Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN MỘT SỐ GIẢI PHÁP BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LỊCH SỬ Ở THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.94 KB, 21 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Lịch sử có một vị trí, ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục thế hệ trẻ.
Từ những hiểu biết về quá khứ lịch sử, học sinh hiểu rõ truyền thống dẫn tộc,
quê hương, tự hào với truyền thống dựng nước và giữ nước của ông cha ta, từ đó
xác định nhiệm vụ hiện tại, có thái độ, trách nhiệm đúng đắn với tương lai của
đất nước. Bác Hồ đã dạy.
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích giống nòi Việt Nam”
Không những biết sử ta, giỏi sử ta, mà chúng ta còn có trách nhiệm giáo
dục thế hệ trẻ phải giỏi lịch sử, tường tận lịch sử của nhân loại.
Tuy nhiên trong hiện tại có những nhận thức chưa đầy đủ về vị trí chức
năng của bộ môn Lịch sử, trong đời sống xã hội Từ đó dẫn đến sự giảm sút chất
lượng bộ môn trên nhiều mặt. Tình trạng học sinh không biết những sự kiện lịch
sử cơ bản,, nhớ sai, nhầm lẫn kiến thức lịch sử là hiện tượng khá phổ biến ở
nhiều học sinh hiện nay. Ngay cả ở đội ngũ học sinh giỏi bộ môn Lịch sử, thì
việc nắm chắc được các vấn đề cơ bản của bộ môn vẫn còn khá nhiều hạn chế,
kỹ năng học tập, trình bày một bài tập lịch sử còn tồn tại những bất cập.
Những tồn tại hạn chế đó, theo tôi, nếu xét về yếu tố con người thì là sự
bắt nguồn từ 2 phía: Yếu tố người day (giáo viên) và người hoc (học sinh).
Từ thực tế dddos, là một giáo viên giảng dạy lịch sử đã có trên 20 năm,
tham dự nhiều chuyên đề do Phòng, Sở và Bộ Giáo dục tổ chức, chịu trách
nhiệm bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi môn lịch của trường và thường xuyên
tham dự bồi dưỡng đội tuyển của Phòng GD&ĐT Diễn Châu tham dự kỳ thi học
sinh giỏi cấp tỉnh hàng năm và đã đạt được những kết quả khả quan, từ đó tôi
mạnh dạn được trình bày một số kinh nghiệm của mình trong quá trình của hoạt
động bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi lịch sử.
Đề tài này tôi không có tham vọng trình bày nhiều, chỉ xin được đề cập
đến một số kinh nghiệm cơ bản của bản thân trong quá trình thực hiện hoạt động
bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi:
Kinh nghiệm về chọn nguồn (đối tượng học sinh) cho đội tuyển.
Kinh nghiệm về việc bồi dưỡng các kỹ năng ghi nhớ, tổng hợp, liên kết,


phân tích các sự kiện lịch sử
Kinh nghiệm về bồi dưỡng sử dụng kiến thức liên môn trong bài làm lịch
sử.
1
Kinh nghiệm về việc hướng dẫn học sinh hình thành bố cục một bài làm
lịch sử.
Những kết quả đạt được trong quá trình vận dụng các kinh nghiệm trên
vào thực tế của hoạt động bồi dưỡng, những kiến nghị đề xuất của bản thân đối
với ngành về hoạt động bồi dưỡng học sinh giỏi.
B: NỘI DUNG
I. Thực trạng của vấn đề
Trong công tác dạy học lịch sử, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn
là nhiệm vụ quan trọng, cùng với các môn học khác ở tất cả các cấp học, công
tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử là nhằm bước đầu đào tạo nguồn lực có
chất lượng cao về tri thức bộ môn. Với công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn
Lịch sử lớp 9, nó có vai trò là bước đầu tạo ra được một thế hệ trẻ tài năng, có
năng khiếu học tập, nghiên cứu bộ môn Lịch sử, góp phần thực hiện nhiệm vụ,
đường lối của Đảng trong việc “bồi dưỡng nhân tài” cho đất nước.
Là giáo viên trực tiếp giảng dạy lịch sử ở bậc THCS đã nhiều năm, đặc
biệt luôn được phân công bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử của trường, cũng
như bồi dưỡng đội tuyển của Phòng GD&ĐT Diễn Châu, tôi nhận thấy rằng:
- Trong những năm qua, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử lớp
9 có nhiều tiến bộ, hàng năm, qua qua việc tổ chức các kỳ thi học sinh giỏi từ
cấp trường, cấp huyện và cấp tỉnh, đã có nhiều học sinh được công nhận là học
sinh giỏi môn Lịch sử, những học sinh đó là cơ sở tạo nguồn cho bậc THPT
trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn. Nhiều giáo viên, thông qua hoạt
động bồi dưỡng học sinh giỏi đã tiếp tục nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, phẩm chất chính trị ở mức độ cao hơn.
Tuy nhiên, trong hoạt động bồi dưỡng, tôi nhận thấy vẫn còn những khó
khăn cần được khắc phục.

- Về phía giáo viên, trình độ năng lực, kinh nghiệm bồi dưỡng không đồng
đều, do đó kết quả của công tác bồi dưỡng cũng có sự phân hoá không đều giữa
các trường và vùng miền. Kết quả thường tập trung khá cao vào các trường, các
vùng miền mà ở đó có đội ngũ giáo viên dày dạn kinh nghiệm, năng lực tốt,
nhiệt tình cao trong hoạt động bồi dưỡng. Có hiều đơn vị trường liên tục nhiều
năm không có học sinh giỏi cấp tỉnh môn Lịch sử, từ đó nảy sinh tư tưởng thiếu
tự tin trong giáo viên và học sinh.
- Học sinh chưa thực sự yêu thích môn học bởi trong quá trình giảng dạy,
bồi dưỡng nhiều giáo viên chưa có phương pháp phù hợp để tạo nên hứng thú,
kích thích sự suy nghĩ tìm tòi của học sinh.
- Khả năng “nắm bắt, đánh giá, liên kết phân tích sự kiện lịch sử” của
học sinh chưa cao, chưa hiểu hết bản chất của một sự kiện, một vấn đề lịch sử.
2
- Phương pháp ôn tập bồi dưỡng còn có phần đơn điệu, trong thực tế hầu
hết các giáo viên trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi là thực hiện quy trình
“dạy lại, học lại” các kiến thức đã học. Khả năng kết hợp đa dạng các phương
pháp trong ôn tập bồi dưỡng chưa tốt, tính sáng tạo trong giảng dạy chưa cao.
- Kết quả học tập, thi cử còn thấp, học sinh chưa được hình thành một
cách có “hệ thống các kỹ năng đặc trưng” trong việc học tập môn Lịch sử.
- Về tài liệu “Bồi dưỡng học sinh giỏi” có khá nhiều tài liệu, tuy nhiên
các tài liệu đó đơn thuần chỉ chứa đựng nội dung “kiến thức thuần tuý”, chưa
có tài liệu đề cập đến kinh nghiệm, cách thức, phương pháp, các kỹ năng làm bài
lịch sử. Do đó công tác bồi dưỡng học sinh giỏi thường gặp khó khăn, kết quả
không đồng đều. Thực tế hiện nay cho thấy, ở những trường có giáo viên dạn
dày kinh nghiệm bồi dưỡng thì kết quả của công tác bồi dưỡng thường đạt kết
quả cao.
Từ thực trạng đó, tôi xin được mạnh dạn trình bày một số giải pháp sau
đây để các bạn đồng nghiệp và các em học sinh tham khảo, tôi nghĩ rằng nó sẽ có
ít nhiều tác dụng để mọi người tham khảo, vận dụng thêm vào công tác đào tạo,
bồi dưỡng học sinh giỏi ở đơn vị mình, góp phần đưa công tác bồi dưỡng học

