LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế trong đó sự tự do hóa thương mại được xem là nhân tố
quan trọng thúc đầy tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống cho mỗi quốc gia,
đa số các quốc gia trên thế giới đều điều chỉnh nền kinh tế của mình theo hướng
mở cửa, giảm và hơn nữa là tháo rỡ các rào cản thương mại làm cho việc thay đổi,
giao lưu hàng hóa và lưu thông các nhân tố sản xuất ngày càng thuận lợi hơn, để
tránh bị rơi vào tình trạng tụt hậu hầu hết các nước trên thế giới ngày càng nỗ lực
hội nhập vào xu thế chung để tăng cường sức mạnh kinh tế.
Hiện nay xu thế hòa bình, hợp tác để cùng phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi
bức xúc của dân tộc và các nước trên thế giới, các nước ngày đều có môi trường
hòa bình, ổn định và thực hiện chính sách mở cửa các nền kinh tế ngày càng gắn
bó, phụ thuộc lẫn nhau tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế, các thể chế đa phương
trên thế giới và khu vực có vai trò ngày càng tăng cùng với sự phát triển của ý thức
độc lập tự chủ, tự lực của các dân tộc.
Toàn cầu hóa đang là một trong những xu thế phát triển chủ yếu của quan hệ quốc
tế hiện đại, cuộc cách mạng kinh tế kỹ thuật đã và đang thúc đẩy mạnh mẽ quá
trình chuyên môn hóa và hợp tác giữa các quốc gia, làm cho lực lượng sản xuất
được quốc tế hóa cao độ những tiến bộ khoa học kỹ thuật đặc biệt là lĩnh vực thông
tin đã đưa các quốc gia tiến lại gần nhau hơn dần đến sự hình thành của mạng lưới
toàn cầu, trước biến đổi to lớn về khoa học công nghiệp này, tất cả các quốc gia
trên thế giới đều thực hiện điều chỉnh cơ cấu kinh tế, điều chỉnh chính sách theo
hướng mở cửa , giảm và dỡ bỏ hàng rào thuế quan làm cho việc trao đổi hàng hóa,
di chuyển vốn, lao động và các kỹ thuật trên thế giới ngày càng thông thoáng hơn,
tạo điều kiện cho các quan hệ kinh tế mở rộng và phát triển.
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ .
1. Khái quát chung về hội nhập kinh tế quốc tế
a) Toàn cầu hóa:
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền
kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc
gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế, v.v... trên quy mô toàn
cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hoá hầu như được dùng để chỉ các tác
động của thương mại nói chung và tự do hóa thương mại hay "tự do thương mại"
nói riêng. Cũng ở góc độ kinh tế, người ta chỉ thấy các dòng chảy tư bản ở quy mô
toàn cầu kéo theo các dòng chảy thương mại, kỹ thuật, công nghệ, thông tin, văn
hoá
Toàn cầu hóa là tất yếu lịch sử do trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất
quyết định và nó hướng tới một thế giới như một chỉnh thể thống nhất, công bằng.
Trong giai đoạn hiện nay, toàn cầu hóa đang bị chủ nghĩa tư bản chi phối với mục
tiêu chiến lược là thiết lập các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trên phạm vi toàn
cầu. Trên thế giới, xuất hiện cục diện vừa hợp tác chặt chẽ, vừa đấu tranh quyết liệt
giữa các quốc gia trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ, an ninh,
chính trị... Mọi hình thái tập hợp lực lượng trên vũ đài quốc tế đều được cấu trúc
lại, làm phong phú gấp bội các xu hướng lịch sử so với cách đây 2-3 thập kỷ.
Toàn cầu hoá trước hết là một quá trình kinh tế và kỹ thuật - công nghệ; đồng thời,
là một quá trình kinh tế - xã hội và quá trình chính trị - xã hội, vừa tạo ra những lợi
ích chung, những thể chế phổ biến, vừa chứa đựng nhiều lợi ích, khuynh hướng
khác nhau, mâu thuẫn nhau giữa các chủ thể tham gia. Bởi vậy, toàn cầu hoá là
một quá trình vừa hợp tác rộng mở, vừa đấu tranh gay gắt, phức tạp giữa các quốc
gia, tập đoàn, cộng đồng, cá nhân... với nhau. Mặc dù không hề mất đi cuộc đấu
tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, nhưng “đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay
của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn
tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt với lợi ích quốc gia, dân tộc”
như Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) khái quát.
