Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

SKKN MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI CÔNG TÁC QUẢN LÝ GIÁO DỤC NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.05 MB, 60 trang )

MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI CÔNG TÁC QUẢN LÝ GIÁO DỤC
NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC THCS.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chủ nghĩa Mác – Lê nin khẳng định: con người là nhân tố quyết định tạo ra
mọi sự phát triển trong xã hội loài người. Để xã hội phát triển trước tiên phải tạo
ra sự phát triển con người. Đó là tiền đề, là điều kiện để phát triển xã hội. Đồng
thời, con người muốn phát triển tốt thì phải được giáo dục tốt, giáo dục là điều
kiện tiên quyết để tạo sự phát triển con người. Giáo dục THCS là một bộ phận
không thể thiếu được của ngành GD - ĐT và có vai trò rất quan trọng trong việc
tạo ra sự phát triển con người.
Nghị quyết Trung ương 2, Khoá VIII của Đảng đã khẳng định: “Giáo dục là
quốc sách hàng đầu”, “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”. Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI lại tiếp tục khẳng định “Giáo dục là quốc sách
hàng đầu” và chỉ rõ: “Con người là nguồn nhân lực, là nhân tố quyết định sự phát
triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Chiến lược phát triển
giáo dục 20011 – 2015 là: Tạo bước chuyển biến cơ bản về chiến lược giáo dục
theo hướng tiếp cận với trình độ tiên tiến của thể giới, phù hợp với thực tiễn Việt
Nam, phục vụ thiết thực cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, của từng
vùng, từng địa phương, hướng tới một xã hội học tập. Phấn đấu đưa nền giáo dục
nước ta thoát khỏi tình trạng tụt hậu trên một số lĩnh vực so với các nước đang
phát triển trong khu vực.
Bên cạnh những thành tựu đạt được thì giáo dục đào tạo nước ta vẫn còn
nhiều yếu kém. Một trong những yếu kém đó là chất lượng giáo dục đại trà còn
thấp, thể hiện ở chỗ năng lực tư duy độc lập và vận dụng kiến thức, kỹ năng của
học sinh, sinh viên vào đời sống sản xuất, vào thực tiễn còn kém, nội dung
chương trình giảng dạy còn mang nặng tính lý thuyết, thiếu gắn bó với đời sống
xã hội, thiếu các kiến thức ứng dụng và thiếu rèn luyện phương pháp tư duy.
Một trong những nguyên nhân chủ yếu tạo nên các yếu kém và chất lượng
thấp của giáo dục - đào tạo nước ta là phương pháp dạy học còn quá lạc hậu,
phần lớn lực lượng giáo viên vẫn chủ yếu sử dụng phương pháp dạy học truyền
thống, lỗi thời: dạy học theo kiểu giáo điều, nhồi nhét, đã tạo cho học sinh thói


quen thụ động, chỉ biết lắng nghe ghi chép bài giảng và học thuộc lòng, ít có cơ
hội động não, từ đó kìm hãm tính tự chủ sáng tạo của học sinh.
Với phương châm coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, Nghị
quyết TW2 khoá VIII đã nhấn mạnh “ Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo,
khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của
người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại
vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho
học sinh”.
Giáo dục ngày nay đang đứng trước một thách thức lớn: Đào tạo một thế
hệ năng động sáng tạo, trở thành nguồn lực nội sinh cho phát triển và cạnh tranh
trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu hoá - người giáo viên ngày nay phải tìm cách
dạy học làm sao phát huy, khơi dậy tính tích cực, đánh thức được hứng thú, tiềm
năng của thế hệ trẻ.
Tại Hội nghị chỉ đạo triển khai Nghị quyết 40 và 41 của Quốc Hội và trong
Hội nghị giáo dục đại học toàn quốc, Thủ tướng Phan Văn Khải đã nhấn mạnh
việc nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo.
Ngành giáo dục Việt Nam đứng trước thời kỳ đổi mới cũng đã có những
biến đổi sâu sắc, toàn diện. Đã có không ít công trình nghiên cứu và các cuộc hội
thảo khoa học bàn luận về đổi mới công tác quản lý nhằm nâng cao chất lượng
dạy và học. Nhiều nhà trường, các cấp quản lý giáo dục đào tạo, ngày càng quan
tâm hơn về việc đổi mới công tác quản lý và coi đó như là nội lực quan trọng của
ngành cần phải được triển khai mạnh mẽ để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo
dục đào tạo.
Nhận thức được tình hình quản lý hoạt động dạy và học còn đang gặp nhiều
khó khăn cần có những giải pháp có hiệu quả, lựa chọn đề tài đi sâu vào việc
nghiên cứu “Một số biện pháp đổi mới công tác quản lý giáo dục nhằm nâng cao
chất lượng dạy và học trong nhà trường THCS”.
II.PHẠM VI ĐỀ TÀI
Các giải pháp cải tiến quản lý dạy và học của BGH nhằm năng cao chất
lượng giáo dục của trường THCS Bế Văn Đàn, thành phố Hà Nội; trên cơ sở

nghiên cứu lý luận, phân tích thực trạng, xây dựng các biện pháp cải tiến quản lý
của BGH, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học của các trường THCS , góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục của thủ đô, đề xuất một số giải pháp về đổi
mới công tác quản lý của BGH trường THCS nhằm nâng cao chất lượng dạy và
học.
III. CƠ SỞ LÝ LUẬN KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN
1,Cơ sở lý luận khoa học :
1.1 Quản lý là một hoạt động xuất hiện từ lâu trong xã hội loài người. Từ
lúc có sự phân công lao động, sự xuất hiện của các tổ chức đã hình thành nên
hoạt động quản lý và hoạt động này phát triển không ngừng theo sự phát triển của
xã hội.
Có nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm quản lý
Quản lý là tác động có định hướng, có chủ định của chủ thể quản lý đến
khách thể quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được
mục đích của tổ chức.
Theo Harold Koontz: “Quản lý là thiết kế và duy trì một môi trường mà
trong đó các cá nhân làm việc với nhau trong các nhóm có thể hoàn thành các
nhiệm vụ và các mục tiêu đã định”.
Theo F.W Taylor: “Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người
khác làm và sau đó thấy được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt
nhất”.
Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản
lý lên khách thể quản lý về các mặt chính trị, văn hoá, xã hội, kinh tế bằng một
hệ thống các luật lệ, các chính sách nguyên tắc, các phương pháp và biện pháp cụ
thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng.
Quản lý vừa là một khoa học, vừa là một nghệ thuật. Chính vì vậy trong quá
trình hoạt động, người cán bộ quản lý phải hết sức linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo
để chỉ đạo hoạt động của tổ chức đi tới đích đã đề ra.
Tổng quát có thể hiểu quản lý là một quá trình tác động gây ảnh hưởng của
chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu chung.

