Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

chức năng cơ bản nhất của thị trường tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.6 KB, 24 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Ngày nay, trong xã hội hiện đại đặc biệt là sự phát triển như vũ bão của
công nghệ thông tin “nơi diễn ra quá trình trao đổi, mua bán”. Hoạt động trên
thị trường tài chính diễn ra hết sức sôi động, thậm trí ra quyết định phải tính
đến một phần của giây, đứng trên góc độ này thì kinh doanh trên thị trường tài
chính thực ra là kinh doanh thông tin. Thị trường tài chính được ra đời và phát
triển một cách nhanh chóng và cùng với những công nghệ thông tin như vậy
thì ngày nay thị trường tài chính đặc biệt được quan tâm.
Để cho dễ theo dõi em xin được trình bày nội dung bài viết của mình
như sau, bài viết được chia ra làm 2 phần:
+ Phần 1: (Bao gồm tất cả những nội dung chính) Tìm hiểu về thị trường
tài chính và các công cụ của thị trường tài chính.
+ Phần 2: Các nhân tố ảnh hưởng
1
I/ TÌM HIỂU VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VÀ CÁC CÔNG CỤ CỦA THỊ
TRƯỜNG TÀI CHÍNH
1. Thị trường tài chính
Thị trường tài chính theo cách hiểu chung nhất đó là nơi diễn ra quá trình
trao đổi mua bán các công cụ tài chính và các công cụ thanh toán.
1.1. Chức năng của thị trường tài chính:
Chức năng cơ bản nhất của thị trường tài chính là khơi thông dòng chảy
vốn từ người đang dư thừa có nhu cầu đầu tư sang người đang cần vốn. Hoạt
động của thị trường tài chính diễn ra khẩn trương sôi động xét về bản chất thì
những người kinh doanh trên thị trường tài chính là rất quan trọng bởi vì hoạt
động của họ làm nguồn vốn được điều hòa có nghĩa là dòng chảy vốn sẽ chảy
mạnh mẽ đến những ngành, lĩnh vực làm ăn có hiệu quả và ngược lại nó cũng
sẽ rút khỏi những lĩnh vực kém hấp dẫn. Như vậy hoạt động trên thị trường
tài chính sẽ góp phần lớn vào bình quân hóa tỉ suất lợi nhuận đưa nền kinh tế
tới mô hình tối ưu hơn.
Để có thể nêu nên một cách đầy đủ những chức năng tác dụng của thị
trường này còn nhiều điểm phải đề cập song ở đây chỉ đề cập đến chức năng


cơ bản nhất của thị trường tài chính.
1.3. Phân loại thị trường tài chính
Có nhiều cách phân loại thị trường tài chính dùa theo các tiêu thức khác
nhau, nếu căn cứ vào thời hạn các hàng hóa trên thị trường có thể chia thành
thị trường vốn và thị trường tiền tệ, nếu căn cứ vào mức độ rộng rãi của các
chủ thể tham gia có thể chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, nếu
căn cứ vào tiêu thức huy động vốn của các chủ thể thì lại chia thành thị
trường nợ và thị trường vốn cổ phần.
2. Các công cụ tài chính
Tại sao khi phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất của các công cụ
tài chính trong nền kinh tế thị trường chúng ta cần thiết phải tìm hiểu đặc
điểm của các công cụ tài chính? Thực tế đã chứng minh rằng nền kinh tế càng
phát triển thì các hình thức thanh toán nợ cũng phát triển tương xứng, do đó
mà sự đa dạng hóa các công cụ tài chính sẽ được đề cập đến dưới đây. Nhưng
để trả lời câu hỏi trên chúng ta cần thiết phải nhận thấy rằng hàng hóa trên thị
trường tài chính cũng giống như trên các thị trường khác cũng có những nét
riêng biệt của nó. Tức là mỗi nhân tố ảnh hưởng có thể chỉ ảnh hưởng đến
2
một hay một nhóm các công cụ này mà không ảnh hưởng đến các công cụ
khác, thậm chí với những diễn biến nhất định thì có lợi cho công cụ này
nhưng lại không có lợi cho công cụ khác. Một ví dụ điển hình là nguyên nhân
gây ra sụp đổ thị trường cổ phiếu Hoa Kỳ vào “ngày thứ hai đen tối”
19/07/1987 lại là nguyên nhân làm cho trái khoán kho bạc trở nên hấp dẫn,
cầu về trái khoán kho bạc tăng vọt. Kết quả là sự chênh lệch lãi suất giữa trái
khoán của công ty kém tín nhiệm với trái khoán của kho bạc lên đến 6%. Hay
nói cách khác thì những công cụ trên thị trường tài chính hoàn toàn có thể coi
là những hàng hóa thay thế cho nhau. Do đó các nhân tố ảnh hưởng không
phải luôn luôn ảnh hưởng thuận chiều đối với mọi trái khoán nên cần thiết
phải tìm hiểu từng loại công cụ tài chính.
Nếu xem xét thị trường tài chính theo cách phân loại như trên thành thị

