Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trên địa bàn tỉnh ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (545.49 KB, 68 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước, chính vì vậy mà trong những năm
qua Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm hoàn thiện chính sách và cơ chế thu thuế xuất khẩu
(XK), thuế nhập khẩu (NK) để đáp yêu cầu mới của sự phát triển đất nước trong giai đoạn hiện
nay, góp phần thúc đẩy sản xuất trong nước ổn định tình hình kinh tế - xã hội, tạo ra những tiền
đề cần thiết để chuyển nền kinh tế sang một thời kỳ phát triển mới thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thời gian qua thu thuế XK, thuế NK ở nước ta nói chung và trên địa bàn tỉnh Ninh Bình
nói riêng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ; tuy nhiên vẫn còn những tồn tại như: tình
trạng trốn thuế, nợ đọng thuế và gian lận thương mại còn khá phổ biến; hoạt động kiểm tra, kiểm
soát việc chấp hành chính sách thuế hàng hoá XK, NK chưa được coi trọng đúng mức gây thất
thu lớn cho ngân sách Nhà nước. Bên cạnh đó sự bình đẳng và công bằng về nghĩa vụ thuế cũng
chưa được đảm bảo…
Xuất phát từ những tồn tại trong thu thuế XK, thuế NK nêu trên đòi hỏi phải luôn quan
tâm hoàn thiện. Để đạt hiệu quả cao, đây là yêu cầu cấp bách nhằm tăng thu cho ngân sách Nhà
nước, kích thích sản xuất kinh doanh phát triển. Ninh Bình là một tỉnh phía Nam đồng bằng sông
Hồng, điều kiện kinh tế - xã hội còn chậm phát triển, nguồn thu từ thuế XK, thuế NK là một
trong những nguồn thu chủ yếu trên địa bàn. Vì vậy, thu thuế XK, thuế NK là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của tỉnh. Trong bối cảnh đó, tác giả đã chọn nghiên cứu đề
tài: “Thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trên địa bàn tỉnh Ninh Bình”, để đáp ứng được yêu
cầu cấp thiết từ thực tế thu thuế XK, thuế NK trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn hiện
nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đề tài về thu thuế XK, thuế NK nói chung đã và đang được nhiều tổ chức, cá nhân liên
quan nghiên cứu đến ở nhiều góc độ khác nhau như:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Tổng cục thuế về “Chiến lược cải cách hệ
thống thuế giai đoạn 2001-2010”;
- Đề tài: “Hải quan Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế”, Luận
án tiến sỹ Kinh tế chính trị của Lê Văn Tới, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2005;
- Đề tài: “Hoàn thiện cơ chế quản lý thuế đối với hàng hoá xuất nhập khẩu ngành Hải


quan”, Luận văn thạc sỹ Kinh tế của Dương Phú Đông, Đại học Kinh tế quốc dân năm 2008;
- Đề tài: “Tiếp tục cải cách, hiện đại hoá Hải quan Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế”, Luận án tiến sỹ Kinh tế của Nguyễn Ngọc Túc, Trường Đại học Ngoại thương
Hà Nội năm 2007;
- Đề tài: “Các giải pháp tăng cường quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong tiến
trình gia nhập AFTA của Việt nam”, Luận án tiến sỹ Kinh tế của Nguyễn Danh Hưng, Học viện
Tài chính năm 2003.
- Đề tài: “Đổi mới quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của ngành Hải quan hiện
nay”, Luận án thạc sỹ Kinh tế của Trần Thành Tô, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
năm 2006.
- Đề tài: “Một số giải pháp về quản lý chống thất thu thuế xuất nhập khẩu trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng”, Luận án thạc sỹ Kinh tế của Phan Duy Bình, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh năm 2000.
- Đề tài: “Quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan thành phố Hải
Phòng”, Luận văn thạc sỹ Kinh tế của Đặng Văn Dũng, Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh năm 2011.
Nhìn chung, các đề tài và tài liệu trên đều có đề cập ở những mức độ nhất định về Thuế,
quản lý thuế, chống thất thu thuế XK, thuế NK của ngành Hải quan. Tuy nhiên, chưa có công
trình khoa học nào dưới dạng luận văn thạc sỹ và luận án tiến sỹ nghiên cứu một cách đầy đủ,
toàn diện về đề tài thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trên địa bàn tỉnh Ninh Bình hiện nay ở góc
độ kinh tế chính trị. Do vậy, tác giả đã chọn đề tài làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Kinh tế
chính trị.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Luận văn chọn lọc và hệ thống hoá một số vấn đề cơ bản về thuế XK, thuế NK; Phân
tích, đánh giá thực trạng thu thuế XK, thuế NK ở Ninh Bình thời gian qua và từ đó đề xuất giải
pháp góp phần thu thuế XK, thuế NK hiệu quả trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ vai trò của thuế XK, thuế NK đối với phát triển kinh tế - xã hội (KT – XH) và
nội dung của thu thuế XK, thuế NK.

- Phân tích đánh giá thực trạng thu thuế XK, thuế NK trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, rút ra
những thành công, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất những giải pháp và kiến nghị cơ bản nhằm hoàn thiện thu thuế XK, thuế NK
hiệu quả trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
4. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu của luận văn
2
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về thu thuế XK, thuế NK trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là thu thuế XK, thuế NK trên địa bàn tỉnh Ninh Bình từ
năm 2006 - 2011.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận: Đề tài thực hiện dựa trên cơ sở duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, nhà nước về quản
lý nhà nước về Thuế và Hải quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng đồng bộ các phương pháp tổng hợp,
thống kê, so sánh, phân tích. Lý luận kết hợp với thực tiễn để nghiên cứu, gắn nghiên cứu lý luận
với tổng kết thực tiễn, bám sát quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước. Đồng thời
tham khảo có chọn lọc, kế thừa các công trình khoa học đã công bố của các tác giả có liên quan
đến đề tài.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
- Tìm hiểu kinh nghiệm thu thuế XK, thuế NK của một số tỉnh trong nước và rút ra bài
học kinh nghiệm trong thu thuế XK, thuế NK cho tỉnh Ninh Bình.
- Đánh giá toàn diện thực trạng thu thuế XK, thuế NK trên địa bàn tỉnh Ninh Bình giai
đoạn 2006 - 2011.
- Nêu lên những quan điểm cơ bản cần quán triệt trong thu thuế XK, thuế NK hiện nay
- Đề xuất các giải pháp cơ bản và kiến nghị nhằm hoàn thiện thu thuế XK, thuế NK hiệu
quả trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết

cấu gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Chương 2: Thực trạng về thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp cơ bản và kiến nghị nhằm hoàn thiện thu thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiệu quả trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
3
VỀ THU THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THU THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU
1.1.1. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
1.1.1.1. Khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Cho đến thời điểm hiện nay, chưa có một khái niệm đồng nhất về thuế XK, thuế NK.
Thuế XK, thuế NK thường có tên gọi chung là thuế quan (Custom duty). Đây là loại thuế
mà các nước dùng để đánh vào hàng hóa xuất nhập khẩu tại cửa khẩu nhằm huy động nguồn thu
cho ngân sách Nhà nước (NSNN), bảo hộ sản xuất và can thiệp vào quá trình hoạt động ngoại
thương, buôn bán trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia.
Giáo trình thuế của Học viện Tài chính định nghĩa: Thuế XK, thuế NK là sắc thuế đánh
vào hàng hoá XK, NK theo quy định của pháp luật Việt Nam [33, tr 104]
Theo từ điển Kinh tế học (Anh - Việt giải thích): “Thuế nhập khẩu (Impoprt duty) là
khoản thuế mà Chính phủ đánh vào sản phẩm nhập khẩu. Thuế nhập khẩu được sử dụng để tăng
nguồn thu cho Chính phủ và bảo vệ các ngành sản xuất trong nước khỏi sự cạnh tranh của nước
ngoài” [46, tr 439].
Trên cơ sở nghiên cứu sự ra đời của thuế XK, thuế NK cùng như các quan niệm về thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu ở các góc độ nghiên cứu khác nhau, có thể hiểu khái niệm chung về thuế XK,
thuế NK như sau: Thuế XK, thuế NK là một phần thu nhập được tạo ra từ các hoạt động XK, NK
hàng hoá mà các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ phải đóng góp cho Nhà nước theo quy định của Pháp
luật thuế XK, thuế NK nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
1.1.1.2. Đặc điểm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Từ khái niệm về thuế XK, thuế NK cho thấy, thuế XK, thuế NK cũng có những đặc điểm

của thuế nói chung đó là:
Thứ nhất, thuế mang tính quyền lực Nhà nước. Nhà nước là người duy nhất có quyền đặt
ra thuế XK, thuế NK qua đó để kiểm soát và điều tiết đối với hoạt động XK, NK hàng hoá và
bảo hộ nền sản xuất trong nước, đồng thời để tạo nguồn thu cho NSNN.
Thứ hai, thuế mang tính pháp lý cao. Thuế là khoản đóng góp bắt buộc cho Nhà nước mà
không có sự bồi hoàn trực tiếp nào, việc nộp thuế được thể chế bằng pháp luật mà mọi pháp nhân
và thể nhân phải tuân theo.
Thứ ba, thuế chứa đựng các yếu tố KT - XH. Điều này được thể hiện ở chỗ thuế XK, thuế
NK là một phần của cải của xã hội, mức huy động thuế XK, thuế NK vào ngân sách Nhà nước
phụ thuộc vào mức tăng trưởng kinh tế của đất nước, nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và các mục
tiêu KT - XH của đất nước đặt ra trong mỗi thời kỳ.
4
Ngoài những đặc điểm chung, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu còn có đặc điểm riêng là:
- Thuế XK, thuế NK chỉ đánh vào hàng hoá được phép XK, NK qua biên giới của một
nước, kể cả hàng hoá được đưa từ thị trường trong nước vào khu phi thuế quan và từ khu phi
thuế quan đưa vào tiêu thụ trong nước.
- Thuế XK, thuế NK là một loại thuế gián thu. Nhà nước sử dụng thuế XK, thuế NK để điều
chỉnh hoạt động ngoại thương thông qua việc tác động vào cơ cấu giá cả của hàng hóa XK, NK. Vì
vậy, thuế XK, thuế NK là một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng hóa XK, NK, người nộp thuế là
người thực hiện hoạt động XK, NK hàng hóa; người chịu thuế là người tiêu dùng hàng hóa XK, NK.
Nhà nước thu thuế XK, thuế NK của người tiêu dùng gián tiếp thông qua người cung cấp hàng hóa
XK, NK.
1.1.1.3. Vai trò của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Một là, nó tạo nguồn thu cho NSNN. Thuế XK, thuế NK là một nguồn thu quan trọng
của NSNN. Thông qua thuế XK, thuế NK Nhà nước huy động một phần thu nhập được tạo ra từ
hoạt động XK, NK hàng hoá để tập trung vào ngân sách. Tùy thuộc vào từng thời kỳ, giai đoạn
lịch sử khác nhau, sự phát triển kinh tế đối ngoại và quan điểm sử dụng mà thuế XK, thuế NK có
vai trò khác nhau ở những quốc gia khác nhau trong việc tạo lập nguồn thu cho NSNN. Đối với
các nước phát triển, số thu từ thuế XK, thuế NK chiếm một tỷ trọng không đáng kể trong tổng
thu NSNN. Còn ở các nước đang phát triển, thuế XK, thuế NK luôn chiếm tỷ trọng đáng kể