Bản chất của hoạt động quản lý là sự tác động có mục đích của người quản
lý đến khách thể quản lý nhằm đạt mục tiêu chung. Trong các cơ sở giáo dục đào
tạo, đó là tác động của nhà quản lý giáo dục đến tập thể giáo viên, học sinh và
các lực lượng giáo dục khác trong xã hội nhằm thực hiện hệ thống các mục tiêu
quản lý giáo dục.
Quản lý là hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân
nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Mục tiêu của mọi nhà quản lý là nhằm
hình thành một môi trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích
của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất.
Chức năng quản lý là một thể thống nhất những hoạt động tất yếu của chủ
thể quản lý nảy sinh từ sự phân công, chuyên môn hoá trong hoạt động quản lý
nhằm thực hiện mục tiêu chung của quản lý.
Về mặt khoa học, chức năng quản lý là bộ khung để tổ chức hệ thống kiến
thức quản lý. Về mặt thực hành, chức năng quản lý là cơ sở để xác định những
nhiệm vụ quản lý, xây dựng bộ máy quản lý, phân công phân nhiệm; là căn cứ để
xác định chức năng cơ quan và chức năng cán bộ. Toàn bộ hoạt động quản lý đều
được thực hiện thông qua các chức năng quản lý.
Quản lý có 4 chức năng cơ bản là: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra.
Các chức năng trên có mối quan hệ qua lại khăng khít với nhau, tạo thành một
quá trình quản lý khép kín.
+ Lập kế hoạch là một chức năng của quản lý và thường là khởi điểm của
quản lý nếu xét trong một chu trình quản lý nhất định, là quá trình xác định ra các
mục tiêu và quyết định phương thức đạt các mục tiêu đó.
Theo Harold Koontz, lập kế hoạch là ra quyết định, bao gồm việc lựa chọn
một đường lối hành động cho tổ chức qua các việc xác định mục tiêu, chương
trình hành động, các bước đi, điều kiện, phương tiện trong một thời gian nhất
định. Đó là xác định trước xem phải làm cái gì, làm thế nào, khi nào làm, ai sẽ
làm, điều kiện đảm bảo là gì. Việc lập kế hoạch bắt một nhịp cầu từ trạng thái
hiện tại đến trạng thái dự định tương lai của tồ chức; giúp chủ động thực hiện
công việc, hạn chế thấp nhất việc phó thác cho may rủi, tạo khả năng cho một

thành viên của tổ chức biết được mục đích, mục tiêu của họ, biết rõ nhiệm vụ để
thực hiện và những đường lối chỉ dẫn đi tới mục tiêu.
Khả năng thực hiện chức năng lập kế hoạch dựa trên các kỹ năng nhận thức
và ra quyết định của chủ thể quản lý. Sản phẩm của lập kế hoạch là các bản kế
hoạch.
+ Tổ chức: là một quá trình hình thành nên cấu trúc các quan hệ giữa các
thành viên, giữa các bộ phận trong một tổ chức, đồng thời phân công điều phối
các nhiệm vụ và nguồn lực để đạt được các mục tiêu đề ra. Thành tựu của một tổ
chức phụ thuộc rất nhiều vào năng lực và phong cách của chủ thể quản lý vào
việc huy động và sử dụng các nguồn lực, cũng như tạo động lực cho tổ chức hoạt
động đồng bộ.
Chức năng tổ chức có thể xem gồm các nội dung chính sau đây:
- Thứ nhất là hình thành và không ngừng hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý.
Trong đó, các bộ phận được phân chia hợp lý; mỗi bộ phận, cá nhân ứng với
từng cấp quản lý và thừa hành các mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ rành mạch, có
quyền hạn tương xứng đảm bảo cho các công việc được tiến hành, phối hợp một
cách đồng bộ, nhịp nhàng; hệ thống các mối quan hệ phối hợp, quan hệ phụ thuộc
trên dưới được xác lập với mức rõ ràng cao nhất.
- Thứ hai là quá trình hình thành và không ngừng nâng cao chất lượng của
cơ cấu nhân lực. Cơ cấu nhân lực phản ánh số lượng và tỉ lệ của từng loại cán bộ,
công nhân viên và phải phù hợp với cơ cấu tổ chức quản lý. Đó là việc xác lập
tiêu chuẩn cán bộ; đánh giá, tuyển dụng, sắp xếp, đề bạt, đào tạo, bồi dưỡng, phát
triển cán bộ công nhân viên
- Thứ ba là quá trình tổ chức thực hiện kế hoạch, các hoạt động chung.
Thực chất ở đây là cho vận hành kế hoạch, thực hiện các hoạt động. Cần chú ý
xác định cụ thể tiêu chuẩn cho từng công việc, phân công rành mạch cho từng bộ
phận, cá nhân, đảm bảo các điều kiện, phương tiện, quy định tiến độ thực hiện
công việc theo thời gian.
+ Chỉ đạo: là quá trình truyền đạt, thuyết phục, tác động và thúc đẩy các
thành viên trong tổ chức thực hiện công việc hướng đến các mục tiêu cần đạt

được.
Lãnh đạo là một chức năng cơ bản của quản lý, nhưng quản lý bao gồm
nhiều việc hơn lãnh đạo. Lãnh đạo là động viên và chỉ dẫn. Lãnh đạo tốt là điều
kiện cần để quản lý giỏi. Theo Harold Koontz, chức năng lãnh đạo trong quản lý
được xác định như là một quá trình tác động đến con người làm cho họ thực sự
sẵn sàng và nhiệt tình phấn đấu để hoàn thành mục tiêu của tổ chức. Để lãnh đạo
tốt phải chú ý đến khía cạnh con người trong quản lý, đặc biệt là việc phát hiện
các nhu cầu và hình thành các động cơ thúc đẩy cho các thành viên của tổ chức.
Vấn đề then chốt của lãnh đạo là làm hài hoà các mục tiêu cá nhân, làm cho các
nhu cầu cá nhân phù hợp cao nhất với các yêu cầu của tổ chức; là kích thích
nhằm khơi dậy các tiềm năng, huy động tối đa những nỗ lực của mọi người.
Chức năng lãnh đạo còn đòi hỏi nhà quản lý phải quan tâm theo dõi để kịp
thời giúp đỡ việc khắc phục những trở ngại trong khi thi hành nhiệm vụ và chỉ
dẫn thực hiện công việc cho cấp dưới.
+Kiểm tra: là quá trình thiết lập và thực hiện các cơ chế thích hợp, theo dõi,
giám sát các thành quả hoạt động và tiến hành những hoạt động điều chỉnh uốn
nắn khi cần thiết để đảm bảo đạt được mục tiêu của tổ chức.
Kiểm tra là đo lường và chấn chỉnh việc thực hiện nhằm đảm bảo rằng, các
mục tiêu và các kế hoạch vạch ra để đạt tới các mục tiêu này đã và đang được
hoàn thành. Quá trình kiểm tra gồm 3 bước: xây dựng các tiêu chuẩn, đo lường
việc thực hiện nhiệm vụ theo tiêu chuẩn, điều chỉnh sự khác biệt giữa các tiêu
chuẩn và kế hoạch.
Việc kiểm tra có thể thực hiện theo ba kiểu sau:
- Kiểm tra trước công việc tập trung vào việc phòng ngừa những sai lệch ở
đầu vào, đòi hỏi các tiêu chuẩn về chất lượng và số lượng của đầu vào, thí dụ về
nhân lực, vật tư, tài chính
- Kiểm tra trong công việc tập trung theo dõi các hoạt động đang tiến hành
để đảm bảo rằng mọi cái đều hướng đến mục tiêu. Những tiêu chuẩn chỉ đạo hoạt
động đang diễn ra được rút ra từ phần mô tả công việc và từ những chính sách
được hình thành từ chức năng lập kế hoạch.

