Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH BƯU ĐIỆN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.1 KB, 73 trang )

MỤC LỤC:
LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………………………4
CHƯƠNG I: CÔNG TY TÀI CHÍNH VÀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TÀI
CHÍNH CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH…………………………………...6
1.1 CÔNG TY TÀI CHÍNH………………………………………………..6
1.1.1 Khái niệm…………………………………………………………….6
1.1.2 Cách thức phân loại…………………………………………………7
1.1.3 Sự cần thiết của Công ty Tài chính trong mô hình Tập đoàn kinh
doanh…………………………………………………………………9
1.1.4 Hoạt động của Công ty Tài chính…………………………………11
1.1.4.1 Hoạt động huy động vốn…………………………..………………11
1.1.4.2 Hoạt động sử dụng vốn……………………………………………13
1.2 LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TÀI
CHÍNH……………………………………………………………….……17
1.2.1 Khái niệm về hoạt động đầu tư tài chính của Công ty Tài chính..17
1.2.2 Chỉ tiêu đánh giá sự phát triển hoạt động đầu tư tài chính……...19
1.2.3 Các điều kiện để phát triển hoạt động đầu tư tài chính………….21
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH
TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH BƯU
ĐIỆN……………………………….24
2.1 NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY TÀI CHÍNH BƯU
ĐIỆN……………………………………………………………………….24
2.1.1 Giới thiệu về Công ty Tài chính Bưu Điện………………………...24
2.1.2 Cơ cấu tổ chức và bộ máy quản lý…………………………………27
2.1.3 Hoạt động nghiệp vụ mà Công ty Tài chính Bưu Điện cung cấp...30
1
2.2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH TẠI CÔNG
TY TÀI CHÍNH BƯU ĐIÊN……………………………………………..33
2.2.1 Phân tích quy mô và cơ cấu vốn hoạt động đầu tư tài chính của
PTF………………………………………………………………………...33
2.2.2.2 Phân tích doanh thu, chi phí, lợi nhuận của hoạt động đầu tư tài


chính của PTF……………………………………………………………..36
2.2.2.3 Phân tích hiệu quả hoạt động đầu tư tài chính của PTF……...…40
2.3 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH
CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH BƯU ĐIỆN……………………………...42
2.3.1 Những thành công và thuận lợi……………………………………42
2.3.1.1 Những thành công………………………………………………...42
2.3.1.2 Thuận lợi…………………………………………………………..44
2.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân……………………………………44
2.3.2.1 Những hạn chế…………………………………………………….44
2.3.2.2 Nguyên nhân………………………………………………………45
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ
TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH BƯU
ĐIỆN………………..52
3.1 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TÀI
CHÍNH CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH BƯU ĐIỆN TRONG TỔNG
CÔNG TY BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG VIỆT NAM…………………52
3.1.1 Định hướng phát triển của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông
Việt Nam…………………………………………………………………...52
3.1.2 Định hướng phát triển của Công ty Tài chính Bưu Điện………...54
3.1.3 Định hướng phát triển hoạt động đầu tư tài chính của Công ty Tài
chính Bưu Điện……………………………………………………………55
2
3.2 GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH
CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH BƯU ĐIỆN…………………………..….55
3.2.1 Giải pháp phát triển hoạt động huy động vốn để giảm chi phí cho
hoạt động đầu tư tài chính………………………………………………..56
3.2.1.1 Huy động vốn từ VNPT và các đơn vị thành viên của VNPT……56
3.2.1.2 Huy động vốn từ các tổ chức tài chính…………………………...60
3.2.1.3 Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế xã hội và dân cư…………..62
3.2.2 Giải pháp phát triển hoạt động đầu tư tài chính……….…………63

3.2.2.1 Nhận uỷ thác đầu tư và quản lý phần vốn góp của VNPT tại các
Công ty cổ phần, Liên doanh……………………………………………...63
3.2.2.2 Đa dạng hoá danh mục đầu tư tài chính………………………….64
3.2.2.3 Các giải pháp khác………………………………………………...65
3.3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ………………………………………………..67
3.3.1 Đối với cơ quan quản lý Nhà nước………………………………...67
3.3.2 Đối với Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam………….69
KỀT LUẬN………………………………………………………………..71
3
LỜI MỞ ĐẦU
Khi nền kinh tế thị trường phát triển, các mối quan hệ giữa các chủ thể
kinh tế ngày càng trở nên phong phú và đa dạng, tạo ra nhiều thời cơ và
thách thức. Trong điều kiện đó, nhiều trung gian tài chính đã xuất hiện, trong
đó có Công ty Tài chính. Chúng có tính chuyên môn hoá cao trong một số
loại hình dịch vụ nhất định mà bản thân hệ thống ngân hàng thương mại
truyền thống không đáp ứng được.
Về cơ bản, hoạt động của các Công ty Tài chính giống các ngân hàng
thương mại, chúng chỉ khác nhau về hướng chuyên môn hoá trong hoạt
động. Trong khi các ngân hàng thương mại truyền thống hoạt động chủ yếu
và mang lại lợi nhuận chính cho ngân hàng là hoạt động tín dụng, thì hoạt
động chủ yếu và mang lại nhiều lợi nhuận cho các Công ty Tài chính lại là
hoạt động đầu tư tài chính.
Tại Việt Nam thì mô hình Công ty Tài chính mới chỉ xuất hiện trong
những năm gần đây và là mô hình Công ty Tài chính trực thuộc các Tổng
công ty Nhà nước. Công ty Tài chính Bưu Điện, là một trong năm Công ty
Tài chính trên cả nước, trực thuộc Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt
Nam, trong tương lai sẽ trở thành Tập đoàn Bưu chính Viễn thông. Hoạt
động của Công ty khá đa dạng song hoạt động chủ yếu của một Công ty Tài
chính là hoạt động đầu tư tài chính lại chưa phát triển đúng mức tại Công ty
Tài chính Bưu Điện. Trước những cơ hội của thời kỳ đổi mới, cùng với