trong tổng thu ngân sách. Ở Việt Nam trong những năm qua, thuế XK, thuế NK chiếm khoảng
25 - 30% trong tổng thu về thuế. Tuy nhiên, kể từ khi thực hiện chủ trương cải cách thuế bước II
và thực hiện các cam kết cắt giảm thuế: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Liên
minh Châu ÂU (EU) nguồn thu về thuế XK, thuế NK giảm dần trong tổng thu về thuế.
Tuy nhiên để thực sự phát huy vai trò tạo nguồn thu NSNN, thuế XK, thuế NK phải bao
quát hết các hoạt động kinh doanh XK, NK hàng hoá của các tổ chức, cá nhân, đảm bảo thu
đúng, thu đủ và nộp kịp thời tiền thuế XK, thuế NK vào NSNN.
Hai là, góp phần để Nhà nước kiểm soát và điều tiết đối với hoạt động XK, NK hàng
hoá: Trong nền kinh tế thị trường hoạt động trao đổi, mua bán hàng hoá diễn ra ở hầu khắp các
nước, dưới nhiều hình thức đa dạng về chủng loại hàng hoá, có hàng hoá phục vụ an ninh quốc
phòng, có hàng hoá phục vụ nhu cầu tiêu dùng thiết yếu, có loại hàng hoá xâm hại đến chủ
quyền an ninh quốc gia, đời sống nhân dân như ma tuý, vũ khí, văn hoá phẩm đồi truỵ …
Thông qua việc kiểm tra hàng hóa và thu thuế đối với hàng hoá XK, NK các cơ quan chức
năng nắm được thực trạng hàng hoá XK, NK: loại hàng gì ? số lượng bao nhiêu ? XK đi nước
nào ?, qua đó Nhà nước kiểm soát được toàn bộ các loại hàng hoá XK, NK, để có những điều
chỉnh chính sách đối với hàng hoá XK, NK phù hợp thực tiễn.
5
Để điều tiết hoạt động XK, NK hàng hoá ngoài các biện pháp phi thuế quan như hạn
ngạch, giấy phép, cấp phép tự động,… thì biện pháp sử dụng công cụ thuế XK, thuế NK được các
nước áp dụng một cách phổ biến. Thông qua công cụ thuế XK, thuế NK, Nhà nước khuyến khích
hay hạn chế hoạt động XK, NK đối với từng loại hàng hoá chẳng hạn: để khuyến khích XK sản
phẩm hoàn chỉnh, Nhà nước quy định thuế suất thuế XK cao đối với nguyên liệu thô, sản phẩm
chưa qua chế biến nhằm hạn chế XK những nguyên liệu và sản phẩm này. Đối với nguyên liệu NK
cần cho sản xuất nội địa mà trong nước chưa sản xuất được hoặc đã sản xuất được nhưng chưa đủ
đáp ứng được nhu cầu thì Nhà nước quy định mức thuế NK thấp thậm chí bằng 0% để khuyến
khích NK cho phát triển sản xuất trong nước. Đối với những sản phẩm mà đã được sản xuất trong
nước và đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng nội địa hoặc những sản phẩm tiêu dùng cao cấp (ô tô, điều
hoà…), thuế suất thuế NK thường được quy định ở mức thuế cao để hạn chế NK và hạn chế tiêu
dùng. Như vậy, thông qua công cụ thuế XK, thuế NK, Nhà nước thực hiện điều tiết đối với hoạt
động XK, NK hàng hoá.

Ba là, bảo hộ sản xuất trong nước. Thuế XK, thuế NK mà đặc biệt là thuế NK tác động
trực tiếp vào giá cả hàng hoá NK trên thị trường, vì vậy thuế XK, thuế NK là một trong những
công cụ của Nhà nước để bảo hộ sản xuất trong nước. Đối với những hàng hoá NK là những sản
phẩm mà trong nước đã sản xuất được hoặc những mặt hàng cần bảo hộ, Nhà nước đánh thuế
NK cao sẽ hạn chế tiêu dùng hàng NK, khuyến khích tiêu dùng sản phẩm trong nước. Nhờ đó,
hàng sản xuất trong nước sẽ có điều kiện cạnh tranh so với hàng NK nhờ giá bán sản phẩm thấp
hơn. Mặt khác, khi đánh thuế NK hàng hóa thấp, tức là Nhà nước không hạn chế NK mặt hàng
NK đó sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp (DN) trong nước cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ, kiện
toàn tổ chức, cải tiến mẫu mã, hạ giá thành sản phẩm để nâng cao khả năng cạnh tranh với hàng
ngoại nhập. Đối với hàng hoá là đầu vào của các ngành sản xuất trong nước, hàng là máy móc
thiết bị phục vụ cho sản xuất trong nước, việc đánh thuế NK thấp sẽ góp phần giảm giá thành sản
phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước. Như vậy, thông qua công
cụ thuế XK, thuế NK Nhà nước thể hiện quan điểm bảo hộ sản xuất trong nước, định hướng tiêu
dùng và thu hút đầu tư. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế, các cam kết quốc tế về cắt
giảm thuế NK được thực hiện thì vai trò bảo hộ của thuế NK phần nào bị hạn chế. Bên cạnh đó,
việc quá nhấn mạnh đến vai trò bảo hộ của thuế NK sẽ làm cho nền sản xuất trong nước trở nên
trì trệ kém phát triển do sự ỷ lại của các DN trong nước vào sự bảo hộ của Nhà nước. Vì vậy, để
phát huy tốt vai trò bảo hộ của thuế NK buộc phải có sự lựa chọn những ngành nghề phù hợp với
tình hình thực tiễn của đất nước, đồng thời buộc các ngành được bảo hộ phải có chiến lược đầu
tư đổi mới công nghệ, cải tiến phương thức quản lý để nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá
thành, chủ động trong cạnh tranh với hàng NK khi hết thời hạn bảo hộ.
6
Bốn là, khẳng định chủ quyền quốc gia và chống phân biệt đối xử trong thương mại quốc
tế. Vai trò này của công cụ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được thể hiện ở chỗ, bất kể một loại
hàng hoá nào khi nhập khẩu vào Việt Nam đều phải khai báo, xuất trình để kiểm tra và nộp thuế
(nếu có), mọi hành động phân biệt đối xử của nước ngoài đối với hàng hoá của Việt Nam nếu
làm tổn hại đến nền sản xuất trong nước thì đều phải chịu các biện pháp trả đũa thông qua việc
áp dụng chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu bổ sung, thuế chống bán phá giá… Nhưng để
làm được điều này trong nền kinh tế của Việt Nam hiện nay quả thật rất khó.
Trong nền cơ chế thị trường, với sự trao đổi giao lưu kinh tế ngày càng mở rộng, vai trò

của thuế XK, thuế NK trở nên vô cùng quan trọng được thể hiện trên các mặt sau đây:
Thứ nhất về tài chính: Thuế XK, thuế NK là một nguồn thu lớn trong tổng thu NSNN.
Hoạt động XK, NK phát triển càng mạnh thì số thuế thu được càng nhiều. Trong điều kiện kinh
tế thị trường các hình thức XK, NK ngày càng phong phú đa dạng, do vậy thuế XK, thuế NK
luôn được coi là một nguồn thu lớn trong tổng thu NSNN.
Thứ hai về kinh tế: Thuế XK, thuế NK là công cụ góp phần quản lý điều tiết vĩ mô hoạt
động XK, NK, vừa kích thích định hướng hoạt động XK, NK, vừa hướng dẫn tiêu dùng. Thông
qua chính sách thuế suất thích hợp đối với từng loại hàng hoá XK, NK, Nhà nước có thể thực
hiện việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế cho phù hợp với đường lối phát triển từng giai đoạn nhất
định.
Thứ ba về mặt xã hội: Thuế XK, thuế NK góp phần thực hiện công bằng và bình đẳng xã
hội, góp phần thực hiện chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước và tạo điều kiện mở cửa nền
kinh tế.
1.1.2. Thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
1.1.2.1. Khái niệm thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Theo Điều 11 Luật Hải quan (đã được sửa đổi bổ sung) [37], Điều 27 Luật Thuế XK,
thuế NK [38] và Điều 2 Luật Quản lý thuế [39] thì cơ quan hải quan có nhiệm vụ tổ chức thực
hiện pháp luật về thuế đối với hàng hoá XK, NK; kiểm tra và thu thuế XK, thuế NK.
Thu thuế XK, thuế NK là kết quả của một chuỗi công việc bao gồm kiểm tra hồ sơ khai
thuế, các chứng từ liên quan và việc kiểm tra thực tế hàng hoá, phương tiện vận tải (nếu có)…
do cơ quan thuế thực hiện để xác định đúng số thuế đối tượng nộp thuế phải nộp và chuyển số
thuế đó vào ngân sách Nhà nước đúng quy định.
Do việc xác định số thuế phải thu phụ thuộc vào nhiều yếu tố như cơ chế chính sách,
chủng loại của hàng hoá, trình độ của công chức, trang thiết bị kỹ thuật, thái độ tuân thủ pháp
7
luật về thuế của đối tượng nộp thuế,… nên có thể thu đúng, cũng có thể thu thiếu, thu thừa hoặc
bỏ sót thuế.
1.1.2.2. Phương pháp thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Người nộp thuế nộp tiền thuế đối với hàng hoá XK, NK trực tiếp vào Kho bạc Nhà nước
(KBNN) hoặc thông qua Ngân hàng thương mại, Tổ chức tín dụng và Tổ chức dịch vụ khác theo