- Kiểm tra sau công việc tập trung vào các kết quả cuối cùng để rút kinh
nghiệm chấn chỉnh, cải thiện đầu vào và các hoạt động tương lai, nó đòi hỏi phải
có những tiêu chuẩn rõ ràng về số lượng và chất lượng sản phẩm.
Thực hiện luân phiên các chức năng trên tạo nên một chu trình quản lý mở
đầu là lập kế hoạch, rồi tổ chức và kết thúc là kiểm tra. Sau đó một chu trình quản
lý mới lại kế tục. Thực tế các chức năng quản lý cơ bản trên không có sự tách
bạch, thứ tự rạch ròi và nói chung, chúng gối đầu lên nhau; có những chức năng
được thực hiện trong khi chức năng khác đang diễn ra.
1.2 Ngay từ thời tiền sử đã có hiện tượng giáo dục, đó là sự truyền thụ kinh
nghiệm xã hội của người này cho người khác, của thế hệ trước cho thế hệ sau.
Quản lý giáo dục cũng xuất hiện rất sớm, có thể nói là gắn liền với giáo dục. Lúc
ban sơ, quản lý giáo dục xuất hiện như một phần việc “kiêm nhiệm” của người
dạy. Sự phát triển giáo dục làm cho quản lý giáo dục được chuyên môn hoá dần
và trở thành một nghề trong xã hội.
Đến nay khái niệm quản lý giáo dục được quan niệm theo nhiều cách khác
nhau, chẳng hạn:
Theo Konđakôp, đó là: “Tập hợp những biện pháp tổ chức, phương pháp
cán bộ, giáo dục, kế hoạch hoá, tài chính, cung tiêu nhằm đảm bảo sự vận hành
bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, bảo đảm sự tiếp túc phát
triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng như chất lượng”.
Theo Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động
có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục) nhằm
làm cho hệ vận hành theo đường lối của nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện
được tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu chuẩn hội tụ là
quá trình dạy học – giáo dục thể hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến
lên trạng thái mới về chất.
Theo Trần Kiểm: “Quản lý giáo dục thực chất là những tác động của chủ
thể quản lý vào quá trình giáo dục (được tiến hành bởi tập thể giáo viên và học
sinh, với sự hỗ trợ đắc lực của các lực lượng xã hội) nhằm hình thành và phát
triển toàn diện nhân cách học sinh theo mục tiêu đào tạo của nhà trường”. Định

nghĩa của Trần Kiểm đã phản ánh rõ thực tế quản lý giáo dục ở một nhà trường.
Các định nghĩa trên xuất phát từ những cách tiếp cận khác nhau, giúp ta
nhận thức đầy đủ hơn về những khía cạnh biện pháp trong quản lý giáo dục.
Konđakôp đã nhấn mạnh đến khía cạnh biện pháp trong quản lý giáo dục,
Nguyễn Ngọc Quang lưu ý nhiều đến tính cụ thể của các mục tiêu quản lý giáo
dục, Trần Kiểm quan tâm hơn về đối tượng và khách thể của quản lý giáo dục.
Tóm lại, qua phân tích, ta càng thấy rõ quản lý là một khoa học nhưng đồng
thời cũng là một nghệ thuật, người quản lý phải biết vận dụng một cách linh hoạt
và sáng tạo trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
1.3 Quản lý giáo dục trong nhà trường THCS
Nhà trường là cơ quan giáo dục chuyên biệt thực hiện chức năng giáo dục
của Nhà nước, của cộng đồng và của xã hội. Nhà trường có nhiệm vụ đào tạo thế
hệ trẻ trở thành những con người phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần,
những người có ích cho xã hội. Toàn bộ hoạt động của nhà trường đều hướng đến
thực hiện mục tiêu đào tạo.
Trường THCS là tổ chức giáo dục cơ sở có chức năng giáo dục, đào tạo học
sinh, chủ yếu thuộc địa bàn phụ trách, đạt được những phẩm chất nhân cách theo
mục tiêu mà xã hội, nhà nước yêu cầu. Quản lý nhà trường đó là một thiết chế xã
hội đặc biệt, nơi tập hợp những nhà giáo thành một tập thể sư phạm để thực hiện
nhiệm vụ và mục tiêu chung. Chủ thể quản lý nhà trường là hiệu trưởng và các
phó hiệu trưởng; tập thể giáo viên và học sinh không chỉ là đối tượng quản lý mà
còn là những chủ thể trong quá trình dạy học – giáo dục, trong đó vai trò chủ thể
của quá trình tự đào tạo, tự giáo dục cần được phát huy đến mức tối đa.
Về quản lý nhà trường,Phạm Minh Hạc đã đưa ra quan niệm khái quát, dễ
hiểu là:
+ Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm
vi trách nhiệm mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục, để
tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo, đối với ngành giáo dục, với thế hệ
trẻ và với từng học sinh.
+ Việc quản lý nhà trường phổ thông (có thể mở rộng ra là việc quản lý

giáo dục nói chung) là quản lý dạy – học, tức là làm sao đưa hoạt động đó từ
trạng thái này sang trạng thái khác để dần dần tiến tới mục tiêu giáo dục.
Chúng tôi quan niệm quản lý nhà trường là:
+ Thực hiện hệ thống tác động có tính nghệ thuật, hợp quy luật, hợp pháp
thông qua các chức năng kế hoạch hoá, tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra đến tập giáo
viên – công nhân viên, học sinh, phụ huynh học sinh và các lực lượng xã hội liên
quan.
+ Khai thác tối đa và sử dụng tối ưu các nguồn lực từ nhà nước, từ xã hội
hoá; phối hợp các hoạt động giáo dục, mà trung tâm là dạy – học nhằm đạt được
các mục tiêu giáo dục đào tạo nhân cách học sinh và phát triển nhà trường với chi
phí ít nhất và đạt sự đồng thuận cao nhất.
Quan niệm trên không chỉ đòi hỏi quản lý nhà trường có chất lượng mà cả
về hiệu quả, và lưu ý đến tính nghệ thuật trong tác động quản lý, rất cần thiết với
đặc tính sư phạm của nhà trường.
Tiêu điểm của giáo dục trong phạm vi nhà trường là hoạt động dạy học và
giáo dục bao gồm:
Quản lý chương trình dạy học và giáo dục của nhà trường
Quản lý giáo viên và phát triển nghề nghiệp của người dạy
Quản lý học sinh và các hoạt động của người học
Quản lý thiết bị, cơ sở vật chất và những điều kiện khác đảm bảo cho hoạt
động của nhà trường đạt được mục tiêu đã đặt ra.
Quản lý quá trình dạy học là hệ thống những tác động có mục đích, có kế
hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý (Hiệu trưởng) nhằm làm cho quá trình
dạy học vận hành theo đường lối của Nhà nước, thực hiện được những yêu cầu
của nền giáo dục XHCN trong việc đào tạo con người mới.
Hoạt động trung tâm của nhà trường là hoạt động dạy và giáo dục của thầy
và hoạt động học tập của trò. Những hoạt động này đồng thời diễn ra trong quá
trình dạy học. Dạy học bao hàm trong nó là sự dạy và sự học gắn bó với nhau,
trong đó sự dạy về thực chất là sự tổ chức, chỉ đạo và điều khiển sự học của trò.
Do vậy, quản lý quá trình dạy học là một trong những nội dung quản lý cơ bản