sinh giỏi môn Lịch sử đạt kết quả tốt hơn.
II. Nội dung
1. Chọn nguồn
Phát hiện học sinh có năng khiếu học tập môn lịch sử là yếu tố quan trọng
bước đầu trong quá trình bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi lịch sử. Đây là 1
công việc tương đối khó đối với giáo viên trong việc hình thành đội tuyển môn
Lịch sử, bởi lẽ:
- Thực tế hiện nay, môn Lịch sử ít được học sinh, phụ huynh chú trọng để
đầu tư học tập “thành tài” vì nó không đáp ứng được tính thực dụng trong việc
hướng nghiệp với học sinh. Do đó việc hình thành đội tuyển học sinh có năng
khiếu học tập bộ môn Lịch sử khó khăn hơn các bộ môn khác như Toán, Văn,
Vật lý, Ngoại ngữ rất nhiều. Đối với bản thân tôi, việc hình thành đội tuyển
môn Lịch sử được thực hiện như sau:
- Chú ý phát hiện đối tượng ngay từ các lớp đầu cấp (Lớp 6 và lớp 7). Mặc
dù đối với lớp 6, lớp 7, lớp 8 hiện nay đã bỏ kỳ thi chọn học sinh giỏi, nhưng
trong qua trình giảng dạy, hoặc thông qua các bạn đồng nghiệp tôi đã cố gắng
phát hiện nguồn sớm và sau đó gặp gỡ, trao đổi với các em về định hướng bồi
dưỡng các em trong quá trình học tập môn Lịch sử, qua đó thầy và trò cùng sớm
hỗ trợ cho nhau trọng học tập bộ môn.
3
Yêu cầu cơ bản đối với các em trong đội tuyển học sinh giỏi môn Lịch sử
phải đạt các yêu cầu sau:
- Có tình cảm, sự yêu thích học tập môn Lịch sử.
- Cần cù chịu khó, bước đầu có thái độ học tập tích cực.
- Có trí nhớ tốt, bước đầu bộc lộ kỹ năng tổng hợp, so sánh, nhận xét nhạy
bén. Biết khái quát, kết nối các sự kiện lịch sử.
- Biết cách trình bày một bài làm lịch sử.
Sau khi phát hiện các học sinh có năng khiếu học tập môn lịch sử, giáo
viên cần có kế hoạch bồi dưỡng, định hướng học tập bộ môn cho các em qua
từng khối cấp, để làm sao đến năm học lớp 9, các em đã có khá thành thạo những

kỹ năng học tập và tham dự các kỳ thi chọn học sinh giỏi môn Lịch sử. Việc
tuyển chọn đội tuyển chính thức phải được sàng lọc thông qua các bài kiểm tra,
kết quả học tập bộ môn, Tuyệt đối không dựa vào các “cảm tính” trong việc lập
đội tuyển.
Điểm thuận lợi trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi hiện nay là:
- Tài liệu học tập của học sinh khá phong phú đa dạng như sách giáo khoa,
sách bài tập, sách tham khảo, sách dã sử
- Khả năng nắm bắt sử liệu của học sinh là khá tốt, bước đầu biết so sánh
đánh giá sự kiện lịch sử.
- Phương tiện trực quan trong giảng dạy đã được quan tâm mua sắm khá đầy đủ.
- Phòng giáo dục, Ban giám hiệu nhà trường quan tâm đến quá trình đổi mới
phương pháp, luôn tạo điều kiện để người dạy phát huy tốt khả năng của bản thân, có
nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng tốt nghiệp và đội ngũ học sinh giỏi các
cấp.
Việc “phát hiện, lựa chọn” là yếu tố quan trọng đầu tiên cho chúng ta
thực hiện bước tiếp theo, đó là công tác “bồi dưỡng”. Bởi vậy ngay từ khâu
“đầu tiên” đó, chúng ta phải luôn lưu ý đó là “chon” đúng đội tượng.
2. Bồi dưỡng kỹ năng ghi nhớ “sự kiện lịch sử”
Theo tôi, yêu cầu đầu tiên của học sinh giỏi môn Lịch sử trước hết các em
phải nắm bắt ghi nhớ được sự kiện. “Sự kiện lịch sử” có tầm quan trọng đặc
biệt, nó được xem như là “nguyên liệu” chính, là “xương sống, mạch máu”
trong kết cấu của của một bài tập lịch sử. Không nhớ được sự kiện lịch sử thì
không mô tả, đánh giá, phân tích được lịch sử, nói đúng hơn, không nhớ được sự
kiện lịch sử, học sinh không thể thực hiện các kỹ năng khác. Chính vì yêu cầu
4
này mà có rất nhiều học sinh ngại đến với môn Lịch sử. Do đó việc đầu tiên của
một giáo viên bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi môn Lịch sử là phải làm sao
truyền dạy cho học sinh có thể bằng con đường, cách thức để có thể nắm bắt
được các sự kiện lịch sử, và sau đó mới rèn luyện các yêu cầu cao hơn như tổng
hợp, khái quát, so sánh, phân tích….

