Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Quản lí đất đai từ góc nhìn xã hội học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.61 KB, 16 trang )

Đề tài: QLĐĐ từ góc nhìn XHH
A-PHẦN MỞ ĐẦU
1-Lý do chọn đề tài:
-Có thể nói quản lý đất đai (QLĐĐ) là một lĩnh vực đóng vai trò vô cùng quan
trọng trong việc ổn định đời sống cho người dân và là nền tảng để phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước. Bên cạnh những thành tựu đạt được thì vẫn còn tồn tại
những sai phạm, thiếu sót trong công tác QLĐĐ. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện
nay – giai đoạn nền kinh tế thị trường, ngành QLĐĐ càng bộc lộ rõ những khuyết
điểm, hạn chế gây ra nhiều hậu quả và sự bức xúc cho người dân.
-Theo số liệu thống kê năm 2014,có gần 70% đơn thư tố cáo,khiếu nại trong cả
nước liên quan đến đất đai.Con số đáng báo động này đã cho thấy sự bức xúc của
cả xã hội,ảnh hưởng đến lòng tin của người dân với cơ quan quản lý,có nguy cơ
gây mất trật tư-an ninh xã hội.Nhận thức được mối liên hệ mật thiết giữa công tác
QLĐĐ với con người nói riêng và xã hội nói chung nên nhóm chúng tôi quyết định
chọn nghiên cứu đề tài “Quản lý đất đai từ góc nhìn xã hội học” với mong muốn
tìm ra bản chất nguyên nhân của những mâu thuẫn và góp phần giải quyết chúng.
2-Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài hướng đến nghiên cứu các mối quan nảy sinh trong quá trình sử dụng đất
đai: mối quan hệ giữa người sử dụng đất với đất đai, giữa người sử dụng đất với
Nhà nước mà đại diện là cơ quan quản lý, giữa Nhà nước với đất đai và giữa người
sử dụng đất với nhau.Bên cạnh đó, đề tài còn nghiên cứu về thực trạng,những mặt
tích cực và hạn chế của công tác QLĐĐ hiện nay.
3-Phương pháp nghiên cứu đề tài:
Sử dụng phương pháp thu thập thông tin,số liệu thống kê từ các phương tiện truyền
thông báo chí, dựa trên các ý kiến phản hồi của người dân, các nhận định, lý giải
của cán bộ quản lý Nhà nước,hệ thống chính sách pháp luật đất đai,khảo sát lấy ý
kiến,quan điểm của xã hội về công tác QLĐĐ hiện nay thông qua bảng hỏi.Từ đó
nhóm sẽ tổng hợp,xử lý thông tin làm căn cứ rút ra những nhận định,đánh giá riêng
và đưa ra những giải pháp đề xuất giải quyết vấn đề.
4-Mục đích nghiên cứu:
Nhằm phát hiện ra nguyên nhân của những mâu thuẫn cơ bản trong quá trình sử


dụng đất, những vi phạm, hạn chế, thiếu sót trong công tác quản lý nhà nước về đất
đai từ đó tìm các giải pháp khắc phục. Đồng thời phát huy, nhân rộng những thành
tựu đã đạt được, góp phần mang lại hiệu quả cao trong công tác QLĐĐ cũng như
tạo điều kiện thuận lợi, đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ cho người dân.
B- PHẦN NỘI DUNG
1-Tổng quan đề tài nghiên cứu:
1.1- Xã hội học :
-Xã hội học (XHH) là một môn khoa học thuộc lĩnh vực khoa học xã hội,
nghiên cứu các tương tác xã hội, đặc biệt đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống
sự phát triển, cấu trúc, mối tương quan xã hội và hành vi hành động của con người
trong các tổ chức nhóm xã hội. Mối tương tác này liên hệ với nền văn hóa rộng lớn
cũng như toàn bộ cơ cấu xã hội.
-XHH giúp ta có cái nhìn toàn diện, biện chứng về xã hội và đó là cái nhìn
trung thành với xã hội thực tại hơn cả.
1.2- Công tác quản lý đất đai:
-Quản lý nhà nước về đất đai là tổng hợp các hoạt động của các cơ quan có
thẩm quyền để thực hiện và bảo vệ quyền sở hữu của Nhà nướcđối với đất đai; đó
là các hoạt động nắm chắc tình hình sử dụng đất; phân phối lại quỹ đất đai theo
quy hoạch,kế hoạch; kiểm tra giám sát quá trình quản lý và sử dụng đất; điều tiết
các nguồn lợi từ đất đai.
-Quản lý nhà nước về đất đai nhằm mục đích:
+Bảo vệ quyền sở hữu nhà nước đối với đất đai, quyền và lợi ích hợp pháp
của người sử dụng đất
+Đảm bảo sử dụng hợp lý quỹ đất quốc gia
+Tăng cường hiệu quả sử dụng đất
+Bảo vệ đất, cải tạo đất,bảo vệ môi trường
1.3- Tầm quan trọng của việc nghiên cứu xã hội học trong quản lý đất đai:
-Đứng ở góc độ XHH, QLĐĐ chính là công tác quản lý,điều tiết các mối quan
hệ giữa con người và đất đai.Mọi hoạt động trong công tác QLĐĐ (cấp giấy chứng
nhận,lập quy hoạch-kế hoạch sử dụng đất ,đánh giá đất ,giao,cho thuê,thu hồi