của quản lý nhà trường. Đây là một công việc rất khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự
quản lý của người Hiệu trưởng phải vừa khoa học, vừa mang tính nghệ thuật,
phải am hiểu nghề quản lý, nắm vững đặc điểm tình hình nhà trường, từ đó mới
có thể đưa ra những hướng đi phù hợp, giúp đội ngũ giáo viên và học sinh thực
hiện tốt nhiệm vụ của mình, đi đến mục tiêu chung.
Quản lý không chỉ là quá trình dạy học mà còn là quản lý quá trình chấp
hành những quy định, quy chế chuyên môn của giáo viên và hoạt động học tập
rèn luyện của học sinh. Quản lý tốt nội dung này sẽ giúp cho hoạt động của thầy
và trò được thực hiện một cách nghiêm túc và do đó đạt được hiệu quả, chất
lượng.
Để xây dựng công tác quản lý quá trình dạy học đối với nhà trường, cần
nắm rõ các vấn đề: đối tượng quản lý, yêu cầu và mục tiêu quản lý, nội dung
quản lý.
+ Đối tượng quản lý quá trình dạy học:
Đó là hoạt động của giáo viên, học sinh và các tổ chức sư phạm của nhà
trường trong việc thực hiện các kế hoạch và chương trình dạy học nhằm đạt mục
tiêu với chất lượng cao.
+ Mục tiêu quản lý quá trình dạy học:
Đó là trạng thái được xác định trong tương lai của đối tượng quản lý hay
một số yếu tố cấu thành nó. Nói cách khác, mục tiêu của quản lý quá trình dạy
học đó là những kết quả mà chủ thể quản lý (Hiệu trưởng) dự kiến sẽ đạt do quá
trình vận động đối tượng quản lý dưới sự điều khiển của chủ thể quản lý, làm thế
nào để đảm bảo thực hiện một cách đầy đủ các kế hoạch giáo dục đào tạo và các
nội dung chương trình giảng dạy đúng tiến độ quy định với chất lượng cao.
+ Nội dung quản lý quá trình dạy học:
Quản lý việc thực hiện, kế hoạch và chương trình giảng dạy: là quản lý quá
trình dạy, giáo dục của giáo viên sao cho kế hoạch và chương trình giảng dạy
thực hiện đúng về nội dung, thời gian và quán triệt được các yêu cầu của mục
tiêu đào tạo.
Quản lý hoạt động của giáo viên, học sinh: là quản lý việc thực hiện các

nhiệm vụ giảng dạy giáo dục của giáo viên, các nhiệm vụ học tập rèn luyện của
học sinh.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1Những đặc điểm của trường THCS
Để các tác động quản lý hợp quy luật và có tính nghệ thuật cao nhất, cần
phải xem xét kỹ một số đặc điểm dưới đây trong quá trình quản lý một trường
trung học cơ sở:
+ Trường THCS là một tổ chức giáo dục cơ sở thuộc hệ thống giáo dục
quốc dân, có tư cách pháp nhân, là nơi tiếp nhận một bộ phận lớn học sinh tốt
nghiệp tiểu học và tiếp tục giáo dục - đào tạo các em qua các lớp 6, 7, 8 và 9 để
từng bước hoàn thành nhiệm vụ của GDPT. Mục tiêu tổng quát của nhà trường
là: “Giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả giáo dục tiểu học, từng
bước hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông thường về kỹ
thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn
hướng phát triển, tiếp tục học THPT.
+ Cấp THCS là cấp tiếp theo của giáo dục phổ thông, tiếp nối liên tục với
cấp tiểu học, góp phần tạo nên sự chỉnh thể của chương trình giáo dục phổ thông
và sự liên thông mềm dẻo với trung học phổ thông. Cấp THCS có nhiệm vụ trực
tiếp tạo nguồn cho bậc THPT ; vừa góp phần quan trọng vào việc đào tạo nguồn
nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung. Nói cụ thể
hơn, trường THCS, một mặt chuẩn bị cho học sinh những tri thức, kỹ năng và
thái độ về khoa học xã hội, nhân văn, toán học, khoa học tự nhiên, kĩ thuật – công
nghệ để họ có khả năng tiếp tục học cao hơn; mặt khác cần hình thành và phát
triển ở họ những hiểu biết về nghề phổ thông thiết thực cho cuộc sống để tham
gia lao động sản xuất và khi có điều kiện thì tiếp tục học lên.
+ Do mỗi học sinh có đặc điểm riêng về tâm sinh lý, sức khỏe, hoàn cảnh,
nguyện vọng cho nên giáo dục, dạy học ở trường THCS phải chú ý tới sự phân
hoá ở mức độ thích hợp trên cơ sở đảm bảo tính phổ thông với nội dung học vấn
nền tảng, làm cơ sở cho sự phát triển hài hoà và toàn diện nhân cách học sinh.
+ Phải coi trọng việc giáo dục hướng nghiệp ở trường THCS nhằm giúp học

sinh sau khi tốt nghiệp phổ thông có khả năng tìm và thích ứng nhanh với những
nghề nghiệp thích hợp.
+ Để Việt Nam có thể hội nhập được với thế giới, giáo dục đào tạo ở trường
THCS cần phải coi trọng việc hình thành và phát triển cho học sinh các kỹ năng
sau: hành động có hiệu quả, sáng tạo, phối hợp hoạt động và tự khẳng định mình.
+ Giáo viên THCS là những đối tượng quản lý có trình độ chuẩn, lòng tự
trọng cao. Sự đồng thuận của tập thể giáo viên đối với lãnh đạo nhà trường ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng và hiệu quả công việc. Thế nên, phong cách quản lý
quyền hành, áp đặt là không phù hợp; quản lý bằng phương pháp tâm lý – xã hội,
động viên – kích thích cần được đặc biệt chú ý. Hơn nữa, trong giai đoạn hiện
nay, lực lượng giáo viên THCS có thu nhập thực tế gần như thấp nhất so với
những cán bộ, viên chức tương đương về bằng cấp, về “lượng chất xám” tiêu
hao. Trong khi đó, nhà trường không có điều kiện kích thích sự nỗ lực, toàn tâm
toàn ý của đội ngũ giáo viên bằng cách nâng cao thu nhập. Do vậy, nghiên cứu
vận dụng tính đa dạng của động cơ kích thích đối với giáo viên của trường là cần
thiết để góp phần tạo ra môi trường lao động sư phạm tốt nhất.
2.2 Mục tiêu quản lý trường trung học cơ sở.
Mục tiêu quản lý nhà trường có bao hàm trong nó mục tiêu giáo dục nhân
cách và là một hệ thống đa cấp. Mục tiêu quản lý nhà trường có thể là cho một
thời gian dài hay ngắn, thí dụ như mục tiêu năm năm, mục tiêu một năm Mục
tiêu quản lý một năm được thể hiện trong bản kế hoạch năm học của nhà trường,
đó là kết quả mong muốn, là dự kiến trạng thái sẽ đạt tới của hệ thống nhà trường
vào cuối năm học khi kế hoạch được hoàn thành.
Khi nói tới mục tiêu quản lý là nói tới mong muốn, dự kiến, đó cũng là
nhiệm vụ – chức năng, cái phải thực hiện trong khi triển khai hoạt động và đồng
thời cũng chính là cái đạt được (kết quả) khi kết thúc hoạt động.
* Hệ thống mục tiêu quản lý trường THCS
Trong giai đoạn hiện nay cần tập trung vào các mục tiêu cơ bản sau đây:
+ Đảm bảo quy mô nhà trường góp phần đáp ứng có hiệu quả nhu cầu học
tập của học sinh.

