Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

NHỮNG ĐIỀU CHỈNH NHẰM GIÚP RÈN KĨ NĂNG ĐỌC HIỂU VĂN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.32 KB, 39 trang )

Chuyên đề: Phát triển kĩ năng tiếp nhận ngôn bản cho học sinh tiểu học
MỤC LỤC
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
II. CƠ SỞ KHOA HỌC
1. Cơ sở lí luận của dạy đọc hiểu cho học sinh tiểu học
1.1. Ý nghĩa của dạy đọc hiểu
1.2. Đặc điểm của văn bản
1.3. Bản chất của quá trình đọc hiểu văn bản
1.4. Tác phẩm văn học với vấn đề đọc hiểu văn bản nghệ thuật
II. CƠ SỞ KHOA HỌC
1. Cơ sở lí luận của dạy đọc hiểu cho học sinh tiểu học
1.1. Ý nghĩa của dạy đọc hiểu
1.2. Đặc điểm của văn bản
1.3. Bản chất của quá trình đọc hiểu văn bản
1.4. Tác phẩm văn học với vấn đề đọc hiểu văn bản nghệ thuật
2. Cơ sở thực tiễn của việc dạy đọc hiểu cho học sinh tiểu học
2.1. Khảo sát chương trình SGK Tiếng Việt lớp 5
2.2. Những khó khăn mà giáo viên và học sinh thường gặp trong việc
dạy đọc hiểu văn miêu tả lớp 5.
III. NHỮNG ĐIỀU CHỈNH NHẰM GIÚP RÈN KĨ NĂNG ĐỌC
HIỂU VĂN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 5
1. Lưu ý để điều chỉnh trên một số bài văn miêu tả lớp 5
2. Bài học giúp luyện đọc hiểu văn miêu tả cho học sinh lớp 5
IV. CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Vũ Tiến Thành – Lớp K19 – Giáo dục Tiểu học
1
Chuyên đề: Phát triển kĩ năng tiếp nhận ngôn bản cho học sinh tiểu học
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Bậc tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân. Đây
là giai đoạn trẻ chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập. Giáo dục
tiểu học được ví như nền móng của ngôi nhà, móng có vững thì nhà mới chắc


chắn. Trẻ được giáo dục tốt từ nhỏ thì lớn lên mới có thể phát triển tốt cả về
thể chất lẫn trí tuệ. Vì vậy bậc tiểu học có vai trò rất quan trọng trong hệ thống
giáo dục quốc dân.
Chương trình ở tiểu học có rất nhiều môn học, trong đó mông Tiếng
Việt có một vị trí và vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển
ngôn ngữ của trẻ. “Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của loài
người” (Lênin). “Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng” (Mác). “Trẻ
em đi vào trong đời sống tinh thần của mọi người xung quanh nó duy nhất
thông qua phương tiện tiếng mẹ đẻ và ngược lại, thế giới bao quanh đứa trẻ
được phản ánh trong nó chỉ thông qua chính công cụ này” (K.A. Usinxki).
Tiếng mẹ đẻ đóng vai trò to lớn trong việc hình thành những phẩm chất quan
trọng nhất của con người và trong việc thực hiện những nhiệm vụ của hệ
thống giáo dục quốc dân. Nắm ngôn ngữ, lời nói là điều kiện thiết yếu của
việc hình thành tính tích cực xã hội của nhân cách. Không một phạm vi hoạt
động xã hội nào mà không đòi hỏi một sự hiểu biết sâu sắc về tiếng mẹ đẻ.
Trình độ trau dồi ngôn ngữ của một người nào đó là tấm gương phản chiếu
trình độ nuôi dưỡng tâm hồn của anh ta. Chính vì vậy, tiếng mẹ đẻ là môn học
trung tâm của trường tiểu học.
Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt
động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực ngôn ngữ được thể hiện trong bốn
dạng hoạt động, tương ứng với chúng là bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. “
Đọc là một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyện dạng thức chữ viết
sang lời nói có âm thanh và thông hiểu nó (ứng với các hình thức đọc thành
Vũ Tiến Thành – Lớp K19 – Giáo dục Tiểu học
2
Chuyên đề: Phát triển kĩ năng tiếp nhận ngôn bản cho học sinh tiểu học
tiếng), là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn vị
nghĩa không có âm thanh (ứng với đọc thầm).
Trong dạy học tập đọc ở Tiểu học, ngoài việc dạy luyện đọc thành tiếng,
chúng ta cần chú ý dạy luyện đọc hiểu cho các em học sinh. Đặc biệt là đối