đất…) đều có tác động trực tiếp và sâu sắc đến con người.Hơn nữa mọi hoạt động
sinh sống và sản xuất của con người luôn gắn liền với đất đai,cho nên nghiên cứu
về XHH có vai trò vô cùng ý nghĩa trong công tác QLĐĐ.
-Thông qua nghiên cứu XHH,chúng ta có thể hiểu rõ hơn về các khuôn mẫu
của các tương tác con người xã hội,diễn ra giữa các chủ thể XH(cá
nhân,nhóm,cộng đồng,tổng thể…) trong các hoạt động XH (sản xuất,quản lý,giao
tiếp…),có thể nắm bắt được nhu cầu,thị hiếu của con người cũng như những mong
muốn,nguyện vọng của họ.Từ đó sẽ đề ra những kế hoạch,phương pháp QLĐĐ
đúng đắn,sáng tạo vừa đáp ứng được những quy định của pháp luật nhà nước vừa
nhận được sự đồng tình từ phía người dân. Nắm rõ được những nguyên tắc, quy
luật trong XHH sẽ giúp người quản lý có thể nhanh chóng đưa ra những cách thức
giải quyết vấn đề một cách mềm dẻo,hợp lí và đạt được hiệu quả cao.
-Khi quan sát công tác QLĐĐ ở góc độ XHH, người quản lý sẽ có cái nhìn sâu
sắc về thực trạng sử dụng đất, hiểu được bản chất,nguyên nhân gốc rễ của sự việc,
từ đó có được những phân tích,đánh giá đúng đắn và tìm ra giải pháp hợp lý nhằm
khắc phục các vấn đề còn tồn tại cũng như phát huy những mặt tích cực.
-Mặt khác, dựa vào kết quả của công tác nghiên cứu XHH,ta có thể đưa ra
những dự báo về quy luật vận động,tiềm năng phát triển,triển vọng trong tương lai
của xã hội.Từ đó, các nhà quản lý sẽ có căn cứ để xây dựng,thành lập những kế
hoạch-quy hoạch đầu tư,sử dụng đất trong dài hạn cũng như có những sự điều
chỉnh,phân phối đất đai một cách phù hợp với xu thế phát triển.
2- Quản lý đất đai từ góc nhìn xã hội học:
2.1-Mối quan hệ trong quản lý và sử dụng đất:
Trong công tác quản lý đất đai, chúng ta cần xem xét các mối quan hệ sau:
-Mối quan hệ giữa nhà nước và đất đai: Nhà nước là đại diện chủ sở hữu (toàn dân)
về đất đai, thống nhất quan lý đất đai thông qua việc thực hiện các nội dung quản
lý như ban hành pháp luật đất đai, xác định tình trạng và lập bản đồ hành chính, lập
kế hoạch và quy hoạch đất đai… đảm bảo mục đích sử dụng quỹ đất đai quốc gia
một cách hợp lý, tiết kiệm và tăng cường hiệu quả sử dụng quỹ đất quốc gia
-Mối quan hệ giữa người sử dụng và đất đai: người sử dụng được trao quyền sử