quy định tại khoản 13, Điều 1, Nghị định số 106/2010/NĐ-CP ngày 28/10/2010 của Chính phủ.
- Trường hợp người nộp thuế nộp bằng tiền mặt nhưng KBNN không tổ chức điểm thu
tại địa điểm làm thủ tục hải quan, cơ quan hải quan nơi đăng ký tờ khai hải quan thực hiện thu số
tiền thuế do người nộp thuế nộp và chuyển toàn bộ số tiền thuế đã thu vào KBNN theo quy định.
- Trường hợp tại thời điểm đăng ký tờ khai hải quan, người nộp thuế có nợ tiền thuế, nợ
tiền phạt tại các cơ quan hải quan khác và muốn nộp ngay số tiền nợ đó tại cơ quan hải quan nơi
đang làm thủ tục hải quan thì người nộp thuế tự khai báo và nộp tiền tại điểm thu của KBNN
hoặc nộp cho cơ quan hải quan nơi làm thủ tục nếu KBNN không bố trí điểm thu.
- Kho bạc Nhà nước, Ngân hàng thương mại, Tổ chức tín dụng và Tổ chức dịch vụ khác
có trách nhiệm cấp giấy nộp tiền vào NSNN cho người nộp thuế theo mẫu quy định của Bộ Tài
chính.
Cơ quan hải quan có trách nhiệm cấp biên lai thu cho người nộp thuế theo mẫu quy định của
Bộ Tài chính trong trường hợp thu thuế bằng tiền mặt. Trường hợp thu hộ tiền thuế, Chi cục Hải
quan nơi thu hộ có trách nhiệm Fax biên lai thu thuế cho Chi cục Hải quan nơi doanh nghiệp nợ thuế
để Chi cục Hải quan nơi doanh nghiệp nợ thuế có văn bản nhờ thu hộ và xử lý theo quy định.
- Trong thời hạn 8 giờ làm việc, kể từ khi thu tiền thuế của người nộp thuế, KBNN, Ngân
hàng thương mại, Tổ chức tín dụng và Tổ chức dịch vụ khác, Cơ quan hải quan phải thực hiện
chuyển số tiền thuế đã thu của người nộp thuế vào tài khoản tiền gửi của cơ quan hải quan tại
KBNN đối với số tiền thuế của nguyên liệu NK để sản xuất hàng XK, hoặc nộp vào NSNN đối
với các trường hợp khác.
Trường hợp thu thuế bằng tiền mặt tại vùng sâu, vùng xa, hải đảo, vùng đi lại khó khăn
thì thời hạn nêu trên là năm ngày làm việc, kể từ khi thu tiền thuế của người nộp thuế.
Đối với số tiền thuế đã nộp vào tài khoản tiền gửi của cơ quan hải quan tại Kho bạc Nhà
nước, quá 135 (một trăm ba mươi lăm) ngày kể từ ngày đã thực hiện nộp thuế nhưng người nộp
thuế chưa nộp hồ sơ thanh khoản, thì cơ quan hải quan làm thủ tục chuyển tiền vào NSNN theo
quy định.
1.1.2.3. Quy trình thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Nói chung quy trình thu thuế có thể chia làm hai cơ chế cơ bản như sau:
8
- Cơ quan hải quan tính thuế và ra thông báo số thuế phải nộp. Đây là một quy trình nộp

thuế truyền thống. Định kì theo thời gian hoặc theo chuyến hàng, trên cơ sở những quy định
trong luật thuế và các hoạt động sản xuất kinh doanh, các đối tượng nộp thuế phải kê khai thuế
và nộp tờ khai thuế cho cơ quan hải quan.
- Đối tượng nộp thuế phải tự kê khai, tự tính thuế và nộp thuế. Cơ chế này hoạt động khá
hiệu quả nếu có sự giám sát và hướng dẫn một cách chặt chẽ. Số thuế phải nộp căn cứ vào thông
báo nộp thuế của các cơ quan hải quan. Cơ quan hải quan có trách nhiệm kiểm tra sự chính xác
trong kê khai và tính thuế của đối tượng nộp thuế, trên cơ sở đó phát hành thông báo thuế.
Theo cơ chế này, người nộp thuế XK, thuế NK có trách nhiệm kê khai thuế ngay trên tờ
khai hải quan và nộp tờ khai hải quan cho cơ quan hải quan. Việc kê khai thuế phải đầy đủ, chính
xác, minh bạch. Người nộp thuế chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung kê khai [38, tr 12]
Tại thời điểm tính thuế XK, thuế NK là thời điểm người nộp thuế đăng ký tờ khai hải
quan. Thuế XK, thuế NK được tính theo thuế suất, giá tính thuế, tỷ giá tính thuế tại thời điểm
tính thuế.
Thời hạn nộp thuế: đối với hàng hoá XK thì thời hạn nộp thuế là 30 ngày kể từ ngày
người nộp thuế đăng ký tờ khai hải quan; đối với hàng hoá NK có nhiều thời hạn nộp thuế khác
nhau tuỳ thuộc vào mặt hàng nhập khẩu, người nộp thuế (chấp hành tốt pháp luật về thuế hay
không chấp hành tốt pháp luật về thuế). Việc này được quy định cụ thể tại Điều 18, Thông tư
194/2010/TT-BTC ngày 06/12/2010 của Bộ Tài chính [09, tr 24].
Khi thu thuế của người nộp thuế, cơ quan thu thuế sẽ cấp biên lai thu thuế cho người nộp
thuế. Cơ quan hải quan căn cứ vào biên lai nộp thuế để xoá nợ thuế cho người nộp thuế trên hệ
thống kế toán thuế của cơ quan hải quan. Nếu người nộp thuế không nộp thuế đúng thời hạn cơ
quan hải quan xử phạt chậm nộp thuế 0,05%/ngày theo quy định tại Nghị định 97/2007/NĐ-CP
ngày 07/06/2007 của Chính phủ [17].
1.1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Thu thuế XK, thuế NK chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố, nhưng có thể khái quát ở
những nhân tố cơ bản sau đây:
Nhân tố chủ quan: Các nhân tố nội tại này góp phần tạo nên hiệu quả trong thu thuế XK,
thuế NK; tác động trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của mỗi cơ quan hải quan. Về cơ bản thu
thuế XK, thuế NK đều chịu tác động của những nhân tố chủ quan sau:
Thứ nhất: Năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ hải quan

Con người luôn đóng vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và thực thi chính sách.
Trình độ, năng lực của cán bộ hải quan không chỉ ảnh hưởng đến việc tham mưu, xây dựng và
9
hoạch định chính sách thuế quyết định hiệu quả thực hiện chính sách thuế. Trong thời đại ngày
nay, việc xây dựng chính sách thuế không những phải đảm bảo phù hợp với cam kết quốc tế mà
còn phải phù hợp với điều kiện trong nước. Cán bộ thu thuế XK, thuế NK vừa là người tiếp xúc
trực tiếp với đối tượng nộp thuế (những người có nhiều thủ đoạn trốn thuế) vừa phải triển khai
thực hiện các nội dung của chính sách thuế XK, thuế NK, phải giải quyết trực tiếp các vướng
mắc của đối tượng nộp thuế. Chính vì thế, đội ngũ cán bộ nếu không có phẩm chất đạo đức tốt,
trình độ chuyên môn cao thì mọi chính sách dù có tốt đến đâu cũng bị vô hiệu hoá và chính sách
ban hành sẽ không phát huy được tác dụng, bị lợi dụng, trốn thuế gây thất thu cho ngân sách Nhà
nước. Bên cạnh đó, việc xây dựng, thực thi chính sách còn phụ thuộc vào trình độ của đối tượng
nộp thuế (ĐTNT). Nếu chính sách ban hành không phù hợp với trình độ của đối tượng nộp thuế
thì chính sách không thể đi vào cuộc sống.
Thứ hai: Tổ chức và giám sát thực hiện quy trình, thủ tục hải quan
Cơ quan hải quan là nơi triển khai các quy trình, thủ tục hải quan cho hàng hoá XK,
NK. Do vậy, công tác thu thuế XK, thuế NK luôn phải hướng tớí đổi mới trong việc tổ chức
thực hiện và có sự giám sát chặt chẽ, thường xuyên để tạo nên sự thuận lợi cho DN làm thủ tục
hải quan, hạn chế tối đa tình trạng gian lận thuế XK, thuế NK.
Đồng thời, cơ quan hải quan phải tổ chức thực hiện sao cho thủ tục hành chính ít cửa
nhất, ít giấy tờ nhất, rút ngắn thời gian làm thủ tục và thông quan hàng hoá, chi phí làm thủ tục
hải quan thấp nhất, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp trong hoạt động thương mại.
Hiện nay, ngành Hải quan đã áp dụng hình thức người khai hải quan phải tự khai báo, tính thuế
và tự chịu trách nhiệm pháp lý đã góp phần rút ngắn thời gian thông quan hàng hoá quy trình, thủ
tục hải quan.
Thứ ba: Mức độ trang bị phương tiện kỹ thuật của cơ quan hải quan
Mức độ trang bị phương tiện kỹ thuật của cơ quan hải quan ảnh hưởng lớn đến hoạt
động thu thuế XK, thuế NK của cán bộ hải quan. Do vậy, yêu cầu đối với phương tiện kỹ
thuật của cán bộ hải quan hiện nay là nâng cao tính năng, tác dụng của trang thiết bị kỹ thuật
trong giám sát, kiểm tra hải quan; Tăng cường trang thiết bị phục vụ cho việc kiểm tra hàng