những yêu cầu đặt ra của việc chuyển đổi Tổng công ty Bưu chính Viễn
thông Việt Nam sang mô hình Tập đoàn kinh doanh thì việc tìm kiếm giải
pháp để phát triển hoạt động đầu tư tài chính tại Công ty Tài chính Bưu Điện
là rất cần thiết. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, đồng thời được
4
sự hướng dẫn của thầy giáo – TS. Đặng Ngọc Đức và sự giúp đỡ của Ban
lãnh đạo, cán bộ công nhân viên Công ty Tài chính Bưu Điện, tôi đã quyết
định lựa chọn đề tài: “ Phát triển hoạt động đầu tư tài chính tại Công ty Tài
chính Bưu Điện” làm đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Nội dung chuyên đề thực tập gồm ba chương:
- Chương I: Công ty Tài chính và hoạt động đầu tư tài chính của Công
ty Tài chính.
- Chương II: Thực trạng hoạt động đầu tư tài chính tại Công ty Tài
chính Bưu Điện.
- Chương III: Giải pháp phát triển hoạt động đầu tư tài chính tại Công
ty Tài chính Bưu Điện.
5
CHƯƠNG I
CÔNG TY TÀI CHÍNH VÀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH
CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH
1.1 CÔNG TY TÀI CHÍNH:
1.1.1 Khái niệm:
Công ty Tài chính là một trung gian tài chính, sự ra đời của nó là kết
quả tất yếu trong quá trình phát triển của nền kinh tế thế giới. Những năm
đầu thế kỷ XX, sự bùng nổ của các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và
khoa học công nghệ ở các nước tư bản phương Tây đã tác động trực tiếp vào
quá trình sản xuất, thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động sản xuất hàng hoá. Sự phát
triển sản xuất này làm nảy sinh nhu cầu về vốn để mở rộng quy mô, kéo theo
nó là những nhu cầu đa dạng về các loại dịch vụ tài chính tiền tệ, đòi hỏi
phải có các tổ chức tài chính thích hợp, có tính chuyên môn hoá cao trong

một số loại dịch vụ nhất định mà bản thân hệ thống ngân hàng thương mại
truyền thống lại không đáp ứng được. Chính vì thế, những năm đầu thế kỷ
XX đánh dấu sự hình thành và phát triển của các trung gian tài chính, trong
đó có các Công ty Tài chính. Hoạt động của các trung gian tài chính góp
phần tạo thêm trung gian huy động vốn, nâng cao hiệu quả huy động vốn
cho nền kinh tế, khắc phục những hạn chế của các ngân hàng thương mại
truyền thống, đồng thời mở rộng thêm một số lĩnh vực kinh doanh, cung cấp
các dịch vụ tài chính mà ngân hàng thương mại còn bỏ ngỏ. Điểm khác biệt
cơ bản giữa Công ty Tài chính với ngân hàng thương mại là các Công ty Tài
chính thường vay những món tiền lớn và cho vay những món tiền nhỏ, còn
6
ngân hàng thương mại thì ngược lại, thường vay những món tiền nhỏ và cho
vay những món tiền lớn. Các Công ty Tài chính thường ít chịu sự giám sát
của các cơ quan Nhà nước hơn so với các ngân hàng thương mại.
Theo quan điểm chung nhất thì Công ty Tài chính là một định chế tài
chính trung gian, kinh doanh chuyên nghiệp trên thị trường tài chính, hạch
toán độc lập, được đăng ký kinh doanh theo pháp luật, các nghiệp vụ kinh
doanh được quy định rõ ràng, mang tính chuyên nghiệp trong một số nghiệp
vụ nhất định, đặc biệt là khác với ngân hàng thương mại ở chỗ không được
nhận tiền gửi không kỳ hạn hoặc ngắn hạn và không được làm dịch vụ thanh
toán.
1.1.2 Cách thức phân loại:
Có nhiều cách hiểu và diễn đạt khác nhau về Công ty Tài chính. Ở mỗi
nước khác nhau, tuỳ theo chính sách phát triển loại hình tổ chức tín dụng phi
ngân hàng này cũng như việc quy định các hoạt động nghiệp vụ được phép
thực hiện của nó, mà người ta đưa ra các khái niệm khác nhau. Thị trường
tài chính càng phát triển thì khái niệm Công ty Tài chính càng được mở
rộng. Do đó, tuỳ theo các cách thức tiếp cận khác nhau về Công ty Tài chính
mà có các cách thức phân loại khác nhau.
Căn cứ theo chức năng thì Công ty Tài chính được chia thành:

• Công ty Tài chính bán hàng: Cung cấp tín dụng gián tiếp cho người
tiêu dùng để mua sắm các món hàng do Tập đoàn hoặc một nhà sản
xuất riêng bán ra. Người tiêu dùng sẽ thoả thuận với nơi bán một hợp
đồng mua trả góp, trong đó khách hàng phải trả tiền hàng với lãi suất
định kỳ. Các Công ty Tài chính bán hàng mua lại các hợp đồng đó và
thống nhất với nơi bán hàng về các mẫu hợp đồng và thời hạn trả góp
mà họ chấp nhận được. Khi các Công ty Tài chính bán hàng mua lại
7
các hợp đồng trả góp tức là họ đã mua lại các khoản nợ của người
mua hàng, do vậy người ta còn gọi là tài trợ gián tiếp.
• Công ty Tài chính tiêu dùng: Cung ứng những món cho vay đối với
các cá nhân để họ chi tiêu cho những món hàng bán lẻ như hàng tiêu
dùng, đồ gia dụng và nhu cầu tiêu dùng những hàng hoá đắt tiền như
xe hơi, nhà cửa…hay để thanh toán các món nợ. Việc cho vay mua
các loại hàng hoá tiêu dùng thường là bấp bênh, không an toàn do
nguy cơ khách hàng có thể mất khả năng chi trả hoặc thanh toán
không đúng hạn, nhất là trong thời kỳ suy thoái, thất nghiệp gia tăng.
Nhìn chung, các Công ty Tài chính tiêu dùng thường cho khách hàng
vay các món tiền nhỏ với lãi suất cao để hơn lãi suất thị trường để
giảm thiểu rủi ro. Luật pháp các quốc gia thường quy định việc các
Công ty Tài chính tiêu dùng được thực hiện cho vay các khoản nhỏ,
kèm theo giới hạn về lãi suất tối đa và định mức khoản vay.
• Công ty Tài chính kinh doanh: Cung cấp các dạng tín dụng đặc biệt
cho các doanh nghiệp bằng cách mua các khoản tiền phải thu có chiết
khấu. Việc cung cấp tín dụng này được gọi là bao thanh toán. Ngoài
việc bao thanh toán, các Công ty Tài chính kinh doanh còn chuyên
môn hoá trong lĩnh vực cho thuê thiết bị.
Căn cứ theo mối quan hệ sở hữu thì các Công ty Tài chính được chia
thành:
• Công ty Tài chính độc lập: là Công ty Tài chính thực hiện nhiều hoạt