Để học sinh nhớ và hệ thống được các sự kiện lịch sử, chúng ta tập cho
học sinh nhớ được sự kiện từ đơn giản đến phức tạp. Bản thân tôi thường tập
trung bồi dưỡng theo cách thức sau:
- Vào đầu năm học, dù chương trình mới được thực hiện, nhưng giáo viên
liệt kê các sự kiện lịch sử theo dòng thời gian của chương trình, sau đó hướng
dẫn học sinh tự học để “tự ghi nhớ các sự kiện”, lúc này chỉ yêu cầu là “nhớ”
một cách trực quan, ta chưa đặt ra các yêu cầu cao như buộc học sinh phải tư duy
độ khó về các sự kiện lịch sự như: Tính chất, bản chất, ý nghĩa, so sánh, khái
quát Tuy nhiên, khi cung cấp cho học sinh các sự kiện lịch sử ta cần chú ý, đó
là: Mỗi sự kiện lịch sử dù đơn giản hay phức tạp cũng phải chứa đựng 3 yếu tố
“nội hàm” cơ bản của nó là: Thời gian, không gian và chủ thể của sự kiện đó.
Với tôi, việc phải ghi nhớ được các “sự kiện” lịch sử luôn trở thành yêu
cầu đầu tiên đối với các học sinh trong đội tuyển. Khi các em trong đội tuyển
chưa ghi nhớ được sự kiện, ta chưa nên vội vã “dạy” các vấn đề khác. Tôi
thường so sánh cho học sinh thấy rằng: nếu như khi học Toán, học Hóa, học
Sinh…, muốn giải được bài tập, người học phải nắm vững lý thuyết (định nghĩa,
định lý, định luật ). Môn Anh văn phải thuộc từ mới, thì với môn Lịch sử, trước
khi thực hiện các yêu cầu cao như so sánh, phân tích, khái quát, liên kết các sự
kiện lịch sử…, người học phải “nhớ” các sự kiện. Để giúp các em “ghi nhớ sự
kiên”, tôi thường áp dụng kinh nghiệm học của môn Ngoại ngữ, đó là mỗi ngày,
mỗi tuần, các em phải thuộc một số sự kiện lịch sử nhất định. Thường các em
trong đội tuyển đã thực hiện rất tốt yêu cầu này, thậm chí có em còn tích cực
“vượt chỉ tiêu” đề ra.
Sau đây là minh hoạ của mẫu tổng hợp các sự kiện lịch sử lớp 9 để các
học sinh tự học.
Sự kiện lịch sử thế giới tiêu biểu sau chiến tranh thế giới thứ hai
Thời gian Nội dung sự kiện
5
14/8/1945 Nhật Bản tuyên bố đầu hàng Đồng minh
17/8/1945 In-đô-nê-xi-a tuyên bố độc lập

2/9/1945 Nhật Bản ký Hiệp định đầu hàng không điều kiện. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc
12/10/1945 Lào tuyên bố độc lập
17/10/1947 Mi-an-ma tuyên bố độc lập
8/4/1949 Thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV)
4/4/1949 Tổ chức quân sự Bắc đại tây dương (NATO) ra đời
1/10/1949 Thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
14/1/1950 Cộng hòa Ấn Độ thành lập
25/6/1950 Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ
12/4/1951 Thành lập “Cộng đồng than thép châu Âu”
27/5/1952 Liên minh phòng thủ châu Âu thành lập
14/5/1955 Thành lập tổ chức “Hiệp ước Vac-xa-va
5/1955 Liên minh Tây Âu thành lập
25/3/1957 Thành lập “Cộng đồng kinh tế châu Âu”
1/1/1959 Cách mạng Cu Ba thắng lợi
1960 17 nước châu Phi giành độc lập (năm châu Phi)
1/7/1967 Thành lập “Cộng đồng châu Âu”
8/8/1967 Thành lập “Hiệp hội các nước Đông nam á”

Những sự kiện lịch sử Việt Nam tiêu biểu từ 1930 đến 1991.
Thời gian Nội dung sự kiện
6/1925 Hội Việt nam cách mạng thanh niên thành lập
25/12/1925 Thành lập “Việt Nam quốc dân Đảng
7/1928 Tân Việt cách mạng Đảng thành lập
6
6/1929 Đông Dương Cộng sản Đảng thành lập
8/1929 An nam Cộng sản Đảng thành lập
9/1929 Đông Dương Cộng sản liên đoàn thành lập
3/2/1930 Đảng Cổng sản Việt nam thành lập
9/2/1930 Khởi nghĩa Yên Bái
12/9/1930 Xô viết Nghệ tĩnh

3/1935 Đại hội Đảng lần thứ nhất
27/9/1940 Khởi nghĩa Bắc Sơn
23/11/1940 Khởi nghĩa Nam Kì
13/1/1941 Binh biến Đô Lương
28/1/1941 Nguyễn Ái Quốc về nước
19/5/1941 Mặt trận Việt Minh ra đời
22/12/1944 Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ra đời
9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp
19/8/1945 Cách mạng tháng tám thành công
2/9/1945 Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thành lập
6/3/1946 Kí hiệp định sơ bộ giữa chính phủ VNDCCH và chính phủ Pháp
14/9/1946 Kí tạm ước Việt Pháp
10/1947 Chiến dịch Việt Bắc
9/1950 Chiến dịch biên Giới
2/1951 Địa hội Đảng toàn quốc lần thứ hai
7/5/1954 Chiến thắng Điện Biên Phủ
21/7/1954 Hiệp định Giơ-ne-vơ về việc lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký
kết
1959-1960 Phong trào Đồng khởi
9/1960 Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III
20/12/1960 Thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam
30/1/1968 Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968
7
18-29/12/1972 Điện Biên phủ trên không
27/1/1973 Hiệp định Pa ri được ký kết
10/3-30/4/1975 Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975
20/9/1977 Việt nam gia nhập LHQ
12/1986 Địa hội Đảng toàn quốc lần thứ IV
28/7/1995 Việt Nam gia nhập ASEAN
(Nguồn được tham khảo, trích dẫn từ SGK Lịch sử lớp 9)

Việc kiểm tra sự ghi nhớ các sự kiện lịch sử phải được tiến hành thường
xuyên, ta có thể kiểm tra vào thời gian đầu của buổi bồi dưỡng. Hình thức kiểm
tra nên đa dạng, cách thức mà tôi thường áp dụng là:
- Cung cấp thông tin về thời gian và học sinh bổ sung về địa điểm, nội
dung của sự kiện.
- Cung cấp về địa điểm và học sinh bổ sung về thời gian, nội dung
- Cung cấp về nội dung sự kiện, học sinh bổ sung về thời gian và không
gian xảy ra sự sự kiện.
- Các hành viên trong đội tuyển tự kiểm tra lẫn nhau.
Qua thực tế tôi thấy, khả năng ghi nhớ của học sinh là khá tốt, chỉ trong
khoảng thời gian ngắn từ 2 đến 4 tuần, các em đã có thể nhớ một cách khá có hệ
thống theo dòng thời gian các sự kiện lịch sử có trong chương trình. Trong quá
trình các em tự học để “ghi nhớ” các sự kiện, để tạo thêm hứng thú, giáo viên bồi
dưỡng có thể miêu tả thêm một số chi tiết ở các sự kiện đặc biệt quan trọng. Việc
mô tả của giáo viên là một cách tạo “tình huống” có vấn đề, nhằm gây hứng thú
cho học sinh có thể ghi nhớ một cách bền vững hơn các sự kiện đã được cung
cấp.
3. Bồi dưỡng kỹ năng tổng hợp sự kiện lịch sử theo chủ đề.
Việc ghi nhớ sự kiện là cần thiết, là yêu cầu cần đạt khi bồi dưỡng đội
tuyển học sinh giỏi lịch sử. Tuy nhiên đó chỉ mới là yếu tố “cần” nhưng chưa
“đủ” của một học sinh giỏi môn Lịch sử . Là học giỏi môn lịch sử, sau khi nắm
được nội dung của các sự kiện đơn lẻ là phải biết so sánh, tổng hợp, khái quát,
liên kết, kết nối các sự kiện đó theo dòng lịch sử, hoặc đánh giá khái quát các sự
kiện lịch sử đơn lẻ thành một vấn đề lịch sử theo một yêu cầu nhất định nào đó.
Đó chính là yêu cầu, là sự “khẳng đinh tố chất” của một học sinh có phải là
8
“học sinh giỏi lịch sử” hay không. Trong thực tế đây là một “điểm yếu” của các
học sinh trong đội tuyển học sinh giỏi lịch sử hiện nay. Chúng ta thường thấy
rằng, các em nắm các sự kiện lịch sử đơn lẻ rất tốt, nhiều em nhớ đến từng chi
tiết nhỏ, nhưng “điểm yếu” của các em chính là sự kết nối, khái quát, so sánh,