dụng đất đai có quyền ( quyền sử dụng,khai thác và hưởng lợi ích từ mảnh đất
đó,định đoạt về mặt pháp lý với đất đai…) và nghĩa vụ (sử dụng đúng mục
đích,bảo vệ,cải tạo đất đai…)
-Mối quan hệ giữa nhà nước và người sử dụng đất: Nhà nước trao quyền sử dụng
đất cho người sử dụng đất bằng các hình thức giao đất, cho thuê đất, quản lý việc
thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất và tạo cơ chế về mặt pháp lý đảm bảo lợi
ích hợp pháp cho người dân.Mặt khác, nhà nước cũng tạo nên điều kiện, cơ chế
bảo đảm tổ chức và cá nhân thực hiện quyền giám sát của mình thông qua các
quyền được khiếu nại, tố cáo…Đồng thời,người sử dụng đất chấp hành nghiêm túc
các nghĩa vụ về việc đăng kí quyền sử dụng đất, thực hiện các nghĩa vụ tài chính
về đất đai…
-Mối quan hệ giữa người sử dụng đất với nhau: tuân theo các quy định về luật đất
đai, không làm tổn hại đến lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất có liên quan
như chiếm đoạt, lấn chiếm đất…Người sử dụng đất được quyền để thừa kế, trao
đổi, thế chấp, tặng cho, góp vốn quyền sử dụng đất với người sử dụng khác.
2.2-Nội dung quản lý đất đai và những vấn đề xã hội học đặt ra:
2.2.1- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật:
٭ Những thành tựu đạt được:
-Sau 20 năm đổi mới, chính sách pháp luật đất đai đã có nhiều thay đổi, điều chỉnh,
ngày một hoàn thiện, phù hợp với tiến trình phát triển và đổi mới kinh tế của đất
nước. Ngày càng chú ý đến tính đồng bộ, có sự liên kết,phối hợp với các ngành
luật liên quan nhằm mang lại hiệu quả cao nhất.
- Hệ thống chính sách pháp luật đất đai ra đời cơ bản đã bảo vệ được quyền và lợi
ích hợp pháp của người sử dụng đất, quyền sở hữu của nhà nước đối với đất đai, cụ
thể:
+ Chính sách đất đai đã từng bước thể hiện được sự phân định các quyền năng đối
với đất đai giữa Nhà nước và người sử dụng đất; đã thể hiện những nội dung cơ
bản của quản lý nhà nước đối với đất đai, bao gồm những hoạt động của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện quyền đại diện sở hữu toàn dân và bảo
vệ quyền đó về đất đai.

+Từ những qui định về giao đất sử dụng ổn định lâu dài đến việc mở rộng các
quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp và góp vốn bằng giá
trị quyền sử dụng đất để sản xuất kinh doanh đã giúp cho người sử dụng đất yên
tâm đầu tư, bảo vệ và khai thác sử dụng đất có hiệu quả.
٭Những hạn chế:
Bên cạnh những thành tựu trên, trong những năm gần đây, khi nền kinh tế chuyển
sang kinh tế thị trường cũng là lúc chính sách đất đai bộc lộ toàn diện những khiếm
khuyết, thiếu sót. Làm cho tính chất phức tạp và bản chất gây nhiều tranh cải của
vấn đề đất đai ngày càng gia tăng,phức tạp.
+Thứ nhất, do công tác tuyên truyền chưa tốt nên sự phân định của Nhà nước
giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đất đai thiếu rõ ràng, không chặt chẽ dẫn đến
những cách hiểu khác nhau và thực hiện khác nhau từ những cơ quan quản lý nhà
nước đến người dân gây ra tình trạng vi phạm, tranh chấp, khiếu kiện gây mất ổn
định trị an trong xã hội.
+ Thứ hai, các chính sách về đất đai, nhà ở lại chưa phù hợp với các yêu cầu và
các quy luật hoạt động của nền kinh tế thị trường. Thị trường bất động sản đã hình
thành và phát triển nhưng lại chưa có hệ thống luật pháp để quản lý, điều tiết hoạt
động nhịp nhàng, vì thế còn mang tính tự phát, nạn đầu cơ nhà đất ngày càng trầm
trọng nổi lên như một thách thức đối với xã hội.
+Thứ ba, các chính sách thuế, phí, lệ phí sử dụng đất, bồi thường giải phóng mặt
bằng… chưa thể hiện được nguyên tắc phân phối địa tô giữa người sử dụng đất và
chủ sở hữu đất làm thất thoát các nguồn lợi do đất mang lại từ Nhà nước chuyển
sang người sử dụng và chiếm giữ đất đai
+Thứ tư, việc phân định trách nhiệm quản lý đất đai cho các cấp các ngành chưa
rõ ràng, còn thiếu cụ thể, không rõ trách nhiệm dẫn đến sự trùng lắp trong các văn
bản làm cho việc triển khai thi hành pháp luật khó khăn, lúng túng.
+ Thứ năm, hệ thống văn bản pháp luật và chính sách đất đai được ban hành quá
nhiều, thay đổi thường xuyên, thiếu thống nhất, còn chồng chéo do nhiều cấp khác
nhau ban hành (từ trung ương đến địa phương) làm cho việc quản lý đất đai gặp
nhiều khó khăn;