động kinh doanh như hoạt động tín dụng, hoạt động đầu tư, kinh
doanh tiền tệ và các dịch vụ tư vấn về tài chính - ngân hàng…nhằm
mục đích thu lợi cho chính bản thân Công ty. Đối tượng phục vụ là tất
cả các cá nhân và tổ chức trong xã hội.
8
• Công ty Tài chính trong Tập đoàn kinh doanh: nội dung và phạm vi
hoạt động của Công ty Tài chính này cũng giống như các Công ty Tài
chính độc lập. Tuy nhiên, hoạt động chủ yếu của các Công ty Tài
chính này là tìm kiếm các nguồn vốn để cung ứng cho các đơn vị
thành viên trong Tập đoàn; quản lý và đầu tư các khoản tiền vốn chưa
sử dụng trong Tập đoàn; điều hoà vốn giữa các đơn vị thành viên;
cung ứng các dịch vụ tư vấn về ngân hàng, tài chính cho các đơn vị
thành viên…Ngoài đối tượng phục vụ chính là các đơn vị thành viên
trong Tập đoàn, Công ty Tài chính này còn phục vụ các cá nhân và tổ
chức khác ngoài Tập đoàn. Điểm khác biệt cơ bản giữa Công ty Tài
chính độc lập và Công ty Tài chính trong Tập đoàn là: trong khi hoạt
động của Công ty Tài chính độc lập phục vụ cho lợi ích của chính bản
thân Công ty, thì hoạt động của Công ty Tài chính trong Tập đoàn đặt
lợi ích của Tập đoàn lên trên lợi ích của Công ty Tài chính.
1.1.3 Sự cần thiết của Công ty Tài chính trong mô hình Tập đoàn kinh
doanh:
Do sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự tích tụ, tập trung, chuyên
môn hoá và hợp tác hoá sản xuất, do nhiều nhân tố khác của kinh tế - xã hội,
khoa học công nghệ, khoa học quản lý, đã từ lâu ở các nước kinh tế phát
triển, nhiều doanh nghiệp đơn lẻ đã liên kết lại với nhau, dần hình thành
những tổ hợp kinh tế quy mô lớn, đa dạng về ngành nghề, lĩnh vực kinh
doanh, phạm vi hoạt động rộng không chỉ ở một địa phương, một nước, mà
liên quốc gia và toàn cầu. Những tổ hợp kinh tế này có những tên gọi khác
nhau, như ở Đức, Pháp, Mỹ gọi là Cartel, Syndicate, Trust, Group…, ở Nhật
Bản gọi là Zaibatsu, Keiretsu, ở Hàn Quốc gọi là Chaebol,… ở Việt Nam

những tổ hợp này đang trong quá trình hình thành, gọi là Tập đoàn kinh tế
hay Tập đoàn kinh doanh.
9
Dù có tên gọi khác nhau với hình thức tổ chức và nội dung liên kết hoạt
động không giống nhau, nhưng Tập đoàn kinh tế chung một số đặc điểm
sau:
- Có quy mô rất lớn về vốn, lao động, doanh thu và phạm vi hoạt động
- Các tập đoàn kinh tế đều hoạt động kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực
- Đa dạng về cơ cấu tổ chức, về sở hữu, pháp nhân và thể nhân.
- Về mặt điều hành thì việc hình thành các Công ty Tài chính trong các
Tập đoàn kinh doanh là một mô hình tổ chức được ưa chuộng ở nhiều
nước trên thế giới nhằm tăng cường tiềm lực tài chính phục vụ cho
yêu cầu đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động
của Tập đoàn.
Tập đoàn kinh tế được hình thành từ sự phát triển của các quan hệ liên
kết kinh tế giữa các chủ thể kinh tế, trong đó quan trọng nhất là liên kết về
tài chính. Các Tập đoàn kinh tế thường xây dựng một “Holding Company”
và một ngân hàng độc quyền lớn hoặc Công ty Tài chính. Đó là dạng công ty
khống chế, nắm cổ phần chi phối với các công ty thành viên. Thông qua
ngân hàng độc quyền hoặc Công ty Tài chính các Tập đoàn kinh tế chi phối
và kiểm soát các công ty thành viên. Các công ty thành viên trong Tập đoàn
phải thông qua công ty đứng đầu ( công ty mẹ ) mới có thể vay được các
khoản vốn với điều kiện ưu đãi.
Như vậy có thể thấy việc thành lập Công ty Tài chính là một trong bốn
đặc điểm cơ bản của Tập đoàn kinh doanh. Kinh nghiệm thực tế của nhiều
Tập đoàn kinh tế trên thế giới đã chỉ rõ vai trò của Công ty Tài chính trong
hoạt động kinh doanh của Tập đoàn. Nó vừa có vai trò huy động vốn ở bên
trong và từ bên ngoài, vừa thực hiện chức năng phân bổ các nguồn vào các
mục tiêu trọng điểm, khắc phục tình trạnh dàn trải, manh mún trong đầu tư.
Nghiên cứu quá trình phát triển của nhiều hãng lớn trên thế giới ta thấy,

10
nhiều Công ty Tài chính khi có tiềm lực mạnh còn thực hiện việc đầu tư ra
bên ngoài ( kể cả trong và ngoài nước ) để tăng thêm thế lực và mở rộng
phạm vi ảnh hưởng của Tập đoàn kinh tế của mình. Vì vậy, trong mỗi Tập
đoàn kinh tế đều cần phải có một ngân hàng độc quyền hoặc Công ty Tài
chính hoạt động. Một trong các đơn vị thành viên của Tập đoàn kinh tế là
Công ty Tài chính làm chức năng huy động vốn, giúp tập đoàn có khả năng
chủ động về tài chính, điều hoà và hỗ trợ vốn giữa các doanh nghiệp thành
viên trong nội bộ Tập đoàn cũng như liên doanh với các đối tác trong và
ngoài nước.
1.1.4 Hoạt động của Công ty Tài chính:
1.1.4.1 Hoạt động huy động vốn:
Công ty Tài chính được huy động vốn từ các nguồn sau đây:
- Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân có
tiền mặt nhàn rỗi trong xã hội.
Theo hình thức huy động vốn này thì khoản tiền mà Công ty Tài chính có
thể huy động được là không lớn, do các cá nhân và tổ chức thường có nhu
cầu gửi tiền dưới một năm, đồng thời các ngân hàng thương mại cũng cung
cấp nhiều loại tiền gửi ngắn hạn rất đa dạng với mức lãi suất hấp dẫn.
- Phát hành cổ phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại
giấy tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước.
Phát hành cổ phiếu: Cổ phiếu là một loại chứng khoán vốn được phát
hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và
lợi ích hợp pháp đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần. Cổ phiếu
là công cụ tài chính có thời hạn thanh toán là vô hạn. Công ty Tài chính có
thể phát hành cổ phiếu ngay từ khi bắt đầu đi vào hoạt động nếu nó đăng ký
thành lập dưới dạng công ty cổ phần. Trong quá trình hoạt động Công ty Tài
11
chính cũng có thể phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn của các tổ chức