trường tiền tệ và thị trường vốn thì hai loại thị trường này cũng có những
công cụ riêng của nó.
2.1. Các công cụ trên thị trường tiền tệ
Đó là các công cụ tài chính ngắn hạn, kỳ hạn thường dưới một năm (hay
một năm). Có thể chia ra thành các công cụ chiết khấu và các công cụ mang
lãi suất.
2.1.1. Công cụ chiết khấu
Công cụ chiết khấu là những chứng nhận nợ ngắn hạn không mang lãi
suất, được bán với giá chiết khấu và được thanh toán khi đến hạn với đầy đủ
mệnh giá. Bao gồm các công cụ sau:
a. Tín phiếu kho bạc (Bills)
Chủ thể phát hành: Do kho bạc nhà nước hay NHTW phát hành.
Mục đích phát hành: do ngân sách các quốc gia thường xuyên bị thâm
hụt, tín phiếu kho bạc được phát hành để bù đắp sự thâm hụt này và cũng là
công cụ quan trọng để ngân hàng trung ương điều hành chính sách tiền tệ.
Các đặc điểm khác: Thời hạn thông thường là 3 tháng, 6 tháng hay một
năm và phát hành bằng cách đấu giá. Việc mua bán ở thị trường tín phiếu chủ
yếu dùng tiền mặt. Kho bạc thường phát hành tín phiếu dưới hình thức vô
danh. Tín phiếu kho bạc được phát hành ở mức chiết khấu của mệnh giá và
được kho bạc chuộc lại ở kỳ hạn thanh toán với các mệnh giá. Ví dụ mua tín
phiếu kho bạc 900$ sau một năm sẽ được thanh toán bằng giá trị ghi trên tín
phiếu là 1000$. Tín phiếu kho bạc là công cụ quan trọng nhất của thị trường
3
tiền tệ và có khối lượng phát hành lớn, nó cũng là công cụ lỏng nhất trong các
công cụ của thị trường tiền tệ.
b. Các chấp nhận của ngân hàng (Banker’s Acceptance)
Chủ thể phát hành: do một công ty thường là bên mua trong giao dịch
thương mại quốc tế.
Mục đích dùa vào uy tín của ngân hàng, nhờ ngân hàng bảo đảm với một
khoản lệ phí bằng cách đóng dấu “đã chấp nhận” lên hối phiếu. Do đó các

công ty không phải thanh toán bằng tiền của mình ngay, do vậy giải quyết
được các khó khăn về tài chính. Thực chất thì đây là hình thức mua bán chịu
song các hối phiếu chấp nhận của ngân hàng được coi là tài sản lưu động với
bên sở hữu hối phiếu.
Các đặc điểm khác: gần đến ngày thanh toán, công ty phát hành hối
phiếu phải gửi số tiền bắt buộc vào tài khoản của mình ở ngân hàng đủ để trả
cho hối phiếu nếu không làm được thì ngân hàng phải thay công ty thanh
toán, các hối phiếu đang là công cụ tỏ ra khá an toàn vì ngay cả trong trường
hợp công ty mua hàng đã phá sản thì hối phiếu vẫn được ngân hàng thanh
toán đủ. Các hối phiếu này được bán lại trên thị trường thứ cấp với sự giảm
giá và có tác dụng tương tự như tín phiếu kho bạc.
c. Thương phiếu (Commercial Papers)
Cũng tương tự như hối phiếu ở trên về chủ thể phát hành và về mục đích
song các thương phiếu không được ngân hàng chấp nhận các công ty phải
đảm bảo thanh toán.
Đặc điểm: Thương phiếu cũng có thể chiết khấu hoặc tái chiết khấu.
Chiết khấu thương phiếu là việc chủ sở hữu thương phiếu đem bán thương
phiếu trước thời hạn thanh toán (discount) tại các NHTM
Tái chiết khấu thương phiếu là việc NHTM đem bán các thương phiếu
cho NHTW trước thời hạn (Rediscount).
Bên cạnh đó thương phiếu còn được các doanh nghiệp lớn phát hành, tức
là họ đã thực hiện tài chính trực tiếp có thuận lợi là:
+ Lãi suất chiết khấu thấp hơn lãi suất vay trực tiếp ngân hàng
+ Có thể thu hót nguồn vốn nhàn rỗi phi ngân hàng để đầu tư ngắn hạn
4
+ Có đủ điều kiện linh hoạt người đi vay có thể tham gia hay rút khỏi thị
trường.
+ Với người đầu tư thương phiếu thị trường thu lợi nhuận lớn hơn các
công cụ thị trường tiền tệ khác.
1.2. Các công cụ mang lãi suất

Các chứng khoán mang lãi suất được phát hành với mệnh giá cố định
được đáo hạn ở những ngày nhất định và tất cả đến mang phiếu lãi suất, đó là
lãi suất mà người phát hành hứa hẹn thanh toán cho người nắm giữ trên mệnh
giá của chứng khoán sau một khoảng thời gian đã thỏa thuận bao gồm các loại
sau:
a. Chứng chỉ tiền gửi ngân hàng (CDs): Là sổ tiết kiệm xác nhận cá
nhân hay tổ chức có tiền gửi ở ngân hàng.
Chủ thể phát hành: các ngân hàng thương mại
Mục đích: đáp ứng nhu cầu vốn cho vay của ngân hàng đó là nghiệp vụ
“đi vay để cho vay”.
Các đặc điểm: Lãi suất của chứng chỉ tiền gửi được quy định cho từng
thời kỳ nhất định. Khi đến hết thời hạn thanh toán, CDs đuợc trả hết giá mua
ban dầu. Tùy theo pháp luật của mỗi quốc gia quy định CDs có thể lập được
mua bán chuyển nhượng hay không.
b. Các hợp đồng mua lại (Repurchase agreement)
Chủ thể phát hành: Những người kinh doanh ngân hàng và phi ngân
hàng là những người tạo chứng khoán chính phủ, chứng chỉ tiền gửi, các chấp
nhận của ngân hàng.
2. Các công cụ của thị trường vốn
Là các công cụ tài chính trung và dài hạn bao gồm một số loại chủ yếu
sau:
a) Cổ phiếu
Là loại chứng khoán vốn do công ty cổ phần phát hành để hình thành
vốn điều lệ khi mới thành lập hoặc chỉ tăng vốn để mở rộng sản xuất kinh
doanh. Định nghĩa này đã xác định chủ thể phát hành và mục đích phát hành
công cụ này.
5
b) Vay thế chấp
Vay thế chấp là những món tiền cho các cá nhân hoặc các công ty kinh
doanh vay để mua nhà, đất, hoặc những công trình kiến trúc thực khác, trong