+ Nâng cao chất lượng và hiệu quả của quá trình dạy học – giáo dục thông
qua ba loại hoạt động cơ bản là dạy học, hoạt động xã hội và giáo dục lao động -
nghề nghiệp.
+ Xây dựng các đoàn thể, tổ chức, đặc biệt là tập thể sư phạm, tập thể lớp tự
quản với yêu cầu mạnh về tính tổ chức, ngày càng vững về chuyên môn, có
không khí chan hoà - hợp tác – học hỏi – hỗ trợ lẫn nhau.
+ Quản lý tốt việc thu chi tài chính; phát triển, sử dụng hiệu quả và bảo
quản cơ sở vật chất – kỹ thuật của nhà trường; chăm lo hoàn thiện điều kiện làm
việc, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của giáo viên, công nhân viên.
+ Đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục.
+ Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra nội bộ trên cơ sở cải
tiến công tác kế hoạch, cụ thể hoá hệ thống tiêu chuẩn công việc, phối hợp các
chủ thể kiểm tra và kết hợp với thanh tra từ bên ngoài nhằm tăng cường mối liên
hệ nghịch thường xuyên, bền vững.
+ Thường xuyên đổi mới quản lý, trong đó chú ý tăng cường dân chủ hoá
và tự quản nhà trường, củng cố khối đoàn kết hướng về mục tiêu chung và nâng
cao văn hoá quản lý.
2.3 Nội dung quản lý trường trung học cơ sở
Công việc quản lý ở trường THCS rất phức tạp và đa dạng. Tuy nhiên, có
thể chia thành những nội dung chủ yếu dưới đây:
+ Quản lý các hoạt động dạy học – giáo dục, chằng hạn như dạy và học,
giáo dục lao động – kỹ thuật tổng hợp và hướng nghiệp, hoạt động chính trị – xã
hội, hoạt động giáo dục thể chất, thẩm mỹ
+ Quản lý nhân sự: cán bộ, giáo viên, công nhân viên.
+ Quản lý hoạt động phục vụ như công tác tài chính, hành chính quản trị,
thư viện
+ Quản lý cơ sở vật chất, thiết bị dạy học.
Các nội dung trên có quan hệ tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, ba nội dung
sau có vai trò như những phương tiện phục vụ cho nội dung quản lý hoạt động
dạy và giáo dục.

2.4 Quản lý dạy học ở trường THCS
Dạy học và quản lý dạy học.
+ Dạy học là hoạt động phối hợp, thống nhất giữa giáo viên và học sinh
nhằm giúp học sinh lĩnh vực và hình thành hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo; các
giá trị xã hội nhằm phát triển những tiềm năng trí tuệ, những phẩm chất tốt đẹp
của nhân cách. Trong đó, giáo viên có vai trò chủ đạo thể hiện qua việc kích
thích, hướng dẫn, tổ chức, điều khiển; học sinh là chủ thể của việc học với vai trò
chủ động, tích cực, sáng tạo.
Dạy học là một hệ thống gồm các thành tố: mục đích, nội dung, thầy với
hoạt động dạy, trò với hoạt động học, phương pháp, phương tiện và kết quả. Các
yếu tố này có mối liên hệ hữu cơ, chặt chẽ. Toàn bộ hệ thống được nằm trong
môi trường kinh tế, chính trị – xã hội và chịu sự tác động qua lại với môi trường.
Sự vận động và phát triển của quá trình dạy học là kết quả của quá trình tác
động biện chứng giữa các nhân tố trên. Kết quả dạy học là kết quả phát triển tổng
hợp của toàn hệ thống.
Về mặt thực hành, có thể mô tả dạy học bằng sơ đồ sau:
ĐẦU VÀO TIẾN TRÌNH THỰC HÀNH ĐẦU RA – M TIÊU
Muốn nâng cao chất lượng đầu ra của quá trình dạy học, cần phải nâng cao
chất lượng của từng thành tố đầu vào, của tiến trình thực hiện, chất lượng tổng
hợp của hệ thống và của môi trường.
Dạy học là một chỉnh thể bao gồm hai mặt là dạy và học. Tuy nhiên, trong
nhiều trường hợp, dạy học được hiểu là quá trình thực hiện hoạt động dạy học
của giáo viên.
Theo Trần Thị Bích Trà, dạy là hoạt động của giáo viên tổ chức, hướng dẫn
và điều khiển tối ưu hoạt động của học sinh mà kết quả là học sinh lĩnh hội nội
dung giáo dưỡng và giáo dục một cách tích cực, tự lực, tự giác.
+ Quản lý dạy học là nội dung cốt lõi của quản lý nhà trường. Đó là quá
trình ban giám hiệu , thông qua các chức năng kế hoạch hoá, tổ chức, lãnh đạo và
kiểm tra mà tác động đến giáo viên, học sinh, nhân viên nhà trường, phụ huynh
học sinh và những lực lượng xã hội liên quan để cho nhiệm vụ dạy và học được

diễn ra trong môi trường với điều kiện tốt nhất, đúng với nguyên lý giáo dục và
các nguyên tắc dạy học nhằm đạt đến mục tiêu dạy học của trường THCS. Quản
lý dạy học của ban giám hiệu chủ yếu và trực tiếp là quản lý công việc chuyên
môn của giáo viên.
N DUNG D HỌC
HS - GV- CBNV
CSVC-PT-KT
HĐ DẠY P. PHÁP HĐ HỌC
HS với cấu trúc trình độ mới:
- Tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
- Thái độ, niềm tin, giá trị
Mục tiêu quản lý dạy học ở trường THCS
Mục tiêu quản lý dạy học là trạng thái mong muốn của hệ thống dạy học
sau một khoảng thời gian xác định mà quá trình dạy và học được thực hiện.
Khoảng thời gian đó có thể là một học kỳ, một năm học hay một cấp học
Quản lý dạy học ở trường THCS trong giai đoạn hiện nay cần đạt các mục
tiêu chủ yếu sau đây:
+ Đảm bảo và nâng cao chất lượng theo mục tiêu dạy học thông qua hình
thức dạy học chính khoá và ngoại khoá.
+ Học sinh học tập chuyên cần, nền nếp, chủ động, tích cực; có phương
pháp tích cực, thích hợp và tăng cường tự học.
+ Đảm bảo quy chế chuyên môn; làm giảm dần những yếu tố thụ động, phát
huy những yếu tố tích cực của phương pháp dạy truyền thống; tăng cường vận
dụng, phát triển các phương pháp dạy học tích cực – “lấy học sinh làm trung
tâm” trong thực tế dạy học.
+ Tích cực và sử dụng hiệu quả đồ dùng học tập, các phòng chức năng, đặc
biệt là áp dụng công nghệ thông tin trong dạy học.
+ Đẩy mạnh hoạt động bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nhất là tự bồi
dưỡng; chủ động hỗ trợ, giúp nhau tiến bộ về chuyên môn.
IV. GIẢI PHÁP :

