Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI Biểu tượng kép trong ca dao Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.15 KB, 28 trang )

Biểu tượng kép trong ca dao Việt Nam
(Nhân đọc Một biểu tượng kép về sự thuỷ chung trong ca dao)

----Con người ta đang sống trong một thế giới biểu tượng. Hay nói cách khác, một
thế giới biểu tượng đang sống trong mỗi chúng ta. “Biểu tượng là cái gì ngồi ý nghĩa
vốn có của nó cịn hàm chứa một ý nghĩa khác, tức là ngồi nghĩa đen cịn có nghĩa
bóng”( K.G. Jung) . Nghiên cứu về biểu tượng là lĩnh vực đã và đang được các nhà khoa
học thuộc nhiều ngành khác nhau quan tâm. Các biểu tượng góp phần làm nên bộ mặt
của một nền văn hóa ở những đường nét cơ bản nhất. những ý nghĩa hàm ẩn mà biểu
tượng khơi gợi ra như một quy ước thẩm mỹ của cộng đồng…
Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao là những kí hiệu ngơn ngữ được lặp đi lặp lại
nhiều lần, có khả năng biểu hiện những ý nghĩa sâu xa; là những hình ảnh đã được dân
gian chọn lọc trong sử dụng và được thử thách qua nhiều năm tháng, thể hiện đậm nét
những đặc trưng truyền thống của VHDG.
Trong hệ thống biểu tương văn học dân gian, “Muối mặn-Gừng cay” thuộc biểu
tượng mang tính dân tộc. Tác giả Khải Nguyên đã rất tinh tế khi đưa ra những phân tích
lý giải :" Khơng phải ngẫu nhiên mà các từ có yếu tố “cay” đều có chung nét nghĩa bất
ổn, không lành (cay cú, cay cực, cay đắng, cay độc, cay nghiệt, chua cay, sâu cay…), còn
các từ có yếu tố “mặn” thì lại thể hiện sự thân thiết, gắn kết (mặn mà, mặn mòi, mặn
nồng…). Trong các vị thơng thường, thì cay, đắng thuộc dương; mặn, ngọt, chua thuộc
âm. “Cay” gây ra bứt rứt, nóng nảy, “cay như hớt”, “cà cuống chết đến đít vẫn cịn cay”,
quả là khó qn. “Mặn” hầu như khơng có tác dụng ngay, mà âm ỉ theo thời gian “ăn
mặn, khát nước” (đời cha ăn mặn, đời con khát nước) hoặc phải rút kinh nghiệm “mặn
mất ngon, giận mất khôn”, cũng không phải dễ quên.
Xét mặt “mùi đời”, có thể coi đây là hai “vị chủ”, tiêu biểu cho mặn nồng và cay
đắng, hai trạng thái của con người hay hai cách cư xử về một con người. Nhấn mạnh
“cay”, “mặn”; hai mặt đối lập của một chỉnh thể (“đĩa muối chấm gừng”) như vậy, cho
thấy sự nhìn nhận vấn đề hơn nhân rất khách quan: cay đắng hay mặn nồng là hai trạng
thái, tình huống song song tồn tại trong quan hệ vợ chồng, quan hệ giữa người khác với



vợ chồng… Muối mặn - gừng cay là một biểu tượng kép bởi nó chứa đựng trong mình
nhiều tầng ý nghĩa, tượng trưng cho đơi bạn trẻ, cho ‘tình dun”, thủy chung trong hơn
nhân. "Khi tách riêng hai hình ảnh muối và gừng; lúc này mỗi hình ảnh có nghĩa biểu vật

và theo ngữ cảnh riêng, không mang nét nghĩa của biểu tượng ". (Khải Nguyên, Một biểu
tượng kép về sự thuỷ chung trong ca dao: Muối mặn-Gừng cay. (Nguồn:
).
Tương tự, "trầu-cau", "mai – trúc", “cây đa, giếng nước, ngơi đình”... Chỉ khi
được đặt trong "quần thể" của nó, ta mới thấy hết được ý nghĩa của biểu tượng này. Vì
thế từ bao đời nay những hình ảnh này vẫn tồn tại bên nhau trong các làng quê Việt
Nam.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, có những trường hợp, các hình ảnh khơng đứng trong
"quần thể", người ta vẫn xem là "biểu tượng kép". Trong VHDG, mỗi biểu tượng nhiều
khi khơng chỉ có một nghĩa. Trong q trình lưu truyền, các tác giả dân gian không
ngừng mở rộng đối tượng nhận thức qua các biểu tượng, vì vậy, các tín hiệu thẩm mỹ
này thường mang tính đa nghĩa. Khi xây dựng biểu tượng, nghệ nhân dân gian đã qua
sự chọn lựa, sàng lọc từ sự vật một hoặc một số khả năng gợi liên tưởng nào đó, tạo ra
cho sự vật những ý nghĩa mới. Những nét nghĩa này được sử dụng nhiều lần, được tập
thể công nhận và trở thành nghĩa biểu tượng. Khi ấy, người ta hiểu ý nghĩa của biểu
tượng theo một thứ phản xạ được xây dựng bằng thói quen, bằng quy ước văn hóa của
cộng đồng.
Chẳng hạn, ngày xưa các cô thôn nữ dùng yếm để che ngực. Cái yếm thường là
do người dùng tự cắt may. Chính vì thế mà nó trở thành biểu tượng nữ tính:

-Ước gì sơng rộng một gang
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi
-Trầu em têm tối hôm qua

Cất trong dải yếm mở ra mời chàng
- Đàn ơng đóng khố đuôi lươn

Đàn bà yếm thắm hở lườn mới xinh
- Yếm trắng mà vó nước hồ
Vó đi vó lại anh đồ yêu thương…