+Thứ sáu,hệ thống pháp luật liên quan đến quản lý đất đai thiếu tính thống nhất
từ trên xuống dưới .Cấp trên quy định thông thoáng,cởi mở nhưng cấp dưới thực
hiện cứng nhắc hoặc cố tình làm trái nên nhiều văn bản bị vô hiệu hóa hoặc có hiện
tượng luồn lách phát sinh tiêu cực.
2.2.2-Điều tra cơ bản đất đai:
-Điều tra cơ bản là nội dung cơ sở để thực hiện những nội dung quản lý tiếp
theo, đồng thời phản ánh hiện trạng sử dụng đất của khu vực dự án. Tuy nhiên,
hiện nay ở nhiều địa phương công tác này được thực hiện rất chậm, hoặc chỉ được
xử lý mang tính rất hình thức Trên thực tế, chỉ có khoảng 40%-50% số đơn vị
cấp xã có bản đồ địa chính. Chính những hạn chế của công tác này làm ảnh hưởng
đến nhiệm vụ quản lý đất đai ở các địa phương và ảnh hưởng trực tiếp đến việc
thực hiện công tác đền bù thiệt hại, giải phóng mặt bằng và tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất
-Công tác phân hạng và phân loại đất cũng là 1 yếu tố quan trọng, là cơ sở xác
định giá trị sinh lợi của mảnh đất trong điều kiện và trình độ thâm canh như nhau.
Và từ đó có vai trò quan trọng trong việc định ra giá trị quyền sử dụng đất hoặc lập
bảng giá đất giúp cho việc xây dựng phương án đền bù chính xác, công bằng khi
thu hồi đất. Thực tế, ở nhiều địa phương, việc phân hạng đất đai thiếu cơ sở khoa
học, thực hiện qua loa, sơ sài dẫn đến hậu quả định giá đền bù khó khăn, thiếu
chính xác.
-Bên cạnh đó,công tác điều tra, đo đạc, đánh giá đất ở một số địa phương chỉ
mang tính hình thức chỉ quan tâm đén số lượng mà không quan tâm đến chất lượng
đất đai dẫn đến quy hoạch lãng phí, đất bỏ hoang,quy hoạch “treo” như hiện nay
2.2.3- Đo đạc,lập bản đồ dịa chính,đăng kí đất,cấp giấy chứng nhận:
2.2.3. 1- Đăng kí cấp GCN QSDĐ:
- Hiện nay những quy định về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
(GCNQSDĐ) cho người dân trong các văn bản pháp luật có liên quan đã phần nào
phát huy được hiệu quả, tạo sự thống nhất trong quản lý nhà, đất.
Bên cạnh những ưu điểm đạt được thì với quy định mới về cấp GCNQSDĐ hiện
nay đang gặp phải một số khó khăn nhất định như:

-Hiện nay chưa có quy phạm pháp luật nào quy định về trình tự, thủ tục, thẩm
định và xét duyệt đề cương và dự toán kinh phí để lập quy hoạch sử dụng đất ở
cấp huyện gây khó khăn cho xét lập quy hoạch ,gián tiếp ảnh hưởng đến việc cấp
GCNQSDĐ cho người dân.
-Việc cấp lại GCN bị mất, không quy định rõ thời gian thông báo mất GCN tại
trụ sở UBND cấp xã hoặc trên các cơ quan thông tin đại chúng là bao lâu. Do đó,
sẽ gây khó khăn, lúng túng cho các cơ quan quản lý có thẩm quyền trong việc xem
xét thời hạn niêm yết để tiến hành cấp lại GCN cho người dân.
- Văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Đất đai sửa đổi, bổ sung nhiều lần, liên tục
và được nhiều cơ quan ban hành nên việc cập nhật, vận dụng của các đơn vị hành
chính địa phương chưa kịp thời. Đặc biệt, một số cán bộ địa phương không ổn
định, một số cán bộ có liên quan đến cấp giấy CNQSDĐ còn thiếu trách nhiệm,
chưa áp dụng các văn bản quy định về chế độ, chính sách, pháp luật về đất đai một
cách chính xác dẫn đến gây phiền hà, khó khăn cho người dân trong việc đăng ký
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và quyền sở hữu tài sản.
-Tình trạng chậm thực hiện việc cấp GCN cho bên mua nhà tại các dự án phát
triển nhà ở, nhà hình thành trong tương lai, nhất là nhà chung cư do hầu hết căn hộ
đã qua mua bán trao tay, chưa có giấy tờ hợp lệ và được mua đi bán lại nhiều lần
mà không làm thủ tục đúng quy định. Nên việc xét cấp GCN quyền sở hữu rất khó
khăn, góp phần gây nên sự ách tắc kéo dài như hiện nay.
- Trình tự thủ tục trong việc cấp GCNQSDĐ và quyền sở hữu tài sản của các
nông, lâm trường kéo dài, do phải rà soát hiện trạng sử dụng đất; xây dựng hoặc
điều chỉnh, xét duyệt quy hoạch sử dụng đất chi tiết của các nông, lâm trường; giải
quyết việc lấn chiếm, tranh chấp đất đai nằm trong quy hoạch sử dụng đất chi tiết
đã được xét duyệt của nông, lâm trường.
-Thứ tư, đối với các cơ sở tôn giáo, việc cấp giấy đạt tỷ lệ thấp ngoài những
nguyên nhân trên, còn do người đại diện cho các cơ sở tôn giáo thay đổi liên tục,
theo nhiệm kỳ, nên các cơ sở này chưa chủ động thực hiện rà soát, kê khai đăng ký
sử dụng đất tích cực. Bên cạnh đó phần lớn các cơ sở tôn giáo chỉ thực hiện kê khai
khi có nhu cầu về việc xây dựng mới, sửa chữa công trình .