Những vấn đề toàn cầu (chiến tranh thế giới, bùng nổ dân số, thảm họa môi
trường sinh thái và các dịch bệnh hiểm nghèo) thật sự vượt khỏi tầm kiểm soát của
một quốc gia, một chủ thể quốc tế riêng biệt, cho dù đó là siêu cường hay tổ chức
quốc tế rộng lớn nhất. Hoàn cảnh này buộc tất cả các lực lượng đối địch, đối
kháng, đối lập nhau phải thiết lập những vòng tay hợp tác để cứu vớt một lợi ích
chung: Đó là lợi ích bảo tồn sự sống chung, trong đó có sự sống của chính mình.
Chưa bao giờ, cuộc đấu tranh vì các lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc lại phải chịu sự
ràng buộc với cuộc đấu tranh vì những lợi ích chung như ở giai đoạn hiện nay của
thời đại..
b) Hội nhập kinh tế quốc tế
• Hội nhập kinh tế, theo quan niệm đơn giản nhất và phổ biến trên thế giới, là
việc các nền kinh tế gắn kết lại với nhau.
Hội nhập kinh tế, hiểu theo một cách chặt chẽ hơn, là việc gắn kết mang tính thể
chế giữa các nền kinh tế lại với nhau. Nói rõ hơn, hội nhập kinh tế là quá trình chủ
động thực hiện đồng thời hai việc: một mặt, gắn nền kinh tế và thị trường từng
nước với thị trường khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực thực hiện mở cửa và
thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế quốc dân; và mặt khác, gia nhập và góp phần xây
dựng các thể chế kinh tế khu vực và toàn cầu.
Hội nhập kinh tế có thể là song phương - tức là giữa hai nền kinh tế, hoặc khu vực
- tức là giữa một nhóm nền kinh tế, hoặc đa phương - tức là có quy mô toàn thế
giới giống như những gì mà Tổ chức Thương mại Thế giới(WTO) đang hướng tới.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn bó 1 cách hữu cơ nền kinh tế quốc gia
với nền kinh tế thế giới góp phần khai thác các nguồn lực bên trong một cách có
hiệu quả.
• Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế
- Nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế:
+ Bất kì một quốc gia nào khi tham gia vào các tổ chức kinh tế trong khu vực cũng
như trên thế giới đều phải tuân thủ theo nguyên tắc của các tổ chức đó nói riêng và
nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế nói chung. Sau đây là một số nguyên tắc
cơ bản của hội nhập: Không phân biệt đối xử giữa các quốc gia; tiếp cận thị trường
các nước, cạnh tranh công bằng,áp dụng các hành động khẩn cấp trong trường hợp
cần thiết,dành ưu đãi cho các nước đang và chậm phát triển
+ Đối với từng tổ chức có nguyên tắc cụ thể riêng biệt
- Nội dung của hội nhập( chủ yếu là nội dung hội nhập WTO)
Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế là mở cửa thị trường cho nhau, thực hiện
thuận lợi hóa,tự do hóa thương mại và đầu tư:
+ Về thương mại hàng hóa: các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế quan như
QUOTA, giấy phép xuất khẩu…,biểu thuế nhập khẩu được giữ hiện hành và giảm
dần theo lịch trình thỏa thuận…
+ Về thương mại dịch vụ, các nước mở cửa thị trường cho nhau với cả bốn phương
thức: cung cấp qua biên giới,sử dụng dịch vụ ngoài lãnh thổ,thông qua liên doanh
hiện diện
+ Về thị trường đầu tư: không áp dụng đối với đầu tư nước ngoài yêu cầu về tỷ lệ
nội địa hóa, cân bằng xuất nhập khẩu và hạn chế tiếp cận nguồn ngoại tệ, khuyến
khích tự do hóa đầu tư
2. Bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế :
Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm giải quyết 6 vấn đề chủ yếu:
• Đàm phán cắt giảm thuế quan;
• Giảm, loại bỏ hàng rào phi thuế quan;
• Giảm bớt các hạn chế đối với dịch vụ;
• Giảm bớt các trở ngại đối với đầu tư quốc tế;
• Điểu chỉnh các chính sách thương mại khác;
• Triển khai các hoạt động văn hoá, giáo dục, y tế, ... có tính chất toàn cầu.