A.Một số nội dung quản lý giáo dục cụ thể ở trường THCS
Nội dung khái quát
Dựa vào tính chất và mức độ đáp ứng yêu cầu của mục tiêu dạy học, chúng
tôi xem quản lý dạy học gồm hai mặt chủ yếu là:
Thứ nhất, quản lý việc thực hiện quy chế chuyên môn
Thứ hai, quản lý việc nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học với các nội
dung cơ bản:
+ Quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn
+ Quản lý hoạt động đổi mới phương pháp dạy học của GV
+ Quản lý sinh hoạt tổ chuyên môn
+ Quản lý hoạt động học tập của học sinh
+ Quản lý công tác phục vụ dạy học.
1. Quản lý việc thực hiện quy chế chuyên môn
Quy chế là điều định ra để mọi người cùng theo mà làm. Chuyên môn là tri
thức sâu rộng về lĩnh vực khoa học; về mặt tính từ, đó là thông thạo về một
ngành khoa học kỹ thuật.
Ở đây quy chế chuyên môn được quan niệm là hệ thống những tiêu chí,
quy định về quá trình dạy học mà mọi giáo viên trong nhà trường có thể và có
trách nhiệm tuân thủ để quá trình dạy học và những việc liên quan trực tiếp đến
dạy học được tiến hành một cách suôn sẻ, trật tự, ổn định, chuẩn mực; phù hợp
với các quy luật và nguyên tắc dạy học cơ bản.
Thực tế, quy chế chuyên môn gồm những quy định do Bộ và Sở GDĐT ban
hành cùng với những quy định, yêu cầu nội bộ do hiệu trưởng đưa ra trên cơ sở
cụ thể hoá một số nội dung từ Luật giáo dục, Điều lệ trường THCS, các quy chế
liên quan đến dạy học của ngành GD ĐT.
Đảm bảo quy chế chuyên môn có nghĩa là tất cả những quy định phải được
thực hiện đúng và thành hệ thống những thói quen tự nhiên hàng ngày trong mọi
khâu của quá trình dạy học. Nói cách khác, đảm bảo quy chế chuyên môn tức là
hình thành và duy trì được nền nếp thực hiện quy chế chuyên môn.
Tác dụng và ý nghĩa của nền nếp chuyên môn:

- Giúp cho các hoạt động, công việc dạy của nhà trường được tiến hành
suôn sẻ, trật tự, ổn định, đảm bảo các yêu cầu cơ bản và đúng tiến độ thời gian.
- Đảm bảo được chất lượng ban đầu, chất lượng nền của quá trình dạy học.
- Tạo nền tảng và môi trường thuận lợi cho việc duy trì và nâng cao chất
lượng dạy học. Nền nếp chuyên môn không chỉ là một mục tiêu của quản lý dạy
học mà còn là một yếu tố của văn hoá dạy học, một phương tiện để giữ vững và
nâng cao chất lượng – hiệu quả dạy học.
Nhận thức được tầm quan trọng của quản lý việc thực hiện quy chế chuyên
môn, ban giám hiệu trường THCS Bế Văn Đàn đã tiến hành những biện pháp như
sau :
1.1 Thứ nhất là xây dựng và quán triệt quy chế chuyên môn trong
HĐGV
+ Xây dựng các nguyên tắc xây dựng quy chế nội bộ
- Nội dung của quy chế nội bộ là sự cụ thể hoá và bổ sung những quy định
cần thiết nhưng không được mâu thuẫn với các văn bản của cấp trên
- Nội dung quy định cần cụ thể, rành mạch, cô đọng, rõ nghĩa và dễ nhớ. Số
lượng các quy định vừa phải, thể hiện tính trọng tâm, không tràn lan.
- Vừa sức, khả thi, mọi giáo viên đều có thể thực hiện được.
- Đảm bảo tính dân chủ và tập trung. Cần tạo điều kiện cho tất cả giáo viên
tham gia thảo luận, góp ý bản quy chế dự thảo và hạn chế thấp nhất sự áp đặt.
- Nội dung các quy định bao gồm những yêu cầu về chất lượng và cả số
lượng, chú ý tính lượng hoá để thuận lợi cho việc thực hiện và kiểm tra đánh giá.
- Không làm ảnh hưởng đến sự sáng tạo, chủ động của giáo viên trong quá
trình dạy học.
+ Quy chế chuyên môn gồm những khâu chủ yếu sau:
- Chuẩn bị dạy học: Làm kế hoạch dạy học năm, soạn giáo án, phương tiện
dạy học.
- Việc dạy trên lớp và hướng dẫn học tập ở nhà
- Kiểm tra – thi cử - đánh giá học sinh
- Tự bồi dưỡng chuyên môn và sinh hoạt chuyên môn

- Hồ sơ chuyên môn
+ Cần có giai đoạn áp dụng tạm thời. Dù trong giai đoạn áp dụng tạm thời
hay chính thức, quy chế nội bộ cần thể hiện thành văn bản hành chính và gửi đến
từng giáo viên của trường để giúp giáo viên nắm đầy đủ, chính xác và nâng cao ý
thức chấp hành. Sau một thời gian áp dụng, thường là vài năm, nếu thấy không
còn phù hợp cần kịp thời điều chỉnh.
1.2 Thứ hai là tổ chức theo dõi, kiểm tra, điều chỉnh.
Khâu quan trọng và thường xuyên nhất để đảm bảo quy chế chuyên môn là
tổ chức theo dõi, giám sát, kiểm tra phát hiện kịp thời và điều chỉnh những sai
lệnh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ dạy học của giáo viên. Việc điều chỉnh
cần trên cơ sở phối hợp các phương pháp quản lý hành chính, tâm lý xã hội và
động viên – kích thích. Đầu mỗi năm học cần triển khai lại trong hội đồng giáo
viên để công khai lại quy chế, nâng cao ý thức trách nhiệm và tâm thế tuân thủ
quy chế.
2 Quản lý việc nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học
Theo Đại từ điển tiếng Việt, chất lượng là cái làm nên phẩm chất, giá trị của
một con người, sự vật.
Cũng có quan niệm cho rằng, chất lượng là mức độ tốt hoặc giá trị; sự xuất
sắc; nét đặc thù để phân biệt với sự vật khác
Chất lượng dạy học được hiểu theo nhiều cách khác nhau, chưa có sự thống
nhất. Ở cấp độ nhà trường, chúng tôi quan niệm chất lượng dạy học là mức độ
phù hợp giữa kết quả dạy học với các mục tiêu giáo dưỡng, giáo dục và phát triển
của quá trình dạy học các bộ môn trong nhà trường. Như vậy, nâng cao chất
lượng dạy học tức là thu hẹp khoảng cách, mức chênh lệch giữa kết quả với mục
tiêu dạy học, là làm cho kết quả dạy học tiệm cận nhiều nhất với mục tiêu.
Khi quá trình dạy học tuân thủ theo các quy định chuyên môn thì bản thân
nó đã đạt được chất lượng ban đầu; tuy nhiên, vẫn còn một khoảng cách, một sự
chênh lệch, cần phải thu hẹp, so với mục tiêu chung mà xã hội đã gián tiếp đặt ra.
Chỉ dừng lại ở việc đảm bảo nền nếp chuyên môn thì không thể có chất lượng
dạy học cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội; cần quản lý, chỉ đạo tốt

