xét theo quan điểm luân chuyển vốn, tài sản ban đầu của DN được hình
thành trước hết bằng nguồn vốn chủ sở hữu. Số tài sản ban đầu được tài trợ bằng
vốn chủ sở hữu này không bao gồm số tài sản trong thanh toán (khoản bị chiếm
dụng). Tuy nhiên trong quá trình hoạt động kinh doanh, khi vốn chủ sở hữu không

đáp ứng đủ nhu cầu về vốn cho kinh doanh, DN được phép đi vay để bổ sung vốn
kinh doanh. Loại trừ các khoản vay quá hạn thì các khoản vay ngắn hạn, trung hạn và
dài hạn (của Ngân hàng hay của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước) chưa đến
hạn trả, dùng cho mục đích kinh doanh đều được coi là nguồn vốn vay hợp pháp (vay
hợp pháp). Nếu số vốn chủ sở hữu và vốn vay hợp pháp hiện có của DN lớn hơn số
tài sản ban đầu, tức là không sử dụng hết số vốn hiện có, số vốn dư thừa của DN sẽ bị
chiếm dụng. Nếu lượng tài sản ban đầu phục vụ cho hoạt động kinh doanh của DN
lớn hơn số vốn chủ sở hữu và vốn vay hợp pháp, để có đủ tài sản phục vụ cho nhu
cầu kinh doanh, DN buộc phải đi chiếm dụng vốn trong thanh toán (chiếm dụng hợp
pháp và bất hợp pháp). Mặt khác, do tính chất cân bằng của Bảng cân đối kế toán,
tổng số tài sản luôn luôn bằng tổng số nguồn vốn nên ta có cân đối sau đây:
Vốn chủ sở hữu + Vốn vay hợp pháp + Nguồn vốn thanh toán = Tài sản ngắn
hạn + Tài sản dài hạn + Tài sản thanh toán
Cân đối này cho thấy: số vốn mà DN bị chiếm dụng (phần chênh lệch giữa
vốn chủ sở hữu và vốn vay hợp pháp lớn hơn số tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn
tương ứng) đúng bằng số chênh lệch giữa số tài sản phát sinh trong quá trình thanh
toán (nợ phải thu ngắn hạn và nợ phải thu dài hạn) với nguồn vốn chiếm dụng trong
thanh toán (nợ phải trả ngắn hạn và dài hạn) và ngược lại; số vốn mà DN đi chiếm
dụng (phần chênh lệch giữa số tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn lớn hơn số vốn
chủ sở hữu và vốn vay hợp pháp) đúng bằng số chênh lệch giữa nguồn vốn chiếm
dụng trong thanh toán (công nợ phải trả) với số tài sản phát sinh trong quá trình
thanh toán (nợ phải thu ngắn hạn và dài hạn). Cân đối này thể hiện cân đối giữa tài
sản và nguồn tài trợ tài sản của DN.[15,t200]
Phân tích tình hình đảm bảo vốn theo tính ổn định của nguồn tài trợ được
thực hiện dựa trên cơ sở phân chia nguồn hình thành nên tài sản sử dụng trong quá
trình hoạt động của DN thành hai loại tương ứng với thời gian luân chuyển tài sản
20
là nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn. Trong đó, nguồn vốn ngắn hạn là
nguồn tài trợ mà DN sử dụng tạm thời vào hoạt động trong một thời gian ngắn nên
còn gọi là nguồn tài trợ tạm thời. Nguồn vốn dài hạn là nguồn vốn mà DN được sử

dụng lâu dài trong quá trình hoạt động, thường xuyên tồn tại ở DN trong một chu kỳ
kinh doanh còn gọi là nguồn tài trợ thường xuyên.
Nguyên tắc cơ bản để đảm bảo cân bằng tài chính là: “Tài sản được tài trợ
trong một thời gian không thấp hơn thời gian chuyển hoá tài sản ấy”. Như vậy, khi
tính đến độ an toàn, ổn định trong việc tài trợ, nguyên tắc cân bằng tài chính đòi
hỏi: Tài sản dài hạn chỉ được tài trợ bởi nguồn vốn dài hạn (nguồn tài trợ thường
xuyên); nguồn vốn ngắn hạn (nguồn tài trợ tạm thời) chỉ tài trợ cho tài sản ngắn
hạn. Với nguyên tắc này, khi phân tích mức độ đảm bảo vốn theo tính ổn định,
nguồn tài trợ cần xác định phần nguồn vốn dài hạn, thường xuyên lưu lại DN được
sử dụng để tài trợ cho tài sản luân chuyển liên tục, thời gian luân chuyển ngắn (tài
sản ngắn hạn). Phần nguồn vốn dài hạn tài trợ cho Tài sản ngắn hạn được gọi là vốn
lưu chuyển. Nếu DN có vốn lưu chuyển thì có thể coi đây là dấu hiệu an toàn đối
với DN vì nó cho phép DN đương đầu được với những rủi ro có thể xảy ra. Để có
căn cứ đánh giá tính ổn định và bền vững của cân bằng tài chính, khi phân tích, các
nhà phân tích cần thiết phải xem xét sự biến động của vốn lưu chuyển trong nhiều
kỳ liên tục. Điều đó vừa khắc phục được sự sai lệch về số liệu do tính thời vụ hay
chu kỳ kinh doanh của doanh nghiêp lại vừa cho phép dự đoán được tính ổn định và
cân bằng tài chính trong tương lai.
Căn cứ vào Bảng cân đối kế toán, có thể khái quát cân bằng tài chính của DN
theo góc độ ổn định nguồn tài trợ qua đẳng thức:
Tài sản NH + Tài sản DH =
Nguồn vốn NH
(Nguồn tài trợ TT)
+
Nguồn vốn DH
(Nguồn tài trợ TX)
Hay:
Tài sản NH - Nguồn tài trợ TT = Nguồn tài trợ TX - Tài sản DH
Như vậy, phân tích tình hình tài trợ thực chất là xem xét mối quan hệ giữa
Nguồn vốn dài hạn (bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu và vay dài hạn) với Tài sản dài