Về bản chất, hội nhập kinh tế quốc tế được thể hiện chủ yếu ở một số mặt sau đây:
• Hội nhập kinh tế quốc tế đó là sự đan xen, gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau giữa
các nền kinh tế quốc gia và nền kinh tế thế giới. Nó là quá trình vừa hợp tác
để phát triển, vừa đấu tranh rất phức tạp, đặc biệt là đấu tranh của các nước
đang phát triển để bảo vệ lợi ích của mình, vì một trật tự công bằng, chống lại
những áp đặt phi lý của các cường quốc kinh tế và các công ty xuyên quốc
gia;
• Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình xoá bỏ từng bước và từng phần các rào
cản về thương mại và đầu tư giữa các quốc gia theo hướng tự do hoá kinh tế;
• Hội nhập kinh tế quốc tế một mặt tạo điều kiện thuận lợi mới cho các doanh
nghiệp trong sản xuất kinh doanh, mặt khác buộc các doanh nghiệp phải có
những đổi mới để nâng cao sức cạnh tranh trên thương trường;
• Hội nhập kinh tế quốc tế tạo thuận lợi cho việc thực hiện các công cuộc cải
cách ở các quốc gia nhưng đồng thời cũng là yêu cầu, sức ép đối với các quốc
gia trong việc đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế, đặc biệt là các chính sách
và phương thức quản lý vĩ mô.
• Hội nhập kinh tế quốc tế chính là tạo dựng các nhân tố mới và điều kiện mới
cho sự phát triển của từng quốc gia cộng đồng quốc tế trên cơ sở trình độ phát
triển ngày càng cao và hiện đại của lực lượng sản xuất.+ Hội nhập kinh tế
quốc tế chính là sự khơi thông các dòng chảy nguồn lực trong và ngoài nước,
tạo điều kiện mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ và các kinh nghiệm
quản lý.
3. Cơ hội đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập:
Tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực sẽ tạo điều kiện cho
Việt Nam phát triển một cách nhanh chóng. Những cơ hội của hội nhập đem lại mà
Việt Nam tận dụng được một cách triệt để sẽ làm bàn đạp để nền kinh tế sớm sánh
vai với các cường quốc năm châu.
a. Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần mở rộng thị trường xuất nhập khẩu của
Việt Nam :
Nội dung của hội nhập là mở cửa thị trường cho nhau, vì vậy, khi Việt Nam
gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế sẽ mở rộng quan hệ bạn hàng. Cùng với việc
được hưởng ưu đãi về thuế quan, xoá bỏ hàng rào phi thuế quan và các chế độ đãi
ngộ khác đã tạo điều kiện cho hàng hoá của Việt Nam thâm nhập thị trường thế
giới.
b. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần tăng thu hút đầu tư nước ngoài,
viện trợ phát triển chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế:
• Thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ
hội để thị trường nước ta được mở rộng, điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. Họ sẽ
mang vốn và công nghệ vào nước ta sử dụng lao động và tài nguyên sẵn có của
nước ta làm ra sản phẩm tiêu thụ trên thị trường khu vực và thế giới với các ưu đãi
mà nước ta có cơ hội mở rộng thị trường, kéo theo cơ hội thu hút vốn đầu tư nước
ngoài. Đây cũng là cơ hội để doanh nghiệp trong nước huy động và sử dụng vốn có
hiệu quả hơn.
• Viện trợ phát triển ODA:
Tiến hành bình thường hoá quan hệ tài chính của Việt Nam, các nước tài trợ và các
thể chế tài chính tiền tệ quốc tế đã tháo gỡ từ năm 1992 đã đem lại những kết quả
đáng khích lệ, góp phần quan trọng vào việc xây dựng và nâng cấp hệ thống cơ sở
hạ tầng.
• Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần giải quyết tốt vấn đề nợ Việt Nam:
Trong những năm qua nhờ phát triển tốt mối quan hệ đối ngoại song phương và đa
phương, các khoản nợ nước ngoài cũ của Việt Nam về cơ bản đã được giải quyết
thông qua câu lạc bộ Paris, London và đàm phán song phương.
c. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho ta tiếp thu khoa
học công nghệ tiên tiến, đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh:
• Việt Nam gia nhập kinh tế quốc tế sẽ tranh thủ được kĩ thuật, công nghệ tiên
tiến của các nước đi trước để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá,
tạo cơ sở vật chất kĩ thuật cho công cuộc xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội. Hội nhập
kinh tế quốc tế là con đường để khai thông thị trường nước ta với khu vực và thế
giới, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn và có hiệu quả .
• Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo và
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong nhiều lĩnh vực. Phần lớn cán bộ khoa học kĩ thuật,
cán bộ quản lý, các nhà kinh doanh đã được đào tạo ở trong và ngoài nước. Bởi
mỗi khi liên doanh hay liên kết hay được đầu tư từ nước ngoài thì từ người lao
động đến các nhà quản ký đều được đào tạo tay nghề, trình độ chuyên môn được
nâng cao.
d. Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần duy trì hoà bình ổn định, tạo dựng môi
trường thuận lợi để phát triển kinh tế, nâng cao vị trí Việt Nam trên trường
quốc tế. Đây là thành tựu lớn nhất sau hơn một thập niên triển khai các hoạt động
hội nhập. Chúng ta đã bình thường hoá hoàn toàn quan hệ với Trung Quốc và các
quốc gia trong khu vực Đông Nam á.
e. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội mở rộng giao lưu các nguồn lực nước
ta với các nước:
Với dân số khoảng 80 triệu người, nguồn nhân lực nước ta khá dồi dào.
Nhưng nếu chúng ta không hội nhập quốc tế thì việc sử dụng nhân lực trong nước
sẽ bị lãng phí và kém hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội để nguồn
nhân lực của nước ta khai thông, giao lưu với các nước.
4. Thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế:
a) Tình hình nền kinh tế đất nước:
- Hiện trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay:Việt Nam là một nước có nền kinh
tế đang phát triển. Mặc dù đã có những bước tiến quan trọng về tăng trưởng
kinh tế. Song chất lượng tăng trưởng, hiệu quả sản xuất, sức cạnh tranh của
các sản phẩm, các doanh nghiệp và của nền kinh tế còn thấp.
- Tình trạng phổ biến hiện nay là sản xuất còn mang tính tự phát, chưa bám
sát nhu cầu thị trường. Nhiều sản phẩm làm ra chất lượng thấp, giá thành cao nên
giá trị gia tăng thấp, khả năng tiêu thụ sản phẩm khó khăn, thậm chí có nhiều sản
phẩm cung vượt quá cầu, hàng tồn kho lớn.
- Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước chưa cao, tỉ lệ số
doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ liên tục còn nhiều thực trạng tài chính của
nhiều doanh nghiệp thực sự đáng lo ngại: Nhìn chung thiếu vốn, nợ nần kéo
dài, tổng số nợ phải thu của các doanh nghiệp chiếm 24% doanh thu, nợ phải
trả chiếm 133% tổng số vốn nhà nước các doanh nghiệp. Chi phí sản xuất
của các doanh nghiệp còn lớn đang làm giảm sức cạnh tranh của các sản
phẩm của doanh nghiệp.
- Môi trường kinh doanh đầu tư ở Việt Nam mặc dù đang được cải tiến song
nhìn chung còn chưa thuận lợi, còn nhiều khó khăn: Khuôn khổ pháp lý chưa
đảm bảo cho cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, sự độc quyền
trong một số lĩnh vực của một số tổng công ti nhà nước, hệ thống tài chính
ngân hàng còn yếu kém, sự thiếu minh bạch về cơ chế chính sách, chế độ
thương mại còn nặng về bảo hộ, thủ tục hành chính còn rườm rà, chưa thông
thoáng.
