Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước trên địa bàn TP. Hà Nội thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.43 KB, 80 trang )

Học viện tài chính
MỞ ĐẦU
Nền kinh tế nước ta hiện nay vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước. Để thực hiện chức năng điều
tiết vĩ mô nền kinh tế, nhà nước đã sử dụng nhiều công cụ khác nhau như: luật
pháp, nsnn, hành chính nhà nước…Trong đó ngân sách Nhà nước (NSNN), một
công cụ tài chính đang ngày càng được coi trọng và hoàn thiện. Nó đóng vai trò
là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội, định hướng phát triển sản xuất,
điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống xã hội.
Để thực hiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và mở rộng hội nhập kinh
tế, quốc tế đòi hỏi sự đổi mới phương thức quản lý kinh tế, xã hội và cải cách
hành chính. Phân cấp ngân sách nhà nước là một trong những vấn đề cần được
quan tâm trong cải cách hành chính nhà nước. Trong đó phân cấp nguồn thu
nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước là một nội dung quan trọng, xuyên suốt quá
trình quản lý ngân sách nhà nước, quyết định đến vấn đề thực hiện mục tiêu và
hiệu quả tạo lập và sử dụng ngân sách nhà nước. Xu hướng tăng cường phân cấp
được thể hiện rõ trong quá trình cải cách tài chính công trong những năm gần đây
đánh dấu bằng sự ra đời của Luật ngân sách nhà nước được Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 20 tháng
03 năm 1996, tiếp theo đó là Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ngân
sách nhà nước (năm 1998) và Luật ngân sách nhà nước năm 2002.
Cơ chế phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi NSNN của TP. Hà Nội được xây
dựng dựa trên cơ sở quy định của Luật ngân sách nhà nước về phân cấp và tình
hình thực tế của địa phương.Tuy nhiên việc thực thi phân cấp ngân sách nhà
nước trên thực tế còn nhiều vướng mắc và còn không ít hạn chế, những vấn đề
cần điều chỉnh và hoàn thiện dần từng bước trong công tác phân cấp nguồn thu,
Sinh viên: Nguyễn Thị Hải Giang 1 Lớp: CQ44/ 01.02
Học viện tài chính
nhiệm vụ chi NSNN. Xuất phát từ đòi hỏi đó sau quá trình học tập nghiên cứu tại
học viện tài chính, trong thời gian thực tập tại sở Tài chính Hà Nội, em càng nhận
thấy và mong muốn tìm hiểu rõ hơn nữa về vấn đề mang tính thời sự này. Do đó,


em mạnh dạn chọn đề tài “phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi NSNN trên địa
bàn TP. Hà Nội - thực trạng và giải pháp” để nghiên cứu và làm luận văn tốt
nghiệp.
1.Mục đích nghiên cứu
Nhằm hệ thống hoá những lý luận cơ bản cần thiết về phân cấp nguồn thu,
nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước làm cơ sở cho việc đánh giá thực trạng và
thông qua thực tiễn để làm sáng tỏ những cái được và chưa được trong cơ chế
phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước của thành phố Hà Nội.
Từ đó tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất các quan điểm giải pháp về phân cấp
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội trong thời kỳ đổi mới, phát huy tối đa
hiệu quả của NSNN trong việc điều chỉnh nền kinh tế của thành phố Hà Nội theo
những mục tiêu đã đặt ra.
2. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn chỉ đi sâu nghiên cứu vấn đề phân cấp
nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp chính quyền địa phương TP. Hà Nội, vì
đây luôn là vấn đề phức tạp nhất, khó khăn nhất, gây nhiều sự bất đồng nhất
trong quá trình xây dựng và triển khai các đề án phân cấp quản lý ngân sách.
3. Phạm vi nghiên cứu: Về thời gian, đề tài tập trung khảo sát, đánh giá cơ
chế phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho các cấp ngân sách của thành phố Hà
Nội trong giai đoạn 2007- 2010 và đề xuất giải pháp cho giai đoạn 2015 và
những năm tiếp theo.
4. Phương pháp luận nghiên cứu: Luận văn tiếp cận mục đích nghiên cứu
Sinh viên: Nguyễn Thị Hải Giang 2 Lớp: CQ44/ 01.02
Học viện tài chính
bằng cách lấy phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa
mác-lênin vận dụng trong kinh tế tài chính làm phương pháp luận nghiên cứu
đồng thời, luận văn cũng sử dụng các phương pháp so sánh, bảng biểu và phân
tích số liệu các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan làm công cụ.
* Kết cấu của đề tài: Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của
luận văn được trình bày trong ba chương:
Chương I: Lý luận chung về ngân sách nhà nước và phân cấp quản lý

NSNN
Chương II: Thực trạng phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi trên địa bàn Hà
Nội trong thời gian qua.
Chương III: Định hướng đổi mới và một số giải pháp hoàn thiện công tác
phân cấp quản lý NSNN trên địa bàn Hà Nội trong thời gian tới.
Sinh viên: Nguyễn Thị Hải Giang 3 Lớp: CQ44/ 01.02
Học viện tài chính
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ
PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC.
1.1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC.
1.1.1 Khái niệm NSNN
Ngân sách nhà nước là phạm trù kinh tế mang tính chất lịch sử. NSNN ra đời
và tồn tại gắn liền với sự xuất hiện của nhà nước và sự tồn tại phát triển của kinh
tế hàng hoá tiền tệ. Nhà nước ra đời tất yếu kéo theo nhu cầu tập trung nguồn lực
tài chính vào trong tay nhà nước để làm phương tiện vật chất trang trải cho các
chi phí nuôi sống bộ máy nhà nước và thực hiện các chức năng kinh tế, xã hội
của nhà nước. Đây là điều kiện cần để ngân sách nhà nước ra đời. Sự phát triển
mạnh mẽ của quan hệ hàng hóa- tiền tệ là điều kiện đủ để NSNN ra đời, bởi vì
quan hệ hàng hóa- tiền tệ phát triển sẽ tập trung các nguồn thu, dự toán thu chi
được giá trị hóa và diễn ra nhanh hơn, phong phú và linh hoạt hơn. Vậy NSNN là
ngân sách của nhà nước, hay nhà nước là chủ thể của ngân sách đó.
Thuật ngữ "Ngân sách nhà nước" được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh
tế, xã hội mọi quốc gia. Song quan niệm về ngân sách nhà nước lại chưa thống
nhất, người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa về ngân sách nhà nước tùy theo các
trường phái và các lĩnh vực nghiên cứu.
Theo các nhà nghiên cứu kinh tế cổ điển: “ NSNN là một văn kiện tài chính
mô tả các khoản thu, chi của Chính phủ được thiết lập hằng năm”.
Các nhà kinh tế Nga hiện đại lại quan niệm: Ngân sách nhà nước là bảng liệt
kê các khoản thu, chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của quốc gia