hoá XK, NK, hành lý của khách xuất nhập cảnh phù hợp với điều kiện thực tiễn của từng địa
bàn; Trang bị kỹ thuật đầy đủ cho cán bộ kiểm hoá; Trang bị đồng bộ máy soi hiện đại, quy
trình nghiệp vụ hoàn chỉnh cho các điểm thông quan; Hiện đại hóa các trang thiết bị phục vụ
hoạt động kiểm soát chống buôn lậu, buôn bán hàng cấm và các loại tội phạm mới.
Tin học hoá: Hoàn thiện hệ thống máy tính nối mạng trong cơ quan hải quan và giữa cơ
quan hải quan với các cơ quan liên quan; Xây dựng trung tâm tự động hoá có hệ thống trang thiết
bị máy tính và các thiết bị phụ trợ có khả năng tiếp nhận và xử lý giao dịch điện tử phát sinh từ
10
khâu tiếp nhận lược khai, khai báo hải quan, tính thuế, thu thuế, giải phóng hàng, giám sát cảng và
kho; Tin học hóa hỗ trợ cải cách thủ tục hải quan với môi trường không giấy tờ.
Tự động hoá: Thực hiện tự động hóa thủ tục hải quan ở tất cả các địa bàn trọng điểm, ở
các cửa khẩu. Phấn đấu tự động hóa quy trình thủ tục hải quan đối với 95% lượng hàng hóa XK,
NK trên địa bàn cả nước. Tự động hóa công tác kiểm tra giám sát hải quan. Tăng nhanh khả
năng thông quan hàng hóa.
Về khai hải quan: khai hải quan được chủ yếu thực hiện qua mạng tin học. Người làm thủ
tục hải quan chủ yếu là các đại lý làm thủ tục hải quan.
Giám sát hải quan: chủ yếu thực hiện thông qua thiết bị kỹ thuật hiện đại như: camera; hệ
thống định vị toàn cầu
Thứ tư: Sự phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan
Thu thuế XK, thuế NK liên quan đến nhiều lĩnh vực nên ngoài việc phối hợp trong nội bộ
ngành đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng như: Thuế, Kho bạc,
Ngân hàng, Tài chính, Công an, các Hiệp hội ngành nghề Mối liên hệ khăng khít giữa cơ quan
hải quan với các cơ quan, tổ chức này tạo nên sự ràng buộc không thể thiếu trong thu thuế XK,
thuế NK. Ngoài ra, sự phối hợp này không chỉ nằm trong biên giới quốc gia mà phải kể đến Hải
quan các nước, Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO) nhằm trao đổi thông tin nghiệp vụ, học tập
kinh nghiệm và hỗ trợ lẫn nhau trong thương mại quốc tế.
Như vậy, các nhân tố đã nêu trên sẽ là những nhân tố chủ yếu quyết định đến sự thành
công của cơ quan hải quan trong việc đạt mục tiêu tạo một môi trường thuế minh bạch, lành
mạnh.
Nhân tố khách quan: Đây là những nhân tố được coi là mang tính khách quan ở tầm vĩ

mô thuộc về cơ chế, chính sách của Nhà nước có liên quan tới hoạt động thu thuế XK, thuế NK
của cơ quan hải quan.
Thứ nhất: Hệ thống thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của quốc gia
Hệ thống thuế XK, thuế NK là tổng hợp các văn bản pháp luật quy định về các sắc thuế
khác nhau mà giữa chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau nhằm vào hàng hoá XK, NK và hệ
thống cơ quan thu thuế XK, thuế NK (Tổng cục Hải quan, Cục Hải quan tỉnh, thành phố; Chi cục
Hải quan trực thuộc Cục Hải quan tỉnh, thành phố)
Hệ thống thuế XK, thuế NK của quốc gia phải trải qua thời gian và nhiều lần cải cách thì
mới hoàn thiện, đầy đủ và đảm bảo những nguyên tắc của hệ thống thuế XK, thuế NK tối ưu,
thực hiện những mục tiêu mà Nhà nước đặt ra. Đi cùng với quá trình đổi mới hệ thống thuế XK,
thuế NK, hoạt động quản lý của cơ quan Hải quan cũng cần được cải tiến cho phù hợp với yêu
cầu của WCO và tiến trình tự do hoá thương mại trên thế giới.
11
Thứ hai: Chính sách bảo hộ sản xuất trong nước
Chính sách bảo hộ là những biện pháp của Chính phủ nhằm bảo vệ các nhà sản xuất trong
nước trước sự cạnh tranh với nước ngoài. Mục tiêu bảo hộ giữa các quốc gia là rất đa dạng. Đối
với các nước phát triển thì mục tiêu chính của việc bảo hộ là nhằm duy trì việc làm cho những
nhóm lớn người lao động có kỹ năng tương đối thấp. Trong khi đó, đối với các nước có trình độ
phát triển trung bình và thấp, gặp khó khăn trong cạnh tranh trên thị trường quốc tế cũng như nội
địa mà nguyên nhân sâu xa là thiếu vốn, nhân lực, quản lý không hiệu quả Chính sách bảo hộ
nhằm mục tiêu duy trì và phát triển một số ngành sản xuất quan trọng và có nhiều tiềm năng trở
thành ngành cạnh tranh trong tương lai. Chẳng hạn, Malaysia bảo hộ ngành sản xuất ô tô; Thái
Lan duy trì bảo hộ ở mức cao một số ngành điện tử, cơ khí, đường; Trung Quốc lại theo đuổi
mục tiêu bảo hộ sản xuất ô tô, thép, thuốc lá
Một lý do riêng đối với việc bảo hộ của các nước đang phát triển và chậm phát triển là
việc các nước này phải thường xuyên duy trì cán cân thanh toán có lợi và cải thiện nguồn ngân
sách. Các nước đang phát triển và chậm phát triển thường bị thâm hụt cán cân thanh toán, nguồn
ngân sách hạn hẹp, để tránh tình trạng này các quốc gia có thể áp dụng nhiều hình thức bảo hộ
khác nhau nhằm phát triển những ngành hàng thay thế NK hoặc hướng về XK, hạn chế NK
những mặt hàng không cần thiết từ đó hạn chế chi ngoại tệ cho ngân sách thông qua XK, NK

như: Hàng rào thuế quan (Tariff Barriers); Hàng rào phi thuế quan (Non-Tariff Barriers)
Hàng rào thuế quan: Đây là biện pháp mà Tổ chức thương mại thế giới (WTO) cho phép
sử dụng để bảo hộ thị trường trong nước nhưng phải cam kết ràng buộc với một mức thuế trần nhất
định và có lịch trình cắt giảm. Sự tự do hoá biểu hiện thông qua các chính sách về quy chế tối huệ
quốc, chế độ thuế quan ưu đãi phổ cập, hiệp định thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung của các khối
liên kết kinh tế như Liên minh Châu Âu (EU), Khu vực mậu dịch tự do ASEAN- Trung Quốc
(ACFTA), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái bình Dương (APEC) Các biện pháp thuế quan
thường được áp dụng để bảo hộ sản xuất trong nước là: Thuế nhập khẩu, thuế chống bán phá giá,
thuế chống trợ cấp, thuế tự vệ thương mại, hạn ngạch thuế quan. Hiện nay, số lượng hạn ngạch
thuế quan được các nước thuộc WTO sử dụng lên đến 1.425 và số thành viên sử dụng là 43 nước
(Phụ lục số 1, 2).
Hàng rào phi thuế quan: Các biện pháp phi thuế quan cũng được áp dụng để hạn chế NK
trong những trường hợp cần thiết để đảm bảo an ninh quốc gia, văn hoá truyền thống, môi
trường, sức khoẻ con người Có thể phân chia thành các nhóm lớn sau:
+ Các biện pháp hạn chế định lượng như: cấm XK, NK; hạn ngạch; giấy phép.
12
+ Các biện pháp quản lý giá như: trị giá hải quan bao gồm trị giá giao dịch của hàng NK
tương tự, trị giá tính thuế theo trị giá khấu trừ, trị giá tính thuế theo trị giá tính toán, hay xác định
theo phương pháp suy luận.
+ Các biện pháp liên quan đến DN: DN thương mại nhà nước; quyền kinh doanh
+ Các biện pháp kỹ thuật: các quy định kỹ thuật, tiêu chuẩn và thủ tục xác định sự phù
hợp; kiểm dịch động vật và thực vật.
+ Các biện pháp thương mại tạm thời như: trợ cấp và các biện pháp đối kháng bao gồm
trợ cấp đèn đỏ, trợ cấp đèn vàng, trợ cấp đèn xanh; quy định về chống bán phá.
+ Các biện pháp liên quan đến đầu tư như: tỷ lệ nội địa hoá; hạn chế tiếp cận ngoại tệ;
yêu cầu XK, ưu đãi gắn với thành tích XK
+ Các biện pháp khác như: yêu cầu đảm bảo thanh toán; yêu cầu nối; thủ tục hành chính;
thủ tục Hải quan; mua sắm Chính phủ; quy tắc xuất xứ
Hàng rào thuế quan và phi thuế quan là hai công cụ bảo hộ sản xuất quan trọng đối với
mọi quốc gia. Do mỗi công cụ đều có điểm mạnh, điểm yếu đặc thù nên chúng thường được sử