phân tích các sự kiện đó thành 1 chủ đề, một vấn đề, thì các em lại rất bị động.
Trong quá trình bồi dưỡng này, theo tôi, chúng ta cũng nên “rèn” từ kỹ
năng đơn giản đến phức tạp.
Trước tiên, chúng ta bồi dưỡng kỹ năng tập hợp, hệ thống các sự kiện
lịch sử theo chủ đề.
Cũng như Toán học, sự kiện lịch sử cũng được nằm trong các “tập hợp”.
Một sự kiện lịch lớn chứa đựng nhiều sự kiện lịch sử nhỏ. Khái niệm “chủ đề” ở
đây tức là các sự kiện lịch sử lớn, nó chứa đựng nhiều các sự kiện “vừa” và
“nhỏ”. Sau khi học sinh đã nắm được các sự kiên đơn lẻ, giáo viên bồi dưỡng
tiếp tục rèn luyện cho học sinh tập hợp, trình bày các sự kiện theo chủ đề.
Ví dụ:
- Chủ đề về Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917.
- Chủ đề về Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945).
- Chủ đề về các nước Tư bản sau chiến tranh thế giới thứ hai.
- Chủ đề về cuộc Cách mạng KHKT.
- Chủ đề về Cách mạng tháng Tám 1945.
- Chủ đề về kháng chiến chống Pháp 1945-1954
- Chủ đề về Cuộc kháng chiến chống Mỹ 1954-1975.
- Chủ đề về Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc 1954-1975
Khi hướng dẫn cho học sinh trình bày các sự kiện lịch sử theo chủ đề,
theo tôi giáo viên cần chú ý rèn luyện cho học sinh không nên chỉ đơn thuần
trình bày các sự kiện một cách “vô hồn”, mà trong qua trình trình bày, học sinh
cần có sự “đánh giá”, “bình luân” các sự kiện. Trong chuỗi các sự kiện lịch sử
đó, cần xác định được đâu là sự kiện “trung tâm” của chủ đề đó.
Ví dụ:
Khi trình bày sự kiện theo chủ đề cuộc Cách mạng tháng Tám 1945, học
sinh phải xác định được các sự kiện trung tâm như hội nghị BCH TW Đảng, Đại
hội Quốc dân tại Tân trào, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở thủ đô Hà Nội,
9
Huế và Sài Gòn. Phần “bình luận”, học sinh nên chú ý khi trình bày Hội nghị

BCH TW Đảng, Đại hội Quốc dân tại Tân Trào cần nêu được không khí “khẩn
trương”, không khí đó được thể hiện bằng một loạt các quyết định của Đảng và
UBGP, khi trình bày các sự kiện lịch sử về giành chính quyền ở Thủ đô Hà Nội,
Huế, Sài Gòn, học sinh phải đánh giá được sự “tác động” của nó đối với thắng
lợi toàn cục của Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945. Tuy nhiên, sự “bình luận”,
“đánh giá” phải chính xác, ngắn gọn, tránh đánh giá sai, dùng ngôn từ không phù
hợp với nội dung
Trong một chủ đề lịch sử, phải xác định được các sự kiện lịch sử “trung
tâm” của chủ đề đó, tức là các sự kiện “chính”, sự kiện có tác động, ảnh hưởng
đến các sự kiện khác.
Ví dụ:
Trình bày các sự kiện lịch sử về chủ đề Cách mạng tháng Tám 1945. Chủ
đề này có các sự kiện cần nêu:
- 9/3/1945: Nhật đảo chính Pháp
- Cao trào kháng Nhật cứu nước.
- 14/8/1945: Nhất đầu hàng đồng minh.
- 14 -15/8/1945: Hội nghi BCH TW tại Tân Trào, Ban bố lệnh Tổng khởi
nghĩa.
- 16-17/8/1945: Hội nghị Quốc dân: Thông qua lệnh tổng khởi nghĩa
- 19/8/1945: giành chính quyền ở thủ đô Hà Nội.
- 23/8/1945: Giành chính quyền ở Huế.
- 25/8/1945: Giành chính quyền ở Sài Gòn.
- 28/8/1945: các địa phương cuối cùng giành chính quyền
- 2/9/1945: Bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập.
Trong chủ đề này, ta giúp học sinh xác định các sự kiện “trung tâm” như:
- Lệnh tổng khởi nghĩa. (Ban bố đúng thời cơ, hiệu lực trên toàn quốc)
- Giành chính quyền ở thủ đô Hà Nội, Huế và Sài Gòn. (Đập tan cơ quan
đầu não của chính quyền địch, tay sai thân Nhật và chính quyền PK, tạo điều
kiện cho các địa phương khác giành chính quyền)
10

- Tuyên ngôn độc lập. (Khẳng định tính pháp lý, đánh dấu thắng lợi của
cuộc Tổng khởi nghĩa)
Hoặc chủ đề về: Cuộc kháng chiến chống Pháp 1945-1954, chủ đề này có
các sự kiện:
- Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
- Cuộc chiến đấu ở các đô thị.
- Chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947.
- Chiến dịch Biên giới thu đông 1950.
- Đại hội Đảng lần thứ hai.
- Các chiến dịch Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung.
- Chiến dịch Hòa Bình.
- Chiến dịch Tây bắc.
- Chiến cuộc đông xuân 1953-1954.
- Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Trong các sự kiên đó, ta lư ý học sinh các sự kiện:
- Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: Kết thúc thời kỳ hòa hoãn
- Cuộc chiến đấu ở các đô thi: Bước đầu làm phá sản kế hoạch đánh
nhanh-thắng nhanh của Pháp
- Chiến dịch Việt Bắc: Làm phá sản hoàn toàn kế hoạch đánh nhanh-thắng
nhanh
- Chiến dịch Biên giới thu đông 1947: ta chuyển từ thế bị động sang thế
chủ động.
- Chiến dịch Điện Biên Phủ: Đạp tan kế hoạch Na va, đập tan cố gắng cuối
cùng của thực dân Pháp.
- Hiệp định Giơ ne vơ: Kết thúc chiến tranh.
Để học sinh nắm vững được các sự kiện lịch sử theo chủ đề, giáo viên
trong quá trình bồi dưỡng có thể thực hiện bằng nhiều cách:
- Cung cấp nhiều sự kiện lịch sử, sau đó cho học sinh sắp xếp các sự kiện
theo chủ đề riêng.
11