những hoạt động đặc thù phục vụ cho yêu cầu nâng cao chất lượng và hiệu quả.
2.1 Quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn
+ Tính tất yếu của việc bồi dưỡng chuyên môn.
Chất lượng đội ngũ giáo viên quyết định trực tiếp chất lượng học tập của
học sinh. “Chất lượng giáo viên tự nó là thành phần của chất lượng giáo dục tổng
thể, đồng thời là thành phần của chất lượng hệ thống sư phạm và thành phần của
chất lượng quá trình giáo dục trong nhà trường phổ thông”. Như vậy, để nâng cao
chất lượng đầu ra của quá trình dạy học, điều trước tiên là phải nâng cao chất
lượng đầu vào, mà trung tâm là chất lượng giáo viên.
Nhìn chung, chất lượng đội ngũ giáo viên của chúng ta hiện nay còn thấp,
chưa ngang tầm với nhiệm vụ. “Trước những yêu cầu mới của sự phát triển giáo
dục trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản
lý giáo dục còn có những hạn chế, bất cập. Vì thế, BDCM cho giáo viên, mà cốt
lõi là tự bồi dưỡng, hay còn gọi là tự học tự rèn là nhiệm vụ thường xuyên, tất
yếu để đảm bảo công cuộc đổi mới giáo dục phục vụ đắc lực cho sự phát triển
kinh tế, xã hội một cách bền vững.
+ Hoạt động BDCM thông thường được tổ chức ở cấp Sở ,cấp quận và cấp
trường, trong đó có hoạt động tự bồi dưỡng của giáo viên. Nhà trường đã xác
định phải có vị trí chủ lực trong việc BDCM cho giáo viên, và tự bồi dưỡng có ý
nghĩa quyết định nhất. Vì, suy cho cùng, BDCM ở cấp nào, dưới bất kỳ hình thức
nào cũng đều thông qua con đường tự bồi dưỡng của GV, và việc BDCM chỉ
thực sự có chất lượng, hiệu quả khi bản thân GV chủ động, tích cực tự học, tự rèn
để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
+ Việc BDCM tập trung vào mục tiêu khắc phục những khiếm khuyết do
quá trình đào tạo ở các trường sư phạm để lại; bổ sung, cập nhật những kiến thức,
kỹ thuật mới, những nội dung liên quan đến việc cải cách giáo dục - đổi mới
chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa theo hướng kết
hợp dạy chữ, dạy người và dạy nghề; phát triển năng lực sư phạm cho đồng bộ,
tương ứng với sự phát triển giáo dục. Càng về sau này, việc khắc phục những
khiếm khuyết trong quá trình học tập ở trường sư phạm sẽ càng ít đi do sự cải

cách quá trình đào tạo ở chính các hệ thống sư phạm.
+ Quản lý việc BDCM ở trường THCS Bế Văn Đàn
Trước hết cần khẳng định, việc BDCM tại trường mới là quan trọng nhất,
hiệu quả nhất; HT là người có trách nhiệm chính trong việc BDCM cho giáo
viên. “Việc bồi dưỡng GV phải được tổ chức ngay tại trường mà họ công tác.
Muốn vậy, việc kiện toàn các tổ chức chuyên môn cả về cơ cấu chất lượng đội
ngũ, cả về nến nếp, nội dung sinh hoạt học thuật có ý nghĩa quan trọng. Trong tập
thể GV, cần có những giáo viên được đào tạo, bồi dưỡng có trình độ cao để họ
làm nòng cốt tổ chức các xemina, sinh hoạt học thuật. Việc hình thành đội ngũ
GV cốt cán các trường phổ thông ở tất cả các môn học phải trở thành giải pháp có
tính chiến lược của ngành giáo dục. Do vậy, ban giám hiệu nhà trường đã thực
hiện tốt những việc sau:
- Khảo sát, thu thập thông tin bằng nhiều cách để đánh giá chính xác chất
lượng – trình độ thực tế của đội ngũ và quy hoạch về chất lượng – trình độ đội
ngũ GV cho từng giai đoạn 3 năm hoặc 5 năm.
- Tổ chức ban tư vấn chuyên môn giúp các GV, nhất là GV trẻ xây dựng và
thực hiện kế hoạch tự BDCM. Trong kế hoạch 3 năm hoặc 5 năm, cần dự kiến
mức trình độ chuyên môn cần đạt đến của từng năm, nêu khái quát những nội
dung cần tự bồi dưỡng theo năm, có xác định ưu tiên và không thể thiếu việc học
một ngoại ngữ. Trong kế hoạch từng năm, xác định cụ thể mục tiêu cần đạt,
những nội dung cần học tập theo trình tự ưu tiên, tài liệu chính và nguồn tư liệu
tham khảo, người hỗ trợ, phương thức tự bồi dưỡng. Đối với GV trẻ, hiểu chính
xác, đầy đủ kiến thức lý thuyết của bộ môn dạy, tích luỹ vốn bài tập đủ loại, đủ
nhiều là ưu tiên số 1; cần học lại một số nội dung về triết học Mác – Lê nin, tâm
lý giáo dục học vì các nội dung này thường không được sinh viên học kỹ trước
khi làm nhà giáo.
- Chỉ đạo cụ thể hoạt động tổ chuyên môn để có tác dụng thúc đẩy, hỗ trợ
việc tự BDCM của GV. Việc này chỉ đạt được sự chủ động và tính thiết thực cao
trên cơ sở có một số kế hoạch cụ thể của tổ và gắn kết với kế hoạch của mỗi GV.
- Có thể nói điều khó nhất là kích thích cho được lòng quyết tâm, tính tích

cực tự bồi dưỡng của đội ngũ GV và đánh giá việc tự học tự rèn. Muốn đánh giá
được việc tự học tự rèn, trước hết phải có một kế hoạch và chuẩn BDCM cụ thể,
hợp lý.
2.2 Quản lý hoạt động đổi mới phương pháp dạy học
+ Phương pháp dạy học
- Phương pháp dạy học được hiểu là tổ hợp các cách thức phối hợp hoạt
động chung của GV và học sinh nhằm giúp học sinh nắm vững kiến thức, kỹ
năng, kỹ xảo.
- Có nhiều định nghĩa khác nhau về phương pháp dạy học. Theo tổng hợp
của Thái Duy Tuyên, PPDH có nhiều dấu hiệu đặc trưng sau đây:
Nó phản ánh sự vận động của quá trình nhận thức của học sinh nhằm đạt
mục đích đặt ra.
Phản ánh sự vận động của nội dung dạy học
Phản ánh cách thức trao đổi thông tin giữa thầy và trò
Phản ánh cách thức điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh.
- Đối với giáo dục nói chung và dạy học nói riêng, quan hệ giữa phương
pháp, nội dung và mục tiêu thường được mô tả theo sơ đồ tuyến tính:
MT ND PP
Theo đó, mục tiêu chi phối nội dung, còn nội dung thì quyết định phương
pháp. Do cách tiếp cận như vậy, trong ba lần cải cách giáo dục đã qua, chỉ có tập
trung vào việc thay đổi mục tiêu và nội dung không đề cập tới việc cải cách
phương pháp. Tiếp cận theo sơ đồ tuyến tính như trên trong điều kiện hiện nay có
phần không hợp lý. Thực tế hiện nay, người GV chọn phương pháp không chỉ
căn cứ vào nội dung mà còn trực tiếp từ mục tiêu. Ngay trong quá trình dạy học
cụ thể, nhiều trường hợp GV phải điều chỉnh lại nội dung như bổ sung, cập nhật
tri thức, cấu trúc lại bài học Sự điều chỉnh đó có cơ sở từ phương pháp. Thật
vậy, “Phạm trù phương pháp trong giáo dục nên hiểu, không chỉ là phương pháp
thực hiện nội dung mà còn là phương pháp lựa chọn nội dung, cách thiết kế
chương trình đào tạo, tổ chức quá trình đào tạo. Do vậy hiện nay có xu thế tiếp
cận theo sơ đồ tam giác. Theo đó, mục tiêu trực tiếp chi phối phương pháp,