và cá nhân trong nền kinh tế. Việc phát hành cổ phiếu có rất nhiều ưu điểm
mà trước hết là đáp ứng được nhu cầu về vốn, đồng thời hình thức huy động
này không làm gia tăng các khoản nợ cho công ty. Nhưng hạn chế của hình
thức huy động vốn này là có thể dẫn tới tình trạng mất quyền kiểm soát công
ty vào tay người khác.
Phát hành trái phiếu: là loại chứng khoán nợ quy định nghĩa vụ của người
phát hành ( người đi vay ) phải trả người đứng tên sở hữu chứng khoán
( người cho vay ) một khoản tiền nhất định bao gồm cả gốc và lãi trong
những khoảng thời gian cụ thể, thường là dài hạn. Đây là công cụ huy động
vốn hữu hiệu của các doanh nghiệp nói chung và Công ty Tài chính nói
riêng. Việc phát hành trái phiếu là hình thức huy động vốn nhanh chóng và
hiệu quả, khắc phục được nhược điểm của hình thức phát hành cổ phiếu là
không làm loãng quyền sở hữu công ty, nhưng nó lại có nhược điểm khác là
làm tăng khoản nợ của công ty lên, dẫn tới giảm khả năng tự chủ về tài
chính của công ty.
Phát hành chứng chỉ tiền gửi: là giấy xác nhận khoản vay của Công ty Tài
chính có ghi rõ thời hạn hoàn trả và lãi suất người cho vay được hưởng.
Chứng chỉ này là một loại đầu tư ngắn hạn có lợi cho các nhà đầu tư vì nó
được sử dụng và chấp nhận không khác gì séc hay tiền mặt.
Hợp đồng mua lại: Là hình thức vay vốn ngắn hạn của Công ty Tài chính
trên thị trường tiền tệ thông qua hợp đồng bán chứng khoán cho các tổ chức
tài chính tương đối thừa tiền mặt và thoả thuận mua lại chứng khoán đó
trong thời gian ngắn.
- Vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong nước, ngoài nước hoặc của
Công ty mẹ.
12
Công ty Tài chính có thể vay từ các tổ chức tài chính, tín dụng trong
nước, ngoài nước và các tổ chức tài chính quốc tế dựa trên nguyên tắc: Các
tổ chức tài chính hoạt động hợp pháp, thực hiện việc đi vay và cho vay theo
đúng hợp đồng tín dụng, vốn vay phải được đảm bảo bằng thế chấp, cấm cố,

bảo lãnh hoặc có thể bằng tín chấp và thực hiện theo đúng các quy định.
Ngoài ra, Công ty Tài chính còn có thể huy động vốn từ Tập đoàn. Tập
đoàn kinh doanh với đặc điểm có quy mô lớn về vốn, doanh thu và phạm vi
hoạt động rộng nên Công ty Tài chính có nhiều thuận lợi trong việc huy
động vốn nhàn rỗi. Việc Công ty mẹ cung cấp vốn hoạt động cho Công ty
Tài chính cũng tạo ra một nguồn vốn quan trọng cho Công ty Tài chính.
- Tiếp nhận vốn uỷ thác của Chính phủ, các tổ chức và cá nhân trong và
ngoài nước.
Công ty Tài chính là một tổ chức tài chính trung gian, có thể tiếp nhận
vốn uỷ thác của Chính phủ, các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước. Đây
là một hình thức huy động vốn rẻ và hiệu quả. Nhưng điều kiện để một Công
ty Tài chính có thể tiếp nhận vốn uỷ thác là Công ty Tài chính phải tự chứng
tỏ được năng lực cũng như uy tín của mình trong việc tiếp nhận vốn uỷ thác.
Nó gây khó khăn cho những Công ty Tài chính còn non trẻ hoặc những
Công ty Tài chính có quy mô nhỏ.
1.1.4.2 Hoạt động sử dụng vốn:
Hoạt động tín dụng
Công ty Tài chính là tổ chức tín dụng phi ngân hàng nên hoạt động tín
dụng cũng là một trong những hoạt động truyền thống của nó. Hoạt động tín
dụng của Công ty Tài chính gồm: cho vay; chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố
thương phiếu và các giấy tờ có giá khác; nghiệp vụ bảo lãnh và cho thuê tài
sản.
13
Cho vay: là việc Công ty Tài chính đưa tiền cho khách hàng với cam kết
khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong một thời gian nhất định. Cho
vay là hoạt động mang lại nguồn thu đáng kể cho các Công ty Tài chính, do
đối tượng và hình thức cho vay là rất phong phú, cũng như nhu cầu về vốn
chưa được đáp ứng trong nền kinh tế là rất lớn. Công ty Tài chính có thể cho
vay dưới các hình thức sau:
- Cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn.