với các em học sinh lớp 4,5 các em không chỉ năm được vở âm thanh của chữ
viết mà các em cần hiểu nghĩa của nó. Tuy nhiên, hiện nay, quá trình dạy học
ở trương tiểu học, các giáo viên thường quá coi trọng việc đọc thành tiếng cho
học sinh mà xem nhẹ việc luyên đọc hiểu cho các em. Có khi giáo viên hướng
dẫn học sinh tìm hiểu bài, giáo viên nêu câu hỏi, học sinh chưa trả lời được thì
giáo viên đã trả lời giúp học sinh luôn. Dạy học như vậy dẫn đến tình trạng
học sinh có thể đọc tốt một câu văn hoặc câu thơ nhưng các em lại không hiểu
nội dung, ý nghĩa của câu đó. Hơn thế nữa, tâm lí các em học sinh tiểu học
thích đọc to, đọc đồng thanh hơn là phải đọc thầm để suy nghĩ tìm hiểu nội
dung của câu đó. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài : “ Rèn
kĩ năng đọc hiểu văn miêu tả cho học sinh lớp 5”. Chúng tôi hi vọng rằng đề
tài này sẽ góp phần nâng cao quá trình đọc hiểu của các em học sinh tiểu học.
Các em sẽ hiểu được nội dung văn bản sâu sắc hơn mà không chỉ là nắm được
vỏ âm thanh của các văn bản đó.
Vũ Tiến Thành – Lớp K19 – Giáo dục Tiểu học
3
Chuyên đề: Phát triển kĩ năng tiếp nhận ngôn bản cho học sinh tiểu học
II. CƠ SỞ KHOA HỌC
1. Cơ sở lí luận của dạy đọc hiểu cho học sinh tiểu học
Bình diện ngữ nghĩa của văn bản – cơ sở khoa học để luyện đọc hiểu
cho học sinh tiểu học
1.1. Ý nghĩa của dạy đọc hiểu
Như chúng ta đã biết, đọc không chỉ là sự “đánh vần” lên thành tiếng
theo đúng các kí hiệu chữ viết mà quan trọng hơn, đọc còn là một quá trình
nhận thức để có khả năng thông hiểu những gì được đọc. Đọc thành tiếng
không thể tách rời với việc hiểu những gì được đọc.
Chỉ khi biết cách hiểu, hiểu sâu sắc, thấu đáo các văn bản được đọc thì
HS mới có công cụ hữu hiệu để lĩnh hội những tri thức, tư tưởng, tình cảm của
người khác chứa đựng trong văn bản, có công cụ để lĩnh hội tri thức khoa học
các môn học khác của nhà trường.

Chính nhờ biết cách đọc hiểu văn bản mà HS dần dần có khả năng đọc
rộng để tự học, tự bồi dưỡng kiến thức về cuộc sống, từ đó hình thành thói
quen, hứng thú với việc đọc sách, với việc tự học thường xuyên, Các tài liệu
dạy học của nước ngoài cũng nhấn mạnh sự thông hiểu trong khi đọc. “Đọc là
để hiểu nghĩa chữ in” và đề lên thành nguyên tắc phải cho trẻ hiểu những từ
trẻ đang học đọc, xem việc hiểu những gì được đọc là động cơ, cái tạo nên
hứng thú, tạo nên thành công học đọc của trẻ.
Đích cuối cùng của dạy học là dạy cho học sinh có kĩ năng làm việc với
văn bản, chiếm lĩnh được văn bản. Biết đọc cũng là biết tiếp nhận, xử lí thông
tin. Chính vì vậy dạy đọc hiểu có vai trò đặc biệt trong dạy đọc nói riêng, trong
dạy học ở tiểu học nói chung.
Trong khi đó, việc quan sát thực trạng dạy học Tập đọc trên cả hai đối
tượng giáo viên và học sinh cho thấy rằng kĩ năng đọc hiểu của cả thầy và trò
Vũ Tiến Thành – Lớp K19 – Giáo dục Tiểu học
4
Chuyên đề: Phát triển kĩ năng tiếp nhận ngôn bản cho học sinh tiểu học
tiểu học đều yếu. Ngay cả giáo viên cũng có những cách hiểu và giải thích rất
sai về các bài đọc về tiểu học.
1.2. Đặc điểm của văn bản
Để làm rõ dạy học đọc hiểu nghĩa là làm gì, chúng ta cần hiểu rõ đối
tượng mà đọc hiểu tác động: văn bản.
Văn bản là một sản phẩm của lời nói, một chỉnh thể ngôn ngữ, thường bao
gồm một tập hợp các câu và có thể có một đầu đề, nhất quán về chủ đề và trọn
vẹn về nội dung, được tổ chức theo một kết cấu chặt chẽ nhằm một mục đích
giao tiếp nhất định.
1.2.1. Văn bản có tính chỉnh thể về mặt nội dung
Như ta đã biết, văn bản có tính chỉnh thể. Tính chỉnh thể này thể hiện ở
hai phương diện
+ Về mặt nội dung, nó biểu hiện tính nhất quán về chủ đề, ở sự phát triển
mạch lạc, chặt chẽ của nội dung và bộc lộ ở tính nhất quán và rõ rệt ở mục tiêu