thường là một năm.
Sinh viên: Nguyễn Thị Hải Giang 4 Lớp: CQ44/ 01.02
Học viện tài chính
Điều 1 của luật NSNN của Quốc hội khóa XI nước cộng hòa XHCN Việt
Nam thông qua kỳ họp thứ hai, năm 2002 cũng khẳng định: “ NSNN là toàn bộ
các khoản thu , chi của Nhà nước được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết
định và thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
của Nhà nước”
Với khái niệm trên ta có thể hiểu:
NSNN là kế hoạch tài chính cơ bản hay rõ hơn là bản dự toán thu, chi tài
chính của nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định.
NSNN giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống tài chính.
NSNN là quỹ tiền tệ của nhà nước hay gọi là quỹ ngân sách phục vụ việc
thực hiện các chức năng của nhà nước.
NSNN gắn liền với hoạt động thu chi của nhà nước.
Xét về bản chất, đứng sau các hoạt động thu, chi là mối quan hệ kinh tế giữa
nhà nước và các chủ thể kinh tế, xã hội. Nói cách khác, NSNN phản ánh mối
quan hệ kinh tế giữa nhà nước với các chủ thể trong phân phối tổng sản phẩm xã
hội, thông qua việc tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước, chuyển
dịch một bộ phận thu nhập bằng tiền của các chủ thể đó thành thu nhập của nhà
nước và nhà nước chuyển dịch thu nhập đó đến các chủ thể được thực hiện để
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
1.1.2 Tổ chức hệ thống NSNN
Hệ thống NSNN được hiểu là tổng thể các cấp ngân sách có mối quan hệ hữu
cơ với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu, chi của mỗi cấp ngân sách.
Việc xây dựng hệ thống ngân sách nhà nước ở nước ta hiện nay dựa trên
những nguyên tắc cơ bản sau:
Sinh viên: Nguyễn Thị Hải Giang 5 Lớp: CQ44/ 01.02
Học viện tài chính
• Nguyên tắc 1: Đảm bảo tính thống nhất của nền tài chính quốc gia. Đây là

một đòi hỏi có tính nguyên tắc trong tổ chức hệ thống NSNN, là điều kiện
quan trọng để đưa hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước ở các cấp đi vào nề
nếp, theo đúng quỹ đạo quản lý kinh tế tài chính của ngân sách, tạo nên mối
liên hệ gắn bó hữu cơ giữa các cấp ngân sách nhà nước làm cho hoạt động
ngân sách phù hợp với sự vận động của các phạm trù kinh tế tài chính khác.
• Nguyên tắc 2: Tổ chức hệ thống NSNN phải quán triệt nguyên tắc tập trung
dân chủ đảm bảo cho các cấp ngân sách hoạt động một cách đồng bộ, có hệ
thống, phát huy vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương, mở rộng quyền dân
chủ của ngân sách các cấp chính quyền địa phương.
Ở nước ta với mô hình Nhà nước thống nhất nên hệ thống ngân sách được tổ
chức theo hai cấp: Ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương. Theo đó hệ
thống NSNN ta đã được thiết lập theo mô hình dưới đây:
Sinh viên: Nguyễn Thị Hải Giang 6 Lớp: CQ44/ 01.02
NS huyện(Quận,TX)
NS cấp tỉnh
NSĐP
NS cấp huyện
NS xã( Phường, TT)
NSNN
NS. Trung ương
Học viện tài chính
1.2 LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NSNN
1.2.1 Khái niệm và nội dung phân cấp quản lý NSNN
1.2.1.1 Khái niệm phân cấp quản lý NSNN:
Phân cấp quản lý NSNN là một nội dung quan trọng của phân cấp tài khóa gắn
liền với chủ thể Nhà nước, chịu tác động của quyền lực nhà nước. Việc hình
thành hệ thống NSNN gồm nhiều là một tất yếu khách quan.
Phân cấp quản lý ngân sách là quá trình Nhà nước trung ương phân giao
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm nhất định cho chính quyền địa phương trong
hoạt động quản lý ngân sách.

Hay có thể hiểu phân cấp quản lý NSNN là việc phân định phạm vi trách
nhiệm, quyền hạn của các cấp chính quyền nhà nước từ trung ương tới các địa
phương trong quá trình tổ chức tạo lập và sử dụng ngân sách nhà nước phục vụ
cho việc thực thi chức năng nhiệm vụ của nhà nước.
1.2.1.2 Nội dung phân cấp quản lý NSNN
Nói tới phân cấp quản lý NSNN không chỉ nói tới nội dung phân giao nguồn
thu, nhiệm vụ chi. Đó chỉ là một phần mang nghĩa trực diện trong các nội dung
rộng lớn của phân cấp quản lý NSNN. Thực chất phân cấp quản lý NSNN là giải
quyết mối quan hệ giữa các cấp chính quyền trong việc quản lý, sử dụng NSNN
bao gồm 3 nội dung cơ bản:
Thứ nhất: Giải quyết mối quan hệ vật chất trong trong việc ban hành các chính
sách chế độ quản lý NSNN. Với nội dung này đòi hỏi phải xác định rõ cơ quan
Nhà nước nào có thẩm quyền ra các chế độ, chính sách, định mức, tiêu chuẩn
thu,chi;đó là những tiêu chuẩn, chế độ nào? Và quyền hạn của mỗi cấp đến đâu.
Sinh viên: Nguyễn Thị Hải Giang 7 Lớp: CQ44/ 01.02
Học viện tài chính
Thứ hai: Giải quyết mối quan hệ vật chất trong quá trình phân giao nguồn thu,
nhiệm vụ chi và cân đối ngân sách.
Đây là vấn đề phức tạp, khó khăn và gây nhiều bất đồng nhất trong quá trình
xây dựng và triển khai các đề án phân cấp quản lý ngân sách. Sự khó khăn này
bắt nguồn từ sự phát triển không đồng đều giữa các địa phương, sự khác biệt về
điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội giữa các vùng miền trong cả nước, đồng thời
quan hệ này có bản chất bắt nguồn từ quan hệ lợi ích.
Thứ ba: Giải quyết mối quan hệ giữa các cấp về quản lý chu trình NSNN bao
gồm việc lập, chấp hành và quyết toán ngân sách sao cho đảm bảo việc lập và
quyết toán ngân sách sao cho vừa nâng cao trách nhiệm quản lý của nhà nước
trung ương vừa phát huy tính năng động, sáng tạo của các cấp chính quyền địa
phương.
Như vậy việc thực hiện phân cấp quản lý NSNN chính là việc giải quyết tốt
các mối quan hệ bên trong hoạt động quản lý, điều hành NSNN. Mặc dù có