- Cung cấp các sự kiện trong một chủ đề, sau đó xác đinh sự kiện “trung
tâm”. Khi xác định sự kiện “trung tâm”, giáo viên hướng dẫn cho học sinh giải
quyết thấu đáo câu hỏi “Tại sao” sự kiện đó lại là sự kiện “chính” trong các sự
kiện.
Bằng cách đó, ta đã giúp cho các thành viên trong đội tuyển đạt được yêu
cầu đầu tiên đó là vừa nắm bắt được sự kiện đơn lẻ và tổng hợp các sự kiện theo
chủ đề, đồng thời xác định được sự kiện cơ bản, sự kiện “trung tâm” của “chủ đề
lịch sử đó” trong chủ đề đó.
4. Rèn luyện kỹ năng liên kết , xác định các sự kiện lịch sử.
Song song với việc rèn luyện kỹ năng tổng hợp các sự kiện lịch sử theo
chủ đề, chúng ta sẽ có yêu cầu cao hơn đối với học sinh, đó là yêu cầu học sinh
liên kết các sự kiện lịch sử theo chủ đề. Kỹ năng “liên kết các sự kiện” trong một
bài tập lịch sử sẽ tạo nên sự gắn kết về mạch bài một cách khăng khít, làm cho
phần trình bày của học sinh có sự chặt chẽ.
Để tạo nên tính liên kết giữa các sự kiện trong một bài tập lịch sự, kinh
nghiệm của bản thân tôi trong quá trình bồi dưỡng đó là:
Trong một chủ đề, một vấn đề lịch sử, học sinh cần xác định được các sự
kiện cần đưa vào trong bài tài làm của mình, và dựa vào mạch sự sự kiện đó, các
em sẽ gắn kết các sự kiện đó trong quá trình làm bài. Đây là một kỹ năng mà
trong quá trình bồi dưỡng, tôi nhận thấy đem lại khá “hiệu quả” về kết quả khi
thực hiện bài tập, là một kỹ năng mà khi thực hiện đạt được “nhất tiễn-lưỡng
tiện”. Khi thực hiện kỹ năng này, học sinh tránh được hiện tượng “quên” do
phải tập trung suy nghĩ trong quá trình làm bài, vừa tạo nên được tư duy gắn kết
khá nhuần nhuyễn trong quá trình trình bày.
Ví dụ:
Khi trình bày chủ đề: Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt nam học sinh xác
định các sự kiện, nội dung chính cần trình bày:
- 6/1929: Đông Dương Cộng sản Đảng thành lập.
- 8/1929: An nam Cộng sản Đảng ra đời
- 9/1929: Đong Dương Cộng sản Đảng thành lập

- 3/2/1930: Thành lập Đảng Cộng sản Việt nam.
12
Bốn sự kiện trên nhằm giúp học sinh trình bày về sự ra đời của 3 tổ chức
Cộng sản ở Việt nam cuối năm 1929 và Hội nghị thống nhất 3 tổ chức Cộng sản
thành Đảng Cộng sản việt nam 3/2/1930.
Trong liên kết, kết nối các sự kiện lịch sử, chúng ta phải biết lưu ý trong
các sự kiện đó, sự kiện nào là sự kiện chính, đối với các sự kiện chính, sự kiện
trung tâm, cần đưa thêm những nội dung nào để làm rõ chủ đề lịch sử.
Chẳng hạn ở chủ đề trên, rõ ràng sự kiện 3/2/1930 là sự kiện chính. Trong
sự kiện đó, học sinh phải dành thời lượng lớn thời gian để trình bày các nội
dung:
- Sự tán thành, thống nhất của các đại biểu.
- Các văn kiện được thông qua.
- Đường lối cách mạng, ý nghĩa sự ra đời của Đảng.
Các sự kiện về sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng, An nam Công
sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn là những sự kiện “phụ”, ta chỉ đưa
vào để lý giải cho sự dẫn đến sự kiện chính: Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản
Việt nam ngày 3/2/1930.
Với việc rèn luyện kỹ năng này, ta tạo ra được sự định hứng thú cho học
sinh, giúp học sinh ghi nhớ kiến thức, định hướng cho học sinh kiến thức cơ bản
của các chủ đề lịch sử , đặc biệt rèn luyện cho học sinh chủ động trình bày các
vấn đề lịch sử, rèn luyện kỹ năng “viết” cho học sinh. Trong việc rèn luyện kỹ
năng kết nối các sự kiện lịch sử, ta lưu ý học sinh cần chú ý tính “liên hệ” giữa
các sự kiện với nhau, chú ý đưa thêm một số sự kiện “trung gian” khác để vấn
đề trình bày thêm chặt chẽ, gắn kết.
Tuy nhiên các minh họa trên cho ta thấy, đó chỉ là các liên kết trong
không gian và thời gian hẹp. Trong thực tế, có những sự kiện lịch sử có mối liên
hệ với nhau trong một không gian và thời gian rộng. Đây là một liên kết các sự
kiện mà theo tôi là “khó” đối với học sinh, cái khó ở đây là học sinh phải “nhận
diện” được các sự kiện có cùng bản chất.

Ví dụ:
Hãy nêu các chiến thắng lớn về mặt quân sự trong cuộc kháng chiến
chống Pháp 1945-1954? trong các chiến thắng đó, những chiến thắng nào đã
đánh dấu các giai đoạn phát triển của cuộc kháng chiến?
Hoặc:
13
Ba mươi năm tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ tổ Quốc (1945-1975),
dân tộc ta đã lập nên những chiến công hiển hách. Hãy nêu và phân tích hai
chiến thắng có đánh dấu thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ trong giai đoạn đó.
Đây là một yêu cầu thường gặp trong các đề thi chọn học sinh giỏi. Ở vấn
đề thứ nhất, yêu cầu là đề cập đến các chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947, chiến
thắng Biên giới thu đông 1950 và chiến thắng Điện Biên Phủ 1954. Ở vấn đề thứ
hai đó là chiến thắng Điện Biên Phủ và Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa
xuân 1975. Điểm “dễ” của nó là các sự kiện đó học sinh dễ dàng nắm bắt được
nội dung của các sự kiện trên. Nhưng điểm “khó” là ở chỗ học sinh phải “nhận
diện” được các sự kiện đó để đưa vào nội dung trình bày. Đây là một kỹ năng
mà qua nhiều năm trực tiếp bồi dưỡng, tôi thấy rằng chúng ta phải hết sức chú ý,
bởi lẽ như tôi đã trình bày ở trên, đây là một điểm “yếu” của các học sinh giỏi
môn Lịch sử của chúng ta hiện nay, và để khắc phục được điểm “yếu” đó, trong
quá trình bồi dưỡng đội tuyển, chúng ta phải thường xuyên “tập dượt” cho học
sinh “nhận diện” các sự kiện lịch sử dưới nhiều “góc độ” khác nhau, để từ đó
giúp học sinh tránh được sự “bị động”, tăng thêm tính “chủ đông” trong việc
liên kết, đánh giá các sự kiện lịch sử. Thường để “nhận diên” được các sự kiện
“chìm” như đã nêu ở trên, chúng ta thấy học sinh cần xác định chính xác ý nghĩa
của các sự kiện, từ ý nghĩa, dấn đến xác định đúng sự kiện cẩn trình bày.
5. Rèn luyện kỹ năng so sánh các sự kiện lịch sử
So sánh sự kiện lịch sử, rút ra điểm giống nhau, khác nhau, điểm mạnh,
điểm yếu là một kỹ năng không thể thiếu trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn
Lịch sử. Nội dung so sánh có thể là các phong trào cách mạng, các chiến dịch