dụng để bổ sung lẫn nhau nhằm bảo hộ sản xuất trong nước. Mức độ hiệu quả của bảo hộ có tăng
lên nhiều hay không phụ thuộc vào tính linh hoạt, có chọn lọc, có định hướng của Chính phủ các
nước trong việc áp dụng các biện pháp phi thuế quan để bổ trợ cho biện pháp thuế quan.
Thứ ba: Các hiệp định, cam kết quốc tế
Trong xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế thì không có quốc gia nào có
thể tách riêng độc lập trong thương mại quốc tế. Thu thuế XK, thuế NK của mỗi quốc gia cũng
gián tiếp chịu ảnh hưởng của quá trình hội nhập này. Hệ thống thuế quan chịu ảnh hưởng rất lớn
bởi các quy định, luật lệ, cam kết quốc tế mà quốc gia đó là thành viên. Theo phạm vi tác động
có thể chia ra ba nhóm tác động như sau:
+ Ảnh hưởng của các hiệp định, cam kết chung (hiệp định, cam kết của WTO tới hệ
thống thuế quan của một nước). Hiện nay WTO đã có hơn 150 thành viên nên việc điều chỉnh
thuế quan của một quốc gia sẽ ảnh hưởng tới nhiều quốc gia khác. Hải quan Việt Nam cũng là
thành viên của WCO nên phải tuân thủ những hiệp định, cam kết đã ký kết.
+ Ảnh hưởng của các hiệp định, cam kết khu vực, liên kết kinh tế tới hệ thống thuế quan
của một quốc gia. Do phạm vi tác động của các hiệp định, cam kết chỉ giới hạn trong phạm vi
các nước tham gia liên kết kinh tế, nên việc xây dựng hệ thống thuế quan của một nước sẽ chịu
ảnh hưởng chủ yếu bởi các yếu tố trong khu vực.
+ Ảnh hưởng của các hiệp định, cam kết song phương tới hệ thống thuế quan của
quốc gia đó. Do phạm vi tác động của nó chỉ diễn ra giữa hai quốc gia nên việc xây dựng hệ
thống thuế quan thường chú trọng vào việc đảm bảo hài hoà lợi ích quốc gia với lợi ích của
13
đối tác. Việc điều chỉnh thuế quan nhiều khi cũng chỉ diễn ra ở một số ngành, lĩnh vực mà cả
hai cùng quan tâm.
Tóm lại, hệ thống thuế XK, thuế NK hay chính sách bảo hộ sản xuất của một quốc gia sẽ
ảnh hưởng gián tiếp đến thu thuế XK, thuế NK của cơ quan hải quan.
1.2. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA THU THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP
KHẨU
1.2.1. Đối tượng chịu thuế và nộp thuế
1.2.1.1. Đối tượng chịu thuế
Hàng hoá trong các trường hợp sau đây là đối tượng chịu thuế XK, thuế NK:

- Hàng hóa XK, NK qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam bao gồm: Hàng hoá XK, NK qua
cửa khẩu đường bộ, đường sông, cảng biển, cảng hàng không, đường sắt liên vận quốc tế, bưu
điện quốc tế và địa điểm làm thủ tục hải quan khác được thành lập theo quyết định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền.
- Hàng hóa được đưa từ thị trường trong nước vào khu phi thuế quan và từ khu phi thuế
quan vào thị trường trong nước. Khu phi thuế quan bao gồm: khu chế xuất, DN chế xuất, kho
bảo thuế, kho ngoại quan, khu kinh tế thương mại đặc biệt, khu thương mại - công nghiệp và các
khu kinh tế khác được thành lập theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, có quan hệ mua bán
trao đổi hàng hoá giữa khu này với bên ngoài là quan hệ XK, NK.
- Hàng hoá mua bán, trao đổi khác được coi là hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
Trừ các trường hợp sau đây:
- Hàng hoá vận chuyển quá cảnh qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam theo quy định của
pháp luật.
- Hàng hoá viện trợ nhân đạo, hàng hoá viện trợ không hoàn lại của các Chính phủ, các tổ
chức thuộc Liên hiệp quốc, các tổ chức liên chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính
phủ nước ngoài, các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân người nước ngoài cho Việt Nam và ngược lại,
nhằm phát triển KT - XH, hoặc các mục đích nhân đạo khác được thực hiện thông qua các văn
kiện chính thức giữa hai bên, được cấp có thẩm quyền phê duyệt; các khoản trợ giúp nhân đạo,
cứu trợ khẩn cấp nhằm khắc phục hậu quả chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh.
- Hàng hoá từ khu phi thuế quan xuất khẩu ra ngước ngoài; hàng hoá nhập khẩu từ nước
ngoài vào khu phi thuế quan và chỉ sử dụng trong khu phi thuế quan; hàng hoá từ khu phi thuế
quan này sang khu phi thuế quan khác.
- Hàng hoá là dầu khí thuộc thuế tài nguyên của Nhà nước khi xuất khẩu.
1.2.1.2. Đối tượng nộp thuế
14
- Chủ hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
- Tổ chức nhận uỷ thác xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá.
- Cá nhân có hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu khi xuất cảnh, nhập cảnh, gửi hoặc nhận
hàng qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam.
1.2.2. Phương pháp và căn cứ tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

1.2.2.1. Các phương pháp tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Có nhiều phương pháp tính thuế đối với hàng hoá XK, NK, nói chung các phương pháp
sau đây thường được áp dụng:
- Phương pháp tính thuế theo tỷ lệ: Là phương pháp tính thuế mà số thuế XK, thuế NK
được ấn định theo tỷ lệ % của trị giá hàng xuất khẩu, nhập khẩu; tỷ lệ % ở đây được quy định
cao hay thấp tuỳ theo từng loại hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
- Phương pháp tính thuế theo đơn vị hàng hoá (thuế tuyệt đối): Là phương pháp tính thuế
mà số thuế XK thuế NK được ấn định cụ thể trên một đơn vị hàng hoá XK, NK, đơn vị có thể là
chiếc, cái, tấn, m
3
… mà không quan tâm đến trị giá mua của hàng hoá XK, NK đó. Ví dụ như:
15.000 USD/chiếc xe tô tô đã qua sử dụng…
- Phương pháp tính thuế kết hợp: Là phương pháp tính thuế kết hợp giữa phương pháp
tính thuế theo tỷ lệ và phương pháp tính theo đơn vị hàng hoá XK, NK. Theo phương pháp này
thì ngoài việc phải nộp thuế theo tỷ lệ % của trị giá hàng hoá XK, NK còn phải nộp một khoản
thuế theo đơn vị của hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
1.2.2.2. Căn cứ tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
* Đối với hàng hoá áp dụng thuế suất theo tỷ lệ phần trăm (%), căn cứ tính thuế là số
lượng đơn vị từng mặt hàng thực tế XK, NK ghi trong tờ khai hải quan, giá tính thuế từng mặt
hàng và thuế suất từng mặt hàng.
- Số lượng hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu: là số lượng mặt hàng thực tế XK, NK. Số
lượng này được xác định dựa vào tờ khai hải quan của các tổ chức, cá nhân có hàng hoá XK,
NK.
- Giá tính thuế:
Đối với hàng XK là giá bán tại cửa khẩu xuất theo hợp đồng (giá FOB, giá DAF), không
bao gồm phí vận tải (F) và bảo hiểm (I)
Đối với hàng NK là giá thực tế phải trả tính đến cửa khẩu nhập đầu tiên theo hợp đồng, được
xác định bằng cách áp dụng tuần tự 06 phương pháp xác định trị giá tính thuế và dừng ngay ở
phương pháp xác định được trị giá tính thuế
06 phương pháp xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu bao gồm:

15
- Phương pháp trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu;
- Phương pháp trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu giống hệt;
- Phương pháp trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu tương tự;
- Phương pháp trị giá khấu trừ;
- Phương pháp trị giá tính toán;
- Phương pháp suy luận.
- Thuế suất của hàng hoá
Thuế suất đối với hàng hoá XK được quy định cụ thể cho từng mặt hàng tại Biểu thuế
XK.
Thuế suất đối với hàng hoá NK được quy định cụ thể cho từng mặt hàng, gồm: thuế suất ưu
đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt và thuế suất thông thường.
+ Thuế suất ưu đãi áp dụng đối với hàng hoá NK có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc
vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam. Thuế suất
ưu đãi được quy định cụ thể cho từng mặt hàng tại biểu thuế ưu đãi do Bộ Tài chính ban hành.
+ Thuế suất ưu đãi đặc biệt áp dụng đối với hàng hoá NK có xuất xứ từ nước, nhóm nước
hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt nam theo
thể chế khu vực thương mại tự do, liên minh quan thuế hoặc để tạo thuận lợi cho việc giao lưu
thương mại biên giới và trường hợp ưu đãi đặc biệt khác.
+ Thuế suất thông thường áp dụng đối với hàng hoá NK có xuất xứ từ nước, nhóm
nước hoặc vùng lãnh thổ không thực hiện đối xử tối huệ quốc và không thực hiện ưu đãi đặc
biệt về thuế NK đối với Việt nam. Thuế suất thông thường được áp dụng thống nhất bằng
150% mức thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng quy định tại biểu thuế NK ưu đãi.
* Đối với hàng hoá áp dụng mức thuế suất tuyệt đối
Căn cứ tính thuế là số lượng đơn vị từng mặt hàng thực tế XK, NK ghi trong tờ khai hải quan
và mức thuế tuyệt đối quy định trên một đơn vị hàng hóa.
Số lượng hàng hoá XK, NK làm căn cứ tính thuế là số lượng từng mặt hàng thực tế XK,
NK trong tờ khai hải quan thuộc danh mục hàng hoá áp dụng thuế suất tuyệt đối.
1.2.3. Đăng ký kê khai, nộp thuế, hoàn thuế
1.2.3.1. Đăng ký kê khai thuế