văn bản.
+ Về mặt hình thức, tính chỉnh thể thể hiện ở kết cấu mạch lạc và chặt
chẽ, giữa các bộ phận trong văn bản có các hình thức liên kết và toàn văn bản
có một tên gọi.
Đọc hiểu chính là tìm hiểu bình diện ngữ nghĩa của văn bản để nắm nội
dụng văn bản. Nó chỉ được thực hiện có hiệu quả khi ta hiểu rõ tính chỉnh thể
của văn bản về mặt nội dung.
Về mặt nội dung, tính chỉnh thể của văn bản thể hiện ở hai điểm:
Thứ nhất, Tính nhất quán chủ đề thể hiện ở chỗ toàn văn bản tập trung
vào một chủ đề thống nhất, chủ đề này được triển khai qua các chủ đề bộ phận
(các tiểu chủ đề) của từng phần, từng chương, từng mục, từng đoạn. Ví dụ bài:
Mùa thảo quả (TV5 – T1).
Vũ Tiến Thành – Lớp K19 – Giáo dục Tiểu học
5
Chuyên đề: Phát triển kĩ năng tiếp nhận ngôn bản cho học sinh tiểu học
Chủ đề của văn bản này là mùa thảo quả. Các bộ phận của văn bản đều tập
trung vào chủ đề và phát triển qua 3 phần:
1. Sức lan tỏa kì diệu của hương thảo quả.
2. Sức sống mãnh liệt của cây thảo quả.
3. Màu sắc chứa lửa, chứa nắng của trái thảo quả.
Tất cả những bộ phận này của văn bản cùng cộng hưởng, phát triển tạo
nên vẻ đẹp, sức hấp dẫn diệu kì làm say mê và ấm nóng cả núi rừng của mùa
thảo quả.
Để hiểu văn bản, phải làm rõ được chủ đề này. Đây là nhiệm vụ mà
trường tiểu học thường gọi là tìm đại ý hay xác định nội dung của bài.
Văn bản (bài) được dạy đọc ở tiểu học có dung lượng không lớn nên
cấp độ dưới văn bản thường chỉ là đoạn văn, khổ thơ, Để xác đinh nội dung
của bài lại phải tìm được nội dung của đoạn.
Thứ hai, tính hướng đích – mục tiêu văn bản. Văn bản là sản phẩm của
quá trình giao tiếp. Mục đích của giao tiếp cũng chính là mục đích của văn

bản. Hoạt động giao tiếp nhằm vào các mục đích: thông tin
(thông báo tin tức), tự biểu hiện, giải trí, tạo lập quan hệ và đích hành
động. Những mục tiêu này được thực hiện đồng thời trong từng văn bản
nhưng trong từng phong cách, kiểu loại văn bản, các mục tiêu không được thể
hiện đồng đều.
Những văn bản khoa học, hành chính, công vụ, báo chí (còn gọi là văn
bản nhật dụng hay văn bản thông thường) nặng về thông tin. Đó là những bài
như: Tự thuật, Danh sách học sinh, Mục lục sách, Thời khóa biểu, Nhắn tin,
thời gian biểu (lớp 2 – tập 1), thông báo thư viện, Vườn chim, Gấu trắng là
chúa tò mò, Nội quy đảo khỉ, Dự báo thời tiết, Bạn có biết (lớp 2 – tập 2), Đơn
xin vào đội (lớp 3 – tập 1), Báo cáo kết quả tháng thi đua, Noi gương chú bộ
đội, Chương trình xiếc đặc sắc, Tin thể thao (lớp 3 – tập 2), Vẽ về cuộc sống an
Vũ Tiến Thành – Lớp K19 – Giáo dục Tiểu học
6
Chuyên đề: Phát triển kĩ năng tiếp nhận ngôn bản cho học sinh tiểu học
toàn, Tiếng cười là liều thuốc bổ (lớp 4 – tập 2), Nghìn năm văn hiến, Sự sụp
đổ của chế độ A – pác – thai, Trồng rừng ngập mặn (lớp 5 – tập 1), Luật tục
của người Ê-đê, Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em (lớp 5 – tập 2). Các
văn bản nghệ thuật nặng về mục tiêu tự biểu hiện. Những câu chuyện phiếm
hay văn bản truyện cười nhằm mục đích chính là giải trí. Sách giáo khoa có
những văn bản truyện cười như ở lớp 2: Vì bây giờ mới có mẹ, Mít làm thơ,
Mua kính. Đổi giày, Đi chợ, Há miệng chờ sung. Cá sấu sợ cá mập.
Mục tiêu xác lập quan hệ được thực hiện tập trung qua những lời nói để
chào, để mời, để tuyên bố, thiết lập quan hệ trong đời thường hoặc trong lĩnh
vực ngoại giao. Mục tiêu này thường được thực hiện trong hội thoại nên cũng
được chương trình chú trọng. Trong chương trình tập đọc có thể kể ra các văn
bản như: Điện thoại, Bưu thiếp (Tiếng Việt 2) là những văn bản nhằm mục
đích chính là thực hiện việc xác lập quan hệ.
Tất cả các văn bản xét cho cùng đều hướng đến mục đích hành động vì
dù là đích thông tin hay tự biểu hiện, tạo lập quan hệ hay giải trí, thực chất vẫn