quân sự, các cuộc cách mạng
Để học sinh nắm được kỹ năng này, trong quá trình bồi dưỡng, giáo viên
nên "định dạng" các hình thức so sánh thường ặp như:
- So sánh các cuộc cách mạng: Nội dung so thường là: Lực lượng cách
mạng, đối tượng của cách mạng, tính chất cách mạng, mục tiêu của cách mạng,
phương pháp tiến hành cách mạng, kết quả, ý nghĩa của cách mạng
- So sánh về phong trào cách mạng: Hoàn cảnh lịch sử, mục tiêu của
phong trào, quy mô của phong trào,diễn biến, lực lượng tham gia, kết quả và ý
nghĩa.
14
- So sánh về các chiến dịch quân sự: Thời điểm lịch sử diễn ra chiến dịch,
quy mô của chiến dịch, hình thức tác chiến (nghệ thuật quân sự), kết quả, ý nghĩa
lích sử.
So sánh về điều kiện lịch sử của các quốc gia trong một thời điểm lịch sử
cụ thể nào đó về các nội dung: kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, giáo dục
Ví dụ 1: So sánh phong trào cách mạng 1930-1931 và phong trào cách
mạng 1936-1939 về hình thức, mục tiêu, lực lượng tham gia và kết quả, ý nghĩa.
Ví dụ 2: Hãy so sánh sự giống và khác nhau về chiến dịch Điện Biên Phủ
và chiến dịch Hồ Chí minh về hoàn cảnh lịch sử, quy mô chiến dịch, địa bàn tác
chiến, hình thức tác chiến, kết quả và ý nghĩa lịch sử
Ví dụ 3: So sánh những điều kiện lịch sử của Liên Xô và Mỹ khi bước ra
khỏi cuộc chiến tranh thế giới thứ hai.
Trong việc so sánh các sự kiện, trong từng bộ đề cụ thể, có thể nội dung
cần so sánh được xác định ngay trong yêu cầu của đề, nhưng cũng có thể nội
dung so sánh không được xác định cụ thể. Ở dạng đề này, trong quá trình bồi
dưỡng, chúng ta cũng cần hướng dẫn cho học sinh cách giải quyết, đó là, học
sinh phải “tự xác định” các nội dung trọng yếu để so sánh.
6. Rèn luyện kỹ năng phân tích
Phân tích là một kỹ năng được xem là "khó" nhất trong các kỹ năng khi
tiến hành thực hiện một bài làm lịch sử. Với cấp độ yêu cầu đối với học sinh

THC, kỹ năng này thường chưa đặt ra yêu cầu cao, song lại phải vận dụng
thường xuyên trong quá trình học và làm bài. Với các học sinh giỏi, theo tôi rất
cần thiết tập dượt cho các em kỹ năng này. Tuy nhiên để rèn luyện kỹ năng phân
tích một nội dung, một sự kiện lịch sử đòi hỏi sự "tư duy" cao độ, bởi vậy qua
quá trình bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi chúng ta nên chú ý không ngừng tập
dượt, rèn luyện cho các em kỹ năng này một cách nhuần nhuyễn.s
Với kinh nghiệm của bản thân, trong bộ môn lịch sử, kỹ năng phân tích
thường là phân tích các nguyên nhân thành công hay thất bại, ý nghĩa lịch sử, bài
học kinh nghiệm của một sự kiện lịch sử nào đó, như phân tích nguyên nhân
thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của cách mạng tháng Tám 1945, nguyên nhân thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước….
Rèn luyện kỹ năng phân tích, tức là rèn luyện cho các em biết "mổ xẻ"
vấn đề, truy xét đến tận cùng căn nguyên của vấn đề. Để làm được điều đó, theo
kinh nghiệm của bản thân mình, tôi thường truyền lại "bí quyết" của mình đó
là, khi phân tích một vấn đề nào đó, chúng ta hãy biết đặt ra các câu hỏi "tại
sao", "vì sao".
Ví dụ: Khi rèn luyện cho học sinh phân tích nguyên nhân thành công của
cách mạng tháng Tám 1945 về vai trò lãnh đạo của Đảng, ta phải biết dặt ra câu
hỏi: "tại sao" yếu tố Đảng lãnh đạo lại là nguyên nhân "quyết định" đến thắng
lợi của cách mạng tháng Tám. Để trả lời được yêu cầu này, học sinh phải phải trả
lời được các ý:
- Vì Đảng ta đã tìm ra con đường cách mạng đúng đắn.
15
- Vì Đảng ta đã tìm ra phương pháp đấu tranh thích hợp, đầy sự sáng tạo,
phù hợp với thực tiễn của nước ta.
- Vì Đảng ta đã biết dày công chuẩn bị lực lượng cách mạng, chớp đúng
thời cơ để phát lệnh tổng khởi nghĩa
Một bài tập phân tích "sâu" tức là trả lời đầy đủ, chuẩn xác yêu cầu cần
phân tích.
Cũng liên quan đến kỹ năng phân tích, mặc dù ở cấp THCS, trong kết cấu

đề thi, kỹ năng này tuy chưa đặt ra nhiều, song trong quá trình thực hiện giải
quyết một yêu cầu nội dung nào đó, nếu học sinh biết phân tích được vấn đề thì
bài làm đó vẫn được đánh giá cao hơn, bởi biết "phân tích" là thể hiện cao khả
năng tư duy lịch sử. Do đó không nhất thiết trong đề bài có yêu cầu đặt ra việc
phân tích thì mới phân tích, mà khi giải quyết các vấn đề cụ thể, học sinh vẫn
tiến hành "phân tích" một số nội dung trọng yếu của vấn đề thì vẫn tốt hơn.
7. Bồi dưỡng vận dung dụng kiến thức liên môn
Thực tế hiện nay chúng ta thấy, trong các bài tập lịch sử của học sinh, nội
dung trình bày của học sinh thường khô khan, học sinh không vận dụng được các
kiến thức liên môn để tích hợp vào bài làm. Trong quá trình bồi dưỡng đội tuyển
học sinh giỏi, để nâng cao kết quả, thì một trong những yếu tố giúp tạo nên được
sự thành công đó chính là trong quá trình bồi dưỡng đội tuyển chúng ta cố gắng
rèn cặp học sinh vận dụng được kiến thức liên môn vào trong bài làm của học
sinh, đặc biệt là kiến thức "văn học". "Văn sử bất phân" theo tôi là quan niệm
đúng, là cần thiết khi dạy và học lịch sử. Một bài làm lịch sử khi có sự vận dụng
kiến thức văn học sẽ làm cho bài làm thêm sinh động, có sức cuốn hút, làm cho
các luận điểm, luận cứ mà ta đưa ra thêm "tường minh".
Ví dụ:
Minh họa cho ý nghĩa thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945, ta sử
dụng hai câu thơ sau"
"Việt Nam, ta lại gọi tên mình
Hạnh phúc nào hơn được tái sinh.
Khi trình bày về những khó khăn của nước ta sau ngày cách mạng tháng
Tám thành công, nhất là trước sự tràn vào của 20 vạn quân Tưởng ở miền Bắc, ta
có thể hướng dẫn cho học sinh minh họa bằng khổ thơ sau:
“Chúng nó đến lũ ô binh thổ phỉ
Kéo vào ăn miền Bắc xác xơ
Nguy vận nước mong manh đầu chỉ
Sức toàn dân quyết giữ cơ đồ”
(Tố Hữu)