đó các công trình kiến trúc và đất được dùng làm vật thế chấp cho mãn vay.
c. Trái khoán công ty
Đây là loại trái khoán dài hạn do các công ty phát hành với mức tín dụng
rất mạnh. Trái khoán công ty điển hình mang lại cho người giữ nó một khoản
thanh toán lãi 2 lần mỗi năm và thanh toán hết mệnh giá khi trái khoán đến kỳ
hạn thanh toán.
d. Những món vay thương mại ngân hàng cấp và vay tiêu dùng
Đây là những món vay dành cho người tiêu dùng và cho những công ty
kinh doanh và chủ yếu do ngân hàng cho vay, nhưng trường hợp các món vay
của người tiêu dùng, cũng còn do những công ty tài chính cho vay.
II/ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
Bình luận: Qua việc tìm hiểu ở trên đặc biệt là các đặc điểm của từng
loại công cụ tài chính đã chịu ảnh hưởng của các nhân tố tự thân nó đã là chủ
thể phát hành, mục đích phát hành, quy định của nhà nước áp dụng đối với
từng loại công cụ hay đó là những nhân tố hiện tại của công cụ tài chính. Và
xét trong thời gian dài thì tại mỗi thời điểm thì lãi suất thực của công cụ tài
chính sẽ khác nhau. Trong rất nhiều các nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội ảnh
hưởng nên xem xét dưới góc độ những nguyên nhân thay đổi, chúng có thể
phân chia làm 4 nhóm nhân tố lớn: nhóm thứ nhất là các yếu tố nội tại kể trên,
nhóm thứ hai là tác động của các nhân tố chính trị xã hội, và cuối cùng là tác
động của công ty và tình hình tài chính công ty chủ thể quan trọng trong tạo
ra hàng hóa cho thị trường tài chính. Việc phân chia này chỉ có tính chất
tương đối bởi vì các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau đó là mối quan hệ “đa cộng tuyến”. Ở phần này em xin trình bày các
nhân tố ảnh hưởng và các cơ chế ảnh hưởng đến lãi suất hay trả lời câu hỏi
như thế nào?. Xét dưới góc độ cung cầu thì mọi nhân tố trên có thể quy về
ảnh hưởng tới đường cầu trái khoán hay đại lượng quyết định đến lãi suất của
các công cụ tài chính. Vậy các nhân tố ảnh hưởng đến D-S của trái khoán như
thế nào?
6

1. Các yếu tố nội tại của công cụ tài chính
1.1. Độ rủi ro của các công cụ tài chính
Trong cuộc sống hàng ngày có lẽ cũng rất Ýt người được ưa thích rủi ro
mạo hiểm, trong thị trường tài chính cũng vậy các công cụ tài chính được
quảng cáo tuy rầm ré đến mấy thì công chúng cũng không hào hứng tham gia
nếu nó chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro ở bên trong. Do đó nó sẽ là hàng hóa
không được mọi người ưa thích tức là cầu về công cụ đó giảm dẫn đến đường
cầu về trái khoán sẽ dịch trái kết quả là làm tăng lãi suất
i : Lãi suất của trái khoán
Q: số lượng của trái khoán
Đường cầu trái khoán dịch chuyển
từ D
b
->D
b’
làm cho lãi suất tăng
từ i
1
-_ i
2
Với các chủ thể tham gia thị trường tài chính hay cũng giống như bất cứ
chủ thể kinh doanh trên các thị trường khác, câu hỏi đặt ra là sau một thời
gian nhất định số của cải rời khỏi tay họ có quay trở về với quy mô lớn hơn
hay chi Ýt cũng còn nguyên vẹn giá trị hay không? Như vậy là họ có thể tìm
kiếm được một đối tác có thể tin cậy được, có nguồn lực đủ mạnh để thanh
toán khoản tiền đã chuyển cho anh ta trong việc phát hành các công cụ tài
chính, chủ thể phát hành có vị trí quan trọng. Thông thường nhà nước được
coi là đối tác làm ăn tin cậy nhất vì đó là người nắm pháp luật trong tay và có
nguồn ngân sách khổng lồ. Nhưng có ai dám mua trái phiếu chính phủ
Mêxicô sau khi nước này tuyên bố không trả các món nợ quốc tế trong cuộc

khủng hoảng vào năm 1994. Dân chúng có dám bỏ tiền ngay cho chính chính
phủ của tân tổng sau khi ông này lật đổ vị tổng thống cũ Môbutu của nước
Zaie - quốc gia châu Phi liên tục xảy ra các cuộc nội chiến. Nhưng đây chỉ là
những trường hợp hiếm khi xảy ra với các nước kinh tế vững mạnh, chính trị
ổn định như Mỹ, Anh, Nhật Bản, Đức thống nhất thì khả năng chính phủ
không thanh toán các khoản nợ là không xảy ra.
Với từng công cụ tài chính cụ thể, coi là người phát hành có tính chất
quyết định đến lãi suất, thông thường thì lãi suất của các công cụ tài chính do
chính phủ phát hành sẽ thấp hơn các công cụ do công ty phát hành.
7
i%
D
b’
D
b
i
1
E
2
E
1
i
2
S
b
0
QQ
2
Q
1