là nhằm tác động vào lí trí để thuyết phục hoặc là tác động vào tình cảm để
truyền cảm, hướng người đọc, người nghe đến một hành động nào đó.
Quá trình đọc hiểu văn bản chỉ được xem là hoàn thiện khi mục đích
của văn bản – điều mà người viết muốn gửi đến bạn đọc – đã được giải mã.
1.2.2. Các bình diện ngữ nghĩa của văn bản
Chính mục đích giao tiếp làm cho văn bản luôn chứa đựng nội dung
thông tin và nội dung này tạo ra các bình diện ngữ nghĩa của văn bản.
Trước hết, đó là nội dung miêu tả, hay còn gọi là nội dung sự vật, là
những hiểu biết, những nhận thức về thế giới xung quanh, về xã hội và về
chính bản thân con người. Nội dung này tạo thành nghĩa sự vật của văn bản.
Trong giờ Tập đọc, các câu hỏi: Từ này nghĩa là gì? Câu này nói gì? Bài này
nói về điều gì?... nhằm hướng đến xác định nội dung sự vật ở từng văn bản.
Vũ Tiến Thành – Lớp K19 – Giáo dục Tiểu học
7
Chuyên đề: Phát triển kĩ năng tiếp nhận ngôn bản cho học sinh tiểu học
Tiếp theo là nội dung thông tin về những cảm xúc, tình cảm, thái độ của
người viết đối với đối tượng, sự việc được đề cập đến, đối với người tham gia
hoạt động giao tiếp. Nội dung này tạo ra nghĩa liên cá nhân của văn bản.
Trong giờ Tập đọc có các câu hỏi: “Cảm xúc, tình cảm của tác giả như thế
nào?”, “Những câu, từ nào bộc lộ cảm xúc của tác giả?”. “Bài này được viết
với thái độ , tình cảm ra sao?” nhằm hướng đến xác định nội dung liên cá nhân
của văn bản.
Trong các loại văn bản khác nhau, tỉ lệ hai loại thông tin cũng khác
nhau. Các văn bản khoa học, hành chính, truyền thông thiên về loại thông tin
thứ nhất. Các văn bản nghệ thuật mang cả hai loại thông tin nhưng thông tin
về cảm xúc, tình cảm là đặc trưng cơ bản. Thông tin này chưa được chú trọng
khai thác đúng mức trong giờ Tập đọc ở tiểu học.
Xét cách thức biểu hiện các thông tin ngữ nghĩa thì cần phân biệt: thông
tin ngữ nghĩa tường minh (còn gọi là hiển ngôn) và thông tin ngữ nghĩa hàm
ẩn ( còn gọi là hàm ngôn).