- Nguồn nhân lực Việt Nam dồi dao nhưng tay nghề kém, lợi thế về lao động
rẻ có xu hướng đang mất dần:
Trước mắt, do giá nhân công còn rẻ và đang có thị trường rộng lớn nên
ngành may mặc và giầy da là hai ngành có lợi thế cạnh tranh cao nhất trong nhóm
năm sản phẩm công nghiệp có khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên lợi thế về nhân
công rẻ đang mất dần và giá nhân công các ngành này hiện đang cao hơn một số
nước trong khu vực. Hơn thế nữa, để đào tạo nghề, nâng cao kĩ năng, trình độ tay
nghề cần phải chi phí đầu tư lớn, điều này sẽ làm cho giá thành sản phẩm tăng lên,
ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hoá.
b) Những thách thức của Việt Nam khi tham gia kinh tế quốc tế và khu vực:
- Nếu như những ưu đãi về hàng rào thuế quan và xoá bỏ phí thuế quan tạo
điều kiện để nước ta mở rộng thị trường xuất khẩu ra các nước thì nó cũng
gây ra những thách thức khá nghiêm trọng đối với các doanh nghiệp Việt Nam:
Tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, nước ta phải giảm dần thuế
quan và gỡ bỏ hàng rào phi thuế quan, thì hàng hoá nước ngoài sẽ ào ạt đổ vào
nước ta, chèn ép nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh trong nước, kéo theo hệ quả xấu
về việc làm, thu nhập và đời sống của người lao động. Sức cạnh tranh bấp bênh
của các doanh nghiệp trong nước được thể hiện rõ. Hơn nữa, việc thi hành chính
sách bảo hộ mậu dịch luôn là con dao hai lưỡi. Tham gia vào các tổ chức kinh tế
quốc tế để đi đến tự do hoá thương mại tức là chấp nhận tư cách thành viên cạnh
tranh ngang bằng với các nước khác. Nhưng hiện tại chúng ta vẫn còn tụt hậu khá
xa về kinh tế (nhất là trình độ công nghệ và thu nhập bình quân đầu người) so với
các nước trong các tổ chức kinh tế mà ta sẽ và đã tham gia. Đã vậy, trên thị trường
thế giới ta mới chỉ xuất khẩu các mặt hàng sơ chế như: dầu thô, gạo, cà phê...còn
các sản phẩm công nghiệp chế biến nhất là sản phẩm chất lượng cao còn ít, sức
cạnh tranh yếu. Trong khi đó giá mặt hàng nguyên liệu và sơ chế lại bấp bênh hay
bị tác động xấu, bất lợi cho nước xuất khẩu.
- Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ ảnh hưởng đến quyền độc lập tự chủ của một
quốc gia:
Không ít ý kiến cho rằng: Nước ta hiện nay với xuất phát điểm kinh tế quá
thấp, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, thị trường phát triển chưa đồng
bộ, một bộ phận đáng kể của nền kinh tế chưa thoát khỏi lối sản xuất hàng hoá nhỏ,
công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh kém. Trong khi đó các
nước đi trước, nhất là các cường quốc tư bản phát triển có lợi thế hơn hẳn về nhiều
mặt. Do đó nếu chúng ta mở rộng quan hệ với các nước đó thì nước ta khó tránh
khỏi sẽ bị lệ thuộc về kinh tế, và từ chỗ lệ thuộc về mặt kinh tế có thể đi đến không
giữ vững được quyền độc lập tự chủ. Nhưng độc lập tự chủ không có nghĩa là đóng
cửa với thế giới. Nếu đóng cửa với thế giới là đi ngược xu thế chung của thời đại,
đẩy đất nước vào tình trạng chậm phát triển. Khi tình trạng chậm phát triển về kinh
tế không được sớm khắc phục thì sẽ làm xói mòn lòng tin của nhân dân, làm nảy
sinh nhiều vấn đề xã hội nan giải, tạo ra nguy cơ tư bên trong đối với trật tự an
toàn xã hội.
