Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.15 KB, 72 trang )

Lời mở đầu
Sau 20 năm cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước, hệ thống các ngân
hàng thương mại (NHTM) ở Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc,
lớn mạnh về mọi mặt, kể cả số lượng, qui mô, nội dung và chất lượng; đã có
những đóng góp xứng đáng vào công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa nền
kinh tế nói chung và quá trình đổi mới, phát triển của các thành phần kinh tế,
các doanh nghiệp và dân doanh nói riêng; thực sự là ngành tiên phong trong
quá trình đổi mới cơ chế kinh tế. Đặc biệt trong những năm qua, hoạt động
ngân hàng nước ta đã góp phần tích cực huy động vốn, mở rộng vốn đầu tư
cho lĩnh vực sản xuất phát triển, tạo điều kiện thu hút vốn nước ngoài để tăng
trưởng kinh tế trong nước. Ngành ngân hàng đã xứng đáng là công cụ đắc lực
hỗ trợ cho nhà nước trong việc kiềm chế, đẩy lùi lạm phát, ổn định giá cả.
Trong hoạt động của ngân hàng thì hoạt động tín dụng là một trong
những hoạt động tạo ra giá trị cho ngân hàng. Hoạt động tín dụng là nghiệp
vụ chủ yếu của hệ thống NHTM ở nước ta hiện nay, chiếm tỷ trọng lớn nhất
(trên 60%) trong danh mục tài sản nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất. Do
đó, song song với việc tăng trưởng tín dụng, nhiệm vụ đặt ra đối với hệ thống
ngân hàng Việt Nam là phải chú trọng hơn nữa đến việc áp dụng và hoàn
thiện các giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng.
Trước tình hình đó, cộng với những kiến thức có được trong quá
trình nghiên cứu thực tập tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hà Nội, tôi quyết định chọn tên đề tài “Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng
tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội” để từ đó có
nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của quản lý rủi ro tín dụng đối với sự an
toàn và vững mạnh của NHTM nói chung và Ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển nông thôn Hà Nội nói riêng.
1
Kết cấu của chuyên đề ngoài lời mở đầu và kết luận gồm 3 phần:
Chương 1: Lý thuyết chung về rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn Hà Nội.


Chương 3: Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp
và phát triển nông thôn Hà Nội
2
Chương i
rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại.
1.1. Những vấn đề cơ bản về tín dụng ngân hàng
1.1.1. Khái niệm và phân loại
Ngân hàng là một trung gian tài chính có chức năng quan trọng là
thu hút, tập trung các nguồn vốn, chuyển tiết kiệm thành đầu tư. Cùng với sự
phát triển của nền kinh tế, hoạt động ngân hàng đã có những bước tiến rất
nhanh. Các dịch vụ ngân hàng cung cấp ngày càng phong phú, đa dạng và
cũng mang lại cho ngân hàng nguồn thu không nhỏ. Tuy nhiên, hoạt động chủ
yếu mang lại lợi nhuận cho ngân hàng vẫn là tín dụng.
Trong các hoạt động của ngân hàng, tín dụng được hiểu là quan hệ
vay mượn có hoàn trả vốn và lãi sau một thời gian nhất định giữa ngân hàng
với các chủ thể khác trong nền kinh tế. Theo nhiều tiêu thức, tín dụng được
phân chia như sau:
 Theo thời gian, tín dụng được phân chia thành tín dụng ngắn,
trung và dài hạn.
- Tín dụng ngắn hạn là những khoản vay có thời hạn dưới 1 năm,
để tài trợ cho tài sản lưu động.
- Tín dụng trung hạn là những khoản vay thông thường từ 1 đến 5
năm, tài trợ cho các tài sản cố định như máy móc thiết bị…
- Tín dụng dài hạn là những khoản vay từ 5 năm trở lên để tài trợ
cho tài sản cố định có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài.
3
Nhìn chung, tỷ trọng tín dụng ngắn hạn ở ngân hàng thường cao hơn
tín dụng trung và dài hạn. Đó là do các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho nhu cầu
vốn lưu động của khách hàng. Hơn nữa, tín dụng trung và dài hạn thường có
rủi ro cao hơn và nguồn đắt hơn. Việc phân loại theo thời gian để ngân hàng

quản lý nhằm đảm bảo an toàn và sinh lợi.
 Theo hình thức tài trợ, tín dụng được chia thành cho vay, bảo
lãnh, cho thuê, chiết khấu.
- Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết
khách hàng phải hoàn trả gốc và lãi trong thời gian xác định. Trong phần lớn
các ngân hàng, cho vay luôn chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động tín dụng.
- Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài
chính hộ khách hàng của mình trong trường hợp khách hàng không thực hiện
đúng nghĩa vụ như cam kết. Bảo lãnh có nhiều loại như bảo lãnh dự thầu, bảo
lãnh thanh toán, bảo lãnh chất lượng, bảo lãnh thực hiện hợp đồng…
- Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách
hàng thuê theo những thoả thuận nhất định. Cho thuê có hai hình thức là cho
thuê nghiệp vụ và thuê tài chính.
- Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho
khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của
ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn.
 Theo tài sản đảm bảo, tín dụng được chia thành tín dụng có và
không có tài sản đảm bảo.
- Tín dụng có tài sản đảm bảo là việc ngân hàng cho khách hàng
vay vốn dựa trên cam kết người nhận tín dụng sẽ dùng tài sản đảm bảo để trả
nợ trong một số trường hợp.
4
- Tín dụng không có tài sản đảm bảo: có thể được cấp cho khách
hàng có uy tín, thường làm ăn thường xuyên có lãi hoặc các khoản vay của
các tổ chức lớn hay theo chỉ định của Chính phủ.
Ngoài ra, tín dụng ngân hàng còn được phân loại theo ngành kinh tế
(công, nông nghiệp…), theo đối tượng tín dụng (tài sản lưu động, tài sản cố
định), theo mục đích sử dụng vốn (sản xuất, tiêu dùng…). Việc phân loại tín
dụng cho phép ngân hàng theo dõi rủi ro và sinh lợi, gắn liền với những lĩnh
vực tài trợ để có chính sách lãi suất, bảo đảm, hạn mức và chính sách mở rộng