1.2. Kỳ hạn của các công cụ tài chính
Theo trình bày ở trên thì thị trường hiện nay chủng loại các công cụ tài
chính thật đa dạng. Xét về kỳ hạn thì các công cụ tài chính trên thị trường tiền
tệ có kỳ hạn ngắn nhất chỉ trên dưới một năm, còn trên thị trường vốn thì kỳ
hạn dài hơn.
Kỳ hạn của công chúng có rất nhiều loại tùy theo từng đợt phát hành với
trái phiếu công ty kỳ hạn thông thường là 5,10,20 năm hay thậm chí đến 30
hay 50 năm.
Trong thực tế lãi suất của các
công cụ tài chính có kỳ hạn khác
nhau thì mang lại lãi suất khác nhau
và các công cụ ngắn hạn thường có
lãi suất cao hơn các công cụ ngắn hạn
như hình vẽ bên:
Nói tóm lại câu hỏi đặt ra ở phần này: nhân tố kỳ hạn ảnh hưởng tới lãi
suất của công cụ tài chính như thế nào?
Đây là câu hỏi không dễ trả lời, đã có một số lý thuyết được đưa ra để
giải thích vấn đề này. Các lý thuyết đưa ra thường gặp trở ngại: Nếu giải thích
được đường cong lãi suất thì không giải thích được tại sao lãi suất các công cụ
ngắn hạn thay đổi khi các công cụ dài hạn có xu hướng thay đổi theo.
Theo lý thuyết về “giả thuyết dự tính” đưa ra quan điểm: “lãi suất của
một trái khoán dài hạn sẽ bằng trung bình của lãi suất ngắn hạn mà dân chúng
dự tính trong thời gian tồn tại của trái khoán dài hạn đó”. Do vậy lý thuyết
này đã thành công trong việc giải thích tại sao lãi suất các công cụ ngắn hạn,
dài hạn lại thay đổi phụ thuộc lẫn nhau.
Theo “lý thuyết thị trường phân cách” đúng như thế gọi của nó cho rằng
lãi suất xác định cho một công cụ nào đó được xác định bằng cung cầu với
trái khoán kỳ hạn đó và không chịu tác dụng của những kỳ hạn đó, tức là
những trái khoán không phải là những hàng hóa thay thế cho nhau. Lý thuyết
này được bổ sung thêm một giả thiết nữa là người ta thường ưu tiên cho

những khoản đầu tư ngắn hạn hơn, lý thuyết này đã thành công trong giải
thích đường cong lãi suất thường dốc lên phía trên.
Lý thuyết môi trường ưu tiên đã khắc phục được nhược điểm của hai lý
thuyết trên bằng cách cho rằng “lãi suất của một trái khoán dài hạn sẽ bằng
trung bình của những lãi suất ngắn hạn được trông đợi xuất hiện trong thời
8
L·i suÊt
hoµn vèn
Theo kú thanh to¸n
0
gian tồn tại của trái khoán dài hạn đó cộng với mức bù hạn kỳ, mức bù này
ứng với hạn kỳ trái khoán đó”.
Do đó chúng ta thấy rằng lý
thuyết môi trường ưu tiên là tổng hợp
của 2 lý thuyết trên và nó cũng đã đưa
ra các giải thích tại sao trong thực tế
các đường lãi suất lại có các chiều
dốc khác nhau:
Cơ sở của việc giải thích dùa vào hai giả thiết: Dân chúng dự đoán rằng
lãi xuất của các trái khoán ngắn hạn trong tương lai có trung bình thấp hơn
mức lãi suất ngắn hạn hiện hành nhưng lại lớn hơn cả mức bù kỳ hạn. Do đó
đường lãi suất có dạng như trên.
* Liên hệ ở Việt Nam
Ở nước ta hiện nay mối liên hệ giữa kỳ hạn của một số công cụ tín dụng,
cụ thể là lãi suất tiền gửi được công bố bởi ngân hàng Viêtcombank như sau:
Kỳ hạnLãi suất L·i suÊt
3 tháng0,6% 0,6%
6 tháng0,65% 0,65%
Không kỳ hạn0,4% 0,4%
Hiện nay kho bạc nhà nước ta cũng đang phát hành loại trái phiếu kho

bạc nhà nước kỳ hạn 2 năm lãi suất 12%.
Như vậy là trái phiếu kho bạc nhà nước đã phát hành loại công cụ có kỳ
hạn dài hơn và lãi suất cao hơn so với các chứng chỉ tiền gửi ở trên, điều này
hoàn toàn phù hợp với lý thuyết đã phân tích ở trên. Nếu xem xét ngânhàng là
người cho vay thì trước năm 1996, lãi suất cho vay giữa ngắn hạn và dài hạn
hoàn toàn khác với lý thuyết trên, lãi suất cho vay dài hạn nhỏ hơn cho vay
ngắn hạn. Tuy nhiên hiện nay đã được điều chỉnh lại, đây là chuyển biến tích
cực khuyến khích các ngân hàng thương mại mạnh dạn hơn trong việc huy
động vôn cho vay trong dài hạn.
Ở Việt Nam thị trường tài chính chưa phát triển và ta cũng chưa có thị
trường chứng khoán. Do đó trên thị trường tài chính thiếu vắng các công cụ
tài chính trung và dài hạn. Với người dân Việt Nam hay cũng giống như
9
L·i suÊt
hoµn vèn
H¹n kú thanh to¸n
0
người dân ở các nước khác trên thế giới thật khó mà kiên trì đợi đến 5 năm
hay 10 năm để thu hồi khoản vốn cho vay. Có nghĩa rằng ở nước ta hiện nay
thông thường thì lãi suất hoàn vốn đúng bằng mức lợi tức hay là người dân sẽ
gửi nó trong suốt thời hạn. Mặt khác ở nước ta vừa thoát ra khỏi lạm phát thì
lại phát hành các công cụ tài chính dài hạn chúng chưa có tính khả thi vì nhân
dân còn nghi ngại lạm phát có thể hoành hành trở lại.
1.3. Khả năng chuyển đổi (độ linh động - tính lỏng)
Tính linh động của một tài sản phản ánh khả năng và mức độ thuận tiện
để chuyển tài sản đó thành tiền.
Với các công cụ tài chính lỏng của mỗi loại là khác nhau. Trên thị
trường tài chính người ta dễ dàng. Khi quyết định mua một trái phiếu của
chính phủ và băn khoăn khi quyết định mua một lô cổ phiếu của một công ty
nào đó. Lý do là vì với trái phiếu chính phủ khoản lợi họ nhìn thấy rõ ràng