Các chứng từ kèm theo tờ khai hải quan thường bao gồm: Hợp đồng mua bán hàng hoá;
Hoá đơn thương mại (invoice); Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá (C/O); Bảng kê chi tiết hàng
hoá đối với lô hàng nhiều chủng loại (Packing list); Giấy phép xuất khẩu hoặc giấy phép NK
16
(nếu có); Tờ khai trị giá hàng NK đối với hàng hoá thuộc diện phải khai tờ khai trị giá theo quy
định của Bộ Tài chính…
Theo quy định hiện hành, người nộp thuế có những trách nhiệm sau trong việc khai thuế
XK, thuế NK:
- Tự kê khai đầy đủ, chính xác, trung thực các tiêu chí trên tờ khai, các yếu tố làm căn
cứ tính thuế hoặc miễn thuế, xét miễn thuế, xét giảm thuế, xét hoàn thuế, không thu thuế XK,
thuế NK, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng.
- Tự xác định, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc kê khai số tiền thuế phải nộp; số
tiền thuế được miễn thuế, xét miễn thuế, xét giảm thuế, xét hoàn thuế, không thu thuế XK, thuế
NK, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng theo đúng quy định của pháp luật; kê khai số tiền
thuế phải nộp trên một giấy nộp tiền cho toàn bộ số tiền thuế của tờ khai hải quan.
Để người nộp thuế hoàn thành trách nhiệm của mình theo đúng quy định của pháp luật,
cơ quan hải quan, công chức hải quan có trách nhiệm hướng dẫn thủ tục hải quan, cung cấp
thông tin tài liệu, công khai các thủ tục hải quan, thủ tục thuế. Ngoài ra cơ quan hải quan, công
chức hải quan thực hiện trách nhiệm và quyền hạn quy định tại Điều 27, Luật Hải quan [36];
Điều 8, 9, Luật Quản lý thuế [39]; Điều 57, Nghị định 154/2005/NĐ-CP [14].
Căn cứ vào thủ tục khai báo hải quan của đối tượng nộp thuế tại tờ khai hải quan, cơ quan
hải quan phải thực hiện kiểm tra hải quan trong quá trình làm thủ tục hải quan để kiểm tra tính
chính xác các nội dung tờ khai hải quan. Cụ thể: kiểm tra các chứng từ thuộc hồ sơ hải quan (số
lượng, chủng loại chứng từ, tính hợp pháp của chứng từ, kiểm tra việc tuân thủ chính sách quản
lý XK, NK, chính sách thuế và các quy định khác của pháp luật), kiểm tra nội dung khai hải
quan, đối chiếu nội dung khai hải quan với các chứng từ thuộc hồ sơ hải quan
Trong quy trình quản lý rủi ro hiện nay, hồ sơ hải quan sẽ được phân thành ba luồng:
xanh, vàng, đỏ. Mục đích của việc phân thành ba luồng là nhằm quản lý được thuận lợi, chặt chẽ,
đồng thời đảm bảo thực hiện nhanh chóng, đơn giản hoá các thủ tục hải quan, giảm bớt các thủ
tục không cần thiết, phân loại được đối tượng cần quản lý qua đó khuyến khích ý thức chấp hành

pháp luật hải quan của người nộp thuế. Việc phân luồng do hệ thống quản lý rủi ro của hải quan
thực hiện dựa trên các tiêu chí do lường mức độ rủi ro của hàng hoá XK, NK, người nộp thuế.
Trong quá trình làm thủ tục hải quan cho lô hàng XK, NK, căn cứ vào tình hình thực tế của lô
hàng và thông tin mới thu nhận được, lãnh đạo Cục Hải quan, Chi cục Hải quan quyết định thay
đổi hình thức mức độ kiểm tra do hệ thống quản lý rủi ro xác định và chịu trách nhiệm về việc
thay đổi quyết định hình thức, mức độ kiểm tra.
1.2.3.2. Thu nộp tiền thuế
17
Bên cạnh việc đẩy mạnh quá trình cải cách thủ tục hành chính: Tự kê khai, tính và nộp
thuế của đối tượng nộp thuế thì cơ quan hải quan cần tổ chức tốt khâu tổ chức thu nộp. Mối quan
hệ giữa cơ quan hải quan, Thuế, Kho bạc, các Ngân hàng phải được tăng cường để thuận lợi cho
quá trình trao đổi thông tin, đảm bảo việc thanh khoản, xác định nộp thuế đúng hạn.
Thu, nộp tiền thuế là khâu sau của quy trình thủ tục hải quan nhưng có ý nghĩa vô cùng
quan trọng, bởi lẽ việc tổ chức thu, nộp thuế đúng thời hạn, đủ số tiền, hạn chế nợ đọng thì có thể
đánh giá hiệu quả của công tác thu thuế XK, thuế NK của cơ quan hải quan.
Ngoài ra, cơ quan hải quan cần tập trung quản lý chặt chẽ các đối tượng nộp thuế để đảm
bảo đôn đốc, thu nộp thuế; tránh tình trạng nợ đọng, gian lận thuế trong hoạt động kinh doanh
xuất nhập khẩu; phát hiện các trường hợp vi phạm từ đó áp dụng các biện pháp xử lý triệt để.
1.2.3.3. Hoàn thuế
Hoàn thuế cho DN xuất nhập khẩu cũng là thể hiện trách nhiệm của cơ quan hải quan
trong việc tạo thuận lợi cho DN để tái sản xuất, kinh doanh khi họ đã thực hiện nghĩa vụ nộp
thuế nay chính đáng được hưởng quyền lợi hoàn thuế. Các trường hợp được hoàn thuế, thủ tục
hoàn thuế được quy định cụ thể tại mục 6, phần V, Thông tư 79/2009/TT-BTC ngày 20/4/2009
của Bộ Tài chính [6] nay là mục 6, phần V, Thông tư 194/2010/TT-BTC ngày 06/12/2010 của
Bộ Tài chính [9]
1.2.4. Chế độ miễn, giảm thuế
Chính sách miễn, giảm nhằm thực hiện các mục tiêu ưu đãi thuế của Nhà nước đối với
một số đối tượng và đảm bảo thực hiện đúng các thông lệ, tập quán thương mại quốc tế. Miễn
thuế là hình thức ưu đãi thuế mà Chính phủ cho phép cơ sở kinh doanh có hoạt động nằm trong
quy định miễn thuế không phải trả thuế cho hoạt động này.

Các trường hợp được miễn thuế, xét miễn thuế, thủ tục miễn thuế, thủ tục xét miễn thuế;
các trường hợp được xét giảm thuế, thủ tục xét giảm thuế; các trường hợp được hoàn thuế, thủ
tục hoàn thuế được quy định cụ thể tại mục 3,4,5 phần V Thông tư 79/2009/TT-BTC ngày
20/4/2009 của Bộ Tài chính [6] nay là mục 3,4,5 phần V, Thông tư 194/2010/TT-BTC ngày
06/12/2010 của Bộ Tài chính [9] .
1.2.5. Kiểm tra sau thông quan, thanh tra thuế
Mục đích: Kiểm tra sau thông quan, thanh tra thuế nhằm xác định mức độ chính xác,
trung thực của việc kê khai về hàng hoá, tự tính và nộp thuế, mức độ chấp hành pháp luật của
DN, làm cơ sở cho việc truy thu, truy hoàn tiền thuế, xác định mức độ ưu tiên trong quản lý của
Hải quan đối với hàng hoá XK, NK của DN và xử lý vi phạm pháp luật về thuế.
Trên cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu liên quan đến đối tượng nộp thuế, xác minh và thu
thập chứng cứ để xác định hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Căn cứ vào kết quả kiểm tra sau
thông quan, thanh tra thuế, cơ quan hải quan xử lý các hành vi vi phạm theo quy định.
18
Công tác kiểm tra sau thông quan, thanh tra thuế được quy định cụ thể tại phần VI,
Thông tư 79/2009/TT-BTC ngày 20/4/2009 của Bộ Tài chính [6] nay là phần VI, Thông tư
194/2010/TT-BTC ngày 06/12/2010 của Bộ Tài chính [9] .
1.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ TỈNH TRONG NƯỚC VỀ THU THUẾ XUẤT
KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU
1.3.1. Kinh nghiệm thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của Cục Hải quan Đồng
Nai.
Hải quan Đồng Nai là một Cục Hải quan lớn của Việt Nam, với địa bàn hoạt động rộng,
có 19 đơn vị trực thuộc, làm thủ tục cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai và tỉnh
Bình Thuận với lượng hàng hóa có giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu chiếm gần 10% tổng kim
ngạch của cả nước, số thu thuế xuất nhập khẩu luôn hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch được giao.
Trong thời gian qua, dù gặp phải không ít khó khăn nhưng tập thể cán bộ công chức Cục Hải
quan Đồng Nai đã nỗ lực đoàn kết, phát huy sức mạnh, trí tuệ tập thể để vững bước đi lên. Với
quyết tâm không ngừng đổi mới để phát triển, từ một đơn vị “sinh sau đẻ muộn” của ngành Hải
quan, Cục Hải quan Đồng Nai đã từng bước khẳng định mình và đã ghi được những dấu ấn quan
trọng trong quá trình phát triển, được xem là một trong các đơn vị tiên phong của ngành Hải

quan trong ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách thủ tục hành chính tạo thuận lợi cho hoạt
động xuất nhập khẩu.
Để hoàn thành công tác thu thuế XK, thuế NK của mình, Cục Hải quan Đồng Nai đã chủ
động, sáng tạo và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn. Trong
thời gian qua, Cục Hải quan Đồng Nai đã xây dựng thành công trang Website phục vụ cộng
đồng doanh nghiệp, đồng thời tạo điều kiện cho cán bộ công chức của Cục có nguồn tra cứu văn
bản, biểu thuế phục vụ công tác nghiệp vụ. Trang Web này luôn được cập nhật văn bản và có
hệ thống, các văn bản được lưu trữ một cách khoa học, logic, dễ tra cứu. Trên trang Web còn có
diễn đàn trao đổi vướng mắc khi thực hiện thủ tục hải quan giữa doanh nghiệp và Cục Hải quan
Đồng Nai. Nhờ đó mà Cục Hải quan Đồng Nai đã nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của các
doanh nghiệp, kịp thời tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn cho doanh nghiệp để quản lý tốt
hơn, được cộng đồng doanh nghiệp ca ngợi là điểm sáng trong cải các thủ tục hành chính. Cũng
qua trang Web này, cán bộ công chức của Cục Hải quan Đồng Nai luôn nắm vững chế độ chính
sách của Nhà nước về thuế XK, thuế NK, nhờ đó mà triển khai các nghiệp vụ một cách tự tin,
các trường hợp thu nhầm hoặc bỏ sót thuế rất ít xảy ra.
19
1.3.2. Kinh nghiệm thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của Chi cục Hải quan Nam
Định.
Chi cục Hải quan Nam Định là một đơn vị Hải quan thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về hải quan trên địa bàn tỉnh Nam Định, thực hiện công việc chiếm tới 40% khối lượng
công việc, số thu ngân sách đạt gần 20% số thu từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu trong Cục Hải
quan Thanh Hóa. Bộ máy tổ chức của Chi cục Hải quan Nam Định được chưa thành hai Đội, Đội
Tổng hợp và Đội nghiệp vụ, gồm 31 người.
Hiện nay, Chi Cục Hải quan Nam Định đang cố gắng phấn đấu thực hiện được chiến lược
của Đảng là hiện đại hoá hải quan theo tiêu chuẩn quốc tế, tăng nguồn thu cũng như hiệu quả
trong khâu kiểm soát cửa khẩu với phương châm hành động của Ngành là: “chuyên nghiệp –
minh bạch – hiệu quả”. Trong dài hạn, Chi cục đang cố gắng thực hiện theo phương hướng, tầm
nhìn, chiến lược, tuyên ngôn mà toàn ngành đã đề ra: Quản lý hải quan hướng tới tạo điều kiện
cho hoạt động XK, NK, đầu tư và dịch vụ; thực hiện hải quan điện tử, cơ quan hải quan hoạt
động có tính chuyên nghiệp, minh bạch và liêm chính; Quản lý có hiệu quả các hoạt động xuất