Hình ảnh chiếc cầu trong ca dao được nhắc đến rất nhiều: cầu tre, cầu ván,

cầu đá, cầu xây…cầu mùng tơi, cầu sợi chỉ, cầu cành hồng … Chiếc cầu dải yếm khơng có
trong thực tế nhưng lại là chiếc cầu đẹp nhất, nên thơ và gợi cảm nhất trong ca dao.
Bản "thiết kế" của "kiến trúc sư" trong bài ca dao này chắc chắn là của một người con
gái ở độ tuổi mười tám, đơi mươi… tình u vừa chớm nở. Người con gái nghĩ ra chiếc
cầu này là để "bắc" riêng cho một người "sang chơi". Ý nghĩ đó thật táo bạo, tinh nghịch
nhưng cũng rất đằm thắm và đầy nữ tính, thể hiện ước muốn được gần nhau. Người con
gái đã nghĩ thật và nói thật, nhưng là cái thật của ước mơ, khát vọng chứ không phải là
cái thật trong hiện thực cuộc đời. Trong trường hợp này, chiếc yếm trở thành biểu
tượng cho khát vọng tình u mãnh liệt của những chàng trai, cơ gái lao động trong xã
hội xưa.
Yếm là mảnh vải hình vng (hoặc hình thoi) đeo trước ngực, phía trên kht trịn
làm cổ, hai góc bên đính với dải để buộc ra sau lưng. Khi trời nóng bức, người ta mặc váy
yếm, hai tay và lưng để trần. Yếm có nhiều mầu sắc: yếm nâu mặc đi làm đồng, yếm
trắng mặc thường ngày. Yếm thắm, yếm đỏ, yếm hồng, yếm đào mặc trong dịp lễ hội…
Trang phục lễ hội cổ truyền, người thiếu nữ khơng thể khơng có hình ảnh cái yếm (Xem
thêm: Ý nghĩa nhân văn trong trang phục truyền thống - Trần Ngọc Dung).
Như vậy, chiếc yếm cũng đã trở thành một biểu tượng kép: vừa là biểu tượng nữ

tính, vừa là biểu tượng cho một khát vọng tình yêu, may mắn, hạnh phúc. Hay hình ảnh
mái đình, cây đa vẫn được xem một biểu tượng của làng quê truyền thống. Khi người ta
ví người nào đó với "cây đa, cây đề" thì cây đa trở thành biểu tượng cho sức làm việc
qn mình, dẻo dai, cho sự tích lũy kiến thức phong phú… Có khi cây như như một nhân
chứng của thời gian, chứng kiến những sự đổi thay của con người, của đất trời:


-Trǎm nǎm dầu lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ con đò khác đưa.
-Cây đa cũ, bến đị xưa
Bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ
Có khi, cây đa còn là biểu tượng tâm linh của con người:

-Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề
-Cây thị có ma, cây đa có thần


"Cây đa xanh tốt tỏa bóng làm cho các di tích trở nên linh thiêng hơn.... Cây đa
được coi là nơi ngự trị của các thần linh dân dã và các linh hồn bơ vơ. Cây đa nào càng
già cỗi, càng xù xì, rậm rạp thì càng gắn bó với thần linh. Gốc đa ở các di tích thường
được dân chúng thắp hương chung để tỏ lịng tơn kính các vị thần linh dân dã hoặc cầu
cho những linh hồn bơ vơ về nương nhờ lộc Phật không đi lang thang quấy nhiễu dân
làng"

(Nguồn: />Như vậy, cây đa là biểu tượng đẹp với nhiều ý nghĩa : vừa gần gũi với cuộc sống

người dân , vừa mang đậm yếu tố tâm linh của con người Việt Nam. Tính chất "biểu
tượng kép" của cây đa chính là ở đó…
Muốn hiểu được đầy đủ, trọn vẹn ý nghĩa của biểu tượng, cần có vốn sống, vốn
văn hóa, vì mỗi biểu tượng đều có một tầng nền lịch sử - xã hội - văn hóa riêng của nó.
Bài viết của Khải Nguyên là một sự tìm tịi, nghiên cứu nghiêm túc. Với một người làm
cơng tác sưu tầm, nghiên cứu VHDG, đi tìm những "biểu tượng kép" trong ca dao là một
công việc thú vị. Từ bài viết này, mong tác giả Khải Nguyên có thể phát triển, mở rộng ra
thành một đề tài lớn hơn "Đi tìm những biểu tượng kép trong ca dao Việt Nam" thì sẽ
thú vị và có ý nghĩa lớn lao hơn.
Có thể là như thế.


LÀM THẾ NÀO ĐỂ PHÁT HIỆN VÀ BỒI DƯỠNG HỌC
SINH GIỎI Ở TRƯỜNG THPT KHÔNG CHUYÊN
1. Đặt vấn đề
1.1. Bàn về chuyện dạy văn trong khơng khí văn chương buồn
tẻ như ở nhà trường THPT hiện nay đã khó, nói đến chuyện bồi
dưỡng học sinh giỏi (HSG) mơn văn lại càng khó hơn. Với tôi,
chuyện người thầy phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi cũng như
người trồng hoa. Bông hoa đẹp bởi bàn tay người chăm bón, nâng
niu. Nhưng đâu phải khi nào hoa cũng khoe sắc rực rỡ. Chỉ cần


một cơn trở gió, một sự thay đổi tiết trời, một sự lãng quên, bất
cẩn của người là hoa kém sắc, cây khơng trổ bơng.
Có đồng nghiệp nói với tơi rằng, giỏi văn chỉ là "thiên bẩm".
Là người trực tiếp giảng dạy môn văn đã nhiều năm ở phổ thông,
tôi không nghĩ như vậy. Với tôi, người thầy dạy văn trong trường
học không phải là chất xúc tác trong quá trình biến đổi chất!
Năng khiếu và tri thức văn chương nói riêng, tri thức văn hố nói
chung được bồi đắp theo năm tháng, gắn liền với sự nhạy bén của
tố chất cá nhân đã làm nên hồn văn ở học sinh.
1.2. Trong nhà trường THPT, nhất là ở những trường không
chuyên, việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi như thế nào để
đạt kết quả tốt, quả là một vấn đễ không đơn giản. Trường Huỳnh
Thúc Kháng chúng tôi, việc bồi dưõng HSG đã có sự quan tâm và
đầu tư nhất định. Hằng năm, qua các kỳ thi HSG tỉnh chúng tôi đã
gặt hái được những thành công đáng kể. Song đáng tiếc là số học
sinh đạt giải môn văn lại chưa nhiều. Điều này có nguyên nhân từ
cả hai phía. Trước hết là từ phía người thầy. Do phải bám sát việc
thực hiện theo phân phối chương trình, người thầy khơng có điều

kiện đầu tư về chiều sâu trong giờ giảng; thời gian tập trung bồi
dưỡng cho HSG cũng khơng nhiều (thường thì những em được
chọn đi thi HSG chỉ được tập trung bồi dưỡng 8 - 10 buổi); Trong
số thời gian hạn hẹp đó, giáo viên bộ môn được phân công mỗi
người dạy từ 2- 3 buổi; mỗi người dạy theo cách riêng của mình.
Về phía học sinh, ngồi vấn đề năng khiếu, do phải học nhiều
mơn nên việc đầu tư thời gian tự bồi dưỡng môn văn không được