hơn so với cổ phiếu bởi vì trong thương trường có sự giám chắc rằng năm nay
công ty đó làm ai đó lãi hay không.
Tính lỏng của công cụ tài chính còn thể hiện ở chỗ thị trường của công
cụ đó có lớn hay không? Hoạt động có nhén nhịp hay không? Nếu có thì
chúng ta dễ dàng bán công cụ trong tay người khác trên thị trường rộng lớn
đó đang có nhu cầu cần loại công cụ này. Và với một nhà đầu tư, có những
lúc họ cần chuyển một số công cụ mà họ nắm giữ sang tiền để lo liệu một
công việc đang cần thiết mặc dầu trái khoán của họ đang sinh lợi.
Để xử lý những trường hợp như thế rõ ràng là các trái khoán trong tay họ
phải có “tính lỏng” do vậy sẽ được ưa thích hơn.
10
L·i suÊt
i%
D
b’
D
b
E
2
E
1
i
1
S
b
i
2
Sè lîng tr¸i kho¸n
Q
2

Q
1
0
Và cái giá phải trả cho sự ưa thích của họ là họ sẽ nhận được một lãi suất
thấp hơn do đường cầu dịch sang phải do số người ưa thích tăng lên (như hình
vẽ). Đường cầu dịch từ D
b
-> D
b’
làm cho lãi suất giảm từ i
1
->i
2
1.4. Thuế thu nhập
Một yếu tố ra đời ngay khi công cụ tài chính được là nhà nước sẽ áp
dụng một thuế suất thu nhập với nó. Thuế này quy định một tỷ lệ nhất định
khoản thu nhập mà người sở hữu phải nép cho nhà nước. Thuế suất áp dụng
cho các loại công cụ khác nhau là không giống nhau tùy thuộc vào mục tiêu
của nhà nước.
Rõ ràng đứng dưới góc độ này thì nhà nước giữ vai trò quan trọng trong
các nhân tố ảnh hưởng. Nếu xem xét các yếu tố khác là như nhau thì quyết
định mua công cụ nào chưa hẳn đã phụ thuộc vào lãi suất mà người sở hữu đó
thu được. Chúng ta sẽ chọn loại công cụ này hàng năm đem lại cho ta 100$
tiền lãi nhưng ta phải nép 30$ hay sẽ chọn 90$ với khoản nép vào ngân sách
10$.
Kết quả là chính sách thuế của nhà nước trong một số trường hợp sẽ làm
công chúng ưa thích hay tẩy chay một loại công cụ nào đó do vậy cầu sẽ tăng
hay giảm làm cho lãi suất thay đổi.
* Sức hấp hẫn của các công cụ tài chính khác
Cũng giống như các loại hàng hóa khác cầu của một trái khoán nhất định

sẽ phụ thuộc vào sức hấp dẫn của các loại trái khoán khác, tức là sẽ chịu ảnh
hưởng của hàng hóa thay thế. Hiệu ứng của việc các cônt ty đổ bể sẽ chuyển
nguồn vốn của công chúng vào việc mua sắm các trái khoán của chính phủ có
độ tin cậy cao hơn.
Trong phân tích các nhân tố nội tại nếu xét chi tiết từng loại công cụ
riêng biệt thì mỗi đặc điểm riêng của nó cũng gây ra mức lãi suất khác nhau.
Nhất định là người mua trái phiếu của công ty có tài sản làm đảm bảo sẽ được
nhận mức lãi suất thấp hơn loại không có tài sản đảm bảo, trái phiếu có khả
năng chuyển đổi và trái phiếu thông thường của công ty sẽ nhận được lãi suất
tương tự.
Có thể coi lãi suất do nhà nước công bố với các trái khoán của mình
cũng là một loại hàng hóa thay thế.
Mặt khác thì nó cũng chịu ảnh hưởng của hàng hóa bổ sung. Trong một
số trường hợp khi phát hành cổ phiếu, công ty sẽ khuyến khích người mua
11
sách bán cho họ một chứng quyền đặt mua (Rights). Đó là một quyền ưu đãi
mà công ty cho các cổ đông của mình được hưởng để mua cổ phiếu mới tỷ lệ
thuận với số cổ phiếu mà họ đang nắm giữ. Khi phát hành họ sẽ được mua với
giá ưu đãi. Rõ ràng là kỳ vọng thu được nhiều lợi tức hơn trong nghiệp vụ này
của công chúng sẽ làm cho cầu của trái phiếu tăng lên và lãi suất sẽ giảm.
2. Các yếu tố kinh tế chung
Hoạt động mua bán trao đổi các công cụ tài chính xét về bản chất thìnó
hoạt động đáp ứng và điều hòa vốn cho nền kinh tế. Trong điều kiện nào thì
nền kinh tế mới hấp thụ tốt được nguồn vốn, có nhà kinh doanh nào dám bỏ
vốn ra trong thời kỳ nền kinh tế đang suy thoái, sản phẩm đang Õ thừa trên thị
trường. Nói tóm lại là hoạt động của thị trường tài chính phải phụ thuộc vào
cả nhu cầu về vốn đầu tư và khả năng cung ứng. Vậy trong tổng thể nền kinh
tế có những nhân tố nào ảnh hưởng tới lãi suất của các công cụ tài chính.
2.1. Các biến số vĩ mô
Lạm phát là một khái niệm của kinh tế học chỉ sự tăng giá trung bình của