- Hội nhập kinh tế quốc tế ảnh hưởng tới bản sắc văn hoá dân tộc:
Xu thế toàn cầu hoá và tiến trình hội nhập với quốc tế thông qua “ siêu lộ“
thông tin với mạng internet, một mặt tạo điều kiện thuận lợi chưa từng có để các
dân tộc, cộng đồng ở mọi nơi có thể nhanh chóng trao đổi với nhau về hàng hoá,
dịch vụ, kiến thức... Mặt khác, quá trình trên cũng làm nảy sinh mối nguy cơ ghê
gớm về sự đồng hoá các hệ thống giá trị và tiêu chuẩn, đe doạ, làm suy kiệt khả
năng sáng tạo của nền văn hoá, nhân tố hết sức quan trọng đối với sự tồn tại của
nhân loại. Nguy cơ nói trên lại càng tăng gấp bội khi một siêu cường nào đó tự
xem giá trị văn hoá của mình là ưu việt, từ đó nảy sinh thái độ ngạo mạn và ý đồ áp
đặt các giá trị của mình cho các dân tộc khác bằng một chính sách có thể gọi là
xâm lược văn hoá với nhiều biện pháp trắng trợn tinh vi. Trước tình hình đó, chúng
ta, với bản lĩnh vốn có của dân tộc: “ hoà nhập chứ không hoà tan “, tiếp thu những
yếu tố nhân bản, hợp lí, khoa học tiến bộ của văn hoá các nước để làm giàu bản sắc
văn hoá dân tộc.
II. ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ KINH TẾ ĐỐI
NGOẠI, HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ THỜI KỲ ĐỔI MỚI.
1. Các giai đoạn hình thành và phát triển đường lối
• Giai đoạn 1986 - 1996: Xác lập đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở,
đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế.
- Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần VI nhận định: “Xu thế mở rộng phân
công, hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế - xã hội khác
nhau, cũng là những điều kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội của nước ta”.
Từ đó, Đảng chủ trương phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại trong điều kiện mới và đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với
các nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa, với các nước công nghiệp phát triển,
các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có
lợi.
+ Tháng 12/1987, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành tạo cơ
sở pháp lý cho các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
+ Tháng 5/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 13 về nhiệm vụ và chính sách
đối ngoại trong tình hình mới. Bộ Chính trị chủ trương kiên quyết chủ động
chuyển từ tình trạng đối đầu sang đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hòa
bình; mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, ra sức đa dạng hóa quan hệ đối ngoại.
Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị đánh dấu sự đổi mới tư duy quan hệ quốc tế
và chuyển hướng toàn bộ chiến lược đối ngoại của Đảng ta. Sự chuyển hướng
này đặt nền móng hình thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa
dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế.
+ Từ năm 1989, Đảng chủ trương xóa bỏ tình trạng độc quyền trong sản xuất và
kinh doanh xuất nhập khẩu. Chủ trương trên được xem là bước đổi mới đầu tiên
trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại của Việt Nam.
- Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần VII chủ trương: “Hợp tác bình đẳng và
cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác
nhau, trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”, với phương châm “Việt
Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa
bình, độc lập và phát triển”.
+ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội xác
định mối quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới
là một trong những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân
ta xây dựng.
+ Hội nghị Trung ương 3 khóa VII (6/1992) nhấn mạnh yêu cầu đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ quốc tế. Mở rộng cửa để tiếp thu vốn, công nghệ, kinh
nghiệm quản lý, tiếp cận thị trường thế giới trên cơ sở đảm bảo an ninh quốc
gia, bảo vệ tài nguyên, môi trường, hạn chế đến mức tối thiểu những tiêu cực
phát sinh trong quá trình mở cửa.
+ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (01/1994) chủ trương
triển khai mạnh mẽ và đồng bộ đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa
dạng hóa và đa phương hóa quan hệ đối ngoại, trên cơ sở tư tưởng chỉ đạo là:
giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội; đồng thời, phải
sáng tạo, năng động, linh hoạt phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể
của Việt Nam cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp
với đặc điểm từng đối tượng.