- Thứ năm, đối khu vực đất quốc phòng đạt tỷ lệ cấp giấy thấp do chịu một số
nguyên nhân chung được nêu ở phần trên, nhưng chủ yếu là do số hộ dân chiếm
dụng đất quốc phòng hiện khá lớn, diễn ra trong thời gian dài, rất phức tạp, đòi hỏi
phải xây dựng các khu tái định cư để di dời người dân tại các khu vực đó.
2.2.3.2 - Đo đạc, lập bản đồ địa chính, hệ thống thông tin đất đai
-Vào thời điểm này, văn bản pháp lí cao nhất điều chỉnh đo đạc bản đồ là Nghị
định số 12/200/2/NĐ-CP của Chính phủ về đo đạc bản đồ. Tuy nhiên, do là văn
bản dưới luật nên tính pháp lí chưa cao, chưa đủ tầm để điều chỉnh các hoạt động
đo đạc và bản đồ theo yêu cầu, có rất nhiều hạn chế trong nghị định 12 đó là: một
số chính sách thiếu cơ chế thực thi, quy định về quản lí trong văn bản nhìn chung
nặng về phần công, áp đặt mà chưa có cơ chế, chế tài đảm bảo cho việc thực hiện.
Bên cạnh đó, thiếu quy định về quản lí trình độ, năng lực chuyên môn của cá nhân
điều hành hoạt là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng của công trình. Hầu hết
các lĩnh vực kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng đều sử dụng bản đồ trong công
việc của mình, tuy nhiên sự chồng chéo quản lí trong đo đạc, lập bản đồ dẫn đến
không đảm bảo sự thống nhất trong thông tin đo đạc.
2.2.4-Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất:
2.2.4.1 -Thực trạng về quy hoạch, kế hoạch dụng đất:
- Công tác quy hoạch còn nhiều bất cập, gây lãng phí, chưa khai thác hết nguồn
lực tài chính trong lĩnh vực này. Công tác lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch
chậm, chưa phù hợp về thời gian, nộii dung với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch
hạ tầng và hạ tầng xã hội.
- Chất lượng đồ án quy hoạch chưa được quan tâm đúng mức, nhiều đồ án quy
hoạch chi tiết có chất lượng thấp, nhỏ lẻ, thiếu đồng bộ trong sử dụng đất cũng như
chưa đầy đủ căn cứ pháp lí. Chỉ tiêu phê duyệt chi tiêu chưa bảo đảm diện tích đất
tối thiểu so với quy chuẩn xây dựng về giao thông, y tế, giáo dục,…
-Việc quản lí và sử dụng đất nông nghiệp còn nhiều bất cập chưa mang lại hiệu
quả. Tình trạng nhiều khu đất để hoang, dự án “treo” diễn ra ở hầu khắp các địa
phương trong cả nước, tuy nhiên chỉ đến khi các phương tiện thông tin đại chúng
lên tiếng về vấn nạn này thì địa phương mới chỉ đạo các cơ sở, các ngành liên

quan kiểm tra, rà soát và kiến nghị hướng xử lí đối với các dự án vi phạm pháp
luật về đất đai.
2.2.4.2- Nguyên nhân:
- Căn cứ lập quy hoạch sử dụng đất còn nhiều hạn chế, thiếu quy định chặt chẽ
về quy trình, thời gian hoàn thành các quy hoạch ngành và sự phối hợp giữa các
cán bộ, ngành địa phương trong việc lập các quy hoạch ngành, quy hoạch sử dụng
đất.
- Việc quy định nhiều cấp quy hoạch, vừa phải căn cứ lẫn nhau, vừa phải tuân
thủ nhiều chỉ tiêu trùng lập nên dẫn tới tình trạng kéo dài thời gian lập, xét, duyệt
quy hoạch, chất lượng quy hoạch khó đảm bảo.
- Sự hạn chế về trình độ của cán bộ quản lý và các điều kiện kỹ thuật-công
nghệ.
- Công tác giải tỏa mặt bằng gặp khó khăn,chậm trễ khi gặp sự phản đối từ phía
người dân.
2.2.5-Giao,cho thuê,thu hồi đất:
2.2.5.1-Thực trạng:
-Việc thu hồi đất để thực hiện các dự án vẫn là một trong những vấn đề nổi
cộm ở nhiều địa phương, làm chậm tiến độ triển khai nhiều dự án đầu tư, gây nên
những bức xúc cả cho người sử dụng đất, nhà đầu tư và chính quyền nơi có đất thu
hồi. Thậm chí, có nhiều vụ chống đối việc cưỡng chế đất của chính quyền gây xôn
xao dư luận như vụ việc ở Văn Giang - Hưng Yên, Vụ Bản - Nam Định…. Nhiều
dự án khi triển khai chậm tiến độ nhiều năm do vướng trong khâu giải phóng mặt
bằng làm cho chi phí đầu tư tăng lên, hiệu quả dự án giảm sút. Ngoài ra, số lượng
các dự án “treo” ngày càng xuất hiện nhiều hơn và…lâu hơn. Có những dự án quy
hoạch treo đến hàng chục năm ảnh hưởng lớn đến đời sống và hoạt động kinh
doanh của hàng chục hộ dân sống trong vùng dự án. Tương tự, cũng có rất nhiều
dự án sau khi thu hồi đất đến bù với giá rẻ rồi bỏ hoang.
-Việc thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng còn bất cập, chưa có cơ
chế giải quyết một cách rõ ràng, minh bạch, hài hòa về lợi ích giữa Nhà nước,
người có đất bị thu hồi và nhà đầu tư. Việc giải quyết việc làm cho người có đất bị