nhiều, quyết tâm đoạt giải của các em lại chưa cao. Thiết nghĩ,
việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi nếu được đầu tư một
cách thích đáng và và tiến hành bài bản, kết quả sẽ khả quan hơn.
Và kéo theo đó là hứng thú học văn sẽ phần nào được cải thiện.
Việc phát hiện bồi dưỡng năng khiếu văn chương, vì vậy, là việc
cần phải ý thức thường xuyên, trước hết là đối với những giáo
viên trực tiếp giảng dạy. Năng khiếu văn, càng được phát hiện và
bồi dưỡng sớm bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Nhưng phát hiện và
bồi dưỡng như thế nào cho có hiệu quả là cả một vấn đề cần được
trao đổi kỹ lưỡng…
2. Phát hiện Học sinh giỏi văn
2.1. Thế nào là học sinh giỏi văn?
HSG văn trước hết phải là những học sinh có niềm say
mê, u thích văn chương. Sự say mê ấy phải được biểu hiện
thường xuyên, liên tục và bằng ý thức tự giác trong học tập, như
soạn bài cẩn thận chu đáo, luôn chủ động tiếp thu kiến thức trong
giờ học, đặc biệt phải thể hiện rõ ý thức trách nhiệm trong các bài
làm văn theo quy định của chương trình và những bài luyện tập,
thực hành rèn luyện kỹ năng mà giáo viên hướng dẫn. Sự say mê
sẽ giúp các em chịu khó tìm tài liệu để mở mang kiến thức. Và
quan trọng hơn là nó giúp học sinh phát huy được trí tưởng

tượng, sự liên tưởng để sống sâu sắc hơn với những cái mình đã
đọc, đã học.


HSG văn là những học sinh có những tư chất bẩm sinh,
như tiếp thu nhanh, có tri nhớ bền vững, có khả năng phát hiện
vấn đề và có khả năng sáng tạo (có ý tưởng mới trong bài làm).
HSG văn phải có vốn tri thức phong phú và hệ thống,
thuộc nhiều thơ văn trong và ngồi chương trình qua sự tìm đọc,
tích luỹ; phải có sự hiểu biết càng nhiều càng tốt về con người và
xã hội.
Chẳng hạn nhờ có sự say mê tìm đọc mà một học sinh đã biết
thêm ý kiến của thầy giáo Mai Văn Hoan về cách hiểu câu thơ:
"Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng" là phải dựa vào đặc điểm
cây bồ đề - một loại cây cao chừng15m, búp non, phủ lông mịn
màu vàng, hoa nhỏ mọc thành chùm. Bồ đề có hai loại : loại hoa
trắng gọi là cánh kiến trắng, loại hoa vàng gọi la cánh kiến vàng.
Loại cánh kiến hoa vàng thường mọc trên vùng sỏi sạn ở độ cao
300-700 m. Nhựa của nó vừa là loại thuốc q , vừa để chế ra chất
keo gắn kết rất chặt. Phải chăng vì những phẩm chất đó mà nhà
thơ Chế Lan Viên so sánh "Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng" một tình yêu đẹp được ươm mầm trong gian khổ, khó khăn và
khăng khít keo sơn mãi mãi.
Một trong những biểu hiện khơng thể thiếu và thường khó
giấu của HSG văn là rất giàu cảm xúc và thường nhạy cảm trước
mọi vấn đề, trước cuộc sống. Biểu hiện thường thấy ở những học
sinh này là dễ vui nhưng cũng rất dễ buồn trước những vấn đề đặt
ra trong tác phẩm và nhất là do sự tác động qua lời giảng của giáo
viên. Thường thì đây là những học sinh sống rất tình cảm, thích



gần gũi với thầy cô, bạn bè và với mọi người, hay bộ lộ quan
điểm tình cảm và chiều sâu nội tâm của mình thơng qua cách phát
biểu trực tiếp hoặc gián tiếp qua các bài viết. Sự nhạy cảm ở các
em luôn gắn liền sự thông minh và theo tơi thì sự thơng minh của
HSG văn là sự thơng minh của cả khối óc lẫn con tim.
HSG văn là những học sinh có vốn từ tiếng Việt khá dồi
dào, biết sử dụng chính xác chúng trong những trường hợp khác
nhau. Thường những em HSG văn đều có khả năng diễn đạt mượt
mà, giàu cảm xúc, giàu hình ảnh, diễn đạt hàm súc và có bản sắc
riêng. Năng khiếu ở HSG văn thường đi kèm với các biểu hiện
bên ngoài như ánh mắt sáng, cách nói lưu lốt, gãy gọn bởi ngôn
ngữ diễn đạt là cái vỏ của tư duy. Một học sinh hay nói lay, nói
lặp, nói dài dịng mà lượng thơng tin ít, khả năng lựa chọn ngơn
ngữ trong diễn đạt hạn chế … quyết không thể là một học sinh có
tư duy trong sáng và có năng khiếu học văn. HSG văn thường là
những học sinh nắm chắc các kỹ năng làm bài nghị luận.
2.2. Phát hiện học sinh giỏi văn
Từ quan niệm về HSG nói trên, việc phát hiện và bồi
dưỡng học sinh giỏi cần được tiến hành từ đầu lớp 10. Cơ sở của
việc tuyển chọn của chúng tơi là:Thứ nhất, tìm hiểu kết quả của
học sinh ở cấp THCS qua điểm tổng kết, điểm thi tốt nghiệp,
điểm thi học sinh giỏi và nếu có thể, tham khảo thêm ý kiến giáo
viên đã trực tiếp giảng dạy học sinh ở cấp học đó để nắm bắt
những mặt mạnh, mặt yếu của học sinh.Thứ hai, chúng tôi xem
bài viết đầu tiên của học sinh (đặc biệt là học sinh lớp 10) như


một dấu ấn để bắt đầu cuộc hành trình phát hiện năng khiếu của
học sinh. Công việc của người thầy trong bài đầu tiên này là kiểm
tra chất giọng, chất văn, cách nghĩ của học trò. Những học sinh