những nguyên tắc nhất định cho việc tiến hành phân cấp quản lý nhà nước song ở
mỗi quốc gia và trong mỗi thời kỳ phát triển của nền kinh tế, những nội dung
phân cấp đều có sự thay đổi cho phù hợp bởi vì cơ chế phân cấp quản lý ngân
sách nhà nước luôn chịu ảnh hưởng bởi sự tác động của rất nhiều nhân tố. Có
như vậy thì phân cấp quản lý NSNN mới thực sự trở thành một phương tiện hữu
hiệu giúp Nhà nước quản lý hiệu quả nền tài chính quốc gia.
1.2.2 Vai trò của phân cấp quản lý NSNN:
1.2.2.1 Đối với quản lý hành chính nhà nước:
Phân cấp quản lý hành chính là việc phân chia quyền hạn để thực hiện các
nhiệm vụ công tới các cơ quan nhà nước ở các cấp. như vậy, thông qua quá trình
Sinh viên: Nguyễn Thị Hải Giang 8 Lớp: CQ44/ 01.02
Học viện tài chính
phân cấp hành chính, công tác kế hoạch, quy hoạch, quản lý điều hành và một
phần tài trợ cho cơ sở hạ tầng và cung cấp các dịch vụ công sẽ được chuyển giao
từ cấp trung ương xuống các cơ quan hành chính địa phương.
Việc phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là công cụ cần thiết khách quan để
phục vụ cho việc phân cấp quản lý hành chính, có tác động quan trọng đến hiệu
quả của quản lý hành chính từ trung ương đến địa phương.
1.2.2.2 Đối với quản lý kinh tế- xã hội
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước gắn các hoạt động của ngân sách nhà
nước với các hoạt động kinh tế xã hội. Giữa phân cấp quản lý NSNN và phân cấp
quản lý kinh tế – xã hội có mối quan hệ gắn bó hữu cơ, tác động qua lại với nhau.
khi phân cấp quản lý ngân sách phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế xã hội,
đúng đắn và hợp lý không chỉ đảm bảo phương tiện tài chính cho việc duy trì
phát triển hoạt động của các cấp chính quyền nhà nước từ trung ương đến các địa
phương mà còn tạo điều kiện phát huy được các lợi thế nhiều mặt của từng vùng,
địa phương trong cả nước. Nó cho phép quản lý và kế hoạch hoá ngân sách nhà
nước tốt hơn, điều chỉnh mối quan hệ giữa các cấp chính quyền cũng như mối
quan hệ giữa các cấp ngân sách được tốt hơn để phát huy vai trò là công cụ điều
chỉnh vĩ mô nền kinh tế.

Phân cấp NSNN là phương tiện quan trọng để nhà tăng cường tính dân chủ,
linh hoạt, hiệu quả và tự chịu trách nhiệm của các cấp chính quyền trong việc
cung cấp các hàng hoá dịch vụ công cộng. Đồng thời phân cấp quản lý NSNN
còn là phương tiện để nhà nước điều hòa, phân phối lại nguồn lực giữa các địa
phương với nhau nhằm đảm bảo sự phát triển tương đối đồng đều, cân đối và
giảm bớt những bất công thông qua cơ chế phân cấp trong phân cấp quản lý ngân
sách nhà nước cũng như cơ cấu của các chương trình, mục tiêu, dự án.
Sinh viên: Nguyễn Thị Hải Giang 9 Lớp: CQ44/ 01.02
Học viện tài chính
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước phù hợp có ý nghĩa quan trọng trong
việc đảm bảo hiệu quả quản lý ngân sách quốc gia, thực hiện tiết kiệm nguồn lực.
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước còn có ảnh hưởng quan trọng đến đời sống
của cộng đồng dân cư trong nước, là nhân tố tác động nhạy cảm đến các vấn đề
thuộc về chính sách xã hội.
Như vậy, phân cấp quản lý NSNN có vai trò hết sức toàn diện đối với cả quản
lý hành chính nhà nước và quản ký kinh tế xã hội. Theo đó tất yếu là phải phân
giao nhiệm vụ và quyền hạn của chính quyền nhà nước các cấp đối với các vấn
đề thuộc về ngân sách nhà nước.
1.2.3 Sự cần thiết của phân cấp quản lý NSNN
Giả thiết, Nhà nước chỉ có một ngân sách suy nhất, ngân sách này do chính
quyền trung ương toàn quyền quản lý và quyết định sử dụng . Mọi quản lý, điều
hành ngân sách tập trung cao độ mọi quyền lực vào chính quyền trung ương. Giả
thiết phủ nhận sự tồn tại độc lập của ngân sách địa phương.
Lợi thế của cách quản lý này là cho phép tập trung toàn bộ nguồn thu vào tay
nhà nước trung ương để bố trí chi tiêu cho hợp lý, công bằng, đồng đều giữa các
vùng, miền, ngành nghề, chống biểu hiện cục bộ địa phương. Tuy nhiễn dễ dàng
để nhận thấy phương án này tạo tư tưởng ỷ lại, thụ động trông chờ vào trung
ương và đặc biệt là nguồn lực vốn có hạn của xã hội có thể bị sử dụng lãng phí.
Do đó trên thực tế các nhà nước đều thực hiện phân cấp quản lý ngân sách ở mức
độ nhất định cho chính quyền địa phương.

Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước được coi là yêu cầu khách quan, bởi
mỗi quốc gia đều có những vùng lãnh thổ khác nhau. Việc phân chia dân cư theo
đơn vị hành chính lãnh thổ, hình thành các cấp hành chính là đặc trưng của Nhà
nước. Do đó, để quốc gia phát triển, cần thiết phải phân cấp quản lý ngân sách
Sinh viên: Nguyễn Thị Hải Giang 10 Lớp: CQ44/ 01.02
Học viện tài chính
nhà nước, vừa đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng nhiệm vụ của Nhà nước, vừa
tạo quyền tự chủ cho các cấp chính quyền địa phương.
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước cho các cấp chính quyền là giải pháp
vừa động viên được các nguồn thu tiềm tàng, vừa tạo cơ chế để các nguồn tài
chính được sử dụng tiết kiệm, hiệu quả. Nguồn thu ngân sách là có hạn, trong khi
nhu cầu chi tiêu thì lớn, do vậy phân cấp quản lý ngân sách đòi hỏi phải thực hiện
đúng theo các quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.
1.2.4 Nguyên tắc phân cấp quản lý ngân sách nhà nước.
Để thực hiện được yêu cầu trên đây, cơ chế phân cấp quản lý ngân sách phải
được xây dựng trên cơ sở quán triệt các nguyên tắc cơ bản, cụ thể là:
* Nguyên tắc thứ nhất: phân cấp quản lý NSNN phải phù hợp với phân cấp quản
lý về kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh, phù hợp với tổ chức bộ máy hành chính
đồng thời phải dựa trên cơ sở chức năng nhiệm vụ của các cấp chính quyền nhà
nước .
Trong quản lý nhà nước về kinh tế- xã hội, một nguyên tắc quan trọng đó là
phải kết hợp giữa quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ. Quá trình phân
cấp quản lý ngân sách nhà nước còn cần phải chú ý đến quan hệ đó.
Quản lý theo ngành đòi hỏi phải nhận thức một cách thống nhất sự triển từ
trung ương tới địa phương trong một ngành nào đó. Không phân biệt một cách
máy móc về kinh tế trung ương và kinh tế địa phương và cho rằng có cơ cấu kinh
tế trung ương riêng, cơ cấu kinh tế địa phương riêng dẫn đến những quyết định đi
ngược lại cơ cấu kinh tế thống nhất có tính chiến lược của quốc gia.
Quản lý theo lãnh thổ đảm bảo sự phát triển tổng thể các ngành, các lĩnh vực,
các mặt hoạt động chính trị - khoa học, văn hoá - xã hội trên một đơn vị hành