- Cho vay theo uỷ thác của Chính phủ, của tổ chức, cá nhân.
- Cho vay tiêu dùng bằng hình thức cho vay mua trả góp.
Chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá: là việc Công ty Tài chính
ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu ( các
giấy tờ có giá ) trừ đi phần thu nhập của Công ty Tài chính để sở hữu thương
phiếu chưa đến hạn. Sau đó, Công ty Tài chính sở hữu thương phiếu đó và
có trách nhiệm thu tiền khi thương phiếu đáo hạn hoặc có thể đem thương
phiếu đó đi tái chiết khấu nếu cần.
Tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá: là việc khi các thương
phiếu được các Công ty Tài chính chiết khấu ( hoặc tái chiết khấu ) trở thành
tài sản của họ. Khi cần tiền, Công ty tài chính mang chính những thương
phiếu này đi chiết khấu một lần nữa tại các Công ty Tài chính khác hoặc tại
các ngân hàng thương mại.
Cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá: là hình thức theo đó người
nhận được tài trợ của Công ty Tài chính phải chuyển quyền kiểm soát tài sản
đảm bảo ( thương phiếu và các giấy tờ có giá ) sang cho Công ty Tài chính
trong thời gian cam kết ( thường là thời gian nhận tài trợ ).
Bảo lãnh: là một hình thức tài trợ của Công ty Tài chính cho khách hàng,
qua đó khách hàng có thể tìm kiếm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hoá
hoặc thực hiện được các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lời. Bảo
14
lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín. Bảo lãnh tạo ra mối liên kết trách
nhiệm tài chính và san sẻ rủi ro. Trách nhiệm tài chính trước hết thuộc về
khách hàng, trách nhiệm của Công ty Tài chính là thứ cấp, chỉ khi khách
hàng không thực hiện đúng cam kết, Công ty Tài chính mới phải thực hiện
nghĩa vụ tài chính đối với bên thứ ba ( khi đó Công ty tài chính mới phải
xuất tiền ).
Cho thuê tài sản: là việc Công ty Tài chính mua tài sản theo yêu cầu của
khách hàng để cho khách hàng thuê theo những thoả thuận nhất định. Sau
thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc và lãi cho Công ty. Tài sản

cho thuê thuộc sở hữu của Công ty Tài chính nên Công ty Tài chính có thể
thu hồi để bán hoặc cho người khác thuê khi người thuê không trả nợ được.
Điều này làm giảm bớt thiệt hại cho Công ty Tài chính. Hoạt động này bắt
nguồn từ doanh nghiệp sản xuất hoặc cung cấp thiết bị, nhà cửa có giá trị
lớn, thời gian sử dụng dài. Do người mua không đủ tiền mua hoặc chỉ có nhu
cầu sử dụng trong thời gian ngắn hơn thời gian khấu hao của tài sản…đã làm
nảy sinh nhu cầu thuê. Các doanh nghiệp sản xuất và cung cấp có nhu cầu
tiêu thụ để tăng doanh thu và giảm hao mòn của tài sản. Từ đó nảy sinh nhu
cầu cho thuê – đi thuê. Cho thuê có hai hình thức là cho thuê nghiệp vụ và
cho thuê tài chính. Cho thuê nghiệp vụ đáp ứng nhu cầu thuê trong thời gian
ngắn, người đi thuê không có dự định “mua” tài sản đó để sử dụng lâu dài.
Cho thuê tài chính đáp ứng nhu cầu thuê trong thời gian dài và người đi thuê
có quyền mua lại tài sản khi kết thúc hợp đồng thuê.
Hoạt động bao thanh toán: là hoạt động mua lại các yêu cầu chi trả của
một doanh nghiệp nào đó, sau đó chi trả hộ cho doanh nghiệp, thông thường
các yêu cầu chi trả là ngắn hạn. Sau khi chấp nhận bao thanh toán, các khoản
nợ của doanh nghiệp được coi là đã được trả cho chủ nợ, Công ty Tài chính
( người mua nợ ) lúc này phải chịu mọi trách nhiệm liên quan tới khoản nợ
15
đó. Bao thanh toán đặc biệt phù hợp với các doanh nghiệp thương mại, công
nghiệp có mạng lưới khách hàng rộng khắp và cung cấp các hàng hoá thông
dụng.

Đầu tư tài chính
Khi mới xuất hiện trên thị trường tài chính - tiền tệ thì các Công ty Tài
chính khởi đầu bằng hoạt động tín dụng. Khi đó, hoạt động tín dụng của
Công ty Tài chính chủ yếu tập trung vào khai thác nhu cầu về vốn mà các
ngân hàng không đáp ứng đủ. Trong quá trình phát triển của mình, Công ty
Tài chính đã không ngừng mở rộng hoạt động của mình sang các lĩnh vực
khác, và hoạt động đầu tư tài chính trở thành hoạt động quan trọng của Công

ty Tài chính. Hiện nay, các hoạt động đầu tư tài chính của Công ty Tài chính
bao gồm:
- Công ty Tài chính đầu tư trực tiếp bằng cách góp vốn, mua cổ phần
của các doanh nghiệp; góp vốn hợp tác kinh doanh vào các dự án; đầu
tư kỳ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác và hoạt động kinh
doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán.
- Công ty Tài chính nhận uỷ thác đầu tư tài chính của các tổ chức, cá
nhân để thực hiện việc đầu tư tài chính: đầu tư vào các dự án, góp
vốn, mua cổ phần, kinh doanh chứng khoán…
Bên cạnh các hoạt động sử dụng vốn trên, tận dụng những ưu thế của
mình, Công ty Tài chính còn thực hiện các hoạt động sau:
Hoạt động tư vấn: Công ty Tài chính là tổ chức chuyên hoạt động trong
lĩnh vực tài chính - tiền tệ, nên rất có uy tín và kinh nghiệm trong lĩnh vực
này. Tận dụng ưu thế đó, trong quá trình phát triển, Công ty Tài chính còn
cung ứng các dịch vụ tư vấn về ngân hàng, tài chính, tiền tệ, đầu tư cho
khách hàng. Hoạt động tư vấn của Công ty Tài chính được khách hàng tin
16
cậy và sử dụng. Đối tượng nhận tư vấn có thể là cá nhân, tổ chức nhưng chủ
yếu là các doanh nghiệp. Công ty Tài chính giúp các doanh nghiệp phân tích
tình hình tài chính, lập dự án, thẩm định dự án, phân tích tính hiệu quả và
lựa chọn đầu tư dự án, đầu tư chứng khoán, thực hiện chuyển đổi doanh
nghiệp, xây dựng các giải pháp huy động và sử dụng vốn tối ưu, xây dựng
các quy trình nghiệp vụ, các quy chế quản lý nội bộ…
Làm đại lý phát hành trái phiếu, cổ phiếu và các giấy tờ có giá cho các
doanh nghiệp: Công ty Tài chính với mạng lưới các chi nhánh, văn phòng
đại diện rộng khắp, cùng với những mối quan hệ và hiểu biết về các nhà đầu
tư tiềm năng, Công ty Tài chính có thể thực hiện tốt chức năng làm đại lý
phát hành trái phiếu, cổ phiếu và các giấy tờ có giá cho các doanh nghiệp,
đảm bảo tính an toàn và chính xác cao.
Bảo quản tài sản hộ: Các Công ty Tài chính có thể thực hiện việc lưu giữ