thu hồi chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa xử lý hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích
người sử dụng đất và nhà đầu tư.
-Kết quả của những bất cập trên là đất đai - nguồn lực quý hiếm của xã hội đã
bị “bỏ hoang” lãng phí. Nhiều dân mất đất do bị thu hồi từ đó mất đi công ăn việc
làm và ngày càng trở nên nghèo đói. Tệ hơn, ở một vài địa phương, đã nhen nhóm
những bất ổn xã hội.
2.2.5.2- Nguyên nhân:
-Do quy định cho phép nhà đầu tư thỏa thuận để nhận chuyển nhượng,thuê,
nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất (khoản 2 Điều 40 của Luật Đất đai) bộc lộ
những mặt hạn chế như nhà đầu tư không thỏa thuận đủ diện tích đất để thực hiện
dự án, thời gian thường kéo dài, nhất là tạo ra cơ chế 2 giá đất, đẩy giá đất khu vực
thu hồi đất lên cao, ảnh hưởng tới công tác thu hồi đất để thực hiện các dự án khác
ở địa phương.
-Các quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thường xuyên thay đổi dẫn
tới tình trạng so bì khiếu nại của người có đất bị thu hồi qua các dự án hoặc trong
một dự án nhưng thực hiện thu hồi đất qua nhiều năm.
-Việc chuẩn bị phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chưa được các cấp
chính quyền quan tâm đúng mức, nhất là phương án giải quyết việc làm cho người
bị thu hồi đất. Nhiều địa phương chưa coi trọng việc lập khu tái định cư chung cho
các dự án tại địa bàn, một số khu tái định cư đã được lập nhưng không đồng bộ về
hạ tầng, không bảo đảm điều kiện tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ.
2.2.6- Thanh tra,kiểm tra,giải quyết tranh chấp,khiếu nại,tố cáo:
2.2.6.1-Thực trạng:
-Trong thời gian gần đây, tình hình tranh chấp, khiếu nại tố cáo trong lĩnh vực
đất đai chiếm 80% so với các khiếu nại tố cáo trong cả nước,diễn ra gay gắt, phức
tạp, nhiều nơi đã trở thành điểm nóng. Số lượng đơn vượt cấp gửi đến các cơ quan
ở Trung ương nhiều, nội dung thể hiện tính bức xúc gay gắt, không chấp nhận với
cách giải quyết của chính quyền địa phương. Số lượng công dân đến khiếu nại trực
tiếp tại phòng tiếp dân của các địa phương, các cơ quan ở Trung ương hàng năm
cao.