Sinh viên: Nguyễn Thị Hải Giang 11 Lớp: CQ44/ 01.02
Học viện tài chính
chính lãnh thổ nhằm thực hiện sự quản lý toàn diện và khai thác tối đa, có hiệu
quả cao nhất mọi tiềm năng trên lãnh thổ, không phân biệt ngành, thành phần
kinh tế - xã hội, cấp nhà nước quản lý trực tiếp.
Tuân thủ nguyên tắc này tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết mối quan
hệ vật chất giữa các cấp chính quyền, xác định rõ nguồn thu, quy định nhiệm vụ
chi cho mỗi cấp, gắn kết trách nhiệm và quyền lợi từng cấp ngân sách .
* Nguyên tắc thứ hai: Đảm bảo vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương và
đồng thời tạo vị trí độc lập của ngân sách địa phương trong hệ thống ngân sách
nhà nước thống nhất.
Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước ngoài các nhiệm vụ quan trọng như quốc
phòng an ninh, ngoại giao, còn có nhiệm vụ không kém phần quan trọng là tổ chức
quản lý, điều tiết quản lý mọi hoạt động kinh tế thực hiện các kinh tế vĩ mô.
Ngân sách nhà nước là công cụ quan trọng phục vụ cho việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ đó. Lúc này vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương được thể
hiện ở chỗ:
+ Là trung tâm huy động GDP hay GNP chủ yếu vào ngân sách, đây là nguồn
thu lớn nhất của nhà nước để bảo toàn chức năng nhiệm vụ của nhà nước về đối
nội, đối ngoại nói chung và chiến lược ổn định tăng trưởng kinh tế xã hội nói
riêng.
Ở nước ta, NSTW tập trung khoảng 3/4 tổng thu ngân sách, với qui mô lớn
như vậy khiến cho NSTW đóng vai trò trung tâm điều phối GDP và GNP trong
cả nước, nhờ đó nhà nước mới có thể thực hiện chức năng của mình trên mọi
lĩnh vực đời sống xã hội và có điều kiện để giúp đỡ NSĐP trong cả nước.
+ Là trung tâm điều hoà hoạt động ngân sách các cấp. NSTW trên thực tế
Sinh viên: Nguyễn Thị Hải Giang 12 Lớp: CQ44/ 01.02
Học viện tài chính
được coi là ngân sách của cả nước đảm đương kinh phí cho các khoản chi có
tính chất huyết mạch của quốc gia.

Do đó trong phân cấp nguồn thu nhiệm vụ chi đối với NSTW cần phải quán
triệt nguyên tắc này. Nhưng tăng cường vai trò chủ đạo của NSTW hoàn toàn
không mâu thuẫn với việc nâng cao vị trí độc lập của NSĐP trong quản lý và
điều hành ngân sách của mình. Tạo cho địa phương sự độc lập tương đối là việc
làm hết sức cần thiết vì suy cho cùng thì phần lớn các nguồn lực tài chính của
nhà nước có được là nhờ vào đóng góp bắt buộc của công dân (thông qua các
phương thức khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp). Phân cấp, trao quyền cho địa
phương về ngân sách một cách hợp lý sẽ giúp cho địa phương có thể chủ động và
tích cực phát huy trách nhiệm trong việc xây dựng, phát triển địa phương, đáp
ứng được yêu cầu nguyện vọng của dân
NSĐP chỉ chịu sự ràng buộc vào cấp trên ở những vấn đề có tính nguyên tắc
lớn để không ảnh hưởng đến cân bằng tổng thể. Như vậy, nên tránh sự can thiệp
quá sâu của chính quyền cấp trung ương vào vấn đề xây dựng và quyết định ngân
sách của cấp địa phương. Nói như vậy không có nghĩa là chính quyền địa phương
thoát ly khỏi sự chỉ đạo của nhà nước trung ương, ngân sách địa phương thoát
khỏi hệ thống ngân sách nhà nước. Trong bất kỳ trường hợp nào cũng phải đảm
bảo sự thống nhất của hệ thống ngân sách nhà nước: Loại chế độ, chính sách, tiêu
chuẩn định mức về thu, chi ngân sách nhà nước nhất thiết phải thi hành thống
nhất trong cả nước để đảm bảo công bằng thì trung ương ban hành; loại nào có
thể cho địa phương vận dụng thì trung ương ban hành khung; loại nào chỉ thực
hiện do đặc điểm riêng có ở địa phương thì giao địa phương ban hành.
Sinh viên: Nguyễn Thị Hải Giang 13 Lớp: CQ44/ 01.02
Học viện tài chính
* Nguyên tắc thứ ba: Phân cấp quản lý ngân sách phải đảm bảo công bằng
Công bằng trong phân cấp được đặt ra bởi vì giữa các địa phương trong một
quốc gia có những đặc điểm tự nhiên, xã hội và trình độ phát triển kinh tế khác
nhau, nếu một cơ chế phân cấp như nhau được áp dụng cho tất cả các địa phương
thì sẽ dẫn đến những bất công bằng và tạo ra khoảng cách chênh lệch ngày càng
lớn giữa các địa phương về phát triển kinh tế - xã hội. Những vùng đô thị có thể
ngày càng phát triển hiện đại nhanh chóng, còn những vùng nông thôn, miền núi