phương pháp trực tiếp đáp ứng yêu cầu của mục tiêu.
+ Ở các nhà trường của Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển
khác cho đến những năm gần đây hầu như chủ yếu vẫn dạy học theo các phương
pháp truyền thống, nặng về thuyết giảng một chiều, thầy đọc, trò ghi; hoạt động
của thầy chiếm vị trí độc tôn trong quá trình dạy học, còn học trò thì thụ động
tiếp thu những tri thức có sẵn. Hệ phương pháp truyền thống đó được gọi là
phương pháp dạy học thụ động, lấy người dạy làm trung tâm.
Thầy: chủ thể, trung tâm, đem kiến thức sẵn có truyền đạt, giảng giải cho
học sinh, người trao. Thầy có đặc quyền về tri thức, đánh giá.
Trò: thụ động tiếp thu những gì thầy truyền đạt: nghe, ghi, nhớ và làm lại, là
người nhận.
+ Để đáp ứng yêu cầu phát triểnKTXH trong giai đoạn hiện nay, con người
Việt Nam cần có những phẩm chất trí tuệ nổi bật có tính bao trùm và đặc trưng
cho thời kỳ hội nhập, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; trong đó đặc biệt coi trọng năng lực tư duy sáng tạo, phát hiện và
giải quyết vấn đề, ham học và có khả năng tự học suốt đời, chủ động trong công
việc, thích ứng và nhạy bén trước sự tác động của môi trường.
Do đó, việc hình thành và phát triển thói quen, khả năng, phương pháp tự
học, tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề, tự ứng dụng lại kiến thức và kỹ năng đã
tích luỹ được vào các tình huống ở mỗi cá nhân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Thói quen, khả năng, phương pháp nói trên phải được hình thành và rèn luyện
ngay từ trên ghế nhà trường. Vì vậy, học sinh phải học tập một cách tích cực, độc
lập, sáng tạo.
Để tích cực hoá học sinh và quá trình học tập nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện trong bối cảnh hiện nay, một nhiệm vụ có tính sống còn là
phải đổi mới phương pháp giáo dục nói chung và phương pháp dạy học nói riêng.
Từ những năm trước, Đảng đã chỉ rõ: “Đổi mới phương pháp dạy và học ở tất cả
các cấp học, bậc học. Kết hợp tốt với hành, học tập với lao động sản xuất, thực
nghiệm và nghiên cứu khoa học; gắn nhà trường với xã hội. Áp dụng những
phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng

tạo, năng lực giải quyết vấn đề”.
Yêu cầu tích cực, hiện đại của PPGD trong nhà trường phổ thông đã được
cụ thể hoá trong Luật giáo dục 2005: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với lứa tuổi
của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc
theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến
tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
+ Quản lý việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS Bế Văn Đàn
- Dạy học theo lối truyền thống đã trở thành thói quen bao đời, một sức ì
thâm căn cố đế trong tâm lý và hoạt động ở cả người dạy lẫn người học. Người
dạy cảm thấy an toàn, không mất thời gian; người học cũng thấy nhẹ nhàng, ít vất
vả. Cộng thêm sự thiếu thốn về CSVC, thiết bị dạy học, nội dung chương trình
nặng nề, chỉ đạo chưa kiên quyết nên phần lớn giáo viên càng có cớ dựa dẫm
không quan tâm nghiên cứu, sử dụng các phương pháp dạy học tích cực. Vì vậy,
ban giám hiệu nhà trường đã xác định đổi mới PPDH là quá trình lâu dài, và đối
với GV – có thể nói – là còn dạy thì còn phải tiếp tục đổi mới.
- Thực chất của đổi mới PPDH ở trường THCS Bế Văn Đàn trong giai đoạn
hiện nay là làm thay đổi các phương pháp dạy học nhằm phục vụ tốt nhất mục
tiêu dạy học trong tình hình mới. Đó là quá trình làm hẹn chế dần các phương
pháp dạy học truyền thống thụ động, đồng thời tăng cường sử dụng những
phương pháp dạy học tích cực – hướng về học sinh, những biện pháp tích cực hoá
học sinh và quá trình học tập, như dạy học cá nhân hoá, dạy học phân hoá, dạy
học tích hợp
- Quản lý việc đổi mới PPDH hướng đến những mục tiêu sau:
Đội ngũ giáo viên của nhà trường nhận thức sâu sắc được tầm quan trọng,
tính bức xúc và xu thế đổi mới PPDH; có lòng mong muốn và kiên trì đổi mới.
Thấy rõ được những đặc điểm, nhược điểm của các PPDH thụ động, lấy
GV làm trung tâm; có hiểu biết về bản chất, cấu trúc, đặc trưng, ưu điểm và hạn
chế của các PPDH tích cực, lấy học sinh làm trung tâm.
Thể hiện nhiệm vụ đổi mới PPDH liên tục, từ suy nghĩ đến hành động

xuyên suốt mọi khâu của quá trình dạy học, từ việc chuẩn bị cho tới việc kiểm tra
đánh giá học tập của học sinh, thông qua mọi chủ thể trong nhà trường như tổ
chuyên môn, tổ chủ nhiệm, từng GV và học sinh
Đó là mục tiêu chung, có tính lâu dài, định hướng cho sự chỉ đạo đổi mới
PPDH. Trên cơ sở đó, nhà trường cụ thể hoá thành mục tiêu cho từng giai đoạn
và năm học.
- Trong kế hoạch năm học của trường, về việc đổi mới PPDH, đã nêu cụ thể
mục tiêu, những hoạt động chung (hội thảo cấp trường, báo cáo chuyên đề ),
định hướng hoạt động cho các tổ chuyên môn, tổ chủ nhiệm; những điều kiện
đảm bảo, trách nhiệm cá nhân, sự phối hợp thực hiện. Kế hoạch của các tổ
chuyên môn được lập thật cụ thể về yêu cầu, chương trình hoạt động cho tháng;
cùng với BDCM, đổi mới PPDH là những trọng tâm hoạt động của tổ. Đối với
mỗi GV việc đổi mới PPDH được thể hiện thật cụ thể, có sự định lượng trong kế
hoạch dạy học bộ môn của năm học, kế hoạch tự BDCM của từng giáo án.
- Về mặt tổ chức, làm rõ sự phân công trong BGH, các tổ trưởng chuyên
môn, GV đầu đàn và quan hệ phối hợp trong việc thực hiện kế hoạch đổi mới
PPDH. Mỗi thành viên của BGH đi sâu theo dõi, kiểm tra, chỉ đạo một hoặc hai
môn. Phân công cho GV đầu đàn đi sâu nghiên cứu viết đề cương, chuyên đề và
trình bày lại trong GV theo sự ưu tiên, cái gì cần trước thì làm trước. Tổ trưởng
chuyên môn có trách nhiệm xây dựng, tổ chức thực hiện, đánh giá, tổng kết về
chương trình đổi mới PPDH thuộc bộ môn, và mỗi GV có trách nhiệm biên soạn
một số giáo án và dạy một số tiết minh hoạ cho chương trình trong mỗi năm học.
Ngoài chỉ đạo chung, HT có trách nhiệm chính trong việc xây dựng hệ thống
chuẩn, các tiêu chí để thuận lợi cho việc định hướng và đánh giá kết quả; đi đầu
trong việc nghiên cứu và sưu tầm, cập nhật tài liệu phục vụ đổi mới PPDH.
- Xây dựng và tiếp tục hoàn thiện chuẩn đổi mới PPDH làm cơ sở cho việc
kiểm tra đánh giá, điều chỉnh. Hình thành sự phối hợp kiểm tra đánh giá giữa
BGH với các tổ trưởng chuyên môn. Thường xuyên kiểm tra đủ ba khâu là công
việc chuẩn bị – kế hoạch, thực hiện và kết quả.
- Tuy nhiên quá trình đổi mới PPDH ở trường THCS cần lưu ý những điểm

sau:

×