16
Hoặc khi nêu những thành công của miền Bắc sau kế hoạch năm năm lần
thứ nhất (1961-1965), những đổi thay lớn lao của miền Bắc có thể được minh
họa:
“Năm năm mới bấy nhiêu ngày,
Mà trông trời đất đổi thay đã nhiều
Dân có ruộng dập dìu hợp tác
Lúa mượt đồng ấm áp làng quê”
(Tố Hữu)
Tuy nhiên có một khó khăn nay mà tôi nhận ra rằng, các tác phẩm trong
chương trình Ngữ văn ít có tác phẩm nào còn mang tính "thời sự" có thể dùng để
minh họa lịch sử được, do đó để các em trong đội tuyển môn lịch sử có một "vốn
liếng" nhất định về kiến thức văn học để phục vụ trong quá trình làm bài, người
dạy nên chú ý trang bị cho các em. Trong các tác phẩm văn học phù hợp với việc
minh họa cho lịch sử, tôi nhận thấy rằng các tác phẩm thơ ca của Tố Hữu rất phù
hợp để trích dẫn minh hoạ, Thơ ca của Ông đã bám sát chặng đường phát triển
của đất nước, mỗi bước đi của dân tộc, Tố Hữu đều có các tác phẩm sâu sắc, ấn
tượng, nếu chúng ta biết tận dụng khai thác thì bài làm của học sinh sẽ hết sức
sinh động .
Ngoài kiến thức Văn học, kiến thức của các môn như Địa lý, Công dân và
các môn học khác, chúng ta cũng đều có thể triệt để khai thác đưa vào sử dụng,
phục vụ cho việc học tập môn Lịch sử.
8. Rèn luyện kỹ năng bố cục, trình bày bài làm lịch sử
Một trong những non yếu của học sinh hiện nay, kể cả đội tuyển học sinh
giỏi các cấp của môn lịch sử đó là cách trình bày bố cục một bài làm lịch sử.
Thường học sinh làm bài không tuân thủ một bố cục chặt chẽ, khoa học mà trình
bày bài làm một cách rời rạc, thiếu tính lô gích. Đối với bản thân tôi, trong quá
trình bồi dưỡng đội tuyển, bên cạnh việc bồi dưỡng kiến thức, bồi dưỡng các kỹ
năng khai thác các kiến thức, còn phải chú trọng bồi dưỡng cách bố cục trình bày
bột bài làm lịch sử.

Trong việc tiến hành thực hiện một bài làm lịch sử, tôi thường chú ý
chuyển tải đến các em một số yêu cầu sau:
- Ngôn ngữ một bài làm lịch sử: Điểm giống nhau trong sử dụng ngôn ngữ
của một bài làm lịch sử với một bài văn là ngôn ngữ phải khúc chiết, sinh động,
giàu hình ảnh, tuy nhiên chúng ta cũng cần chỉ cho học sinh thấy rằng ngôn từ
của bài làm lịch sử khác với bài văn ở chỗ: Không dùng từ đa nghĩa, ngôn ngữ
phải thể hiện sự chính xác, khoa học ở mức độ cao
Kết cấu một bài làm lịch sử có 3 phần chính
17
- Phần mở bài: Nêu các luận điểm cần giải quyết.
- Phần thân bài: Giải quyết các luận điểm, khi trình bày các luận điểm, trình
bày các luận cứ. Khi trình bày các luận cứ trình bày các luận chứng. Khi kết thúc
việc trình bày một luận điểm, giáo viên hướng dẫn cho học cách chuyển tiếp
trong việc chuyển từ luận điểm này sang luận điểm khác. Các ý chuyển tiếp sẽ
giúp cho bài làm lịch sử trở nên lô gich, chặt chẽ, gắn kết, tạo nên một mạch bài
gắn kết từ đầu đến cuối. Đây là một kỹ năng mà các học sinh giỏi môn lịch sử rất
cần phải thành thạo, bởi lẽ qua nhiều lần tham gia chấm bài, tôi thấy rằng dù là
học sinh giỏi, nhưng các em thường trình bày các luận điểm, luận cứ, luận chứng
rất rời rạc. Về phía giáo viên, trong quá trình bồi dưỡng thường chú trọng bồi
dưỡng đơn thuần về kiến thức mà ít chú trọng rèn giũa, bồi dưỡng kỹ năng trình
bày văn bản cho một bài làm lịch sử, chính vì thế mà kết quả tổng thể của bài
làm làm của các em thường đạt điểm không cao.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân mà tôi thường vận dụng
trong quá trình bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi ở cấp trường và cấp huyện. Nó
chưa phải là toàn bộ kinh nghiệm mà bản thân vận dụng, nhưng đó là những nội
dung chính. Đó là những kinh nghiệm thực tiễn được rút ra trong qua trình hoạt
động của mình, được chắt lọc qua nhiều năm và cho đến nay vẫn được bản thân
không ngừng bổ sung, hoàn thiện. Những kinh nghiệm đó, đã ít nhiều đem lại
cho bản thân kết quả sau.
III. Kết quả đạt được