hàng hóa theo thời gian. Khái niệm lạm phát thuần túy là trường hợp tất cả
các giá cả của hàng hóa và các yếu tố sản xuất tăng theo cung f một tỷ lệ phần
trăm. Tuy nhiên đây là trường hợp hiếm khi xảy ra.
Lạm phát là căn bệnh kinh niên của nền kinh tế xảy ra trầm trọng trong
thời kỳ có khủng hoảng. Một ví dụ điển hình như lạm phát năm 1987 ở
Braxin 230%, Mêxicô 130% trong lịch sử đã diễn ra siêu lạm phát ở Đức từ
tháng giêng đến tháng 10 năm 1923 khi Đức thất bại trong cuộc chiến tranh
thế giới lần thứ nhất giá cả đã tăng 191.891,890 lần, con số khủng khiếp. Gần
đây là Nam Tư đồng tiền mất giá đến mức trẻ em mang chóng ra dán diều làm
đồ chơi. Hậu quả của lạm phát ai cũng thấy rõ, chính vì thế mà trong những
năm 1980 tổng thống Reagan, bà Thatcher, thủ tướng H. Cohl và nhiều nhà
lãnh đạo quốc gia khác đã gọi lạm phát là kẻ thù chung sè 1, đẩy lùi lạm phát
là ưu tiên hàng đầu.
Lạm phát và lãi suất là biến số luôn đi song hành với nhau. Thực tế ở
Việt Nam đã chứng minh điều đó, vào cuối những năm 1980 khi lạm phát ở
nước ta lên đến mức hai con số thì lãi suất được NHTW công bố lên đến 10%
tháng. Vào thời điểm hiện nay thì lạm phát đã được đẩy lùi chỉ số lạm phát 9
tháng đầu năm 1997 là 2%.
Với một nhà đầu tư trên thị trường tài chính hay nói đúng hơn là người
cho vay, người ta quan tâm đến lãi suất thực của các công cụ tài chính chứ
12
không phải là các lãi suất được công bố, lãi suất thực là lãi suất đã tính đến
yếu tố lạm phát và được xác định bởi:
r = 1- fi: lãi suất danh nghĩa i: l·i suÊt danh nghÜa
r: lãi suất thực
f: tỉ lệ lạm phát
Mặc dầu được mời chào với lãi suất hấp dẫn là 15% một năm nhưng
không ai muốn mua công cụ tài chính đó nếu lãi suất hiện tại là 20% năm và
có nguy cơ ngày càng tăng cao.
Từ phương trình trên để cho r >0 thì i>f. Do vậy để hấp dẫn khách hàng

thì lãi suất danh nghĩa khi phát hành là một loại công cụ phải lớn hơn tỷ lệ
lạm phát hiện hành.
Do vậy có thể khẳng định rằng trong các biến số vĩ mô thì lạm phát là
nhân tố quan trọng hàng đầu ảnh hưởng đến lãi suất.
2.2. Tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp
Các nhà kinh tế tham dự cuộc hội thảo do ngân hàng châu Á (ADB) tổ
chức tại Manina (Philipin) tháng 10 năm 1997 đã đi đến kết luận là khủng
hoảng tài chính tiền tệ ở Đông nam Á sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế
của các nước trong 3 năm hay cũng đồng thời dự báo với quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF) cho rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế ở các nước Đông nam Á sẽ chỉ đạt
từ 3-4% trong 2 năm 1997 và 1998. Kết quả đã làm cho một ố dòng đầu tư dự
định vào khu vực này đã đổi hướng sang Mỹ La tinh đang được coi là khu
vực kinh tế mới nổi. Dự đoán này làm cho thị trường tài chính khu vực kém
sôi động, giá cả các loại cổ phiếu, trái phiếu sụt giảm mặc dầu còn nhiều
nguyên nhân khác.
Tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự gia tăng quy mô của sản xuất và
dịch vụ trong nền kinh tế.
Tốc độ tăng trưởng là mức tăng % hàng năm của biến số này. Như vậy
tốc độ phản ánh diễn biến kinh tế của giai đoạn hiện tại và dự đoán sức khỏe
của nền kinh tế trong tương lai. Nếu tốc độ tăng trưởng cao thì cơ hội thu lợi
nhuận sẽ lớn các nhà đầu tư tin vào tương lai sáng sủa của nền kinh tế và mở
rộng đầu tư nhu cầu về vốn sẽ lớn nâng lãi suất lên cao.
Câu hỏi đặt ra là tại sao trong thời gian qua từ 1991 đến nay ở Việt Nam
tốc độ tăng trưởng kinh tế có xu hướng tăng lên đến 8-9% mà lãi suất không
13
ngừng được điều chỉnh theo xu hướng giảm xuống. Câu hỏi này có thể được
trả lời dưới nhiều góc độ trước hết là lạm phát phi mã được đẩy lùi, mặt khác
là từ khi ngân hàng nước ta thực hiện chế độ ngân hàng hai cấp vào năm 1991
với chính sách mở của nền kinh tế xuất hiện một số chi nhánh ngân hàng
nước ngoài làm cho thị trường tài chính nước ta bước đầu tiếp cận được với