hạn hay Tài sản ngắn hạn với Nguồn vốn tạm thời.
Ngoài ra, để có nhận xét xác đáng và chính xác về tình hình bảo đảm vốn cho
hoạt động kinh doanh, các nhà phân tích còn quan tâm tới các chỉ tiêu sau:[15,t205]
• Hệ số tài trợ thường xuyên:
Hệ số tài trợ thường xuyên =
Nguồn tài trợ thường xuyên
[1.4]
Tổng nguồn vốn
Hệ số cho biết so với tổng nguồn tài trợ tài sản của DN (nguồn vốn), nguồn
21
tài trợ thường xuyên chiếm mấy phần. Trị số của chỉ tiêu này càng lớn, tính ổn định
và cân bằng tài chính của DN càng cao và ngược lại.
• Hệ số tài trợ tạm thời:
Hệ số tài trợ tạm thời =
Nguồn tài trợ tạm thời
[1.5]
Tổng nguồn vốn
Hệ số cho biết so với tổng nguồn tài trợ tài sản của DN (nguồn vốn), nguồn
tài trợ tạm thời chiếm mấy phần. Trị số của chỉ tiêu này càng nhỏ, tính ổn định và
cân bằng tài chính của DN càng cao và ngược lại.
• Hệ số vốn chủ sở hữu so với nguồn tài trợ thường xuyên:
Hệ số VCSH so với
=
Vốn chủ sở hữu
[1.6]
Nguồn vốn tài trợ thường xuyên
Hệ số cho biết trong tổng số nguồn tài trợ thường xuyên, số vốn chủ sở hữu
chiếm mấy phần. Trị số của chỉ tiêu này càng lớn, tính tự chủ và độc lập về tài
chính của DN càng cao và ngược lại.
• Hệ số giữa nguồn tài trợ thường xuyên so với tài sản dài hạn:

Hệ số giữa nguồn vốn thường xuyên
=
Nguồn vốn thường xuyên
[1.7]
Tài sản dài hạn
Hệ số cho biết, mức độ tài trợ tài sản dài hạn bằng nguồn vốn thường xuyên
(nguồn tài trợ thường xuyên). Trị số của chỉ tiêu này càng lớn hơn 1, tính ổn định và
bền vững về tài chính của DN càng cao và ngược lại, trị số của chỉ tiêu này càng
nhỏ hơn 1, DN càng bị áp lực nặng nề trong thanh toán nợ ngắn hạn, cân bằng tài
chính ở trong tình trạng xấu, không ổn định.
• Hệ số giữa tài sản ngắn hạn so với nợ ngắn hạn:
Hệ số giữa tài sản ngắn hạn
=
Tài sản ngắn hạn
[1.8]
Nợ ngắn hạn
Hệ số cho biết, mức độ tài trợ tài sản ngắn hạn bằng nợ ngắn hạn là cao hay
thấp. Trị số của chỉ tiêu này càng lớn hơn 1, tính ổn định và bền vững về tài chính
của DN càng cao và ngược lại.
Phân tích tình hình và khả năng thanh toán
Bằng việc phân tích tình hình thanh toán và khả năng thanh toán của DN, các
nhà phân tích có thể đánh giá được chất lượng hoạt động tài chính, nắm được việc
chấp hành kỷ luật thanh toán đánh giá được sức mạnh tài chính hiện tại, tương lai
cũng như dự đoán được tiềm lực trong thanh toán và an ninh tài chính của DN.
Thực tế cho thấy, một DN có hoạt động tài chính tốt và lành mạnh, sẽ không
phát sinh tình trạng dây dưa nợ nần, chiếm dụng vốn lẫn nhau, khả năng thanh toán
22

×