phù hợp.
1.1.2. Nguyên tắc tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại dựa trên một số nguyên
tắc nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời. Nhìn chung,
hoạt động này phải tuân theo 3 nguyên tắc sau.
Thứ nhất, khách hàng phải cam kết trả cả gốc và lãi cho ngân hàng
trong một thời gian xác định. Đó là do ngân hàng cho vay dựa trên các khoản
tiền gửi của khách hàng và bản thân ngân hàng đi vay mượn. Cho nên ngân
hàng phải có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi như cam kết. Để có thể tồn tại
và phát triển, ngân hàng luôn yêu cầu người vay vốn phải thực hiện đúng như
cam kết trong hợp đồng tín dụng.
Thứ hai, khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo mục đích được
thoả thuận với ngân hàng, phù hợp theo luật hiện hành. Thông thường, hoạt
động của ngân hàng đươc quy định trong luật nhưng mỗi ngân hàng lại có quy
định riêng. Mục đích sử dụng vốn được ghi trong hợp đồng tín dụng đảm bảo
ngân hàng không tài trợ cho những hoạt động trái pháp luật và phạm vi của
ngân hàng. Nếu khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, khách hàng phải hoàn
toàn chịu trách nhiệm trước ngân hàng và luật pháp.
5
Thứ ba, ngân hàng tài trợ dựa trên phương án ( hoặc dự án) có hiệu quả.
Bởi vì chỉ khi hoạt động sử dụng vốn vay ngân hàng mang lại lợi nhuận thì
khách hàng mới có khả năng hoàn trả vốn và lãi cho ngân hàng. Trong trường
hợp thấy phương án hoặc dự án đó có thể có rủi ro cao, ngân hàng yêu cầu
khách hàng phải có các hình thức đảm bảo tiền vay.
1.1.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng
Tín dụng là hoạt động chủ yếu của phần lớn các ngân hàng thương mại,
thường chiếm tỷ trọng từ 60 – 70% lợi nhuận của ngân hàng. Do đó, ngân
hàng luôn tìm cách duy trì, mở rộng tín dụng thông qua việc đa dạng hoá các
loại hình dịch vụ. Mặt khác, hoạt động tín dụng còn có tác động đến những
hoạt động kinh doanh khác hay uy tín nên ngân hàng cũng phải quan tâm đến

chất lượng tín dụng để tránh những ảnh hưởng xấu. Như vậy, ngay đối với
bản thân ngân hàng, tín dụng đã chiếm một vai trò quan trọng, quyết định tới
sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Tuy nhiên, đối với nền kinh tế, tín
dụng ngân hàng lại thể hiện một vai trò rõ nét hơn.
Thứ nhất, tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình điều hoà vốn giữa các
chủ thể trong nền kinh tế. Trong cấu trúc hệ thống tài chính, ngân hàng là
trung gian tài chính, có chức năng chuyển vốn từ người tiết kiệm đến người
đầu tư và kiếm lời bằng phần chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền
gửi. Như vậy, thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng đã tập trung vốn từ
những người có khoản tiền tạm thời nhàn rỗi, điều chuyển đến những người
muốn sản xuất kinh doanh, nhưng lại thiếu vốn. Do đó, các loại hình tín dụng
càng phong phú và đa dạng bao nhiêu, quá trình điều hoà vốn càng đạt hiệu
quả bấy nhiêu.
Thứ hai, tín dụng ngân hàng cung cấp một nguồn vốn quan trọng,
không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với
toàn bộ nền kinh tế. Có thể nói rằng: không một công ty nào có thể hoạt động
6
tốt và tồn tại vững chắc trên thị trường mà không sử dụng vốn vay ngân hàng.
Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay ngân hàng để đảm
bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh liên tục, không bị
gián đoạn; đặc biệt là có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu
của doanh nghiệp. Khi sử dụng vốn tín dụng ngân hàng, các doanh nghiệp
phải mất chi phí sử dụng, lại chịu sự thẩm định, giám sát từ phía ngân nên sẽ
có ý thức tốt hơn trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của mình.
Thứ ba, tín dụng ngân hàng là một trong những công cụ chính sách tiền
tệ, giúp chính phủ điều tiết nền kinh tế. Thông qua hạn mức tín dụng, lãi suất
tín dụng, Chính phủ có thể điều tiết lượng cung tiền tệ hợp lý, góp phần kiềm
chế lạm phát, bình ổn giá cả. Hơn nữa, tín dụng ngân hàng cũng tham gia vào
quá trình tập trung vốn, khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh để
tạo ra nhiều công ăn việc làm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Tóm lại, tín dụng ngân hàng chiếm vai trò quan trọng đối với ngân
hàng cũng như đối với nền kinh tế. Để có thể phát huy được vai trò của nó,
ngân hàng càng ngày càng mở rộng nhiều loại hình tín dụng. Tuy nhiên, để
tránh các tác động xấu có thể xảy ra, ngân hàng cần xem xét, đánh giá kỹ các
rủi ro tiềm ẩn trước khi cấp tín dụng.
1.2. Rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng
1.2.1. Khái niệm
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ – loại
hàng hoá đặc biệt, do vậy nó chứa đựng rất nhiều rủi ro, gây những tổn thất
không mong muốn đối với ngân hàng. Những rủi ro mà ngân hàng thường
gặp phải trong quá trình hoạt động như : rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái, rủi ro
thanh khoản, rủi ro tồn đọng vốn…Trong đó, hoạt động tín dụng là hoạt động
sinh lợi chủ yếu của ngân hàng nên rủi ro tín dụng là một trong những rủi ro
7
có thể mang lại những tổn thất nghiêm trọng đối với ngân hàng, thậm chí làm
phá sản. Để hạn chế được loại hình rủi ro này, trước hết phải hiểu thế nào là
rủi ro tín dụng?
Có nhiều định nghĩa về rủi ro tín dụng, nhưng trong phạm vi luận văn
này, rủi ro tín dụng được hiểu là khả năng xảy ra những tổn thất tài chính mà
ngân hàng phải chịu do người đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng
hạn theo cam kết hoặc mất khả năng thanh toán. Điều này có nghĩa là các
khoản thanh toán bao gồm cả phần gốc, lãi như cam kết có thể bị trì hoãn
hoặc thậm chí không được trả.
Thông thường, khi thực hiện một hoạt động tài trợ cụ thể, ngân hàng cố
gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn là cao nhất. Và
ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy rằng rủi ro tín dụng sẽ không xảy
ra. Tuy nhiên, không phải bao giờ các quyết định cũng là chính xác, một phần
là do khách hàng, một phần do ngân hàng. Do vậy, trên quan điểm quản lý
toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là tất yếu khách
quan. Nhiều quan điểm nhất trí rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh

doanh, chỉ có thể hạn chế, không thể loại trừ.
1.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng
Để có thể xác định, đo lường, quản lý và kiểm soát rủi ro tín dụng, các
ngân hàng thường tiến hành phân loại theo từng tiêu thức:
- Theo cơ cấu các loại hình rủi ro: rủi ro tín dụng được chia thành
rủi ro theo khoản cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn.
- Theo nguồn gốc hình thành , rủi ro tín dụng được chia thành 3
loại:
8
+ Rủi ro từ phía người cho vay: là những rủi ro do chính sách của ngân
hàng; việc nghiên cứu và dự báo; theo dõi, xử lý rủi ro tín dụng; cán bộ tín
dụng; công tác kiểm tra, kiểm soát…
+ Rủi ro từ phía người vay: rủi ro đạo đức, rủi ro vì khả năng tài chính
yếu kém; biến động khả năng kinh doanh; vị trí của doanh nghiệp thay đổi;
mối quan hệ với đối tác…
+ Rủi ro từ nguyên nhân khác: vì khâu quản lý của ngân hàng Nhà
nước, chế độ chính sách, môi trường, biến động kinh tế…
1.2.3. Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng
Các chuyến thăm khách hàng thường xuyên là cách tốt nhất để phát
hiện nhanh chóng những dấu hiệu này. Những chuyến thăm luôn phải có việc
kiểm tra tình hình thực tế và sổ sách của khách hàng. Sau đây là một số dấu
hiệu thường thấy từ phía khách hàng cần được kiểm tra:
 Từ báo cáo tài chính :
- Ngân hàng không nhận được cáo báo cáo tài chính từ người vay
một cách kịp thời.
- Tiền mặt của khách hàng giảm
- Khả năng thanh khoản/vốn lưu động giảm
- Những thay đổi nhanh chóng của tài sản cố định
- Xuất hiện những khoản nợ mà công ty vay hoặc cho vay cán bộ
hoặc cổ đông của công ty.

- Doanh số bán hàng giảm hoặc gia tăng một cách nhanh chóng
- Mức độ chênh lệch lớn giữa tổng doanh thu và doanh thu ròng
9
- Doanh thu tăng nhưng lợi nhuận giảm
- Xuất hiện các khoản lỗ từ hoạt động kinh doanh
 Từ hoạt động kinh doanh
- Thay đổi về phạm vi kinh doanh
- Mất những dây chuyền sản xuất chính, quyền phân phối sản
phẩm hoặc nguồn cung cấp.
- Mất một hay nhiều khách hàng có năng lực tài chính tốt hoặc nhà
cung ứng chính
- Sự thay đổi đáng kể về giá trị của đơn đặt hàng hoặc hợp đồng
mà có thể làm mất năng lực sản xuất hiện hành
 Những dấu hiệu liên quan đến giao dịch ngân hàng
- Số dư tài khoản tại ngân hàng giảm
- Xuất hiện khoản nợ quá hạn
- Đặt niềm tin nhiều vào các khoản nợ ngắn hạn
- Xin gia hạn nhiều lần hoặc đảo nợ nhiều lần
- Xuất hiện các khoản vay có nhiều nguồn trả nợ (như theo đề nghị
vay vốn) nhưng không dễ dàng nhận thấy chúng.
- Công tác kế hoạch hoá tài chính cho các nhu cầu về tài sản cố
định hoặc về vốn lưu động thể hiện sự đơn giản và kém cỏi.
 Những dấu hiệu liên quan đến quản trị công ty
- Báo cáo và quản lý tài chính kém cỏi
10
- Các chức năng điều hành và phân công xử lý công việc thể hiện
một sự chắp vá
- Mong muốn hoặc khăng khăng đòi “đánh bạc” với kinh doanh có
những rủi ro quá mức.
- Đặt giá bán hàng hoá và dịch vụ một cách không thực tế