có nguy cơ tụt hậu do thiếu nguồn lực đầu tư.
Phải căn cứ vào yêu cầu cân đối chung trong cả nước và đồng thời tránh tình
trạng do kết quả phân cấp mà một số địa phương được lợi, một số địa phương
khác bị thiệt. Nhiệm vụ của nhà nước là phải điều hoà được hệ thống ngân sách
nhà nước, việc xây dựng một cơ chế phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ giữa trung
ương và địa phương là công cụ chủ yếu để thực hiện việc điều hoà đó. Nhà nước
đóng vai trò là người điều phối thông qua NSTW.
Nguyên tắc này rất khó thực hiện vì sự khác nhau rất lớn giữa các địa phương
về nhiều mặt. Để khắc phục, phải kết hợp các nguyên tắc trên, đặc biệt là nguyên
tắc đảm bảo vai trò chủ đạo của NSTW.
1.2.5 Những nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế phân cấp quản lý ngân sách
nhà nước:
1.2.5.1 Cơ chế phân cấp quản lý ngân sách nhà nước chịu ảnh hưởng của
cấu trúc bộ máy nhà nước.
Bất cứ một nhà nước nào cũng có một trật tự nhất định về việc thành lập và
mối quan hệ giữa các cơ quan cấu thành nhà nước, có cách thức phân chia lãnh
Sinh viên: Nguyễn Thị Hải Giang 14 Lớp: CQ44/ 01.02
Học viện tài chính
thổ thành các đơn vị hành chính nhất định và có phương pháp thực hiện quyền
lực riêng.
Yếu tố có tác động trực tiếp đến phân cấp quản lý nói chung và phân cấp quản
lý ngân sách nhà nước nói riêng là hình thức cấu trúc nhà nước. Hình thức cấu
trúc nhà nước quyết định đến việc tổ chức bộ máy nhà nước ở các cấp độ khác
nhau, mỗi cấp độ gắn kết với một địa bàn lãnh thổ và phạm vi quản lý nhất định
và thường đòi hỏi có phương tiện tài chính để thực thi các chức năng, nhiệm vụ
của cấp mình. Rõ ràng điều đó sẽ chi phối đến quá trình tổ chức và phân chia
trách nhiệm và quyền hạn về quản lý ngân sách nhà nước.
1.2.5.2. Cơ chế phân cấp quản lý ngân sách nhà nước chịu ảnh hưởng bởi
tính chất và mức độ phân cấp về quản lý hành chính - kinh tế - xã hội giữa
các cấp chính quyền.

Việc tổ chức bộ máy nhà nước theo các đơn vị hành chính lãnh thổ nảy sinh
yêu cầu hình thành những cấp ngân sách nhà nước tương ứng với từng cấp hành
chính đó. Tuy nhiên đây mới chỉ là điều kiện cần, bởi vì có nhiều cách khác nhau
trong việc chuyển giao một bộ phận trong tổng thể các nguồn tài chính cho việc
thực hiện các nhiệm vụ của mỗi đơn vị hành chính. Những cách thức chuyển giao
đó không thể diễn ra một cách tuỳ tiện mà nó phụ thuộc vào mức độ phân cấp về
quản lý hành chính - kinh tế - xã hội giữa các cấp chính quyền nhà nước.
1.2.5.3. Cơ chế phân cấp quản lý ngân sách nhà nước còn chịu ảnh hưởng
bởi đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của các đơn vị hành chính lãnh thổ.
Đây là một nhân tố có tính đặc thù mà ngay từ khi tổ chức cấu trúc chính
quyền nhà nước theo đơn vị lãnh thổ đã phải quan tâm. Tính đặc thù đó thường
được biểu hiện ở những đặc điểm tự nhiên như địa hình đặc biệt, vùng có tài
nguyên, có địa thế đặc biệt hay có điệu kiện xã hội đặc biệt. Những đơn vị lãnh
Sinh viên: Nguyễn Thị Hải Giang 15 Lớp: CQ44/ 01.02
Học viện tài chính
thổ này có thể là một đối tượng đặc biệt của cơ chế phân cấp dẫn tới những nội
dung phân cấp đặc thù. Hiện nay, trước những diễn biến phức tạp trên thế giới về
tình trạng xung đột sắc tộc, tôn giáo; những điểm nóng về chính trị, xã hội buộc
các nhà nước phải nghĩ đến việc trao quyền rộng rãi hơn về ngân sách cho những
đơn vị lãnh thổ địa phương. Nguồn lực tài chính trên mỗi vùng, lãnh thổ cũng ảnh
hưởng rất lớn đến phương pháp, mức độ phân cấp quản lý NSNN cho chính
quyền vùng lãnh thổ đó. Bởi đi đôi với việc phân cấp quản lý NSNN cho chính
quyền luôn phải gắn liền với việc xem xét khả năng nguồn lực tài chính đảm bảo
thực thi nhiệm vụ. trong phân cấp quản lý NSNN.
Những nhân tố kể trên có tác động một cách trực tiếp đến quá trình hoạch định
chính sách phân cấp quản lý ngân sách nhà nước.
1.2.5.4. Cơ chế phân cấp quản lý ngân sách nhà nước chịu ảnh hưởng bởi
tính chất cung cấp hàng hoá công cộng.
Trong quản lý hành chính nhà nước, chính quyền nhà nước các cấp vừa phải
đảm bảo chức năng quản lý vừa phải đảm bảo chức năng cung cấp các dịch vụ

công cộng cho xã hội. Phần lớn các hàng hoá công cộng đều được cung cấp bởi
chính quyền nhà nước ở trung ương và địa phương. Muốn việc cung cấp thực sự
có hiệu quả đáp ứng được yêu cầu của của công dân thì cần thiết phải có sự phân
giao trách nhiệm giữa NSTW và các chính quyền địa phương trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ này. Điều kiện vật chất kèm theo chính là vấn đề ngân sách
nhà nước. Đối với các hàng hoá, dịch vụ công cộng mà khi cung cấp đòi hỏi một
lượng vốn lớn, khả năng quản lý cao như: an ninh, quốc phòng … thường do
chính quyền nhà nước tư đảm nhiệm. Đối với các hàng hoá, dịch vụ công cộng
mang tính phổ cập( giáo dục, y tế, văn hoá … ) thường do chính quyền địa
phương đảm nhiệm. Đây được coi là tiền đề để phân định nguồn thu nhiệm vụ
Sinh viên: Nguyễn Thị Hải Giang 16 Lớp: CQ44/ 01.02
Học viện tài chính
chi giữ chính quyền các cấp trong cả nước. Như vậy, vấn đề sản xuất hay cung
cấp hàng hoá công cộng bằng nguồn của nhà nước ít nhất cũng dẫn đến việc phân
chia nguồn lực này cho các đối tượng được phép sử dụng ở những phạm vi khác
nhau
1.3. PHÂN CẤP QUẢN LÝ NSNN THEO LUẬT NSNN
1.3.1. Khái quát cơ chế phân cấp quản lý NSNN trước khi thực hiện Luật
NSNN năm 2002.
* Thời kỳ trước khi có Luật NSNN.
Ở nước ta, ngay khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, nền tài chính
Việt Nam ra đời, thì đã có sự phân cấp quản lý ngân sách nhà nước. Với sắc lệnh
số 73/SL-CTN ngày 8/9/1945 của Chủ tịch nước đã trao quyền quyết định mức
thu thuế nhà nước cho các khu và cho phép chính quyền các khu sử dụng nguồn
thuế để bảo đảm chi cho bộ máy và đóng góp cho trung ương để nuôi quân đánh
giặc. Tuy nhiên trong điều kiện kháng chiến khốc liệt chưa cho phép xây dựng hệ
thống tài chính hoàn chỉnh, mãi đến năm 1967 chế độ phân cấp quản lý ngân
sách nhà nước mới bắt đầu đầy đủ. Từ đó đến nay, quá trình phân cấp ngân sách
nhà nước lần lượt thực hiện qua các giai đoạn sau:
- Từ năm 1967 đến năm 1983: Việc phân cấp quản lý ngân sách nhà nước thực