đạt được cả chất văn và ý văn trong một bài viết không phải
nhiều, không phải đều. Cái tật lộ ra ở từng học trò phải được nhận
biết, nét tài hoa của từng học sinh cần phải được ghi nhận và trân
trọng. Khi chấm bài, thầy cô không chỉ chú trọng những bài chu
đáo, khn mẫu, đầy đủ...mà cịn quan tâm đến những bài có thể
có chỗ chưa sâu, nhưng có chỗ độc đáo, sâu sắc… phải sửa kỹ,
phê kĩ, thật sự nghiêm khắc khi đánh giá và có nhật kí chấm bài.
Dĩ nhiên, một bài viết không thể đánh giá được q trình nhưng
đó là sự khởi đầu để định hướng phát hiện, bổ sung ở những bài
viết tiếp theo vì việc tuyển chọn HSG không chỉ dừng lại ở một
số bài viết mà phải theo dõi cả quá trình học tập.
3. Bồi dưỡng HSG văn
3.1. Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng HSG
Theo phân phối chương trình mơn văn, số tiết dạy chính
khố trong tuần của giáo viên ở trường THPT không chuyên, chỉ
bằng 1/2 số tiết dạy của giáo viên trường chuyên. Thời lượng để
dạy một tác phẩm cũng ít hơn rất nhiều. Vì vậy, giáo viên khơng
có điều kiện đi sâu, giảng kỹ tác phẩm; học sinh ít có cơ hội để
được ôn luyện bài bản như học sinh ở các trường chuyên. Đây là
một thực tế hết sức bất lợi cho cả thầy và trị trường khơng
chun trong những kì thi HSG tỉnh vì cả học sinh trường chuyên
và không chuyên đều cùng thi chung một đề (dĩ nhiên, những học


sinh trường chuyên là những học sinh đã được tuyển chọn kỹ
lưỡng lúc vào trường lại được học tập, bồi dưỡng có hệ thống sẽ
có lợi thế hơn nhiều so với các em ở trường khơng chun).
Những khó khăn đó chính là bài tốn nan giải đối với những giáo
viên giảng dạy ở trường không chuyên như chúng tôi. Tuy nhiên,
dù khó khăn bao nhiêu chúng tơi cũng phải tìm được một cách

giải, một lối thốt cho mình.
Sau khi đã phát hiện và thành lập được đội ngũ HSG
công việc tiếp theo là xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch
bồi dưỡng HSG (Bao gồm cung cấp kiến thức, hướng dẫn tự học
và rèn luyện kỹ năng). Các khâu trên càng thực hiện chu đáo bao
nhiêu, kết quả càng tốt bấy nhiêu. Trong phạm vi SKKN này tôi
chỉ xin trình bày, trao đổi một vài kinh nghiệm trong việc rèn
luyện kỹ năng làm văn cho HSG trong khoảng thời gian cho phép
của nhà trường.
3.2. Các bước rèn luyện kỹ năng làm văn
3.2.1. Cách lựa chọn hướng ra đề
Thực tế giảng dạy giúp tôi ý thức một cách sâu sắc
rằng, việc ra đề là khâu quan trọng đầu tiên của quá trình phát
hiện, kiểm tra, đánh giá và lựa chọn HSG. Đề đúng và hay sẽ
phân hố được trình độ học sinh, giúp người thầy nắm trúng điểm
mạnh, điểm yếu của mỗi học sinh từ đó có thể đánh giá khách
quan, chính xác, cơng bằng năng lực, sự cố gắng vươn lên của
học sinh; đồng thời tạo được niềm tin và hứng thú học tập cho


học sinh, khi hiểu được năng lực của mình. Ngược lại, đề thiếu
chính xác, sáo mịn khơng những khơng đánh giá được chính xác
về năng lực học sinh mà cịn làm giảm thiểu hững thú học văn,
tính độc lập sáng tạo của học sinh. Và hậu quả của nó là việc rèn
kỹ năng sẽ trở nên vô nghĩa.
Theo dõi hướng ra đề thi học sinh giỏi các cấp trong
những năm qua, chúng tơi nhận thấy, đề thường có sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa kiến thức về lý luận văn học và cảm thụ văn
chương. Phạm vi thường xoay quanh những vấn đề cốt lõi của
chương trình như: chức năng và đặc trưng của văn học nghệ

thuật, phẩm chất của người nghệ sỹ, phong cách của nhà văn...
hoặc phân tích một tác phẩm văn học đặc sắc, trong đó khơng ít
tác phẩm còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau (Chẳng hạn :Trao
dun, Hai đứa trẻ, Mùa xn chín, Đây thơn Vĩ Dạ, Tống biệt
hành, Thơ duyên...), hoặc phân tích một số tác phẩm để nêu bật
một vấn đề nào đó liên quan đến phong cách của một tác gia, hay
một đặc điểm quan trọng của tiến trình lịch sử văn học dân tộc...
Nhìn chung, tinh thần nhất quán của đề thi HSG là theo sát
chương trình. Từ nhận thức đó, trong quá trình ra đề rèn luyện kỹ
năng cho học sinh, tôi thường tập trung vào một số dạng đề cơ
bản sau:
a. Đề kiểm tra khả năng cảm thụ tác phẩm văn học
Dạng đề này phải gắn với những tác phẩm hay có trong chương
trình.


Ví dụ:
+ Nhận xét về nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình"của Nguyễn Du trong
Truyện Kiều , có ý kiến cho rằng:
" Thiên nhiên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là thiên nhiên
biết xúc động, biết cảm nhận được mọi tâm trạng con người. Nó
hiện lên như một người bạn tri kỷ, cùng chịu đựng nỗi đau, cùng
chia sẻ niềm vui với con người. "
Dựa vào những hiểu biết của em về Truyện Kiều, hãy làm sáng tỏ
ý kiến trên.
+ Kết thúc tác phẩm "Đời thừa", nhân vật Hộ tự xỉ vả mình:
-Anh …anh…chỉ là …một thằng…khốn nạn!…
Cịn nhân vật Từ nói:
-Khơng!…Anh chỉ là một người khổ sở... chính vì em mà anh
khổ!