- Những thay đổi trong quản lý, quyền sở hữu hoặc những nhân
vật chủ chốt
- Chậm trễ trong việc phản ứng lại với sự đi xuống của thị trường
hoặc các điều kiện kinh tế
Tuy nhiên, khi khách hàng có một trong những dấu hiệu trên thì không
đáng kể. Nhưng khi một số dấu hiệu xảy ra đồng thời thì cán bộ cần xem xét,
đánh giá kỹ để có thê hạn chế và giảm thiểu tác động của rủi ro tín dụng gây
nên.
1.2.4. Một số mô hình lượng hoá rủi ro tín dụng
Nhiều năm về trước,để đánh giá rủi ro tín dụng hầu hết các ngân hàng
chỉ dựa duy nhất vào phương pháp định tính như xem xét khách hàng có đủ tư
cách không, có tài sản thế chấp không, mục đích vay có hợp lý không…Tuy
nhiên, phương pháp này tỏ ra vừa mất thời gian, tốn kém, lại mang tính chủ
quan, chính vì vậy, ngân hàng không ngừng cải tiến phương pháp đánh giá
khách hàng để ra quyết định cho vay.
Ngày nay, một số ngân hàng đã sử dụng mô hình cho điểm để lượng
hoá rủi ro tín dụng người vay. Mô hình cho điểm tín dụng có ưu điểm so với
phương pháp truyền thống ở chỗ là nó cho phép xử lý nhanh chóng một khối
lượng lớn các đơn xin vay, với chi phí thấp, khách quan, do đó góp phần tích
cực trong việc kiểm soát rủi ro tín dụng ngân hàng. Các mô hình cho điểm tín
11
dụng sử dụng các số liệu phản ánh những đặc điểm của người vay để lượng
hoá xác suất vỡ nợ cũng như phân loại người thành các nhóm có mức độ rủi
ro khác nhau. Để sử dụng các mô hình này, nhà quản lý phải xác định các tiêu
chí về kinh tế và tài chính liên quan đến rủi ro tín dụng đối với từng nhóm
khách hàng cụ thể. Đối với tín dụng tiêu dùng, các tiêu chí đó có thể là thu
nhập, tài sản, tuổi tác, giới tính… Đối với tín dụng công ty thì các chỉ tiêu tài
chính thường là các chỉ tiêu chủ yếu. Sau khi tiêu chí đã được xác định, kỹ
thuật thống kê sẽ được sử dụng để lượng hoá xác suất rủi ro tín dụng hoặc để
phân loại rủi ro tín dụng. Sau đây là một số mô hình lượng hoá rủi ro tín dụng

cơ bản thường được sử dụng
1.2.4.1. Mô hình điểm số Z
Mô hình điểm số Z do E.I.Altman hình thành để cho điểm tín dụng đối
với các công ty sản xuất của Mỹ. Đại lượng Z là thước đo tổng hợp để phân
loại rủi ro tín dụng đối với người vay và phụ thuộc vào:
- Trị số của các chỉ số tài chính của người vay (Xj)
- Tầm quan trọng của các trị số này trong việc xác định xác suất
vỡ nợ của người vay (trọng số)
Từ đó, Altman đi đến mô hình cho điểm như sau:
Z = 1,2X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0,6X4 + 1,0X5
Trong đó:
- X1 = tỷ số vốn lưu động ròng/tổng tài sản
- X2 = tỷ số lợi nhuận giữ lại/tổng tài sản
- X3 = tỷ số lợi nhuận trước thuế và tiền lãi/tổng tài sản
12
- X4 = tỷ số thị giá cổ phiếu/giá trị ghi sổ của nợ dài hạn
- X5 = tỷ số doanh thu/tổng tài sản
Trị số Z càng cao thì người vay cao xác suất vỡ nợ càng thấp. Như vậy,
khi trị số Z thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ để xếp khách hàng vào nhóm
có nguy cơ vỡ nợ cao. Theo Altman, bất cứ công ty nào có điểm số Z thấp
hơn 1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao và ngân
hàng chỉ cấp tín dụng khi điểm số Z được cải thiện.
Tuy nhiên, mô hình này có những hạn chế là chỉ phân biệt được khách
hàng thành hai nhóm vỡ nợ và không vỡ nợ. Trong thực tế, vỡ nợ được phân
thành nhiều loại, từ không trả hay chậm trễ trong việc trả tiền vay đến không
trả. Như vậy, cần có một mô hình chính xác hơn, với nhiều thang điểm khác
nhau để phân loại khách hàng thành nhiều nhóm. Hơn nữa, mô hình này
không tính tới một số nhân tố quan trọng nhưng khó lượng hoá, nhưng lại ảnh
hưởng đáng kể đến mức độ rủi ro tín dụng của khách hàng như danh tiếng,
mối quan hệ truyền thống hay yếu tố vĩ mô như chu kỳ kinh tế, chu kỳ kinh

doanh.
1.2.4.2. Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng
Ngày nay rất nhiều ngân hàng trên thế giới, trong đó có cả Việt nam sử
dụng phương pháp cho điểm để lượng hoá rủi ro tín dụng trong việc xử lý các
đơn xin vay của người tiêu dùng. Nhiều khách hàng ưa thích sự thuận tiện và
nhanh chóng khi những yêu cầu tín dụng của họ được xử lý bằng hệ thống
cho điểm tự động. Thông thường, khách hàng có thể gọi điện thoại đến ngân
hàng để xin vay, thông qua hệ thống máy tính nối mạng và có kết quả tín
dụng sau vài phút.
Các yếu tố quan trọng liên quan đến khách hàng sử dụng trong mô hình
cho điểm tín dụng tiêu dùng bao gồm: hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài
13
sản, số người phụ thộc, sở hữu nhà, thu nhập, tài khoản…Mô hình cho điểm
tín dụng tiêu dùng thường sử dụng từ 7 đến 12 hạng mục, mỗi hạng mục được
cho điểm từ 1 đến 10 tương ứng với tình trạng người xin vay. Tổng điểm ở tất
cả các hạng mục của khách hàng đó là tiêu chí để xếp hạng mức độ rủi ro cao
hay thấp và từ đó có quyết định cho vay hay không?
Rõ ràng là mô hình điểm số đã loại bỏ được sự phán xét chủ quan trong
quá trình cho vay và giảm đáng kể thời gian quyết định tín dụng của ngân
hàng. Tuy nhiên mô hình này cũng có nhược điểm như không điều chỉnh linh
hoạt thích ứng với những thay đổi trong nền kinh tế.
1.2.5 . Tác động của rủi ro tín dụng
1.2.5.1. Tác động của rủi ro tín dụng tới hoạt động của ngân hàng
Do vốn chủ sở hữu của ngân hàng chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng
tài sản nên chỉ cần một tỷ lệ nhỏ của danh mục cho vay có vấn đề là đã ảnh
hưởng lớn đến ngân hàng. Dưới đây là một số tác động xấu mà ngân hàng có
thể gặp phải khi rủi ro tín dụng xảy ra:
Thứ nhất, rủi ro tín dụng làm giảm thu nhập của ngân hàng. Khi có một
khoản nợ bị coi là quá hạn, thu nhập của ngân hàng bị giảm sút ngay; một
phần vì không thu được lãi hoặc nợ gốc như cam kết, trong khi vẫn phải trả