Nghĩa tường minh là các thông tin được biểu hiện bằng các từ ngữ có
mặt trong văn bản, và bằng các cấu trúc ngữ pháp của cụm từ, của câu, của
đoạn văn, của văn bản. Các thông tin này được biểu hiện trên bề mặt của câu
chữ và người đọc tiếp nhận nó thông qua nguyên văn từ ngữ và cấu trúc ngữ
pháp.
Nghĩa hàm ẩn là các thông tin được suy ra từ thông tin tường minh và
từ hoàn cảnh giao tiếp cụ thể của văn bản. Để hiểu được thông tin hàm ẩn của
văn bản, người đọc phải tiến hành phân tích và suy ý dựa vào các yếu tố ngôn
ngữ hiện diện trong văn bản và hoàn cảnh giao tiếp để rút ra thông tin hàm ẩn.
Có thể nói đó là phương pháp đọc những gì ẩn dưới các hàng chữ.
Khả năng tiếp nhận thông tin hàm ẩn của cả GV và HS tiểu học còn
yếu.
Vũ Tiến Thành – Lớp K19 – Giáo dục Tiểu học
8
Chuyên đề: Phát triển kĩ năng tiếp nhận ngôn bản cho học sinh tiểu học
Thông tin hàm ẩn cũng có mức độ khác nhau trong các loại văn bản
khác nhau. Các văn bản khoa học và hành chính không nhằm mục đích hàm
chứa thông tin hàm ẩn. Trong khi đó văn bản nghệ thuật lại thường chứa đựng
thông tin này.
1.3. Bản chất của quá trình đọc hiểu văn bản
1.3.1. Tính khả phân của quá trình đọc hiểu
Như vậy, văn bản có tính chỉnh thể, tính hướng đích và đồng thời với
việc chỉ ra tính chỉnh thể, hướng đích của văn bản, chúng ta đã chỉ ra tính khả
phân (khả năng phân tích ra thành các yếu tố nhỏ hơn) của văn bản.
Đây là những kết luận quan trọng mà giáo viên tiểu học cần phải nắm
chắc để dạy tiếp nhận – đọc hiểu – văn bản. Việc sản sinh văn bản và tiếp
nhận văn bản là hai quả trình của một hoạt động tương tác – hoạt động giao
tiếp. Trong quá trình sản sinh văn bản, thoạt tiên người viết phải có mục đích,
động cơ giao tiếp. Họ phải lập chương trình giao tiếp và triển khai ý đồ này
một cách cặn kẽ, cho đến khi văn bản đó đạt được những mục đích đặt ra

trong một hoàn cảnh giao tiếp cụ thể với những nhân tố giao tiếp cụ thể.
Ngược lại, trong quá trình tiếp nhận, người đọc phải hướng đến lĩnh hội nội
dung và đích của văn bản. Để đạt được mục tiêu này, họ lại phải phân tích văn
bản trên những gì đã được người viết triển khai: nghĩa của từ (cả nghĩa từ điển
và nghĩa văn cảnh, cả nghĩa biểu vật và nghĩa tình thái), nghĩa miêu tả và
nghĩa tình thái của câu, nghĩa của đoạn, nghĩa của toàn bài, rồi mới đi đến mục
đích thông báo của văn bản. Chính vì vậy, đọc hiểu là một cách đọc phân tích.
Quá trình phân tích văn bản trong đọc hiểu diễn ra theo hai cách ngược
nhau. Người đọc chon cách phân tích nào tùy thuộc vào vốn sống, trình độ văn
hóa và kĩ năng đọc. Người đọc có trình độ văn hóa cao và có nhiều kinh
nghiệm sống thường chọn cách phân tích đi từ nghĩa chung (nội dung tổng
thể) của văn bản đến nghĩa của từng bộ phận trong văn bản rồi từ đó khái quát
Vũ Tiến Thành – Lớp K19 – Giáo dục Tiểu học
9
Chuyên đề: Phát triển kĩ năng tiếp nhận ngôn bản cho học sinh tiểu học
lên chủ đề, tư tưởng của văn bản. Trong khi đó, người đọc chưa có kinh
nghiệm, vốn sống chưa nhiều thường chọn cách phân tích đi từ nghĩa của bộ
phận nhỏ (từ, câu, đoạn) đến nghĩa chung của văn bản (đại ý, chủ đề, đích văn
bản)… Mặc dầu vậy, dù chọn cách phân tích nào thì để hiểu văn bản, người
đọc vẫn phải biết nghĩa của các bộ phận nhỏ trong văn bản và lấy đó làm căn
cứ để xác định chủ đề, đích của văn bản. Việc đọc hiểu của người có trình độ
cao nhanh hơn người có trình độ thấp là do họ đã vượt qua được giai đoạn đọc
từng từ, từng chữ.
Khả năng đọc và vốn sống của học sinh tiểu học còn bị hạn chế nên về
cơ bản, dạy đọc ở tiểu học nên theo cách phân tích văn bản đi từ hiểu nghĩa
của bộ phận nhỏ đến hiểu nội dung và đích của toàn văn bản. Song trong một
số bài tập đọc, nhất là ở phần cuối của lớp 4 và lớp 5, cần phối hợp dạy theo
cả hai cách phân tích nói trên nhằm làm cho học sinh bắt đầu làm quen với kĩ
năng quan sát toàn bài để đọc lướt, đọc quét, đọc đoán nghĩa. Lựa chọn văn
bản rất quan trọng trong việc thực hiện chương trình dạy đọc. Một bài đọc