hiện theo Nghị quyết số 108/ Chính phủ ngày 13/5/1978 của Hội đồng Chính
phủ. Việc thu, chi ngân sách nhà nước tập trung vào ngân sách trung ương, phân
cấp quản lý ngân sách nhà nước chủ yếu mới đến cấp tỉnh và chính quyền địa
phương chỉ có nhiệm vụ chi.
- Từ năm 1983 đến năm 1986: Việc phân cấp quản lý ngân sách nhà nước thực
hiện theo Nghị quyết số 138/HĐBT ngày 19/11/1983 của Hội đồng Bộ trưởng về
Sinh viên: Nguyễn Thị Hải Giang 17 Lớp: CQ44/ 01.02
Học viện tài chính
cải tiến chế độ phân cấp quản lý ngân sách địa phương; theo đó chính quyền địa
phương được phân cấp nhiều nguồn thu hơn có giao ổn định một số nguồn thu,
nhiệm vụ chi cho địa phương và tỷ lệ điều tiết một số nguồn thu. Cơ chế phân
cấp này phù hợp với các đặc điểm của chế độ quản lý và tình hình kinh tế - xã hội
trong thời kỳ này và đã khuyến khích được các cấp chính quyền địa phương chủ
động khai thác, bồi dưỡng nguồn thu từ tiềm năng sẵn có, tổ chức và điều hành
ngân sách trên địa bàn, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, tăng hàng hoá cho tiêu
dùng.
- Từ năm 1986 đến năm 1996: Việc phân cấp quản lý NSNN được tiếp tục cải
tiến theo Nghị quyết số 186/HĐBT ngày 27/11/1989 của Hội đồng Bộ trưởng,
theo đó mở rộng hơn và xác định rõ trách nhiệm của chính quyền các cấp trong
quản lý ngân sách nhà nước, một số khoản chi lớn bắt đầu được giao cho địa
phương. Tuy nhiên vẫn chưa khắc phục được nhược điểm là trung ương cân đối
ngân sách thay địa phương, nghĩa là ngân sách trung ương bù chênh lệch giữa thu
và chi địa phương, dẫn đến hạn chế sự năng động, tích cực của địa phương.
Vậy những năm chưa có luật NSNN, việc lập, chấp hành, quyết toán, kiểm tra
NSNN được thực hiện theo các văn bản dưới luật, tính pháp lý chưa cao. Nội
dung, phạm vi về chu trình NSNN còn chứa đựng nhiều yếu tố bao cấp, lồng
ghép, chồng chéo giữa các cấp NS. Do đó, thường dẫn đến tình trạng co kéo, ỷ
lại đối phó giữa các cấp NS. Việc ban hành luật NSNN là sự cần thiết khách quan
nhằm khắc phục những nhược điểm yếu kém nêu trên đảm bảo thúc đẩy nền kinh
tế phát triển trên cơ sở thực hiện đúng pháp luật đi đôi với việc củng cố kỷ luật

tài chính, đề cao vai trò trách nhiệm quyền hạn của các cấp, các ngành, các tổ
chức cá nhân trong quá trình chấp hành nsnn, tạo ra môi trường mới cho hoạt
động điều hành NS của chính phủ.
Sinh viên: Nguyễn Thị Hải Giang 18 Lớp: CQ44/ 01.02
Học viện tài chính
* Thời kỳ từ năm 1996 đến 2002.
Xuất phát từ thực tiễn trên, luật NSNN ( thông qua ngày 20/3/1996 tại kỳ họp
thứ 9, quốc hội khoá IX, có hiệu lực thi hành từ 1/1/1997 ) ra đời đã thực hiện
vai trò dẫn đường cho các hoạt động ns. Trên cơ sở Luật ngân sách nhà nước,
Chính phủ đã có Nghị định 87/CP ngày 19/12/1996 quy định chi tiết việc phân
cấp, lập, chấp hành và quyết toán ngân sách nhà nước. Luật NSNN được sửa đổi,
bổ sung một số điều tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá X ngày 20/5/1998. Nghị
định 51/1998/NĐ-Chính phủ ngày 18/7/1998 bổ sung một số điều của Nghị định
87/CP, Bộ Tài chính có Thông tư 103/1998/TT-BTC hướng dẫn việc phân cấp,
lập, chấp hành và quyết toán ngân sách nhà nước. Luật NSNN có hiệu lực thi
hành chính thức từ 01/01/1997. Luật NSNN 1996 là quy định rõ ràng cụ thể nội
dung phân cấp quản lý NSNN bao gồm:
Trên cơ sở phân công nguồn thu, nhiệm vụ chi cho mỗi cấp ( gồm chi thường
xuyên và chi đầu tư phát triển ) luật NSNN quy định cụ thể nguồn thu cho mỗi
cấp gồm: thuế, phí, lệ phí được tập trung 100% cho cấp mình và các khoản thu
thuế, phí, lệ phí phân chia theo tỷ lệ % phân chia giữa các cấp. Luật NSNN còn
quy định cụ thể tỷ lệ điều tiết cho các cấp NS. Tỷ lệ điều tiết này được giao ổn
định từ 3 đến 5 năm. Về số bổ sung từ NS cấp trên cho NS cấp dưới để cân đối
thu chi NS đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội được giao được xác
định trên cơ sở tính toán các nguồn thu, nhiệm vụ chi dựa trên các tiêu thức: Dân
số, đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của từng vùng có tính đến sự ưu
tiên cho vùng sâu vùng xa, vùng dân cư, vùng dân tộc thiểu số, căn cứ cách mạng
…. Số bổ sung này cũng được quy định ổn định từ 3 đến 5 năm.
Sau 5 năm tổ chức thực hiện Luật, luật NSNN 1996 chứng tỏ luật đã tác động
to lớn và quan trọng tới việc củng cố kỷ luật tài chính, thực hiện các chủ trương