nhập khẩu và giao lưu quốc tế, tạo điều kiện cho thương mại và sản xuất phát triển; Bảo vệ và
góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nền kinh tế thế giới; Đảm bảo nguồn thu cho
ngân sách; Chống buôn lậu, gian lận thương mại, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng; Góp phần bảo
vệ chủ quyền kinh tế, an ninh quốc gia, an toàn xã hội; Phục vụ quản lý kinh tế xã hội. Về mục
tiêu trong ngắn hạn của Hải quan Nam Định là từng bước hiện đại hoá các thủ tục hải quan, đào
tạo một lớp đội ngũ cán bộ đầy đủ năng lực… thông qua các chương trình dự án như: thủ tục hải
quan “một cửa”, khai hải quan từ xa thông qua mạng Internet… nhằm thu hút các doanh nghiệp
mở tờ khai, cũng như xuất nhập hàng hoá qua cửa khẩu hoàn thành tốt chỉ tiêu mà nhà nước đã
đặt ra.
Để hoàn thành nhiệm vụ của mình, Chi cục Hải quan Nam định luôn chủ động, sáng
tạo trong tổ chức công việc nghiệp vụ, động viên, khích lệ, tạo niềm tin cho cán bộ công
chức trong toàn Chi cục. Đoàn viên thanh niên của Chi cục ngoài việc tạo thuận lợi đối với
các DN đang làm thủ tục tại Chi cục, còn được giao nhiệm vụ khảo sát các DN có hoạt động
xuất nhập khẩu trên địa bàn đang làm thủ tục hải quan tại các cửa khẩu, các tỉnh khác để
động viên về làm thủ tục tại Chi cục nhằm làm tăng nguồn thu nộp ngân sách trên địa bàn
quản lý. Đồng thời đoàn viên thanh niên của Chi cục còn được giao nhiệm vụ tìm kiếm giá
các mặt hàng mới trên Internet để quy đổi ra giá CIF Việt Nam nhằm bổ sung vào danh mục
hàng nhập khẩu trọng điểm cấp Cục. Ngoài ra trong các năm qua, Chi cục Hải quan Nam
Định luôn có số thuế truy thu qua tham vấn giá là rất lớn. Bằng cách này Hải quan Nam Định
đã chủ động được nguồn thu thuế và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thu thuế của mình.
20
1.3.3. Kinh nghiệm thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của Chi cục Hải quan Quản
lý các khu công nghiệp tỉnh Hà Nam
Chi cục Hải quan Quản lý các khu công nghiệp tỉnh Hà Nam là một đơn vị Hải quan trực
thuộc Cục Hải quan Thanh Hoá, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hải quan trên địa bàn
tỉnh Hà Nam. Mặc dù mới được thành lập từ năm 2007 đến nay, nhưng Chi cục đã được cộng
đồng DN có hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn tỉnh Hà Nam đồng tình ủng hộ nhất là các
DN có vốn đầu tư nước ngoài, chiếm 61% tổng số doanh nghiệp làm thủ tục tại Chi cục.
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, ngay từ đầu năm Chi cục đã đề ra các biện pháp
như: Công khai, minh bạch các chế độ chính sách về quy trình thủ tục hải quan, về thuế XK,

thuế NK, các chính sách khác có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu thông qua các phương
tiện thông tin đại chúng, cũng như niêm yết tại trụ sở Chi cục. Để các doanh nghiệp nắm được
chế độ chính sách về hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai
báo được kịp thời và chính xác, cũng như tránh được những vướng mắc có thể xảy ra trong quá
trình khai báo làm thủ tục hải quan và nộp thuế của mình. Đồng thời, Chi cục thường xuyên tăng
cường công tác cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan, hiện đại hóa thủ tục hải quan
bằng việc áp dụng khai báo thủ tục hải quan thông qua phần mềm khai báo từ xa, cũng như quản
lý các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa gia công, sản xuất xuất khẩu bằng các phần mềm quản
lý của Ngành, phần mềm số liệu xuất nhập khẩu, xử lý vi phạm …; Chi cục tăng cường công tác
kiểm tra, tự kiểm tra để tránh các sai sót trong quá trình làm thủ tục hải quan có thể xảy ra, gây
thất thu thuế cho ngân sách Nhà nước; Thường xuyên làm việc với các cơ quan có liên quan như
Ban quản lý các Khu công nghiệp, Sở Công thương, Sở Kế hoach và Đầu tư để nắm bắt các DN
mới được cấp phép cũng như đang làm thủ tục XK, NK hàng hóa ở các cửa khẩu khác về làm
thủ tục tại Chi cục …
Từ kinh nghiệm của các địa phương trong việc thu thuế XK, thuế NK có thể rút ra cho
Chi cục Hải quan Ninh Bình một số bài học sau:
Một là: Tạo mọi điều kiện thuận lợi đối với hoạt động XK, NK, nhưng không được
buông lỏng quản lý, phải đảm bảo khả năng kiểm tra, kiểm soát và chống gian lận thương mại,
trốn thuế và tăng cường công tác kiểm tra sau thông quan, thanh tra thuế. Đồng thời thành lập
Website và thông báo rộng rãi địa chỉ trang Web trên các phương tiện thông tin đại chúng, qua
diễn đàn trên trang Web cơ quan Hải quan sẽ kịp thời giải đáp các thắc mắc của các DN. Trang
Web cần được cập nhật và lưu trữ các văn bản có hệ thống, dễ tra cứu, dễ sử dụng. Đặc biệt là
trong giai đoạn hiện nay, khi biểu thuế thường xuyên thay đổi mức thuế suất, nhiều doanh nghiệp
rất khó cập nhật qua các kênh thông tin khác, dẫn đến xác định không đúng số thuế phải nộp.
21
Cục Hải quan Đồng Nai khai thác hiệu quả các tính năng ưu việt của Website vào khâu thu thuế
là một minh chứng cho cách làm hiệu quả này.
Hai là: Minh bạch hoá và công khai các chế độ chính sách về thuế XK, thuế NK cho
cộng đồng DN trên địa bàn để họ có cơ sở tính toán trước lượng thuế phải nộp, chủ động trong
việc lập phương án kinh doanh, tạo sự phối hợp tốt hơn giữa đối tượng nộp thuế và cơ quan hải

quan, giảm thiểu các xung đột, tranh chấp không đáng có, đồng thời đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin vào hoạt động quản lý của cơ quan hải quan thông qua phần mềm khai báo từ xa,
góp phần giảm thiểu tối đa thời gian thông quan cho một lô hàng xuất nhập khẩu. Hệ thống này
hạn chế sự tiếp xúc giữa cơ quan hải quan với DN, vừa giảm thiểu được tiêu cưc, vừa giảm chi
phí đi lại không cần thiết, đồng thời giảm được biên chế cũng như chi phí quản lý cho DN. Đây
là kinh nghiệm rất đáng học hỏi của Chi cục Hải quan Hà Nam. Nhờ những giải pháp này, Chi
cục Hải quan Hà Nam có thể kiểm soát chặt chẽ lưu lượng hàng hoá XK, NK, đồng thời vẫn đảm
bảo sự thông thoáng trong thông quan hàng hoá.
Ba là: Phát huy sức mạnh của các tổ chức đoàn thể trong việc thu thuế XK, thuế NK.
Kinh nghiệm tham gia của tổ chức Đoàn thanh niên ở Chi cục Hải quan Nam Định cũng là một
cách nâng cao hiệu quả công tác thu thuế, góp phần làm tăng số thuế năm sau cao hơn năm
trước. Đoàn thanh niên là tổ chức sôi nổi, nhiệt huyết, hơn nữa đây là một tập hợp những người
trẻ có kiến thức về tin học, Internet nên khi giao công việc tra cứu giá các mặt hàng trên Internet
để bổ sung vào dữ liệu giá tính thuế là rất phù hợp và bước đầu đã tỏ ra có hiệu quả, đảm bảo
chủ động hơn trong khâu xác định trị giá tính thuế, tránh thất thu thuế cho ngân sách Nhà nước
và khảo sát các doanh nghiệp trên địa bàn để động viên họ về làm thủ tục là rất hiệu quả, đảm
bảo chủ động được nguồn thu thuế.
22
Chương 2
THỰC TRẠNG THU THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH BÌNH THỜI GIAN QUA
2.1. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH NINH
BÌNH ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU
2.1.1. Những đặc điểm tự nhiên của tỉnh Ninh Bình
Tỉnh Ninh Bình nằm ở vùng cực nam đồng bằng châu thổ sông Hồng, phía Bắc giáp tỉnh
Hà Nam, phía Tây giáp 2 tỉnh Hoà Bình và Thanh Hoá, phía Đông giáp tỉnh Nam Định, phía
Nam giáp biển Đông. Ninh Bình có diện tích tự nhiên hơn 1.400 km², với bờ biển dài hơn 15 km.
Toàn tỉnh có 67.000 ha đất nông nghiệp, trong đó đất canh tác 55.000 ha; đất lâm nghiệp 12.000
ha; rừng tự nhiên 10.400 ha và trên 20.000 ha diện tích núi đá vôi trữ lượng hàng chục tỉ m³ đá
vôi; rừng núi chiếm 22% diện tích tự nhiên toàn tỉnh.