Từ kết thúc trên, anh (chị) phân tích và bình luận về tình cảm
nhân đạo sâu sắc của nhà văn Nam Cao được thể hiện trong tác
phẩm.
+ Phân tích vẻ đẹp của dịng sơng Bạch Đằng trong bài Bạch
Đằng giang phú của Trương Hán Siêu
Qua dạng đề này có thể kiểm tra được kiến thức cơ bản của học
sinh về tác phẩm: nắm hệ thống chi tiết, hình ảnh; hiểu khái quát


giá trị nội dung- nghệ thuật của tác phẩm; năng lực chọn lựa và
cảm thụ tác phẩm nghệ thuật ở nhiều cấp độ khác nhau: chỉnh thể
tác phẩm - hình tượng - chi tiết, hình ảnh, ngơn ngữ…
b. Đề kiểm tra kiến thức về lý luận văn học và cảm thụ tác phẩm
Dạng đề này yêu cầu học sinh phải bao quát được những vấn đề
cơ bản của lí luận văn học và soi sáng nó vào những tác phẩm văn
học cụ thể.
Ví dụ:
+Bàn về thơ, R.Tagore viết:
" Cũng như nụ cười và nước mắt, thực chất của thơ là phản ánh
một cái gì đó hồn thiện từ bên trong". Anh (chị) hãy:
1. Bình luận ý kiến trên.
2. Qua bài thơ "Bên kia sơng Đuống" của Hồng Cầm, hãy làm
sáng tỏ ý kiến trên .
+Nhà văn Nguyễn Đình Thi viết: "tác phẩm văn học lớn hấp dẫn
người ta bởi cách nhìn mới, tình cảm mới, về những việc, những
điều mà ai cũng biết cả rồi" (Trích : Nhà văn nói về tác phẩmNXBVH, 1998, Tr 260) . Anh (chị) hãy bình luận câu nói trên và
phân tích sức hấp dẫn của một tác phẩm văn học mà anh (chị) cho
là lớn.
Với dạng đề này có thể kiểm tra được kiến thức của học
sinh về những vấn đề lí luận văn học cơ bản: đặc trưng văn học,



đặc trưng thể loại, phong cách nghệ thuật, bản chất của lao động
nghệ thuật, giá trị và chức năng của văn học, vai trò của văn học
đối với đời sống v.v…đồng thời củng cố kiến thức cơ bản về tác
phẩm văn học, gắn lí luận văn học với việc cảm thụ cái hay, cái
đẹp của tác phẩm. Qua lí luận văn học, học sinh có căn cứ khoa
học để hiểu sâu hơn tác phẩm và ngược lại, qua tác phẩm, học
sinh hiểu và biết khái quát năng cao thành những vấn đề lí luận
văn học cơ bản.
c. Đề rèn luyện kỹ năng so sánh văn học
Đây là một trong những dạng đề khó, nhưng học sinh dễ
có cơ hội để phát huy năng khiếu và sở trường riêng của một
HSG. Nó địi hỏi học sinh vùa nắm được những vấn đề cụ thể, chi
tiết, vừa biết khái quát tổng hợp và lý giải vấn đề. Có thể so sánh
tác phẩm cùng đề tài, cảm hứng trong một giai đoạn văn học, của
một tác giả hoặc khác giai đoạn, khác tác giả…
Ví dụ:
+ Có ý kiến cho rằng, "Mời trầu" và "Tự tình", hai bài thơ, hai
giọng điệu khác nhau nhưng cùng một "chất" Xuân Hương. Hãy
phân tích và làm sáng tỏ ý kiến trên.
+So sánh sự giống và khác nhau giữa bài thơ "Thu vịnh" của
Nguyễn Khuyến và " Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu.
+ So sánh bức tranh mùa thu trong thơ Xuân Diệu qua bốn câu
mở đầu bài "Thơ duyên" và "Đây mùa thu tới".


+ Vẻ đẹp hình tượng người lính qua hai bài thơ "Đồng chí " của
Chính Hữu và "Tây Tiến" của Quang Dũng.
+ Phân tích đặc sắc riêng về cảm hứng đất nước ở bài thơ "Đất

nước" của Nguyễn Đình Thi và "Đất nước" ( Chương V -Trích
Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm.
+ Những tương đồng và khác biệt trong cách cảm nhận và thể
hiện số phận người nông dân nghèo qua hai tác phẩm Vợ chồng
A Phủ (Tô Hoài) và Vợ nhặt (Kim Lân).
3.2.2. Rèn luyện kỹ năng phân tích đề
Xét đến cùng, việc dạy HS làm bài, rèn luyện kỹ năng nghị luận
văn học là một trong những khâu quan trọng, ảnh hưởng quyết
định đến kết quả thi HSG. Đây là khâu yếu nhất của HS (kỹ năng
phân tích đề, lập dàn ý, dựng đoạn, liên kết đoạn, đưa dẫn chứng,
phân tích dẫn chứng...).
Trước hết, trong thời gian bồi dưỡng, giáo viên cần cho học sinh
làm quen với nhiều dạng đề thi HSG, đặc biệt là những dạng đề
có cách diễn đạt có thể gây ngộ nhận hoặc có thể hiểu u cầu đề
khơng thấu đáo. Chẳng hạn ở đề bài "Nét mới lạ về hình tượng
người lính qua bài Tây Tiến của Quang Dũng"
Học sinh khi phân tích đề đã nhận diện bản chất của đề rất khác
nhau. Một số em cho rằng yêu cầu của đề là chỉ ra nét độc đáo
(lạ) của hình tượng người lính trong bài "Tây tiến" trong tồn bộ
thơ ca Việt Nam viết về người lính. Chỉ có một số ít là hiểu đúng


và hiểu trúng yêu cầu đề là phải chỉ ra những nét độc đáo nhưng
phải "mới" (chứ không phải là "khác lạ") trong cách cảm nhận và
lối thể hiện hình tượng người lính của của Quang Dũng. Muốn
đạt được yêu cầu đó, bài làm phải bám sát bài thơ Tây Tiến và
những bài thơ viết về người lính trong thơ ca Việt Nam trước đó
và cùng thời (chứ khơng lấy dẫn chứng về những bài thơ cùng
viết về người lính ở cả những giai đoạn sau) .
Sau khi đã nhận diện đúng yêu cầu đề, việc xác định thao tác nghị

luận chỉ cần củng cố và hệ thống lại. Điều cần lưu ý với học sinh
là dù đề thi HSG có u cầu hay khơng, học sinh vẫn phải vận
dụng nhiều thao tác nghị luận khác nhau trong một bài làm ( Phân
tích, giải thích, chứng minh, bình luận, so sánh…). Điều quan
trọng là xác định thao tác nào là chính, thao tác nào là bổ trợ.
Nắm chắc yêu cầu này, học sinh sẽ có cơ sở để xây dựng hệ thống
luận điểm hợp lý và khoa học cho bài viết. Thơng thường, luận
điểm chính của bài viết thường nằm ở những thao tác chính. Đây
cũng là trọng tâm của bài viết. Những thao tác hỗ trợ thường gắn
với những ý phụ, ý bổ tsung, giúp cho nội dung bài viết hoà
chỉnh, trọn vẹn.
3.2.3. Rèn kỹ năng lập dàn ý
Bước đầu tiên trong rèn kỹ năng lập dàn ý tôi thường yêu cầu học
sinh phải lập dàn ý sơ lược theo yêu cầu :
+đề xuất được hệ thống luận điểm sẽ triển khai trong bài viết;