• Giai đoạn 1996 - 2008: Bổ sung và phát triển đường lối đối ngoại theo phương
châm chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần VIII khẳng định: tiếp tục mở rộng quan
hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt với các nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu
vực và quốc tế; đồng thời, chủ trương xây dựng nền kinh tế mở và đẩy nhanh
quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
So với Đại hội VII, chủ trương đối ngoại của Đại hội VIII có 3 điểm mới. Một
là, chủ trương mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các đảng khác; hai
là, quán triệt yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ
chức phi chính phủ; ba là, lần đầu tiên trên lĩnh vực đối ngoại Đảng đưa ra chủ
trương thử nghiệm để tiến tới thực hiện đầu tư ra nước ngoài.
Hội nghị 4 khóa VIII (12/1997) chỉ rõ: trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện
nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài, Nghị quyết đề ra
chủ trương tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định Thương
mại với Mỹ, gia nhập APEC và WTO.
- Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần IX: chủ trương chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực. Lần đầu tiên Đảng
nêu rõ quan điểm về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ: “Xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời
có tiềm lực kinh tế đủ mạnh. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải đi đôi
với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế
đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp phát triển đất
nước”.
Đại hội IX phát triển phương châm của Đại hội VII: từ phương châm: “Việt
Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa
bình, độc lập và phát triển” thành phương châm: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là
đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc
lập và phát triển”.
+ Nghị quyết 7 của Bộ Chính trị (11/2001) về hội nhập kinh tế quốc tế đề ra 9
nhiệm vụ cụ thể và 6 biện pháp tổ chức thực hiện quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
+ Hội nghị 9 khóa IX (01/2004) nhấn mạnh yêu cầu chuẩn bị tốt các điều kiện
trong nước để sớm gia nhập tổ chức WTO; kiên quyết đấu tranh với mọi biểu
hiện của các lợi ích cục bộ làm kìm hãm tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần X nêu quan điểm: thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách
đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Đồng thời,
đề ra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.
+ Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là hoàn toàn chủ động quyết định đường
lối, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế, không để rơi vào thế bị động; phân tích
lựa chọn phương thức hội nhập đúng, dự báo được những tình huống thuận lợi
và khó khăn khi hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là khẩn trương chuẩn bị, điều chỉnh, đổi
mới bên trong, từ phương thức lãnh đạo, quản lý đến hoạt động thực tiễn; từ
trung ương đến địa phương, doanh nghiệp; khẩn trương xây dựng lộ trình, kế
hoạch, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật; nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp và nền kinh tế; tích cực nhưng phải thận trọng, vững chắc.
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế phải là ý chí, quyết tâm của
Đảng, Nhà nước, toàn dân, của mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
và toàn xã hội.
Như vậy, đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa và đa
phương hóa quan hệ quốc tế được xác lập trong mười năm đầu của thời kỳ đổi
mới. Đến Đại hội X được bổ sung, phát triển theo phương châm chủ động, tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế, hình thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa
bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ quốc tế.
• Giai đoạn 2008 – nay: Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011). Về định hướng đối ngoại Cương lĩnh (bổ sung, phát
triển năm 2011) đã bổ sung, phát triển những nội dung sau:
- Khẳng định thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình,
hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giầu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
- Xác định rõ hơn cơ sở của sự hợp tác: Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả
các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của hiến chương Liên Hợp quốc và
luật pháp quốc tế.
- Mở rộng quan hệ với các đảng cánh tả, đảng cầm quyền và những đảng khác trên
cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập tự chủ, vì hoà bình, hữu nghị, hợp
tác và phát triển (bổ sung thêm quan hệ với “những đảng khác”).