Ninh Bình có vị trí chiến lược quan trọng, là nơi tiếp nối giao luu kinh tế và văn hoá giữa
lưu vực sông Hồng với lưu vực sông Mã, giữa vùng đồng bằng Bắc bộ với rừng núi rộng Tây
Bắc của Tổ quốc. Trên địa bàn tỉnh có Quốc lộ 1A, Quốc lộ 10; 12A; 12B và đường sắt Bắc
Nam chạy qua cùng hệ thống sông ngòi dày đặc nhu: sông Đáy, sông Hoàng Long, sông Càn,
sông Vạc, Sông Vân trở thành mạng lưới giao thông thuỷ, bộ rất thuận tiện cho giao luu phát
triển kinh tế trong và ngoài tỉnh.
Địa hình Ninh Bình phân chia thành ba vùng tương đối rõ nét, vùng đồi núi ở phía Tây và
Tây Bắc; vùng đồng bằng và vùng ven biển phía Đông và phía Nam. Do phù sa bồi đắp hàng
năm, đồng bằng tiến ra biển từ 80 - 100 m, tạo nên vùng đất mới phì nhiêu, màu mỡ. Mỗi vùng
có tiềm năng và thế mạnh riêng, song ba vùng có thể bổ sung hỗ trợ nhau để phát triển nền kinh
tế hàng hoá toàn diện có cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả, nuôi trồng thuỷ, hải sản,
công nghiệp vật liệu xây dựng và công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm. Cùng với tiềm năng
về công, nông, lâm nghiệp, Ninh Bình còn có thế mạnh phát triển đa dạng các loại hình du lịch.
Ninh Bình có nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử văn hoá nổi tiếng như: Cố đô Hoa Lư
(xã Trường Yên- Hoa Lư) là kinh đô của Nhà nước phong kiến tập quyền đầu tiên ở Việt Nam,
hiện nơi đây có đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành; khu du lịch Tam Cốc- Bích
Động (xã Ninh Hải - Hoa Lư) đã được tặng chỉ: "Nam thiên đệ nhị động" hay "Vịnh Hạ long
cạn"; Vườn Quốc gia Cúc Phương (thuộc huyện Nho Quan) với diện tích rừng nguyên sinh
khoảng 22.000 ha, có nhiều động thực vật quý hiếm, có cây Chò ngàn năm tuổi, có động Người
23
xưa; khu hang động Tràng An - chùa Bái Đính, Nhà thờ đá Phát Diệm, rất hấp dẫn khách du
lịch.
Vùng đất Ninh Bình thời xa xưa phần lớn là vùng ngập mặn thuộc huyện Chu Diên, quận
Giao Chỉ. Trải qua nhiều biến thiên của lịch sử, Ninh Bình có nhiều tên gọi khác nhau như: Thế
kỉ thứ X gọi là châu Trường Yên; thể kỉ XIII gọi là phố Trường Yên; thế kỉ XVIII (thời Hậu Lê)
gọi là Thanh Hoa Ngoại Trấn; dưới triều nhà Nguyễn, thế kỉ XIX năm Gia Long thứ năm (1806),
gọi là đạo Thanh Bình; năm Minh Mệnh thứ mười (1829) gọi là trấn Ninh Bình; năm Minh
Mệnh thứ mười hai (1831) gọi là tỉnh Ninh Bình; năm 1976, tỉnh Ninh Bình hợp nhất với tỉnh
Nam Hà thành tỉnh Hà Nam Ninh; năm 1992, tỉnh Ninh Bình được tái lập. Hiện nay, tỉnh Ninh
Bình có 6 huyện là Gia Viễn, Nho Quan, Kim Sơn, Hoa Lư, Yên Khánh, Yên Mô; một thị xã là

Tam Điệp và một thành phố Ninh Bình với tổng số 144 xã, phường, thị trấn. Dân số toàn tỉnh
hơn 90 vạn người, trong đó có 15% đồng bào theo đạo Thiên chúa, 2% đồng bào dân tộc. Tỉnh
Ninh Bình có hai tôn giáo chính là Phật giáo và Thiên chúa giáo. Nhân dân Ninh Bình sống chủ
yếu bằng nghề sản xuất nông nghiệp, trồng lúa nước và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Ngoài ra còn
làm các nghề truyền thống như: thêu ren ở Hoa Lư, dệt chiếu và làm hàng cói mỹ nghệ ở Kim
Sơn, Yên Khánh [48].
2.1.2. Những đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình
2.1.2.1. Đặc điểm kinh tế
Kinh tế tỉnh Ninh Bình tiếp tục duy trì mức tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch
theo hướng tích cực. Tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2001 - 2005 đạt 11,9%/năm, gấp
gần 3 lần giai đoạn 1996 - 2000, cao hơn mức bình quân chung cả nước (7,5). Giai đoạn 2006 -
1010, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 16,5%. Tăng trưởng bình quân của giá trị sản
xuất các ngành đạt cao: nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đạt 4,3%, công nghiệp - xây dựng đạt
28,4% và dịch vụ đạt 19,1%. Cơ cấu kinh tế: công nghiệp - xây dựng: 48,9%, Dịch vụ: 35,3% và
nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 15,8%. Bình quân GDP/người năm 2005 gấp 2,1 lần năm 2000, đạt
5,6 triệu đồng, nhưng chỉ bằng 53% so với mức chung của cả nước và bằng 54,2% của vùng
đồng bằng sông Hồng. Giai đoạn 2006 - 2010, GDP/người tăng mạnh do quy mô nền kinh tế
tăng nhanh và thực hiện tốt kế hoạch hoá gia đình. Năm 2010 GDP/người đạt mức 20,9 triệu
đồng, gấp 2,5 lần so với năm 2005, bằng 92% bình quân vùng đồng bằng sông Hồng và bằng
94% bình quân chung của cả nước
Tuy nhiên, khủng hoảng tài chính, kinh tế toàn cầu và suy giảm kinh tế trong nước đã ảnh
hưởng đến tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội địa phương trong những tháng cuối năm 2008
và đầu năm 2009. Vì vậy, tăng trưởng kinh tế năm 2009 xuống thấp, chỉ đạt 15,4% (thấp nhất
24
trong giai đoạn) nhưng hiện nay đang được phục hồi, tạo tiền đề để tiếp tục tăng cao trong các
năm tiếp theo.
Bảng 2.1. GDP tỉnh Ninh Bình so với đồng bằng Sông Hồng và cả nước
Năm Ninh Bình ĐBSH Cả nước
2000 9,6 % 9,4 % 6,9%
2005 11,9 % 11,0 % 7,5%

2010 16,5 % 10,5 % 6,9%
Nguồn: UBND tỉnh Ninh Bình [48]
Thu ngân sách trên địa bàn tăng bình quân 32,9%/năm giai đoạn 2001 - 2005 ; giai đoạn
2006 - 2010 tăng bình quân 41,2%/năm, năm 2010 thu ngân sách đạt 3.100 tỷ đồng, gấp 5,6 lần
so với năm 2005 qua đó đưa Ninh Bình trở thành tỉnh có mức thu khá trong cả nước. Tuy nhiên,
thu chưa đáp ứng được nhu cầu chi (năm 2010 chi ngân sách là 5.200 tỷ đồng) [48].
Ngành công nghiệp giai đoạn 2001 - 2010 đã có bước phát triển nhanh, năm 2010 giá trị
sản xuất đạt 10,61 nghìn tỷ đồng, gấp 11,4 lần so với năm 2000 (bình quân tăng 27,6%/năm).
Trong đó giai đoạn 2006 - 2010 đã tăng mạnh hơn nhiều giai đoạn trước với tốc độ tăng bình
quân 28,4%/năm - một kỷ lục trong phát triển của tỉnh. Tỷ trọng GDP của khu vực công nghiệp
đã tăng mạnh trong cơ cấu kinh tế của tỉnh (tăng từ 15,5% năm 2000 lên 32,4% năm 2010) nhờ
mở rộng quy mô và nâng cao năng suất. Tuy nhiên, năng suất lao động ngành công nghiệp vẫn
còn thấp so với tiềm năng do trình độ, kỹ năng của người lao động và việc ứng dụng khoa học
công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu.
Tốc độ tăng bình quân giá trị sản xuất các ngành dịch vụ giai đoạn 2001 - 2010 đạt trên
15,5%, trong đó giai đoạn 2006 - 2010 tăng 19,12%. Đến năm 2010, giá trị sản xuất cố định của
các ngành dịch vụ đạt gần 3.485 tỷ đồng, gấp hơn 4,2% so với năm 2000. Thương mại phát triển
mạnh, giai đoạn 2006 - 2010, tổng mức bán lẻ hàng hoá trên địa bàn tăng bình quân 27%/năm.
Dịch vụ vận chuyển hàng hoá và hành khách tăng khoảng 10%/năm. Hạ tầng các ngành dịch vụ
được đầu tư mạnh, nhất là tại các khu du lịch trọng điểm như: khu du lịch sinh thái Tràng An,
núi chùa Bái Đính, Tam Cốc, Bích Động Năng lực, kết cấu hạ tầng các lĩnh vực tài chính,
ngân hàng, bưu chính viễn thông, kho tàng, bến bãi được tăng cường đáng kể, góp phần vào tăng
trưởng nhanh và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
Ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản đã có bước phát triển mới, hàng hoá nông
sản được thị trường trong nước và nước ngoài chấp nhận; đảm bảo yêu cầu về an ninh lương
thực, tạo nền tảng để ổn định xã hội và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp còn
phụ thuộc khá nhiều vào thời tiết; chưa tạo được chuyển biến mạnh mẽ về cơ cấu nội ngành và
khu vực nông thôn; sản xuất thuỷ sản còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, đặc biệt là vấn đề ô nhiễm môi
trường, dịch bệnh Đến nay, trong cơ cấu giá trị sản xuất thì nông nghiệp vẫn giữ vai trò chủ
25

×