lãi cho nguồn huy động, một phần do các chi phí quản lý, giám sát phát sinh.
Mặt khác, nếu các khoản nợ quá hạn chuyển thành khó thu hoặc không thu
được, thì việc xử lý tài sản đảm bảo luôn gặp rất nhiều khó khăn về pháp lý và
định giá nên trường hợp ngân hàng có thể thu hồi được nợ khi phát mại tài
sản là rất khó xảy ra.
Thứ hai, rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng.
Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao không những làm giảm thu nhập của
ngân hàng mà còn làm giảm nguồn vốn, đồng thời làm giảm khả năng thanh
toán của ngân hàng. Khi đó, ngân hàng sẽ phải đi vay trên thị trường liên
14
ngân hàng với lãi suất cao, bởi huy động từ tiền gửi dân cư thường mất rất
nhiều thời gian. Nếu tình trạng này kéo dài với việc hàng loạt người gửi tiền
rút tiền, ngân hàng sẽ buộc phải đóng cửa và tuyên bố phá sản.
Thứ ba, rủi ro tín dụng giảm uy tín và năng lực cạnh tranh của ngân
hàng. Khi ngân hàng mất khả năng thanh toán, phải đi vay từ nhiều nguồn
khác nhau, uy tín của ngân hàng trên thị trường tài chính sẽ bị giảm đi nghiêm
trọng. Hơn nữa tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao cũng là một chỉ tiêu quan
trọng để đánh giá không tốt về tình hình hoạt động của ngân hàng. Điều này
sẽ ảnh hưởng lớn đến tâm lý đối tác của ngân hàng, dẫn đến việc huy động
vốn trở nên khó khăn hơn và gặp nhiều trở ngại trong việc cạnh tranh với các
ngân hàng khác.
1.2.5.2. Tác động của rủi ro tín dụng đối với nền kinh tế
Hoạt động của ngân hàng thương mại mang tính xã hội hoá cao vì nó
liên quan đến nhiều ngành nghề và nhiều thành phần khác nhau trong nền
kinh tế. Do vậy, khi một ngân hàng bị phá sản, nó sẽ gây ảnh hưởng đến các
bộ phận còn lại trong xã hội. Trước tiên là các ngân hàng khác, bởi có quan
hệ mật thiết với nhau trong hoạt động nên một ngân hàng sụp đổ rất có thể
dẫn đến sự sụp đổ của các ngân hàng còn lại. Ngoài ra, việc sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp bị gián đoạn do thiếu vốn; người gửi tiền không
lấy lại tiền. Những hậu quả này còn làm giảm lòng tin của công chúng vào sự

vững chắc và lành mạnh của hệ thống tài chính, cũng như hiệu lực của các
chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ.
1.2.6. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng. Thông thường, người
ta phân rủi ro tín dụng thành ba nhóm: nguyên nhân thuộc về ngân hàng,
nguyên nhân thuộc về người vay, nguyên nhân khác.
1.2.6.1. Nguyên nhân thuộc về ngân hàng
15
Thứ nhất, sự yếu kém của đội ngũ cán bộ. Sự yếu kém ở đây bao gồm cả
về năng lực và phẩm chất đạo đức. Nếu một cán bộ tín dụng non kém về trình
độ, thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm thì sẽ không có khả năng thẩm định và
xử lý thông tin, đánh giá khách hàng thiếu chính xác, mức vay,lãi suất vay và
kỳ hạn không phù hợp ; dẫn đến chất lượng tín dụng thấp, rủi ro cao. Ngoài
ra, nếu cán bộ tín dụng không tuân thủ theo đúng quy trình tín dụng như giải
ngân trước khi hoàn thành chứng từ hay không kiểm tra giám sát việc sử dụng
vốn của người vay, thì việc mất vốn rất dễ xảy ra. Hơn nữa, cán bộ tín dụng
mà phẩm chất đạo đức kém, không có tinh thần trách nhiệm, dễ bị cám dỗ thì
sẽ gây thiệt hại rất lớn cho ngân hàng bằng cách cho vay chỉ dựa trên mối
quan hệ với khách hàng, dựa trên lợi ích cá nhân mà bỏ qua những điều kiện
và thủ tục cần thiết.
Thứ hai, sự giám sát của các cấp quản lý trong ngân hàng là thiếu sát
sao. Cán bộ tín dụng cần có sự phê duyệt của lãnh đạo trước khi giải ngân.
Vậy nên nếu cấp trên không có sự kiểm tra, đánh giá xem quyết định của cán
bộ đã thực sự chính xác chưa thì nguy cơ rủi ro tín dụng sẽ là rất cao. Hơn
nữa, sau khi giải ngân rồi, cán bộ tín dụng vẫn phải tiếp tục theo dõi khách
hàng để sớm phát hiện ra dấu hiệu của những khoản nợ có vấn đề. Tuy nhiên,
việc theo dõi này đối với nhiều cán bộ chỉ mang tính hình thức. Do vậy, nếu
các cấp quản lý không có sự giám sát đối với cán bộ tín dụng, hoạt động của
các cán bộ tín dụng sẽ không hiệu quả, thậm chí dẫn đến những sai phạm đạo
đức trong cho vay và thu nợ. Ngoài ra, các cơ quan cấp trên không quan tâm