các hiện vật quý, giấy tờ có giá và các tài sản khác cho khách hàng trong két
( còn gọi là dịch vụ cho thuê két ). Công ty Tài chính thường giữ hộ các tài
sản tài chính, giấy tờ cầm cố hoặc những giấy tờ quan trọng khác của khách
hàng với nguyên tắc an toàn, bí mật và thuận tiện.
1.2 LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TÀI
CHÍNH CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH:
1.2.1 Khái niệm về hoạt động đầu tư tài chính của Công ty Tài chính:
Hoạt động đầu tư tài chính của các Công ty Tài chính là các hoạt động
đầu tư vốn vào các danh mục, loại hình đầu tư khác nhau trong lĩnh vực kinh
doanh khác nhau trong một thời hạn nhất định nhằm đem lại khoản tăng
trưởng vốn, mở rộng các cơ hội thu lợi nhuận cao và phân tán rủi ro về tài
chính.
17
Thực chất của hoạt động đầu tư tài chính của các Công ty Tài chính là
dùng vốn để mua chứng khoán: cổ phiếu, trái phiếu chính phủ, trái phiếu địa
phương, trái phiếu công ty, tín phiếu kho bạc với mục đích hưởng lãi hoặc
mua vào, bán ra để kiếm lời. Hoặc, bỏ vốn vào doanh nghiệp khác dưới hình
thức góp vốn liên doanh, mua cổ phần, góp vốn với tư cách là một thành
viên tham gia quản lý và điều hành công ty liên doanh, công ty cổ phần
nhằm chia sẻ lợi ích và trách nhiệm với các doanh nghiệp khác. Hoặc, Công
ty Tài chính bỏ vốn đầu tư vào các dự án…
Ý nghĩa của hoạt động đầu tư tài chính của Công ty Tài chính:
Trong tương lai, hoạt động đầu tư tài chính của Công ty Tài chính sẽ
chiếm một tỷ trọng lớn không phải chỉ về quy mô vốn, mà cả về tổng mức
lợi nhuận của Công ty. Hoạt động đầu tư tài chính có một vị trí quan trọng
trong hoạt động kinh doanh nên các Công ty Tài chính cần phải đẩy mạnh
các hoạt động đầu tư tài chính. Việc tăng cường các hoạt động đầu tư tài
chính có một ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh
của Công ty. Điều đó được thể hiện:
- Thông qua các hoạt động đầu tư tài chính, cho phép các Công ty Tài

chính tận dụng mọi nguồn vốn nhàn rỗi hoặc sử dụng kém hiệu quả
vào lĩnh vực kinh doanh khác, có thể đạt được mức lợi nhuận cao hơn,
góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Công ty.
- Khi các khoản hoạt động đầu tư tài chính chiếm một tỷ lệ khá lớn,
đặc biệt là khi hoạt động đầu tư tài chính của Công ty Tài chính đạt
được danh mục đầu tư hợp lý, đạt hiệu quả kinh tế cao, có thể giúp
cho Công ty tăng trưởng vốn nhanh và hạn chế được những rủi ro về
tài chính.
- Qua việc phân tích tình hình thực hiện hoạt động đầu tư tài chính,
Công ty Tài chính có thể điều chỉnh và phân bổ các nguồn lực trong
18
kinh doanh một cách hợp lý hơn, góp phần nâng cao hiệu quả kinh
doanh của Công ty.
- Đứng trên góc độ toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nếu các hoạt động
đầu tư tài chính của các tổ chức, các doanh nghiệp trong đó có Công
ty Tài chính phát triển thì nó có tác dụng điều phối vốn từ các doanh
nghiệp này sang các doanh nghiệp khác nhằm tận dụng tối đa năng lực
sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp. Do vậy, việc sử dụng vốn
của toàn bộ nền kinh tế sẽ có hiệu quả hơn.
1.2.2 Chỉ tiêu đánh giá sự phát triển hoạt động đầu tư tài chính:
Phát triển của hoạt động đầu tư tài chính thể hiện ở các mặt sau:
Quy mô đầu tư tài chính tăng lên:
Việc quy mô đầu tư tài chính tăng lên thường phản ánh các hoạt động đầu
tư tài chính của các doanh nghiệp nói chung và các Công ty Tài chính nói
riêng đang được tiến hành thuận lợi và đang mang lại hiệu quả thiết thực.
Hướng đầu tư mà Công ty lựa chọn là đúng. Tuy nhiên, cần phải xem xét
xem nguồn vốn tài trợ cho sự gia tăng quy mô đầu tư tài chính của Công ty
là nguồn nào? Nếu toàn bộ số vốn được đưa vào lĩnh vực của hoạt động đầu
tư tài chính bằng nguồn vốn chủ sở hữu thì điều đó chứng tỏ rằng: khả năng
chủ động về tài chính của Công ty Tài chính là tương đối khả quan và như

vậy rủi ro về tài chính của Công ty Tài chính là rất nhỏ. Trái lại, nếu các
hoạt động đầu tư tài chính của Công ty hoàn toàn bằng vốn vay thì điều đó
chứng tỏ: khả năng chủ động về tài chính là không lớn và rủi ro về tài chính
của Công ty Tài chính sẽ tăng lên. Cho nên, khi Công ty Tài chính quyết
định tăng quy mô đầu tư tài chính thì cần phải cân nhắc, tính toán kỹ trên cả
hai góc độ: đó là hiệu quả kinh doanh và rủi ro tài chính. Thực tế đã chứng
minh rằng: Thông thường hiệu quả kinh tế của hoạt động đầu tư tài chính
càng cao thì rủi ro về tài chính của hoạt động đó càng tăng và ngược lại.
19
Chính trên ý nghĩa đó, khi mà Công ty Tài chính đã có sự cân nhắc, tính toán
và lựa chọn hướng đầu tư cũng như nguồn vốn tài trợ cho hoạt động đầu tư
tài chính đúng đắn và hợp lý thì bất cứ sự tăng lên nào trong quy mô đầu tư
tài chính của Công ty Tài chính cũng cho thấy sự phát triển của hoạt động
này.
Sự thay đổi trong cơ cấu đầu tư tài chính:
Với cùng quy mô đầu tư tài chính, nhưng Công ty Tài chính vẫn có thể có
được sự phát triển trong hoạt động đầu tư tài chính bằng cách thay đổi trong
cơ cấu đầu tư. Trên cơ sở đánh giá việc lựa chọn hướng đầu tư của hoạt
động đầu tư tài chính đúng hay không, các Công ty Tài chính cần phải xem
xét phân tích và quyết định loại hình đầu tư cho thích hợp. Dựa vào đánh giá
về loại hình đầu tư, Công ty Tài chính mới có thể lựa chọn để ra các quyết
định đầu tư theo chiều rộng hay theo chiều sâu, đầu tư tài chính ngắn hạn
hay đầu tư tài chính dài hạn và theo danh mục đầu tư nào, với cơ cấu ra sao
để đạt được kết quả cao nhất trong kinh doanh của hoạt động đầu tư tài
chính. Lẽ dĩ nhiên, với mỗi danh mục đầu tư ( thể hiện cơ cấu đầu tư ) khác
nhau sẽ mang lại kết quả kinh doanh khác nhau và rủi ro về đầu tư tài chính
cũng khác nhau. Và với cùng một quy mô đầu tư, bất cứ sự thay đổi nào
trong cơ cấu đầu tư mang lại lợi ích kinh tế nhiều hơn cho Công ty Tài chính
mà vẫn không làm thay đổi hoặc có thể làm giảm rủi ro về tài chính cho
Công ty Tài chính đều là một dấu hiệu phản ánh sự phát triển của hoạt động