+ xác định mối quan hệ giữa các luận điểm, tầm quan trọng của
mỗi luận điểm trong việc thể hiện các yêu cầu của bài;
+ sắp xếp các luận điểm theo trình tự chặt chẽ, khoa học.
Để giúp học sinh thực hiện được yêu cầu trên, tôi thường hướng
dẫn các em đặt hệ thống câu hỏi và tự trả lời: + câu hỏi tìm luận
điểm: Yêu cầu trọng tâm của đề là gì? Vấn đề cần giải quyết có
thể triển khai ở những khía cạnh, phương diện nào? + Câu hỏi xác
định quan hệ và vai trò của luận điểm: Những khía cạnh, phương
diện ấy quan hệ với nhau như thế nào? Phương diện nào thể hiện
tập trung và rõ nét các yêu cầu trọng tâm của đề? + Câu hỏi sắp
xếp luận điểm: Các khía cạnh, nội dung cần nghị luận được trình
bày như thế nào là tối ưu nhất?
Những nội dung này học sinh được suy nghĩ trong vịng 25-30

phút, sau đó học sinh sẽ trình bày ngắn gọn bằng hình thức nói
(u cầu phải nói rõ căn cứ để nhận thức đề, đề xuất luận điểm và
sắp xếp ý). Cuối cùng giáo viên mới chữa hoàn chỉnh.
Chẳng hạn, với đề văn: Trong kiệt tác TKiều, Nguyễn Du viết:
"Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng".
Anh (chị) hiểu như thế nào về câu thơ trên? Bằng sự hiểu biết về
Truyện Kiều và bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của ND , hãy làm sáng
tỏ ý thơ trên./.


ở đề trên, học sinh cần đề xuất được các luận điểm chính sau:
- Giải thích ý nghĩa câu thơ của ND ( "những điều trơng thấy"?
"Đau đớn lịng"?...)
- "Nỗi đau đớn lịng" trước "những điều trơng thấy" của ND được
thể hiện như thế nào trong Truyện Kiều và ĐTTK?
- Đánh giá về giá trị của Truyện Kiều, về nỗi niềm ND được thể
hiện qua tác phẩm của mình về sức sống của tác phẩm ND...
Ở bước này, phần làm việc của học sinh ở nhà là tiếp tục viết
thành văn phần mở, kết bài và các câu, đoạn chuyển ý.
Kỹ năng này nếu được làm một cách ráo riết và nghiêm
túc sẽ hình thành được ở học sinh khả năng chủ động và độc lập
tư duy trong học tập, khắc phục dần tình trạng học sinh làm bài
theo kiểu ngẫu hứng, nghĩ đến đâu viết đến đó, thậm chí làm bài
xong khơng biết mình viết gì. Tác dụng của khâu này là giúp các
em khi đọc đề thi có thể nhanh chóng hình thành hệ thống luận
điểm, định hướng kiến thức cho bài trong một khoảng thời gian
ngắn (15-30 phút) đầu giờ; bài viết của các em sẽ đủ ý và mạch
lạc. Đây cũng là một trong những biểu hiện của tính khoa học ở
một bài văn HSG .

Qua thực tế thấy rất rõ, các em trong đội tuyển HSG
có khả năng nhận diện đề và lập dàn ý khá nhanh và tự tin, có ý
thức rõ rệt cần phải thiết lập hệ thống luận điểm trước khi bắt tay
vào viết bài.


3.2.4. Rèn luyện kỹ năng viết văn
Đây cũng là kỹ năng quan trọng bởi nhận thức đề đúng,
đề xuất luận điểm hợp lý, có kiến thức phong phú chưa đủ. Muốn
có một bài viết hay, học sinh phải biết trình bày những hiểu biết,
những rung động, suy nghĩ của mình một cách mạch lạc, sáng sủa
và có sức thuyết phục. Hơn nữa, việc đánh giá lại căn cứ vào
chính bài viết của học sinh.
Rèn kỹ năng viết văn cho học sinh, tơi thường tiến hành
theo các hình thức:
+Viết thành văn một đoạn ý: - Đoạn văn giải thích; - Đoạn văn
chứng minh một luận điểm trong bài (thường là luận điểm chính);
- Đoạn văn bình luận nâng cao.
+Viết thành bài văn hoàn chỉnh ở nhà trên cơ sở dàn ý đã được
giáo viên chữa (khoảng 2 bài /1 tuần).
+Viết thành bài văn hoàn chỉnh trên lớp trong thời gian quy định
(180 phút). Yêu cầu trước hết đối với học sinh là phải diễn dạt lưu
loát rõ ý; chữ viết sạch sẽ, dễ đọc, khơng mắc lỗi chính tả, dùng
từ, viết câu. Từ đó nâng dần yêu cầu học sinh phải viết được
những đoạn văn hay, có cách dùng từ chính xác, sáng tạo, mới lạ,
có giọng văn riêng, thể hiện được dấu ấn, phong cách của người
viết.
Để đạt được những yêu cầu đó, học sinh phải tham khảo
những bài văn mẫu do giáo viên lựa chọn, định hướng; Có thể



học tập cách viết của các bạn của mình (những đoạn, những ý mà
giáo viên cho là đúng và hay). Hình thức này rất có hiệu quả bởi
đó là những đoạn văn, bài văn hay do chính các em viết; Các em
rất tự hào khi có được bài văn, đoạn văn hay mà được thầy cơ và
bạn mình trân trọng.
Kỹ năng viết thành văn phải được tiến hành thường xuyên
bằng hình thức ra đề cho các em làm thêm ở nhà, giáo viên tranh
thủ chấm và chữa kỹ cho các em.
3.2.5. Chấm và chữa bài
Đối với các em HSG, khi chấm bài giáo viên phải chỉ ra
được điểm mạnh, yếu cơ bản của mỗi bài; theo dõi và động viên
kịp thời mức độ tiến bộ của mỗi học sinh trong từng bài viết. Khi
chấm, giáo viên phải chỉ ra các lỗi cụ thể về dùng từ, viết câu, tổ
chức ý… phân tích cho học sinh hiểu nguyên nhân và định hướng
cách chữa để học sinh có thể tự sửa chữa các lỗi của mình. Và để
tạo hứng thú, giáo viên có thể tổ chức hưỡng dẫn ọc sinh đọc và
chữa bài cho nhau.
4. Kết luận
4.1. Thực tế giảng dạy và bồi dưỡng HSG trong nhiều năm qua
giúp tôi nhận ra rằng, "thiên bẩm" hết sức quan trọng. Song trên
thực tế, khơng có một tài năng thiên bẩm nào tự nó có thể đi đến
thành cơng. Bởi thế, vai trị người thầy là hết sức quan trọng.
Những hệ thống tri thức, con đường tiếp nhận văn chương, và cả
những hứng thú, khơng ai có thể làm thay được người thầy. Tâm