Sinh viên: Nguyễn Thị Hải Giang 19 Lớp: CQ44/ 01.02
Học viện tài chính
phát triển kinh tế xã hội và ổn định kế hoạch chi tiêu NS trên phạm vi cả nước
cũng như từng khu vực, từng lĩnh vực, việc quản lý và điều hành ngân sách nhà
nước đã có nhiều tiến bộ. Thu ngân sách nhà nước tăng khá (bình quân trên 10%
năm), không những đảm bảo đủ chi thường xuyên, mà còn tăng tích luỹ cho đầu
tư phát triển và trả nợ. Cơ cấu ngân sách nhà nước đã có bước chuyển biến tích
cực, chi đầu tư phát triển từ 25% tổng chi ngân sách nhà nước năm 1997 tăng
trên 29% năm 2001 và 2002. Từ năm 1997 - 2002, chi đầu tư phát triển tăng bình
quân 18%/năm (gấp đôi tốc độ tăng chi thường xuyên) và đạt 6,84 so GDP,
chiếm 23,7% tổng mức đầu tư toàn xã hội. Chi ngân sách từng bước được cơ cấu
lại, trong đó tốc độ tăng chi để thực hiện các nhiệm vụ trọng yếu đạt cao như: chi
khoa học công nghệ và môi trường bình quân tăng 21,8%/năm, chi giáo dục đào
tạo tăng 18,2%/năm, chi y tế tăng 8,6%/năm, chi đảm bảo xã hội tăng 8,3%/năm;
tập trung ngân sách thực hiện nhiệm vụ phát triển nông nghiệp nông thôn, thực
hiện các chương trình xoá đói giảm nghèo; tăng dự trữ tài chính ở cả trung ương
và 61 tỉnh, thành phố; đảm bảo dự phòng để chủ động phòng chống và khắc phục
hậu quả thiên tai. Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ trả nợ đến hạn và đã cơ bản cơ
cấu lại các khoản nợ nước ngoài. Dư nợ Chính phủ, dư nợ Quốc gia ở mức hợp
lý, góp phần tạo ổn định kinh tế vĩ mô.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động của ngân sách nhà nước từ
1996 - 2002 cũng còn bộc lộ một số hạn chế, cụ thể là:
Về hoạt động ngân sách nhà nước: Thu ngân sách nhà nước mới chỉ đáp ứng
được nhu cầu chi tối thiểu, tình trạng thất thu còn lớn, nhất là khu vực kinh tế
công thương nghiệp dịch vụ ngoài quốc doanh và hoạt động xuất nhập khẩu. Chi
ngân sách nhà nước còn phân tán, dàn trải; lãng phí ở cả chi xây dựng cơ bản và
chi thường xuyên; hiệu quả còn thấp.
Sinh viên: Nguyễn Thị Hải Giang 20 Lớp: CQ44/ 01.02
Học viện tài chính
Về cơ chế quản lý ngân sách nhà nước: Quy định về thẩm quyền, trách nhiệm

và mối quan hệ của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân
trong quyết định ngân sách còn bất cập. Thủ tục hành chính trong việc cấp phát,
thanh toán chi ngân sách còn phức tạp, phải qua nhiều khâu trung gian không cần
thiết. Những quy định về thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, công khai ngân sách còn
chưa đầy đủ.
Những tồn tại trên đây có phần do những khó khăn nội tại của nền kinh tế, có
phần do hạn chế của công tác tổ chức điều hành ngân sách nhà nước trong quá
trình triển khai thực hiện, có phần từ những thay đổi về điều kiện kinh tế xã hội
mà thời điểm lịch sử mới đặt ra khiến nhiều qui định trong luật trở lên lỗi thời.
Song cũng có phần do hạn chế của bản thân Luật Ngân sách nhà nước 1996. Để
khắc phục những hạn chế của Luật và đáp ứng yêu cầu mới trong công tác quản
lý tài chính, ngân sách, việc sửa đổi Luật Ngân sách nhà nước 1996 là hết sức
cần thiết.
1.3.2. Phân cấp quản lý NSNN theo Luật NSNN năm 2002 đến nay:
Xuất phát từ những hạn chế của luật NSNN năm 1996 và những sửa đổi bổ
sung tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa X năm 1998, chính phủ nhận thấy một số
nội dung trong luật cần được cải thiện và yêu cầu có một bộ luật mới, hoàn chỉnh
là cần thiết và cấp bách. Do đó năm 2002, một luật NSNN mới đã được thông
qua, cho phép thực hiện tính liên tục trong hệ thống phân cấp
Tư tưởng chủ đạo của Luật NSNN năm 2002 tập trung đẩy mạnh phân cấp
quản lý tài chính - ngân sách, phát huy tính năng động, tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của các cấp chính quyền địa phương. Bên cạnh việc kế thừa các ưu điểm
của luật NSNN năm 1996, luật mới cũng thể hiện nhiều sự cải thiện và đổi mới
nhất là trong cơ chế phân cấp quản lý NSNN.
Sinh viên: Nguyễn Thị Hải Giang 21 Lớp: CQ44/ 01.02
Học viện tài chính
- Cơ chế phân cấp theo Luật ngân sách nhà nước năm 2002 đã đẩy mạnh phân
cấp quyền quyết định chế độ, tiêu chuẩn, định mức theo hướng: Loại nào nhất
thiết phải thi hành thống nhất trong cả nước để đảm bảo công bằng, bình đẳng thì
trung ương ban hành; Loại nào có thể cho địa phương vận dụng thì trung ương

ban hành khung; loại nào chỉ thực hiện do đặc điểm riêng có ở địa phương thì
giao Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ban hành (Điều này đã được thể hiện cụ thể
trong Điều 10 Nghị định số 60/2003/NĐ-CP)
- Phân cấp nguồn thu nhiệm vụ chi của các cấp ngân sách từ trung ương đến
địa phương được qui định từ điều 30 đến điều 36. Đây là nội dung quan trọng
nhất của phân cấp quản lý ngân sách nhà nước.
+ Đối với phân cấp nguồn thu, sự khác nhau cơ bản giữa luật NSNN 96 và luật
NSNN 2002 là trong luật NSNN năm 1996 nêu qui định cụ thể nhiệm vụ thu cho
4 cấp chính quyền thì luật NSNN năm 2002 cho phép chính quyền tỉnh được
quyền giao nhiệm vụ thu cho các huyện, xã. Đi đôi với phân cấp nguồn thu, để
khuyến khích địa phương phấn đấu thu vượt dự toán, còn thực hiện chính sách
thưởng đối với các địa phương có số thu vượt dự toán được giao và cao hơn mức
thu năm trước; áp dụng với khoản thu phân chia giữa ngân sách trung ương và
ngân sách địa phương, nếu vượt phần ngân sách trung ương được hưởng thì trung
ương sẽ thưởng cho ngân sách địa phương. Tỷ lệ thưởng hàng năm do Thủ tướng
Chính phủ quy định.
Luật NSNN năm 2002 không nêu rõ tỷ lệ phân chia nguồn thu giữa NSTW và
NSĐP mà giao cho Ủy ban thường vụ quốc hội quyết định ổn định từ 3 đến 5
năm. Luật mới cũng đưa thêm thuế tiêu thụ đặc biệt thu từ hàng hoá dịch vụ
trong nước và phí xăng dầu vào danh mục thuế phân chia. HĐND cấp tỉnh được
quyết định tỷ lệ phân chia các khoản thu giữa các cấp ngân sách địa phương.
Sinh viên: Nguyễn Thị Hải Giang 22 Lớp: CQ44/ 01.02
Học viện tài chính
+ Đối với phân cấp nhiệm vụ chi, luật NSNN năm 2002 về cơ bản không thay
đổi việc giao nhiệm vụ chi giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa
phương. tuy nhiên luật mới đã thay đổi hoàn toàn cách thức tiếp cận chi tiêu công
ở việt nam đối với các địa phương. Về cơ bản, Luật cho phép cấp tỉnh được phân
cấp nhiệm vụ chi cho các huyện, xã trực thuộc.
Luật mới củng cố việc cấp trên khi giao nhiệm vụ chi của mình cho cấp dưới
thực hiện thì phải chuyển nguồn kinh phí để cấp dưới thực hiện. điều này đã có