đầu tư tài chính.
Sự gia tăng về lợi nhuận của hoạt động đầu tư tài chính: đây cũng là một
chỉ tiêu phản ánh sự phát triển của hoạt động đầu tư tài chính. Sự phát triển
của hoạt động đầu tư tài chính được đánh giá trên hai góc độ: phát triển theo
chiều rộng và phát triển theo chiều sâu. Sự gia tăng về quy mô hoạt động
đầu tư tài chính chính là sự phát triển theo chiều rộng. Theo hướng phát triển
20
này thì không đảm bảo rằng Công ty sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn so với
trước. Nhưng với cùng quy mô đầu tư, bằng cách thay đổi trong cơ cấu đầu
tư, các quy trình ngiệp vụ giúp cho hoạt động đầu tư tài chính của Công ty
đem lại nhiều lợi nhuận hơn – đây chính là sự phát triển hoạt động đầu tư tài
chính theo chiều sâu. Giữa hai hướng phát triển này có mối quan hệ mật
thiết với nhau: việc mở rộng đầu tư tài chính theo chiều rộng có thể mang lại
nhiều lợi nhuận hơn cho Công ty, ngược lại việc thu được nhiều lợi nhuận
hơn sẽ là động lực thúc đẩy Công ty đẩy mạnh đầu tư vốn cho hoạt động đầu
tư tài chính. Ngoài ra, việc gia tăng về lợi nhuận hoạt động đầu tư tài chính
của Công ty lại liên quan chặt chẽ tới tính hiệu quả của hoạt động đầu tư tài
chính - đây là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng vốn đầu tư
vào lĩnh vực hoạt động đầu tư tài chính nhằm thu được kết quả cao nhất
trong quá trình đầu tư với tổng chi phí là thấp nhất. Thông thường đây là
mối quan hệ tỷ lệ thuận, một hoạt động đầu tư tài chính có tính hiệu quả
kinh tế tăng sẽ đảm bảo khả năng gia tăng lợi nhuận.
1.2.3 Các điều kiện để phát triển hoạt động đầu tư tài chính:
Cũng giống như các hoạt động kinh doanh khác, hoạt động đầu tư tài
chính muốn phát triển thì điều kiện tiên quyết là phải có cung - cầu về đầu tư
tài chính. Cung về đầu tư tài chính phụ thuộc chính vào khả năng về tài
chính của bản thân Công ty, cầu về tài chính do yếu tố thị trường quyết định.
Khả năng tài chính mạnh của Công ty Tài chính: Quyết định đầu tư tài
chính thường được xem xét trong giới hạn về khả năng huy động vốn của
Công ty Tài chính. Một Công ty không có tiềm lực về tài chính thì không thể

duy trì đầu tư chứ chưa nói tới phát triển hoạt động đầu tư tài chính. Một
Công ty có khả năng huy động vốn lớn, đa dạng tài trợ cho hoạt động đầu tư
thì có nhiều cơ hội hơn để phát triển hoạt động đầu tư một cách hiệu quả. Cơ
cấu nguồn vốn của Công ty Tài chính gồm vốn chủ sở hữu và vốn nợ. Vốn
21
chủ sở hữu của Công ty gồm: nguồn vốn hình thành ban đầu; nguồn vốn bổ
sung trong quá trình hoạt động từ việc chuyển một phần lợi nhuận ròng hàng
năm thành vốn đầu tư, từ nguồn bổ sung do phát hành thêm cổ phần, góp
thêm, cấp thêm, và nguồn từ các quỹ của Công ty. Vốn nợ của Công ty Tài
chính bao gồm: tiền gửi của các tổ chức, cá nhân trong xã hội; tiền vay từ
các tổ chức tín dụng, các Công ty Tài chính khác; vay trên thị trường vốn;
hoặc nhận uỷ thác…Với mỗi cơ cấu nguồn vốn huy động tài trợ cho hoạt
động đầu tư tài chính khác nhau thì chi phí đầu tư cũng khác nhau. Công ty
Tài chính có thể căn cứ vào dự báo chính xác nhu cầu đầu tư trong tương lai
để có thể quyết định nguồn vốn, cơ cấu nguồn vốn tài trợ hợp lý. Công ty có
tiềm lực kinh tế mạnh có thể dễ dàng huy động và kết hợp có hiệu quả giữa
vốn chủ và vốn nợ để tài trợ cho đầu tư tài chính sao cho mang lại hiệu quả
kinh tế cao.
Sự phát triển của nền kinh tế: khả năng tài chính của Công ty Tài chính
phản ánh cung về đầu tư tài chính, thì sự phát triển của nền kinh tế lại quyết
định cầu về đầu tư tài chính. Khi nền kinh tế phát triển, các doanh nghiệp
nói chung đều có nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, từ đó dẫn
tới cầu về đầu tư tài chính của Công ty Tài chính tăng lên. Mặt khác, mức độ
phát triển của thị trường tài chính tiền tệ có ảnh hưởng quyết định sự phát
triển hoạt động của các tổ chức tài chính nói chung và hoạt động đầu tư tài
chính của Công ty Tài chính nói riêng. Thực tế, ở các nước có thị trường tài
chính tiền tệ phát triển ở bậc cao thì khả năng chi phối về tài chính của các
Công ty Tài chính là rất lớn. Các Công ty này chủ yếu hoạt động trên thị
trường tài chính tiền tệ, kinh doanh các công cụ tài chính, quản lý các danh
mục đầu tư… để tăng tiềm lực tài chính cho mình. Sau đó, với tiềm lực tài