hồn, tri thức, và những gợi mở của người thầy sẽ được cụ thể hoá
qua từng trang viết của học trị. Vì vậy, muốn có học sinh giỏi,
trước hết người thầy phải ln có ý thức tích luỹ tri thức và kinh

nghiệm giảng dạy một cách nghiêm túc. Trong đó, sự nhạy cảm
trong phát hiện năng khiếu học sinh, phương pháp bồi dưỡng ln
là yếu tố hàng đầu để có được thành công.
4.2. Trên đây là một số kinh nghiệm phát hiện và bồi dưỡng học
sinh giỏi của bản thân tôi được đúc rút từ thực tế giảng dạy và bồi
dưỡng HSG trong nhiều năm qua. Có thể những điều này khơng
cịn mới mẻ với những đồng nghiệp có bề dày kinh nghiệm,
nhưng với tơi, đó là những điều tơi tâm đắc và bước đầu đã có
được những thành cơng. Rất mong nhận được sự đóng góp chân
thành của các đồng nghiệp để tơi có thể tiếp tục làm tốt công việc
này trong những năm học tiếp theo.

TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHỐ VĂN HỌC
TRONG TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THƠNG
PHẦN VĂN HỌC DÂN GIAN

1. Qua thực tế giảng dạy bộ môn Văn học ở trường THPT chúng tôi nhận thấy có một
thực trạng là phần lớn học sinh khơng thích học mơn văn. Ngun nhân có nhiều, song
trước hết có lẽ vì học văn và dạy văn là một cơng việc khó. Người dạy cũng như người
học trước hết phải có niềm say mê, u thích văn chương, có tâm hồn nhạy cảm, giàu
cảm xúc, thêm vào đó là một vốn tri thức phong phú, vốn tiếng Việt dồi dào... Đó là
những u cầu khắt khe, mang tính đặc thù. Mặt khác, xu hướng nghề nghiệp hiện nay
khá rộng mở đối với các ngành khoa học tự nhiên, tính thực dụng trong học tập cũng là


một nguyên nhân khiến học sinh ngày càng thờ ơ với bộ mơn Văn học. Đặc biệt, hình
thức truyền thụ truyền thống lấy thuyết giảng làm chính đã trở nên đơn điệu, xơ cứng,
không phù hợp với tâm lý con người hiện đại. Điều này cũng đã ảnh hưởng không nhỏ
đến hứng thú học tập, khả năng sáng tạo của học sinh.
Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Văn học, gần đây, trên các diễn đàn

nghiên cứu, các hội nghị, hội thảo, người ta đã bàn nhiều đến vấn đề đổi mới phương
pháp dạy học. Mối quan tâm bức xúc đối với những người trực tiếp giảng dạy văn học ở
nhà trường phổ thông là làm thế nào để phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh,
nâng cao hiệu quả giáo dục thẩm mỹ, khơi gợi niềm say mê hứng thú học tập bộ môn
Văn học trong tình hình hiện nay.
Giải quyết thực trạng trên đây, theo chúng tôi, cần phải kết hợp đổi mới phương pháp
giảng dạy cả giờ chính khố lẫn hoạt động ngoại khố, mà trước hết là phải có một
quan niệm đúng về tầm quan trọng, ý nghĩa của những hoạt động ngoại khố Văn học.
Theo dõi q trình đổi mới phương pháp dạy học Văn - tiếng Việt ở nhà trường phổ
thông trong những năm gần đây, chúng tôi nhận thấy nội dung đổi mới thường tập trung
vào giờ chính khố, cịn hình thức ngoại khóa thì ít được chú trọng triển khai. Phải
chăng hoạt động ngoài giờ của học sinh là khơng quan trọng, khơng đóng vai trị trong
việc nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập bộ môn? Đã đến lúc cần xác định lại vị
trí, vai trị của hoạt động ngoại khố, phát huy cao độ tính năng động sáng tạo, niềm
hứng thú của học sinh.
2. Hoạt động ngoại khoá Văn học theo quan niệm đổi mới phương pháp dạy học là một
hình thức tự học tích cực, bổ ích và có hiệu quả, nối liền bục giảng với thực tiễn đời
sống, mở rộng, kéo dài trường suy tưởng - thẩm định về bài học cho học sinh; phát huy
tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học, kiểm tra lại chất lượng dạy học trong
giờ chính khố. Hoạt động ngoại khố Văn học, vì thế, vừa là hoạt động giáo dục, vừa
là hoạt động thẩm mỹ, "góp phần tạo ra lối sống văn hố và khả năng hưởng thụ văn
hoá nghệ thuật cho học sinh. Qua hoạt động ngoại khoá Văn học, học sinh được phát
triển cân đối về trí tuệ, đạo đức, thể dục và mĩ dục" (Phan Trọng luận, Phương pháp
dạy văn, Nxb Đại học Quốc gia 1996, Tr. 381).
Hoạt động ngoại khoá Văn học càng cần thiết và bổ ích khi được áp dụng vào quá trình
dạy học phần Văn học dân gian ở THPT vì những lí do sau:


Thứ nhất: Ngoại khố Văn học dân gian góp phần làm sáng tỏ những đặc trưng cơ bản
của Văn học dân gian (tính tập thể, tính truyền miệng, tính dị bản, gắn với sinh hoạt xã

hội. . . ) - điều mà giáo viên và học sinh rất khó thực hiện trong giờ chính khố do hạn
chế về điều kiện và thời gian giảng dạy.
Ví dụ: Để làm rõ đặc điểm gắn với sinh hoạt xã hội của Văn học dân gian, người dạy
phải lý giải về hoàn cảnh nảy sinh và mơi trường diễn xướng của nó; Làm sáng tỏ tính
dị bản thì cần phải so sánh nhiều văn bản khác nhau... Những thao tác này khó có thể
thực hiện được trong giờ chính khố.
Thứ hai: Ngoại khố văn học dân gian cho phép chúng ta khai thác tác phẩm Văn học
dân gian ở nhiều góc độ, thoả mãn nhu cầu làm "sống lại" tác phẩm Văn học dân gian
trong mơi trường diễn xướng, thơng qua các hình thức trình diễn bằng lời - nhạc - vũ,
làm sáng lên những vẻ đẹp độc đáo của Văn học dân gian .
Thứ ba: Ngoại khoá Văn học dân gian cho phép người dạy khắc phục được những bất
cập trong chương trình giữa thời gian cho phép và khối lượng kiến thức cần phải
truyền đạt; có thể mở rộng và đào sâu những nội dung quan trọng, bổ sung những vấn
đề chưa được đặt ra trong chương trình chính khố. . .
Thứ tư: Ngoại khố Văn học dân gian cịn tăng cường tính thời sự, tính xã hội cho nội
dung bài học. Qua hoạt động ngoại khoá Văn học dân gian, học sinh có thể hiểu sâu
hơn về những giá trị văn hoá dân gian của quê hương, đất nước.
Thế nhưng, lâu nay trong nhà trường phổ thơng, hoạt động ngoại khố Văn học được
hiểu là hoạt động ngoài giờ học, là một hoạt động phụ, nằm ngồi quản lý chun mơn.
Việc tổ chức ngoại khoá Văn học tuỳ thuộc vào quỹ thời gian vốn rất hẹp hòi, vào năng
lực và nhiệt tình của người dạy và nhu cầu, hứng thú của người học. Nó được coi là một
hoạt động giải trí, tổ chức theo hình thức một chương trình văn nghệ (ca - múa - nhạc),
thiếu nhất quán về chủ đề, sơ sài, phiến diện về mặt nội dung. Sở dĩ có tình trạng như
vậy vì chương trình nội khố lâu nay chỉ chú trọng cung cấp kiến thức về mặt số lượng,
coi nhẹ việc rèn luyện kĩ năng, tách rời lý thuyết với thực hành. Mọi yêu cầu mục đích
của môn học coi như đã được giải quyết triệt để khi bài giảng trên lớp chấm dứt. Theo
chúng tôi, quan niệm về hoạt động ngoại khoá văn học như trên là chưa thoả đáng, chưa
quan tâm đúng mức đến lợi ích của hoạt động này trong quá trình giảng dạy và học tập
bộ môn. 3. Tổ chức hoạt động ngoại khố Văn học dân gian là một cơng việc vừa có ý
nghĩa thực tiễn vừa có ý nghĩa khoa học. Tuy nhiên, để tổ chức tốt hoạt động này cần



phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về khâu tổ chức và nghiên cứu kĩ về chương trình. Căn cứ
vào tình hình thực tế ở nhà trường phổ thơng và nhu cầu học tập của bộ môn, chúng tôi
xin đề xuất một số hình thức tổ chức hoạt động ngoại khoá Văn học dân gian cho đối
tượng là học sinh lớp 10 như sau:
3.1. Ngoại khoá về truyện cổ dân gian.
a. Phần chuẩn bị:
- Sau khi học sinh đã được học bài khái quát về Văn học dân gian, tổ chuyên môn phân
công giáo viên ra và hướng dẫn học sinh viết một số đề tài tìm hiểu về giá trị nội dung,
nghệ thuật của truyện cổ dân gian .
- Giáo viên chọn những bài viết tốt của học sinh để trình bày trong câu lạc bộ. (Bài viết
tốt sẽ lấy điểm thay thế cho một bài kiểm tra hệ số 2), sau đó đưa ra tổ để góp ý, thống
nhất chung.
- Hướng dẫn học sinh đọc thêm những thuyện cổ dân gian ngồi chương trình để chọn
và dựng hoạt cảnh chuyển thể từ truyện cổ dân gian (Ví dụ: truyện về các thầy đồ, thầy
bói, thi nói khốc. . . )
- Phân cơng trang trí, chuẩn bị loa máy, trang phục cho phù hợp với yêu cầu của câu lạc
bộ Văn học dân gian .
- Định thời gian tổ chức CLB, gửi giấy mời.
b. Phần thực hiện chương trình: (Trong thời gian 90 phút)
+Lời khai mạc: (5 phút)
- Giới thiệu chương trình CLB.
- Mục đích, ý nghĩa, q trình chuẩn bị cho CLB.
+ Báo cáo của học sinh: ( 15 phút)
- Học sinh đề tài trình bày những hiểu biết về giá trị nội dung, nghệ thuật của truyện cổ
dân gian Việt Nam.
+ Phần minh hoạ: (60 phút)



- Kể chuyện dân gian (chú ý tạo không gian kể chuyện ).
- Các lớp (hoặc nhóm học sinh) thể hiện các hoạt cảnh chuyển thể từ truyện cổ dân gian
.
+ Tổng kết: (Trong thời gian 10 phút)
- BTC đánh giá kết quả, rút kinh nghiệm, trao quà cho các báo cáo viên và các tiết mục
xuất sắc.
3. 2. Ngoại khoá về thơ ca dân gian
a. Phần chuẩn bị:
- Sau khi học sinh học xong bài khái quát Văn học dân gian và phần ca dao - dân ca, tổ
chuyên môn phân công giáo viên ra và hướng dẫn học sinh viết một số đề tài tìm hiểu
những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của ca dao cổ nói chung và bình một số bài
ca dao đặc sắc (có thể ngồi chương trình).
- Giáo viên chọn 1 - 2 bài viết có chất lượng để đọc trong CLB. (bài viết tốt có thể thay
thế cho một bài kiểm tra có điểm hệ số 2)
- Tổ Văn phối hợp với Đoàn trường và Ban văn nghệ trường tổ chức cuộc thi giọng hát
hay của học sinh toàn trường, trong đó ưu tiên các tiết mục hát dân ca của học sinh khối
X để chọn hạt nhân văn nghệ.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh tập hát một số làn điệu dân ca tiêu biểu trên cả ba miền
Bắc - Trung - Nam (hoặc có thể mời diễn viên Đoàn dân ca về hướng dẫn cho học sinh)
- Hướng dẫn chuẩn bị trang phục sao cho phù hợp với các tiết mục dân ca ở các miền
khác nhau.
- Phân cơng trang trí, chuẩn bị loa đài...
b. Phần thực hiện chương trình CLB: (Thời lượng 90 phút)
+ Lời khai mạc (5 phút)
- Giới thiệu chương trình CLB.


×