thị trường tài chính quốc tế làm lãi suất của ta gần với lãi suất quốc tế hơn
(hiện nay khoảng 8,2%/năm).
Tăng trưởng kinh tế có liên quan chặt chẽ đến tỷ lệ thất nghiệp. Tỷ lệ
thất nghiệp là sè % số người thất nghiệp so với tổng số người trong lực lượng
lao động. Người thất nghiệp được hiểu là người có khả năng và sẵn sàng làm
việc ở mét mức lương nhất định nhưng không kiếm đựơc việc làm. Khi thất
nghiệp ở mức cao sản xuất sút kém tài nguyên không được sử dụng hết thu
nhập dân cư giảm sút. Nạn thất nghiệp là vấn đề nan giải của mọi quốc gia có
nền kinh tế thị trường. Một điều hiển nhiên là tỷ lệ thất nghiệp cao làm cho
một số người thu nhập, có nhu cầu đầu tư vốn giảm xuống ảnh hưởng một
phần tới cung về vốn hay về cầu trái khoán.
2.3. Tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái nếu hiểu theo nghĩa rộng là số đồng nội tệ cần thiết để
mua một đồng ngoại tệ thì khi tỷ giá hối đoái tăng lên cao thì nhà đầu tư cảm
thấy trái phiếu của họ ở các nước láng giềng giữ giá cao hơn và ngược lại khi
tỷ giá hối đoái xuống thấp thì của cải của họ đầu tư vào các thị trường tài
chính nước ngoài dường như bị mất giá trị. Do đó đây là một trong những cơ
sở để xác định trái khoán của quốc gia này có hấp dẫn công chúng của quốc
gia khác hay không là nguyên nhân dịch chuyển đường cầu trái khoán do đó
ảnh hưởng tới lãi suất.
Tuy nhiên sù thay đổi quá lớn trong tỷ giá hối đoái cũng sẽ làm cho
những nhà đầu tư nước ngoài cảm thấy yên tâm vì tỷ giá hối đoái sẽ ảnh
hưởng tới cả nền kinh tế nơi mà họ đang có ý định mua trái khoán trên thị
trường tài chính nước này. Sự sụt giảm giá trị đồng tiền ở hàng loạt các quốc
gia Đông Nam Á thời gian quâ đã khiến người ta lầm tưởng đến nền kinh tế
địa ốc bong bóng xà phòng của Nhật Bản vào đầu những năm 80. Giê đây
các nhà đầu tư nước ngoài sẽ ngần ngại hơn khi bỏ tiền ra mua cổ phiếu, trái
phiếu của các quốc gia Đông Nam Á so với thời kỳ trước khủng hoảng tài
chính tiền tệ.
Ở Việt Nam khi ngân hàng nhà nước nới rộng biên độ giao động của

VND so với USD từ 5% lên 10% gía thị trường chợ đen có lúc lên tới 13500
14
VND/USD khiến cho các doanh nghiệp ở ta lúng túng không biết nên vay
bằng VND hay USD. Rõ ràng là tỷ giá hối đoái đã ảnh hưởng lớn đến quyết
định vay ở đâu, các ngân hàng quốc doanh hay các ngân hàng nước ngoài.
2.4. Triển vọng và các lĩnh vực của nền kinh tế.
Trong thực tế khó có quốc gia nào liên tục giữ vững tốc độ tăng trưởng
một cách đều đặn vì có một nhân tố mang tính qui luật được các nhà kinh tế
học gọi là chu kỳ kinh doanh (The bussiness cycb). Chu kỳ kinh doanh được
biểu diễn trên đồ thị sau:
Trong đó đỉnh của đường cong đánh dấu một sự phát triển phồn thịnh
của nền kinh tế còn đáy của đường cong đánh dấu một giai đoạn suy thoái
thường gắn với một cuộc khủng hoảng kinh tế.
Nền kinh tế thế giới đã chứng kiến nhiều cuộc khủng hoảng :1918 -
1921; 1929 - 1933; 1970 - 1971; 1971 - 1982.
Trong đó cuộc khủng hoảng 1l929 - 1933 trong các nước tư bản có lẽ
là cuộc khủng hoảng qui mô và có sức tàn phá ghê gớm nhất đẩy nền kinh tế
các nước tụt hậu đến 10 năm. Vậy chu kỳ kinh tế ảnh hưởng tới lãi suất của
các công cụ tài chính như thế nào? Khi nền kinh tế được dự đoán là thịnh
vượng của sản xuất hàng hoá và dịch vụ gia tăng, có thể là đang trong giai
đoạn đi từ điểm B đến điểm C trong đồ thị - nhu cầu vay vốn cho sản xuất
kinh doanh tăng và cũng tăng cầu về mặt hàng này.
15
B
A
i%
i
2
i
1