22
chính mạnh mẽ, các Công ty Tài chính có thể đẩy mạnh hoạt động đầu tư tài
chính đáp ứng nhu cầu đầu tư rất lớn và đa dạng của nền kinh tế.
Ngoài hai điều kiện trực tiếp quyết định sự phát triển hoạt động đầu tư tài
chính của Công ty Tài chính, còn có những yếu tố gián tiếp tác động tới sự
phát triển của hoạt động này:
Môi trường pháp lý thuận lợi: Hoạt động của mọi thành phần kinh tế,
trong đó có Công ty Tài chính phụ thuộc vào cơ chế, chính sách của Nhà
nước, mà trong đó Nhà nước quy định phạm vi hoạt động, quyền và lợi ích
của từng thành phần kinh tế. Trong những thời kỳ khác nhau, Nhà nước có
những chính sách kinh tế khác nhau phù hợp với mục tiêu phát triển và điều
kiện của môi trường kinh tế trong thời kỳ đó. Sự thay đổi trong chính sách
phát triển kinh tế của Nhà nước có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của các
doanh nghiệp nói chung và Công ty Tài chính nói riêng. Đặc biệt, khi Nhà
nước có những chính sách khuyến khích phát triển kinh tế, Nhà nước sẽ tạo
mọi điều kiện thúc đẩy cho hoạt động của các thành phần kinh tế. Các chính
sách thuế và lãi suất thấp, làm giảm chi phí tài chính cho hoạt động đầu tư
tài chính. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển hoạt động đầu tư tài
chính.
Môi trường chính trị ổn định: sự phát triển hoạt động đầu tư tài chính của
Công ty Tài chính còn chịu sự tác động của môi trường chính trị - xã hội
từng nước. Chính trị vững mạnh, xã hội ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho các thành phần kinh tế phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, thu hút
đầu tư trong và ngoài nước, đặc biệt là đầu tư nước ngoài. Từ đó làm tăng
cầu về đầu tư, thúc đẩy hoạt động đầu tư tài chính phát triển.
23
Tiến bộ khoa học - kỹ thuật: Khoa học kỹ thuật là chìa khoá để thành công
trong các dự án đầu tư. Những tiến bộ trong khoa học kỹ thuật sẽ ảnh hưởng
tới việc lựa chọn các trang thiết bị, phương pháp khấu hao tài sản cố định,
chất lượng và giá thành sản phẩm…nâng cao hiệu quả đầu tư.

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH TẠI CÔNG
TY TÀI CHÍNH BƯU ĐIỆN
2.1 NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY TÀI CHÍNH BƯU
ĐIỆN:
2.1.1 Giới thiệu về Công ty Tài chính Bưu Điện:
Việt Nam đã thực hiện quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang
nền kinh tế thị trường, việc xác định phương hướng và tìm ra các giải pháp
lớn để nâng cao chất lượng và tốc độc tăng trưởng kinh tế là một nhu cầu vô
cùng cấp bách. Một trong những nhiệm vụ đó là tổ chức sắp xếp lại các
doanh nghiệp Nhà nước - đặc biệt là các doanh nghiệp lớn. Mô hình tập
đoàn kinh tế ở Việt Nam đã được bàn luận từ năm 1994-1995 và đã ra đời
các Tổng công ty 91 làm quá độ chuyển đổi.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ, Tổng công ty Bưu chính
Viễn thông Việt Nam đã xây dựng đề án hình thành tập đoàn Bưu chính
Viễn thông để khắc phục những tồn tại hiện nay của Tổng công ty, nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh và tiến tới hội
nhập quốc tế. Trên cơ sở các thành viên hiện có, Tổng công ty tiến hành đổi
mới, hoàn thiện mô hình tổ chức và cơ chế quản lý nhằm thay đổi cơ bản
hình thức tổ chức và phương thức quản lý của Tổng công ty từ quan hệ hành
chính, giao vốn sang quan hệ sở hữu vốn. Và như đã trình bày ở mục “Sự
24
cần thiết của Công ty Tài chính trong mô hình Tập đoàn kinh doanh” thì
sự ra đời của Công ty Tài chính Bưu Điện trong Tổng công ty Bưu chính
Viễn thông Việt Nam, đặc biệt là khi Tổng công ty đang chuẩn bị chuyển
sang hoạt động theo mô hình Tập đoàn kinh doanh là kết quả tất yếu.
Công ty Tài chính Bưu Điện là doanh nghiệp Nhà nước hạch toán độc lập
trực thuộc Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam; là một tổ chức tín
dụng phi ngân hàng; tổ chức và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng.
Công ty được thành lập theo Quyết định số 415/1998/QD-TCCB ngày

08/07/1998 của Tổng cục Trưởng Tổng cục Bưu Điện theo chủ trương đổi
mới DNNN thể hiện tại Nghị định số 51/CP ngày 01/08/1995 của Chính
Phủ; hoạt động theo giấy phép số 03/GP-NHNN do Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước cấp ngày 10/10/1998 và Đăng ký kinh doanh số 112959 ngày
12/06/1999 của Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội; Bắt đầu đi vào
hoạt động từ ngày 25/11/1998.
Công ty Tài chính Bưu Điện có tên giao dịch quốc tế là: Post and
Telecommunication Finance Company (PTF).
Công ty Tài chính Bưu Điện có trụ sở chính tại: phòng 1504 – 1505 tầng
15 và tầng 19, toà nhà Ocean Park, số 1 Đào Duy Anh - Đống Đa - Hà Nội.
PTF được thành lập các chi nhánh và văn phòng đại diện tại các địa phương
trong, ngoài nước khi được VNPT cho phép và Ngân hàng Nhà nước chấp
thuận.
Vốn điều lệ của công ty là 70 tỷ đồng, thời hạn hoạt động của PTF là 50
năm kể từ ngày được kể từ ngày được cấp giấy phép hoạt động (10/10/1998)
nhưng không được vượt quá thời hạn hoạt động của Tổng công ty. Trường
hợp cần gia hạn thời gian hoạt động phải được Ngân hàng Nhà nước chấp
thuận. Mỗi lần gia hạn không quá 50 năm.
* Ý nghĩa:
25

×