không thích hợp không những có thể làm cản trở của sự hiểu của học sinh mà
còn có thể làm các em mất hứng thú đọc. Đồng thời, không chọn được văn
bản thích hợp thì chúng ta không thể hình thành được các kĩ năng đọc. Ví dụ,
những văn bản thông thường tạo điều kiện để hình thành kĩ năng đọc quét
nhằm xác định thông tin cần thiết khi đọc từ điển, thư mục sách, danh sách
học sinh, thời khóa biểu, dự báo thời tiết. Kĩ năng đọc lướt để nắm thông tin
chung được hình thành khi đọc một số văn bản khoa học ở lớp 4, 5.
Như vậy, đọc hiểu là một quá rình có tính khả phân.
1.3.2. Các hành động và kĩ năng đọc hiểu
a. Các hành động đọc hiểu
Vũ Tiến Thành – Lớp K19 – Giáo dục Tiểu học
10
Chuyên đề: Phát triển kĩ năng tiếp nhận ngôn bản cho học sinh tiểu học
Những nghiên cứu gần đây về đọc hiểu cho thấy đọc hiểu là một hoạt
động có tính quá trình rất rõ vì nó gồm nhiều hành động được trải ra theo
tuyến tính thời gian:
- Hành động đầu tiên của quá trình đọc hiểu là hành động nhận diện
ngôn ngữ của văn bản tức là nhận đủ các tín hiệu ngôn ngữ mà người viết
dùng để tạo ra văn bản.
- Hành động tiếp theo là hành động làm rõ nghĩa của các chuỗi tín hiệu
ngôn ngữ (nội dung của văn bản và ý đồ tác động của người viết đến người
đọc).
- Hành động cuối cùng là hành động hồi đáp lại ý kiến của người viết
nêu trong văn bản.
b. Các kĩ năng đọc hiểu
Dạy đọc hiểu là hình thành kĩ năng để tiến hành những hành động đọc
hiểu. Tương ứng với các hành động đọc hiểu có các kĩ năng đọc hiểu sau:
* Kĩ năng nhận diện ngôn ngữ gồm:
- Kĩ năng nhận diện từ mới và phát hiện các từ quan trọng (từ chìa
khóa) trong văn bản.

- Kĩ năng nhận ra các câu khó hiểu, các câu quan trọng.
- Kĩ năng nhận ra các đoạn ý của văn bản: kĩ năng nhận biết cấu trúc
của văn bản, nhận ra mối quan hệ giữa các bộ phận trong bài, những chỗ được
đánh dấu, nhận biết những phương tiện liên kết văn bản (phép thế, phép nối,
phép liên tưởng…) thành một thể thống nhất, nhận biết được kiểu cấu trúc của
đoạn (diễn dịch, qui nạp, tổng hợp, song song…).
- Kĩ năng nhận ra đề tài văn bản:
+ Kĩ năng quan sát tên bài, chú ý dựa vào tên bài, các hình vẽ minh họa,
sơ đồ (nếu có) để phỏng đoán về nội dung văn bản.
Vũ Tiến Thành – Lớp K19 – Giáo dục Tiểu học
11
Chuyên đề: Phát triển kĩ năng tiếp nhận ngôn bản cho học sinh tiểu học
+ Kĩ năng phán đoán nội dung bài đọc dựa vào kiến thức vốn có về chủ
điểm.
* Kĩ năng làm rõ nghĩa văn bản gồm:
- Kĩ năng làm rõ nghĩa từ: bằng ngữ cảnh, bằng trực quan, bằng đồng
nghĩa…
- Kĩ năng làm rõ nội dung thông báo của câu.
- Kĩ năng làm rõ ý của đoạn.
- Kĩ năng làm rõ ý chính của văn bản:
+ Kĩ năng đọc lướt tìm ý chung của bài, của đoạn để có thể xử lí bài đọc
như một chỉnh thể trọn vẹn trước khi đi vào chi tiết.
+ Kĩ năng khái quát hóa, tóm tắt nội dung đã đọc.
- Kĩ năng làm rõ mục đích của người viết gửi vào văn bản, kĩ năng nhận
biết những ẩn ý của tác giả.
* Kĩ năng hồi đáp văn bản gồm:
- Kĩ năng phản hồi, đánh giá tính đúng đắn, tính thuyết phục, hiệu quả
của nội dung văn bản.
- Kĩ năng phản hồi bằng hành động:
+ Liên hệ của cá nhân sau khi tiếp nhận nội dung văn bản.