đến thực trạng tín dụng của ngân hàng thì sẽ không có những chỉ đạo kịp thời
để ngăn ngừa và xử lý rủi ro xảy ra.
Thứ ba, ngân hàng chưa đa dạng hoá các danh mục đầu tư. Một công
cụ luôn được nhắc đến trong quản trị tín dụng ở tất cả các ngân hàng trên thế
giới là quản trị danh mục đầu tư. Quản trị danh mục làm cân đối và kiềm chế
rủi ro bằng cách nhận dạng, dự báo và kiểm soát mức độ rủi ro với từng thị
16
trường, khách hàng, loại sản phẩm tín dụng và điều kiện hoạt động khác nhau.
Nhiều chuyên gia ngân hàng tin rằng đa dạng hoá là giải pháp phòng ngừa rủi
ro tín dụng hữu hiệu nhất. Mặc dù hiểu rõ tầm quan trọng của việc đa dạng
hoá danh mục đầu tư, song rất nhiều ngân hàng chỉ cho vay một hoặc hai
ngành hoặc chỉ cho vay một vài doanh nghiệp lớn, nhóm kinh doanh đơn lẻ.
Một danh mục đầu tư phụ thuộc chủ yếu vào một ngành hay một loại mặt
hàng là rất nguy hiểm vì không ngành nào là không có rủi ro.
Thứ tư, định giá khoản vay không theo mức độ rủi ro của khách hàng.
Về cơ cấu, lãi suất cho một khoản vay phải được xác định ở mức đảm bảo bù
đắp được chi phí vốn đầu vào, chi phí quản lý, phần lợi nhuận mong muốn và
phần bù đắp rủi ro của khoản vay. Khách hàng được đánh giá có mức độ rủi
ro càng cao, phần bù rủi ro càng lớn. Nhưng vì cạnh tranh nên một số ngân
hàng có thể chấp nhận mức giá cho vay thấp, thậm chí chỉ đủ chi phí vốn đầu
vào và chi phí quản lý, không tính đến phần bù rủi ro. Việc làm đó trong dài
hạn không những làm giảm lợi nhuận mà còn làm tăng tính rủi ro trong hoạt
động tín dụng của ngân hàng.
1.2.6.2. Nguyên nhân thuộc về người vay
Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro tín dụng, có thể chia nhóm
này thành hai loại chính:
Thứ nhất, do khách hàng kinh doanh thua lỗ nên mất khả năng trả nợ.
Trường hợp này rất phổ biến do khách hàng có trình độ yếu kém trong dự
đoán các vấn đề kinh tế, yếu kém trong năng lực quản lý, sử dụng vốn sai mục
đích, sản phẩm chất lượng thấp không bán được... Hơn nữa có rất nhiều người

vay sẵn sàng lao vào những cơ hội kinh doanh mạo hiểm với kỳ vọng thu
được lợi nhuận cao, mà không tính toán kỹ hoặc không có khả năng tính toán
những bất trắc có thể xảy ra nên khả năng xảy ra tổn thất với ngân hàng là rất
lớn.
17
Thứ hai, do khách hàng cố tình chiếm dụng vốn của ngân hàng. Để đạt
được mục đích thu được lợi nhuận, nhiều khách hàng sẵn sàng tìm mọi thủ
đoạn để ứng phó với ngân hàng như mua chuộc hoặc cung cấp các báo cáo tài
chính sai lệch. Trong trường hợp này, nếu không phát hiện ra, ngân hàng sẽ
đánh giá sai về khả năng tài chính của khách và cho vay vốn với khối lượng
và thời hạn không hợp lý, dẫn đến rủi ro tiềm ẩn là rất cao.Ngoài ra, cũng có
những trường hợp người kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân
hàng đúng hạn mà cố tình chây ỳ với hy vọng có thể quỵt nợ hoặc tiếp tục sử
dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
1.2.6.3. Nguyên nhân khác
Những nguyên nhân này phần lớn xuất hiện từ môi trường xung quanh
như chất lượng thông tin, biến động kinh tế, chính sách pháp luật…
Thứ nhất, chất lượng thông tin chưa cao. Các thông tin mà ngân hàng
thu thập thường liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng tài
chính của khách hàng, tình hình kinh tế xã hội, cạnh tranh trên thị trường; sau
đó dựa vào các thông tin thu thập được để ra quyết định cho vay. Tuy nhiên,
trên thực tế thì không phải lúc nào các thông tin ngân hàng thu thập được đều
có tính chính xác, đầy đủ và kịp thời. Do vậy, nếu hệ thống thông tin tín dụng
của ngân hàng không hoạt động có hiệu quả, cập nhật được những thông tin
đáng tin cậy thì tất yếu dẫn đến việc ngân hàng thất thoát vốn khi cho vay.
Thứ hai, những biến động kinh tế không dự báo được. Khi nền kinh tế
ổn định, tăng trưởng lành mạnh thì nhu cầu đầu tư trong xã hội có xu hướng
gia tăng, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng. Tuy nhiên khi xuất
hiện những biến động kinh tế như lạm phát, giá tăng ở một số mặt hàng nào
đó ảnh hưởng đến một nhóm ngành thì rủi ro tín dụng với ngân hàng là rất