-Nhiều vụ khiếu nại tố cáo về việc bồi thường giải phóng mặt bằng, bố trí tái
định cư, đòi lại đất cũ và tranh chấp quyền sử dụng đất nổi cộm, mang tính bức
xúc như: việc thu hồi đất để xây dựng cơ sở hạ tầng ở Đà Nẵng, công dân tụ tập
bao vây cơ quan, nhà riêng của các đồng chí lãnh đạo tỉnh, kéo lên Trung ương,
lưu lại nhiều ngày ở Hà Nội và liên kết với các hộ dân ở Long An, An Giang, Lâm
Đồng để gây sức ép đòi được giải quyết quyền lợi.
-Việc thu hồi đất, bồi thường không thỏa đáng, không làm đúng các thủ tục
theo quy định của pháp luật, người có đất bị thu hồi khiếu nại về thực hiện không
đúng quy hoạch, không đúng diện tích, vị trí, giá đền bù thấp, không đáp ứng yêu
cầu ổn định cuộc sống…
2.2.6.2- Nguyên nhân:
- Có sự biến động lớn về chủ sử dụng đất (sau giai đoạn đất nước chiến tranh
kéo dài)
- Sự bất cập của hệ thống chính sách pháp luật về đất đai
- Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng có nhiều bất cập
- Sự yếu kém trong công tác tổ chức thi hành pháp luật về đất đai
- Sự bất cập trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
- Sự thiếu gương mẫu, sa sút về phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ,
công chức; sự thiếu hiểu biết và thiếu ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận
nhân dân.
2.2.7-Quản lý tài chính về đất đai:
*Những thành tựu đạt được:
-Hàng loạt cơ chế chính sách tài chính liên quan đến đất đai đã được ban hành
trong từng bối cảnh, giai đoạn cụ thể đã tạo ra những chuyển &biến tích cực trong
việc khơi thông nguồn lực tài chính đất đại phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước, tiêu biểu như:
- Giải quyết quan hệ đất đai theo cơ chế thị trường gắn với hiệu quả, trên các mặt:
cải thiện môi trường đầu tư, giải quyết hợp lý về lợi ích giữa Nhà nước với người
sử dụng đất; miễn thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với các trường hợp được
Nhà nước khuyến khích; khai thác nguồn lực đất đai để biến nguồn lực tiềm năng

thành nguồn lực tài chính, nguồn vốn cho đầu tư phát triển và nguồn thu ổn định
cho ngân sách nhà nước (NSNN), , tạo điều kiện cho thị trường chuyển quyền sử
dụng đất hoạt động, thu hút vốn đầu tư của toàn xã hội và vốn đầu tư nước ngoài.
- Thông qua cơ chế đấu giá quyền sử dụng đất và đấu thầu dự án có sử dụng đất đã
từng bước hạn chế được bất cập trong việc giao đất.Giải quyết những vướng mắc
về lợi ích giữa Nhà nước với nhà đầu tư (NĐT); ổn định chi phí về đất đối với
doanh nghiệp.
- Giá đất tính thu nghĩa vụ và thực hiện các chính sách tài chính đất đai được cải
tiến với quy định giá đất do ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh quy định và công
bố hàng năm theo giá thị trường.Đơn giản hóa thủ tục và giảm thiểu nghĩa vụ tài
chính đối với hộ gia đình, cá nhân, đặc biệt là các vùng kinh tế xã hội có khó khăn,
đồng bào dân tộc, người nghèo… để đẩy nhanh tiến độ thực hiện cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất.
*Những hạn chế:
- Giá đất năm sau thường biến động tăng hơn năm trước, trong khi công tác giải
phóng mặt bằng thường kéo dài dẫn đến giá đất để tính thu tiền sử dụng đất và giá
bồi thường, hỗ trợ về đất được duyệt làm căn cứ để khấu trừ tiền đền bù hỗ trợ về
đất vào tiền sử dụng đất phải nộp không cân bằng;
- Đơn giá thuê đất (tỷ lệ % giá đất) còn thấp so với mức thu tiền sử dụng đất dẫn
đến hạn chế nguồn thu và không khuyến khích sử dụng đất có hiệu quả, không
công bằng về nghĩa vụ tài chính;
- Việc xác định giá đất cụ thể để tính thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất sát với giá
chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường trong điều kiện bình thường
cũng gặp không ít khó khăn, lúng túng do chưa có quy trình chuẩn về trình tự, thủ
tục bàn giao đất thực tế (nhất là đối với đất chưa được giải phóng mặt bằng), về
quy trình xác định giá đất thị trường, về thời điểm tính thu tiền sử dụng đất, thu
tiền thuê đất đối với đất đang sử dụng, đất chuyển mục đích sử dụng đất
2.3-Giải pháp đề xuất:
*Đối với chính sách pháp luật đất đai:
-Kiện toàn hệ thống chính sách pháp luật đất đai, tập trung chú ý điều chỉnh những