trong luật NSNN năm 1996 nhưng được bổ sung bằng quyền tự chủ của cấp tỉnh
trong việc phân giao nhiệm vụ chi cho chính quyền cấp dưới. Ngoài ra luật
NSNN năm 2002 qui định rõ khi ban hành chính sách mới làm tăng chi thì cơ
quan ban hành chính sách phải đồng thời có giải pháp đảm bảo nguồn tài chính
tài trợ phù hợp với khả năng của ngân sách từng cấp.
- Phân cấp trong lập và duyệt quyết toán ngân sách nhà nước: Điểm mới là
thời gian phê chuẩn quyết toán ngân sách các cấp được quy định dài hơn so với
trước đây để các cơ quan có điều kiện tổng hợp báo cáo, thẩm định các báo cáo
quyết toán.
- Phân cấp thẩm quyền ban hành chính sách, chế độ quản lý các nguồn thu tài
chính: Miễn giảm thuế chỉ được xem xét trong một số trường hợp cụ thể được
quy định rõ trong Luật thuế và phải được Thủ tướng Chính phủ quyết định, Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh không có quyền miễn giảm thuế trừ các trường
hợp được Luật cho phép.
- Trong lĩnh vực thanh tra, kiểm tra tài chính đã tiến hành phân cấp thanh tra
đến cấp huyện và kiểm tra đến cấp xã.
* Luật ngân sách nhà nước năm 2002 đã phát huy những tác dụng tích cực đến
đời sống kinh tế xã hội và nền tài chính quốc gia:
Sinh viên: Nguyễn Thị Hải Giang 23 Lớp: CQ44/ 01.02
Học viện tài chính
Đặc điểm nổi bật nhất của luật NS mới là các cấp chính quyền, các cơ quan có
thẩm quyền được tăng thêm quyền hạn và trách nhiệm.
Đồng thời tăng cường tính tự chủ và minh bạch cho các cấp chính quyền trong
quá trình thực hiện ngân sách
Luật NS đã nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình về tài chính ở cấp
địa phương.
* Tóm lại: Phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi NSNN là tất yếu khách quan.
Qua phân cấp nhằm quản lý ngân sách một cách hiệu quả, tiết kiệm, phát huy vai
trò và chức năng của NSNN với tư cách là phương tiện vật chất để đảm bảo cho
bộ máy Nhà nước hoạt động liên tục và hiệu quả, đồng thời là công cụ điều tiết vĩ

mô nền kinh tế - xã hội.Do vậy, để góp phần thúc đẩy kinh tế- xã hội, cần thiết
phải phân cấp quản lý ngân sách, mà yếu tố quan trọng là cơ chế phân cấp nguồn
thu, nhiệm vụ chi NSNN. Đây là giải pháp quan trọng để động viên được các
nguồn thu tiềm tàng, vừa tạo ra cơ chế để sử dụng các nguồn tài chính tiết kiệm,
hiệu quả, đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng nhiệm vụ của Nhà nước, tạo
quyền tự chủ cho các cấp chính quyền.
Các nguyên tắc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi NSNN là phải bảo đảm sự
tăng cường giữa hệ thống ngân sách với hệ thống hành chính, đảm bảo vai trò
chủ đạo của ngân sách cấp trên, phát huy tính năng động sáng tạo của ngân sách
cấp dưới; đảm bảo tính thống nhất của nền tài chính quốc gia; bảo đảm tính công
bằng, hiệu quả, khách quan trong toàn hệ thống.
Từ nhận thức như trên đã có cơ sở đề ra các nguyên tắc, các yêu cầu trong việc
xây dựng cơ chế phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi NSNN trên địa bàn từng địa
phương. Từ đó ta đi xem xét thực trạng phân cấp quản lý NSNN trên địa bàn
thành phố Hà Nội giai đoạn từ năm 2004-2008.
Sinh viên: Nguyễn Thị Hải Giang 24 Lớp: CQ44/ 01.02
Học viện tài chính
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÂN CẤP NGUỒN THU, NHIỆM VỤ CHI NSNN
TRÊN ĐỊA BÀN TP HÀ NỘI TRONG NHỮNG NĂM QUA
2.1 ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ- XÃ HỘI VÀ CƠ CẤU CÁC
CẤP NGÂN SÁCH TRÊN ĐỊA BÀN TP HÀ NỘI
2.1.1 Đặc điểm tự nhiên TP Hà Nội
Hà Nội là Thủ đô của nước CHXCN Việt Nam, nằm trong vùng Trung tâm
của đồng bằng châu thổ sông Hồng. Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào
tháng 8 năm 2008, thành phố có diện tích 3.324,92 km² với dân số khoảng
6.232.940 người. Thành phố tiếp giáp 8 tỉnh: phía Bắc giáp các tỉnh Thái
Nguyên, Vĩnh Phúc; phía Nam giáp các tỉnh Hà Nam, Hòa Bình; phía Đông giáp
các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Hưng Yên; phía Tây giáp các tỉnh Hòa Bình, Phú
Thọ Nhờ phù sa bồi đắp, ba phần tư diện tích tự nhiên của Hà Nội là đồng bằng,

nằm ở hữu ngạn sông Đà, hai bên sông Hồng và chi lưu các con sông khác
Thuộc đồng bằng sông Hồng trù phú, Hà Nội đã sớm trở thành một trung tâm
chính trị và tôn giáo ngay từ những buổi đầu của lịch sử Việt Nam. Là nơi đặt trụ
sở các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước; trên 60% tổng số cán bộ có trình
độ thạc sỹ trở lên và phần lớn chuyên gia đầu ngành của cả nước đang công tác,
nghiên cứu khoa học và giảng dạy ở Thủ đô. Hà Nội ngày càng phát triển tiêu
biểu cho văn hóa và truyền thống của dân tộc Việt Nam
Với những thuận tiện cả về đất đai và khí hậu, Hà Nội có truyền thống sản
xuất nông nghiệp từ lâu đời, đã cung cấp nhiều giống cây trồng, vật nuôi quí, có
giá trị kinh tế và nổi tiếng trong cả nước. Đáng chú ý là các huyện ngoại thành đã
Sinh viên: Nguyễn Thị Hải Giang 25 Lớp: CQ44/ 01.02

×