lớn. Nhiều người vay có thể thích ứng và vượt qua khó khăn đó, nhưng cũng
18
có rất nhiều người bị đình trệ hoạt động sản xuất, kinh doanh thua lỗ nên khả
năng trả nợ vốn vay ngân hàng không được đảm bảo.
Thứ ba, sự thay đổi trong các chính sách kinh tế, pháp luật. Sự thiếu
nhất quán trong các chính sách kinh tế pháp luật cũng gây ảnh hưởng không
nhỏ tới ngân hàng cũng như như các doanh nghiệp có sử dụng vốn vay ngân
hàng. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ không ổn định khi có những
thay đổi trong quy định về thuế, vốn..,cũng như hoạt động tín dụng của ngân
hàng cũng bị tác động nhiều bởi những văn bản luật về tài sản đảm bảo, dự
trữ, trích lập…Như vậy, các chính sách kinh tế, pháp luật không hoàn chỉnh
cũng gây khó khăn có doanh nghiệp về khả năng trả nợ, cũng như đe doạ đến
sự an toàn của ngân hàng trong cho vay.
1.3. Nhân tố ảnh hưởng tới hạn chế rủi ro tín dụng
Như đã phân tích ở trên, rủi ro tín dụng luôn đi đôi với hoạt động kinh
doanh ngân hàng. Do vậy, ngân hàng chỉ có thể đưa ra các biện pháp ngăn
ngừa để giảm khả năng xảy ra hoặc giảm tổn thất do rủi ro tín dụng gây nên
mà không thể loại trừ. Tuy nhiên, việc hạn chế rủi ro tín dụng được nhiều hay
ít lại phụ thuộc phần lớn vào chính bản thân các ngân hàng. Sau đây là một số
nhân tố ảnh hưởng tới việc hạn chế rủi ro tín dụng.
1.3.1. Chính sách và quy trình tín dụng
Chính sách tín dụng là hệ thống các chủ trương, định hướng, quy định
chi phối hoạt động tín dụng do ngân hàng đưa ra nhằm sử dụng hiệu quả
nguồn vốn để tài trợ cho các doanh nghiệp, hộ gia đình và các cá nhân; đồng
thời thiết lập môi trường nhằm giảm bớt rủi ro trong hoạt động tín dụng.
Thông thường, chính sách tín dụng quy định đối tượng vay vốn, nhu cầu vay
vốn, hạn mức, điều kiện vay, phương thức quản lý…Nếu chính sách tín dụng
được xây dựng khoa học, cẩn thận, thông suốt từ trên xuống dưới sẽ tạo điều
kiện cho ngân hàng duy trì tiêu chuẩn tín dụng của mình, tránh rủi ro quá mức
19

và đánh giá đúng về cơ hội kinh doanh. Ngược lại, chính sách tín dụng không
cụ thể, không thích ứng được với những thay đổi của môi trường, không phù
hợp với khả năng và mục tiêu của ngân hàng sẽ làm giảm chất lượng của
những khoản vay, dễ phát sinh rủi ro. Thực tế đã chứng minh rằng ngân hàng
nào xây dựng được một chính sách tín dụng hợp lý, chất lượng tín dụng tại
ngân hàng đó thường cao hơn.
Trong khi đó, quy trình tín dụng lại bao gồm các bước cụ thể hoá chính sách
tín dụng, giúp cán bộ tín dụng tiến hành quá trình cho vay diễn ra thống nhất,
khoa học, góp phần đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng. Quy trình cho
vay gồm nhiều bước nhỏ nhưng thường được chia thành 4 giai đoạn: phân
tích trước khi cấp tín dụng, xây dựng và ký kết hợp đồng, giải ngân, kiểm soát
sau khi cấp tín dụng. Chính vì cán bộ tín dụng cho vay chủ yếu dựa vào các
bước trong quy trình tín dụng nên đối với mỗi ngân hàng, quy trình cần được
xây dựng cụ thể, chi tiết đối với mỗi loại hình tín dụng, mỗi đối tượng khách
hàng để đảm bảo việc thực hiện đúng, đủ quy trình là có thể hạn chế được rủi
ro xảy ra.
1.3.2. Chính sách quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng
Trong công tác phòng ngừa rủi ro tín dụng, ngoài việc tuân thủ theo các
quy chế cho vay, bảo lãnh, bảo đảm tiền vay…do ngân hàng trung ương ban
hành, các ngân hàng thương mại cần xây dựng riêng cho mình một chính sách
quản lý rủi ro tín dụng phù hợp. Mục tiêu của xây dựng chính sách này là
nhằm giảm đến mức tối thiểu khả năng xảy ra rủi ro tín dụng và tổn thất ở
mức ngân hàng cho là hợp lý. Do vậy, chính sách này cần phải quản lý được
các rủi ro hiện hữu ở từng khoản vay, cả trước và sau khi rủi ro gây ra tổn thất
cho ngân hàng. Thông thường, chính sách quản lý rủi ro tín dụng thường đưa
ra những khuyến cáo về ngành, lĩnh vực, đối tượng khách hàng không nên
hoặc thận trọng cho vay để cán bộ tín dụng có thể sớm nhận biết được những
rủi ro tiềm ẩn, đồng thời đưa ra những công cụ quản trị hữu hiệu, thích hợp
20
với đặc điểm của từng ngân hàng. Cũng như vậy, trong trường hợp rủi ro đã

xảy ra, chính sách quản lý rủi ro tín dụng cũng quy định cách thức giải quyết
sao cho thu hồi được nợ nhiều và nhanh nhất, giảm tổn thất với ngân hàng. Có
thể nói, ngân hàng ban hành được chính sách quản lý rủi ro tín dụng đầy đủ,
cụ thể bằng văn bản, ngân hàng đó đã thành công bước đầu trong việc hạn chế
rủi ro tín dụng.
1.3.3. Tổ chức quản lý tín dụng và rủi ro tín dụng
Phần lớn các ngân hàng đều thành lập tổ chức quản lý tín dụng và rủi ro tín
dụng như trung tâm thông tin tín dụng và phòng ngừa rủi ro, trung tâm giám
sát và kiểm tra tín dụng, công ty quản lý nợ và xử lý tài sản đảm bảo. Các tổ
chức này có chức năng cung cấp những thông tin thiết yếu cho cán bộ tín
dụng về khách hàng, trợ giúp cán bộ trong quá trình ra quyết định cho vay;
đồng thời giám sát, kiểm tra tình hình những khoản vay sau giải ngân để sớm
phát hiện những dấu hiệu của rủi ro. Khi rủi ro xảy ra thì có biện pháp xử lý
tài sản đảm bảo, thu hồi nợ. Các tổ chức quản lý tín dụng và rủi ro tín dụng
của một ngân hàng nên phối hợp với nhau vì chỉ khi các tổ chức này hoạt
động hiệu quả thì mới hạn chế được nhiều rủi ro tín dụng. Tránh việc thành
lập các tổ chức này mang tính hình thức vì như vậy không những ngăn ngừa
được mà còn làm tình hình rủi ro tín dụng tại ngân hàng xấu đi.
1.3.4. Nhân tố công nghệ
Hiện nay, công nghệ thông tin là một trong những nhân tố có ảnh hưởng khá
nhiều đến công tác hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng. Một ngân hàng mà
ứng dụng nhiều công nghệ, kỹ thuật hiện đại thì sẽ đạt tính chính xác, độ
nhanh nhạy cao trong hoạt động tín dụng, giảm thiểu các sai sót. Ví dụ như
thông tin về khách hàng cập nhật hơn, đầy đủ hơn, đặc biệt là công tác chấm
điểm khách hàng nếu làm tự động sẽ nhanh, ít nhầm lẫn hơn. Ngoài ra, các
cấp quản lý khi cần cũng có thể nắm bắt thông tin về tình hình hoạt động tín
dụng tại cơ sở nhanh nhất, chính xác nhất. Tóm lại, một ngân hàng nên đầu tư
21
vào các trang thiết bị, công nghệ hiện đại để vừa mở rộng tín dụng lại vừa hạn
chế được rủi ro.