+ Mô phỏng hình thức của văn bản để tạo lập văn bản mới.
- Kĩ năng phản hồi, đánh giá tính hấp dẫn, hiệu quả giao tiếp của hình
thức văn bản.
Trên đây, chúng ta đã xác định các đặc trung của văn bản – đối tượng tiếp
nhận của quá trình đọc hiểu, chỉ ra những căn cứ ngôn ngữ học để xác lập quy
rtình đọc hiểu và xác định quy trình này. Việc vận dụng quy trình trên như thế
nào vào dạy học Tập đọc phù thuộc rất nhiều vào kiểu loài văn bản và đặc
điểm của học sinh tiểu học. Sau đây chúng ta đi vào xem xét các đặc điểm của
văn bản văn chương.
Vũ Tiến Thành – Lớp K19 – Giáo dục Tiểu học
12
Chuyên đề: Phát triển kĩ năng tiếp nhận ngôn bản cho học sinh tiểu học
1.4. Tác phẩm văn học với vấn đề đọc hiểu văn bản nghệ thuật
Trong số các văn bản dùng để dạy đọc hiểu ở trường tiểu học, loại văn
bản nghệ thuật có một vị trí đặc biệt không những bởi tầm quan trọng của loại
văn bản này mà còn do tỉ lệ văn bản nghệ thuật được đưa vào chương trình rất
cao và nhiệm vụ dạy hiểu loại văn bản này phức tạp hơn.
Đọc văn bản nghệ thuật, học sinh không chỉ hiểu nội dung văn bản mà
còn phải cảm thụ được một loại hình nghệ thuật lấy ngôn ngữ làm chất liệu. Vì
vậy, đọc văn bản nghệ thuật thực hiện một nhiệm vụ kép: dạy một kĩ năng
tiếng Việt và dạy văn. Từ đây có thể suy ra dạy đọc hiểu văn bản nghệ thuật
gồm công việc làm cho học sinh nắm được nội dung của văn bản, mục tiêu
của văn bản đồng thời dạy cho học sinh cảm nhận được vẻ đẹp của ngôn từ,
hình tượng văn chương làm nên nội dung văn bản. Với nghĩa đó, dạy đọc hiểu
văn bản nghệ thuật là dạy tiếp nhận văn học hay còn gọi là dạy cảm thụ văn
học.
Để dạy đọc hiểu văn bản nghệ thuật, người giáo viên tiểu học phải hiểu
rõ đặc trưng văn chương và đặc trưng tiếp nhận văn chương. Lí thuyết tiếp
nhận văn học đã chỉ ra ba cấp độ trong tiếp nhận văn học:
- Người đọc tri giác, hiểu ngôn từ, tình tiết, cốt truyện, thể loại để có

cảm nhận hình tượng trong sự toàn vẹn của các chi tiết, các liên hệ.
- Người đọc tiếp xúc với ý đồ sáng tạo của người nghệ sĩ, thâm nhập
vào hệ thống hình tượng như là sự kết tinh sâu sắc tư tưởng và tình cảm của
tác giả.
- Người đọc đưa hình tượng vào đời sống và kinh nghiệm riêng của
mình để thể nghiệm, đồng cảm. Cuối cùng nâng cấp lí giải tác phẩm lên cấp
quan niệm và tính hệ thống, hiểu được vị trí tác phẩm trong lịch sử văn hóa, tư
tưởng, đời sống và truyền thống nghệ thuật.
Vũ Tiến Thành – Lớp K19 – Giáo dục Tiểu học
13
Chuyên đề: Phát triển kĩ năng tiếp nhận ngôn bản cho học sinh tiểu học
Ba cấp độ trên có điểm tương đồng với ba bước trong quá trình đọc hiểu
văn bản và như vậy hiểu văn bản nghệ thuật là hiểu một kiểu văn bản. Tách
việc hiểu văn bản nghệ thuật ra khỏi cái chung, khỏi hiểu văn bản là không
hợp lí. Đồng thời những đặc trưng của văn bản nghệ thuật cũng cho ta thấy
muốn hiểu nó, ngoài bước đi chung còn phải nắm bắt được các đặc điểm riêng
của loại văn bản này. Vậy văn bản nghệ thuật là gì và chúng có đặc điểm nào?
Văn bản văn học là một tổ chức nghệ thuật gồm từ, câu, đoạn tạo thành
một thế giới nghệ thuật mang tính khái quát nhằm phản ánh đời sống và biểu
hiện sự cảm nhận trước đời sống của tác giả, nhằm thức tỉnh những thái độ,
tình cảm nhất định đối với thực tại đời sống thông qua việc xây dựng nhân vật,
không gian, thời gian, qua việc sắp xếp các chi tiết để tạo thành bức tranh đời
sống sinh động nhằm biểu hiện quan niệm nghệ thuật về con người của tác
giả.
Giữa văn bản nghệ thuật và văn bản có những điểm giống nhau: cả hai
cùng có tính hoàn chỉnh trên cơ sở liên kết nội dung và hình thức; cả hai cùng
nhằm mục đích thông tin; cả hai cùng dùng ngôn ngữ làm phương tiện biểu
đạt. Nhưng trên cả ba điểm giống nhau này, giữa hai loại văn bản cũng có chỗ
khác nhau: về nội dung thông tin, thông tin trong các văn bản nói chung là
thông tin sự vật, hiển ngôn, còn trong văn bản nghệ thuật, tác giả phải tổ chức