2. Nội dung đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ đổi mới.
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể mang lại nhiều lợi ích kinh tế. Việc nhập khẩu
các sản phẩm trung gian và thu hút đầu tư mà trong nước không thể cung cấp
với giá tương ứng, việc chuyển giao công nghệ và các ý tưởng từ những nước
phát triển hơn, và việc tiếp cận thị trường vốn và hàng hóa quốc tế có thể giúp
chúng ta giải quyết một số hạn chế cố hữu để tăng trưởng và phát triển nhanh
hơn. Nhưng đó là những lợi ích tiềm năng chỉ có thể phát huy đầy đủ tác dụng
khi trong nước chúng ta có nội lực vững mạnh với những chính sách và thể chế
bổ trợ. Kinh nghiệm của những nước đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao
từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay là phải kết hợp tốt giữa việc mở cửa
tự do hóa với việc duy trì mức tiết kiệm - đầu tư cao, ổn định kinh tế vĩ mô,
phát triển nguồn nhân lực và quản lý nhà nước tốt.
a) Đại hội XI đã đề ra những phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của đường
lối đối ngoại
Các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động đối ngoại bao gồm: Tôn trọng độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không
dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông
qua thương lượng hoà bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Các nguyên tắc trên là sự cụ thể hoá nguyên tắc bao trùm, xuyên suốt đường lối
đối ngoại đổi mới là giữ vững hoà bình, độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội,
đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt trong xử lý các tình huống phù
hợp với hoàn cảnh cụ thể, vị trí của nước ta cũng như diễn biến của tình hình quốc
tế, phù hợp với đặc điểm của từng đối tác mà ta có quan hệ, trong bất kỳ tình
huống nào cũng tránh không để rơi vào thế đối đầu, cô lập hay lệ thuộc, củng cố
hoà bình, an ninh, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển.
Những phương châm đối ngoại bao gồm: Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là
xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, coi đó là lợi
ích cao nhất, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng thực tế của ta.
Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế, phù hợp với từng
đối tượng, trên từng vấn đề và ở từng thời điểm; cố gắng thúc đẩy mặt hợp tác, đấu
tranh để hợp tác, tránh trực diện đối đầu, tự đẩy mình vào thế cô lập; Chú trọng
hợp tác khu vực (bao gồm các nước láng giềng có chung biên giới, các nước trong
khu vực Đông Nam Á và các nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương);
đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước, trong đó có quan hệ với các nước
lớn; chủ động tham gia các tổ chức đa phương khu vực và toàn cầu; Kết hợp chặt
chẽ quan hệ ngoại giao của Nhà nước với quan hệ đối ngoại của Đảng và ngoại
giao nhân dân.
Đại hội XI nhấn mạnh thúc đẩy các quan hệ đối tác đã được thiết lập đi vào chiều
sâu nhằm tạo thế đan xen lợi ích, xây dựng các mối quan hệ thực chất, ổn định lâu
dài; thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các
nước Châu Á - Thái Bình Dương; củng cố quan hệ với các đảng cộng sản, công
nhân, đảng cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế
giới...
Phát triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm chủ động, linh hoạt, sáng
tạo và hiệu quả, tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động của nhân dân thế giới;
tăng cường vận động viện trợ và nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức phi
chính phủ nước ngoài để phát triển kinh tế - xã hội; đẩy mạnh công tác văn hoá đối
ngoại và thông tin đối ngoại, góp phần tăng cường sự hợp tác, tình hữu nghị giữa
nhân dân ta với nhân dân các nước. Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì
quyền con người; sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực
có liên quan về vấn đề nhân quyền, kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động
lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” can thiệp vào
công việc nội bộ, an ninh và ổn định chính trị của nước ta.
Cùng với việc nhấn mạnh sự cần thiết phải đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết
lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững, Đại hội XI khẳng định quan điểm chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế. Chủ động hội nhập kinh tế trước hết là chủ động
trong đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội nói chung, trong chủ trương,
chính sách hội nhập kinh tế nói riêng; là chủ động nắm vững quy luật, tính tất yếu
của sự vận động kinh tế toàn cầu, phát huy đầy đủ năng lực nội sinh, xác định lộ
trình, nội dung, quy mô, bước đi phù hợp, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ
kinh tế quốc tế. Chủ động còn bao hàm sự sáng tạo, lựa chọn phương thức hành
động đúng, dự báo được những tình huống trong hội nhập kinh tế.