22
Chương ii
Thực trạng rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn Hà Nội
2.1. Đặc điểm ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội
2.1.1. Lịch sử phát triển
Thành lập ngày 26/3/1988 theo luật các tổ chức tín dụng, đến nay Ngân
hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam là Ngân hàng thương
mại hàng đầu giữ vai trò chủ đạo và chủ lực trong đầu tư vốn phát triển kinh
tế nông nghiệp, nông thôn cũng như đối với các lĩnh vực khác của nền kinh tế
Việt nam. Đứng trước tình hình đổi mới của nền kinh tế, nhu cầu về vốn ngày
càng tăng, Ngân hàng đã mở rộng mạng lưới hoạt động, đa dạng hoá các dịch
vụ Ngân hàng từ đó NHNo &PTNT VN đã thành lập thêm nhiều chi nhánh
trên cả nước đặc biệt là các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh, Đà Nẵng,Huế , Gia Lai…Trên địa bàn Hà Nội ngày 27/6/1988 căn cứ
theo quyết định số 51/QĐ-NH của thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
đã quyết định thành lập chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông
thôn Hà Nội.
Ngay từ khi thành lập chi nhánh NHNo & PTNT Hà Nội đã được phép thực
hiện mọi hoạt động kinh doanh, được thanh toán trong và ngoài nước, tham
gia các hoạt động mua bán ngoại tệ. Ngân hàng hoạt động kinh doanh chủ yếu
trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng trên địa bàn Hà Nội, đóng
vai trò tao lập vốn tập trung cho vay các thành phần kinh tế trong và ngoài
quốc doanh cung cấp các loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại, đáp ứng nhu
cầu tín dụng của các thành phần kinh tế trên địa bàn thủ đô, góp phần thực
hiện các chương trình mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của hệ thống NHTM
quốc doanh.
23
2.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của ngân hàng nông nghiệp Hà Nội
Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội có những

chức năng chính sau :
- Nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi thanh
toán của tất cả các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước bằng VNĐ và ngoại tệ.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu Ngân
hàng và các hình thức huy động vốn khác.
- Tiếp nhận vốn tài trợ, tín thác, uỷ thác đầu tư từ chính phủ, Ngân hàng
nhà nước và các tổ chức quốc tế, quốc gia và cá nhân trong nước, ngoài nước
đầu tư vào các chương trình phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội.
- Vay vốn Ngân hàng nhà nước, các tổ chức tài chính, tín dụng trong
và ngoài nước, các tổ chức, cá nhân và nước ngoài khác.
- Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn bằng VNĐ và ngoại tệ đối
với các tổ chức kinh tế, các cá nhân hộ gia đình thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Chiết khấu các loại giấy tờ có giá.
- Cho vay tài trợ theo chương trình dự án và kế hoạch của chính phủ.
- Cho vay tài trợ các chương trình, dự án vì mục tiêu nhân đạo, văn hoá
-xã hội (tuỳ theo đặc điểm của nguồn vốn ).
- Thực hiện nghiệp vụ cho thuê tài chính.
- Thực hiện nghiệp vụ thanh toán LC cho khách hàng, bảo lãnh hoặc tái
bảo lãnh tín dụng, bảo lãnh đấu thầu cho các doanh nghiệp, các tổ chức tín
dụng trong nước và nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
24
2.1.3. C cu t chc ngõn hng nụng nghip H Ni
Chi nhỏnh NHNo & PTNT H Ni cn c vo tớnh cht c im v
chc nng trong ch o, iu hnh thc hin cỏc ngip v kinh doanh trờn a
bn hot ng. Khi mi thnh lp c cu t chc ca Ngõn hng cũn rt n
gin. Nhng t ú n nay, chi nhỏnh ó khụng ngng i mi c cu nhm
hot ng phự hp vi s phỏt trin kinh t xó hi ca a phng.
Mụ hỡnh b mỏy ca chi nhỏnh
2.1.4. Tỡnh hỡnh hot ng kinh doanh ti ngõn hng nụng nghip v
phỏt trin nụng thụn H Ni nm 2005

Trong nm va qua, ngõn hng nụng nghip v phỏt trin nụng thụn H
Ni ó tn dng thun li, khc phc khú khn hon thnh mc tiờu phỏt trin
kinh t Th ụ do u ban nhõn dõn thnh ph H Ni ra. Vi mc tiờu
25
Giám đốc
Phó giám đốcPhó giám đốc
Phòng
kinh
doanh
Phòng
KDNT
&
TTQT
Phòng
Kế toán
Kế
hoạch
tổng
hợp
Phòng
thẩm định
Phòng tổ chức
hành chính
Phòng kiểm tra
kiểm toán nội bộ
Phòng vi tính Tổ tiếp thị

×