nội dung còn nhiều bất cập như: quy hoạch,kế hoạch sử dụng đất,cho thuê,thu hồi
đất,giải quyết tranh chấp ,khiếu nại,tố cáo…phù hợp với thực trạng hiện nay.Ban
hành những quy định cụ thể,chặt chẽ về các hình thức xử lí vi phạm trong quản lý
đất đai.
-Nhà nước chủ động thu hồi đất theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất để giải
phóng mặt bằng, tạo quỹ đất sạch, sau đó đưa ra đấu giá chọn chủ đầu tư.Chủ động
xây dựng các khu tái định cư trước khi thu hồi đất. Khu tái định cư được xây dựng
phù hợp với điều kiện, phong tục, tập quán của từng vùng, miền.
-Tiến hành thanh tra,kiểm tra thường xuyên công tác quản lý ở địa phương và các
cấp,đảm bảo công bằng,minh bạch trong phát triển dự án, quá trình thu hồi đất, đền
bù để đảm bảo quyền lợi cho người bị thu hồi đất, phát hiện, chấn chỉnh những yếu
kém, xử lý nghiêm, kịp thời, đúng pháp luật các trường hợp vi phạm
- Cơ quan có thẩm quyền tập trung giải quyết dứt điểm những đơn thư khiếu nại,tố
cáo tồn đọng và những đơn thư đã giải quyết nhưng chưa phù hợp với pháp luật và
tình hình thực tế,hạn chế phát sinh đơn thư mới.
- Cần có quy định cụ thể về xử lí độ trễ của quy hoạch sử dụng đất,bỏ quy hoạch
cấp xã, thực hiện quy hoạch lồng ghép quy hoạch, vùng vào quy hoạch cấp quốc
gia, không quy định riêng về vùng quy định rõ nội dung quy hoạch sử dụng đất với
chỉ tiêu quy hoạch xét duyệt quy hoạch của từng cấp theo hướng càng xuống cấp
dưới thì nội dung chỉ tiêu càng cụ thể chi tiết.Thực hiện tốt công tác giải phóng
mặt bằng, bồi thường hợp lí và bố trí chỗ ở tái định cư cho người dân.
- Công tác đo đạc bản đồ cần bao quát được nội dung cần quản lí: không đo đạc
chồng chéo; hướng tới việc thống nhất sử dụng chung sản phẩm đo đạc và bản đồ
,thường xuyên,kịp thời cập nhật chỉnh lí bản đồ.Tăng nguồn đầu tư kinh phí Nhà
nước nhằm cải tiến kỹ thuật,ứng dụng khoa học-công nghệ, từng bước chuyển sang
mô hình hệ thống thông tin quản lý và số hóa bản đồ.
* Đối với công tác quản lí đất đai:
-Cần xử lí nghiêm các cán bộ nhũng nhiễu, hạch sách, thiếu tinh thần và trách
nhiệm trong công việc.
-Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyên, phổ biến rộng rãi chính sách pháp luật

đất đai cho nhân dân (đặc biệt là ở vùng nông thôn,đồng bào dân tộc thiểu số,vùng
cao…).
-Tổ chức các khóa bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ quản lý nhằm nâng cao năng
lực, trình độ chuyên môn và tư cách,đạo đức nghề nghiệp.
C-PHẦN KẾT LUẬN
-Trong bối cảnh đất nước hội nhập quốc tế, cùng với nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa thì việc thực hiện tốt,phát huy hiệu quả trong công tác
quản lý đất đai là một yêu cầu vô cùng quan trọng,mang tính cấp bách.Cùng với
những điều kiện tự nhiên vô cùng ưu đãi về tài nguyên đất đai,khoáng sản thì vấn
đề đặt ra là làm sao khai thác,phân phối sử dụng và quản lý chúng một cách hợp
lý,tiết kiệm và mang lại hiệu quả cao nhất về kinh tế và cả những lợi ích về mặt xã
hội.
-Công tác quản lý đất đai chỉ thực sự mang lại hiệu quả tốt nhất khi được kết
hợp xem xét,nhìn nhận và giải quyết từ góc nhìn xã hội học.Trong quá trình quản
lý đất đai làm xuất hiện những hạn chế ,thiếu sót dẫn đến nảy sinh những vấn đề
xã hội và muốn giải quyết,khắc phục được thì phải dựa vào kết quả nghiên cứu xã
hội học.Từ kết quả đó, ta có thể cơ bản tìm ra,lý giải,đánh giá, được nguyên nhân
những vấn đề tồn tại nhằm có những giải pháp quản lý phù hợp,tối ưu nhất.Như
vậy,công tác nghiên cứu xã hội học đã góp phần nâng cao hiệu quả trong quản lý
đất đai.
-Bài tiểu luận với ý tưởng mang lại một góc nhìn khác-góc nhìn xã hội học trong
công tác quản lý đất đai để từ đó mang lại cho mọi người cái nhìn trực quan ,rõ nét
hơn về thực trạng,về những hạn chế,khuyết điểm trong công tác quản lý đất đai
hiện nay .Từ đó, nhóm chúng tôi mong muốn Nhà nước,các cơ quan quản lý có sự
quan tâm đúng mức,thường xuyên hơn về việc giải quyết các vấn đề tồn tại.Mặt
khác, chúng tôi muốn tuyên truyền đến mọi công dân phải có ý thức tìm hiểu,học
hỏi và nâng cao kiến thức pháp luật đất đai để bảo vệ lợi ích của chính mình và cả
lợi ích quốc gia.



×