ngôn ngữ và gửi gắm thái độ của mình để tạo ra thông tin liên cá nhân và hàm
ẩn. Về kết cấu, ở văn bản thông thường, kết cấu theo mẫu quy phạm và công
chức, còn kết cấu trong văn bản nghệ thuật vô cùng đa dạng, tùy theo loại thể
và sự sáng tạo của từng tác giả. Về ngôn ngữ, trong các văn bản khác, ngôn
ngữ thường mang tính khái niệm, tính khoa học, tính chính xác và vì thế từ
thường được dùng đơn nghĩa. Trong văn bản khoa học có nhiều thuật ngữ.
Trong văn bản truyền thông và văn bản hành chính công vụ hay dùng các cụm
Vũ Tiến Thành – Lớp K19 – Giáo dục Tiểu học
14
Chuyên đề: Phát triển kĩ năng tiếp nhận ngôn bản cho học sinh tiểu học
từ cố định. Ngôn ngữ trong văn bản nghệ thuật mang tính đa nghĩa, tính biểu
tượng, tượng trưng, gợi cảm.
Chúng ta sẽ làm rõ hơn những sự khác nhau này khi chỉ ra một số đặc
trưng của văn học.
1.4.1. Tính nhân văn của văn bản nghệ thuật
“Văn học là nhân học”. Nội dung văn bản nghệ thuật chủ yếu nói về
con người, tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của con người. Dù nhà văn có quan
tâm, có miêu tả hiện tượng nào của cuộc sống đi nữa, một cái cây, một cánh
rừng, một ngôi chùa, một ngọn núi, một dòng sông, một đêm trăng, một đàn
chim, một bầy cá… thì điều mà nhà văn tìm hiểu, điều làm họ ngạc nhiên, xúc
động và muốn nói lên để người khác cũng quan tâm, ngạc nhiên, xúc động
như mình không phải là bản thân các hiện tượng đó mà là mối liên hệ của
chúng với con người, ý nghĩa cuộc sống của con người mà những hiện tượng
đó thể hiện, cách nhìn, sự rung động của con người trước những hiện tượng cụ
thể và trước cuộc sống.
Vì vậy, đoạn văn, câu chuyện, bài thơ có nói về các con vật, về các loại
cây… thì cũng là nói về con người. Mà con người thì giàu xúc động, giàu tình
cảm và tình yêu. Cũng vì vậy, đích cuối cùng của dạy cảm thụ văn chương
không chỉ là cho thấy bài văn đã ghi chép hiện thực gì mà trước hết phải cho
thấy bài văn là kết quả của một hành động tự nhận thức, nơi bộc lộ những tình

cảm, thái độ của nhà văn trước hiện thực. Không chú ý đến đặc trưng này,
nhiều giáo viên đã dạy đọc hiểu văn chương như dạy một bài khoa học thường
thức. Họ đem đến cho học sinh cỏ cây, rừng núi, còn nhân vật con người, lòng
yêu cỏ cây, vạn vật của họ dường như chẳng bao giờ được động chạm đến. Có
cô giáo đã củng cố dặn dò sau khi học bài “Đầm sen” (TV3): “Bài Đầm sen
cho ta thấy sen là một thứ cây có nhiều ích lợi: nấu chè, ướp trà, gói cốm nên
các em phải biết sử dụng và bảo vệ nó”. Học bài Hành trình của bầy ong (TV5
Vũ Tiến Thành – Lớp K19 – Giáo dục Tiểu học
15

×