Với những kinh nghiệm trên, trong quá trình bồi dưỡng đội tuyển học sinh
giỏi môn lịch sử lớp 9 từ năm 2001 đến nay, trải qua ở 2 đơn vị tôi đã công tác
và kết quả bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi môn lịch sử của Phòng GD, đã đạt
được kết quả như sau.
Tại trường THCS Diễn Đoài: Từ năm học 2001-2002 đến năm học 2006-
2007. Trong năm học đó tôi đã bồi dưỡng cho trường 21 em đạt danh hiệu học
sinh giỏi huyện môn lịch sử và 8 em đạt danh hiệu học sinh giỏi tỉnh. Trong đó
có 2 giải nhất. 2 giải nhì, 1 giải ba và 4 giải khuyến khích. Đây là 1 kết quả theo
tôi có sự thành công lớn mà kết quả đạt được có sự đóng góp lớn bởi những kinh
nghiệm mà bản thân đã áp dụng, vì trước đó, từ năm 1994 đến năm 2001, trường
chỉ có 1 học sinh giỏi huyện lớp 9 và không có học sinh giỏi tỉnh môn lịch sử.
Năm 2008, tôi chuyển công tác về trường THCS diễn Hồng. Trong năm
học 2008-2009, tham gia bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi lớp 9 môn lịch sử đạt
kết quả như sau:
Học sinh giỏi huyện: 4 em. Học sinh giỏi tỉnh có 1 em (Đạt giải 3).
Năm học 2009-2010, bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi môn lịch sử 9 đạt
kết quả như sau: có 6 học sinh giỏi huyện và 2 học sinh giỏi tỉnh (1 giải ba và 1
giải khuyến khích).
18
Trong thời gian trên, tham gia bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi tỉnh. Đội
tuyển dự thi của huyện Diễn châu luôn xếp vị trí dẫn đầu. Cụ thể: Năm học
2008-2009, có 12/13 thí sinh đạt giải. Năm học 2009-2010 có 10/10 thí sinh đạt
giải.
Trong quá trình bồi dưỡng, bản thân tôi luôn được học sinh tín nhiệm, tin
tưởng, các em khi tham gia bồi dưỡng rất hứng thú, quan hệ thầy –trò có sự phối
hợp rất tốt.
Bảng tổng hợp kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi từ 2001-2010.
Năm học Học sinh giỏi huyện Học sinh giỏi tỉnh Ghi chú
HS dự
thi

HS đạt
giải
HS dự
thi
HS đạt
giải
2001-2002 2 2 0 0
2002-2003 4 3 1 1
2003-2004 4 4 2 2
2004-2005 5 4 2 2
2005-2006 5 5 3 3
2006-2007 4 3 1 0
2007-2008 Không tham gia bồi dưỡng
2008-2009 5 4 1 1
2009-2010 8 6 2 2
Tổng 37 32 12 11
IV. Kinh nghiệm khi áp dụng đề tài
Qua quá trình thực hiện phương pháp ôn tập, bồi dưỡng học sinh giỏi môn
Lịch sử, căn cứ vào khả năng học tập và kết quả đạt được trong việc thực hiện
phương pháp tôi đã rút ra được những kinh nghiệm sau:
- Trong bồi dưỡng, cách thức ôn tập được tiến hành một cách phong phú
đa dạng trong phần học. Kiến thức phù hợp với trình độ học sinh, chú ý nâng cao
để phù hợp với học sinh giỏi.
19
- Ôn tập bồi dưỡng không đánh đố học sinh mà chủ yếu khơi dậy sự suy
nghĩ của học sinh một cách thông minh sáng tạo chủ động kết hợp học với hành.
Bồi dưỡng nội dung từ đơn giản đến phức tạp. Từ cụ thể đến trừu tượng, khái
quát hóa. Phải nắm chắc “sở trường, sở đoản” của từng thành viên trong đội
tuyển để từ đó thực hiện công tác bồi dưỡng sát với từng học sinh hơn.
- Bài tập thực hành cần kết hợp nhiều dạng khác nhau, từ câu hỏi trắc

nghiệm đến bài tập nhận thức, rèn luyện kỹ năng phải được trẽn luyện một cách
đồng bộ
- Ôn tập trên cơ sở hệ thống kiến thức theo một trình tự lô gich, tăng c-
ường thực hành tại chỗ.
- Nắm vững kiến thức sử địa phương, sự kiện lịch sử nổi bật trong năm,
ôn tập theo chủ đề để học sinh hứng thú học tập, nhớ nhanh, nhớ lâu.
- Có chế độ ưu tiên khuyến khích trong quá trình ôn tập, tạo nên sự thi đua
lành mạnh trong học sinh.
- Xây dựng "Ngân hàng đề" luôn tạo nên sự bất ngờ hứng thú, ham tìm
hiểu trong mỗi câu hỏi, mỗi giờ kiểm tra thực hành.
- Sử dụng đa dạng phương pháp trong một buổi ôn tập tạo nên sự thoải
mái trong học tập của học sinh.
Những kinh nghiệm mà bản thân rút ra trong quá trình thực hiện hoạt động
bồi dưỡng học sinh giỏi, theo tôi không chỉ đơn thuần áp dụng trong hoạt động
bồi dưỡng học sinh giỏi. Trong thực tế, tôi đã vận dụng một số kinh nghiêm này
trong hoạt động dạy học đại trà, đồng thời kinh nghiệm cũng đã được trao đổi
với một số các bạn đồng nghiệp khác và cũng đã mang lại kết quả đáng khích lệ.
C: KẾT LUẬN
Phương pháp ôn tập bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử lớp 9 là nhằm
cung cấp cho các em những kiến thức lịch sử một cách có hệ thống, đặc biệt là
bồi dưỡng, rèn luyện cho các em các kỹ năng cơ bản trong học tập, từ đó bước
đầu hình thành cho các em phương pháp học tập bộ môn Lịch sử một cách tích
cực, đạt được kết quả cao. Với những phương pháp mà tôi đã trình bày, tôi hy
vọng các đồng nghiệp, các em học sinh sẽ có thêm một chút tư liệu tham khảo về
kinh nghiệm dạy học môn Lịch sử, từ đó góp một phần nhỏ bé của mình trong
việc nâng cao chất lượng dạy và học đối với môn Lịch sử, khắc phục được
những hạn chế trong việc dạy và học ập môn Lịch sử hiện nay, lấy lại vị thế quan
trọng của môn Lịch sử trong hệ thống các môn học của bậc học phổ thông.
20
Để công tác bồi dưỡng học sinh giỏi đạt được chất lượng tốt hơn, đội ngũ

giáo viên cần phải có sự nỗ lực hơn nữa, nhiệt tình sáng tạo hơn nữa trong hoạt
động bồi dưỡng, đồng thời cần tăng cường trao đổi thông tin học hỏi lẫn nhau về
kinh nghiệm giảng dạy. Về các cấp quản lý, tôi nghĩ rằng ở cấp Phòng và cấp Sở,
cần có diễn đàn để giáo viên bộ môn trao đổi thông tin, thường xuyên tổ chức
hoặc phổ biến các chuyên đề về hoạt động bồi dưỡng học sinh giỏi, tạo cơ hội
cho các giáo viên được tiếp cận với các tri thức mới về hoạt động này.
Quá trình đúc rút kinh nghiệm trong đề tài này đã được trải nghiệm từ
thực tế giảng dạy của bản thân. Tuy nhiên do trình độ, khả năng tư duy trong
việc trình bày văn bản còn có nhiều hạn chế, do đó chắc chắn đề tài còn có nhiều
“hạt sạn”. Tôi rất mong được các thầy cô, các em học sinh và mọi người góp ý
để tiếp tục hoàn thiện đề tài một cách tốt hơn.
Diễn Hồng, tháng 5 năm 2010.

Nguyễn Văn Công
21

×