Q
2
Q
1
D
2
D
1
C
A
0
B
Tèc ®é t¨ng trëng
Thêi gian
Thị trường trở nên sôi động "trăm người bán, vạn người mua" và thông
thường thì lãi suất sẽ tăng lên như đồ thị bên ở Việt Nam, mặc dù đời sống
nhân dân ta còn chưa cao nhưng ta có truyền thống là tiết kiệm,đặc biệt là từ
khi nước ta thực hiện chuyển nền kinh tế sang hoạt động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh
tế đã khấm khá lên rõ rệt tạo điều kiện tăng khả năng tích luỹ lòng nhân dân.
Tỷ lệ tích luỹ ở nước ta năm 1996 là 27,4% và người ta chợ đoán rằng còn có
khoảng 20 ngàn tỷ VND nhàn rỗi chưa được huy động và khoảng 1 tỷUSD
đang troi nổi trong dân cư. làm sao để nguồn vốn này phát huy tác dụng, các
công cụ tài chính của ta đã thực sự hấp dẫn chưa?
Tuy nhiên không phải cũng không hay quy thoái của nền kinh tế đều
diễn riễn ra đồng đều trong tất cả các lĩnh vực kinh tế hay trong điều kiện
bình thường thì cũng có ngành kinh doanh phát đạt cơ ngành lại chật vật với
những khó khăn. Do đó với một nhà đầu tư họ còn phải lùa chọn đưa của cải
đến ngành nào, lĩnh vực nào có lợi nhuận cao nhất. Như vậy lãi suất trái
khoán lại còn chịu ảnh hưởng của các hoạt động riêng biệt. Có một thực tế là

bất chấp sự khủng hoảng trì trệ của một số ngành khác, ngành công nghệ
thông tin đang phát triển một cách nhanh chóng và đã đưa Bill - Gate ông chủ
của công ty Microsoft lên vị trí giàu nhất thế giới với tài sản 42 tỷ USD theo
đánh giá của Fortune (10 - 1997)
2.5. Ngân sách chính phủ và thái độ với các biến số vĩ mô.
Năm điều kiện để gia nhập liên minh tiền tệ châu Âu là thiếu hụt ngân
sách nhỏ hơn 3% GDP, tổng nợ chính phủ Ýt hơn 60% GDP, lạm phát dưới
2,72%, lãi suất dài hạn dưới 8,23%/năm và đã tham gia cơ chế tỷ giá ngoại
hối, trong đó điều kiện thâm hụt ngân sách không quá 8% là điều kiện khó
khăn đối với nhiều nước đây là số lớn khi chóng ta biết rằng GDP của liên
minh này khoảng trên 4 ngàn tỷ USD, và năm 1997 có thể sẽ là năm đầu tiên
thâm hụt ngân sách của chính phủ Hoa kỳ giảm xuống dưới 100 tỷ USD.
Thâm hụt ngân sách có thể được bù đắp từ nhiều nguồn song chủ yếu là phát
hành tín phiếu kho bạc hay trong dài hạn bằng phát hành trái phiếu chính
phủ. Chắc hẳn đây là thị trường qui mô to lớn và có sức hấp dẫn cao vì chủ
thể phát hành có uy tín bậc nhất sẽ cạnh tranh gay gắt với các công cụ khác
trên thị trường tài chính. Như vậy chính phủ cũng là một người bán trên thị
trường tài chính, một chủ thể đặc biệt và khổng lồ góp phần quyết định
lượng cung trái khoán trên thị trường. Khi chính phủ cần thiết phải có một
khoản tiền phục vô cho nhu cầu nào đó thì chính phủ sẽ phát hành tín phiếu
muốn cho công cuộc huy động được nhanh chóng ngoài uy tín của mình
16
chính phủ sẽ nâng lãi suất của mình tới một mức hấp dẫn để bán hết số hàng
hoá của mình trên thị trường. Dân chúng sẽ đổ xô đi mua loại tín phiếu này
và kết quả là các công ty cũng phải nâng lãi suất trái phiếu của mình lên nếu
không dân chúng sẽ giành hết phần ưu ái cho chính phủ, do đó nhân tố ngân
sách chính phủ có lúc cũng sẽ quyết định lãi suất trên thị trường tài chính
trên phạm vi quốc gia đó.
Mặt khác dân chúng cũng quan tâm đến thái độ của chính phủ trong việc
giải quyết điều chỉnh các biến số vĩ mô như tỷ lệ lạm phát hay tỉ giá hối

đoái. Chính phủ kiên quyết kìm giữ tỉ lệ lạm phát hay cho tỉ lệ này nhích lên
một chút Ýt để kích thích các nhà sản xuất ở trong nước, chủ trương của
chính phủ là ổn định tỷ giá hối đoái trong thời gian tới hay là muốn thay đổi
để kích thích xuất khẩu hay hạn chế nhập khẩu. Vì vậy các mục tiêu của
chính phủ cũng sẽ ảnh hưởng tới các biến sè vĩ mô và ảnh hưởng tới lãi suất
của các công cô tài chính theo cơ chế như trên.
2.6. Kinh tế thế giới - kinh tế khu vực.
Theo các nhà phân tích do xu hướng hội nhập của các nền kinh tế trên
thế giới nên cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam á lan rộng sẽ
ảnh hưởng tới tất cả các thị trường và dẫn đến suy thoái kinh tế trên thế giới.
Chúng ta biết rằng kim ngạch xuất khẩu của Mỹ với các nước Châu á chiếm
tới 30% tổng kim ngạch, sau cuộc khủng hoảng cơ hội kiếm tiền ở các nước
này không dễ dàng như trước nữa dân chúng còn muốn xài hàng đắt tiền của
Mỹ nữa hay không? Nhật Bản chiếm 80% thị phần ô tô ở Châu Á khi các
nước này không còn đủ khả năng mua sắm xe Nhật ồ ạt như trước thì kinh tế
Nhật có bị ảnh hưởng hay không? và Nhật Bản, dân téc do vay lớn nhất trên
thế giới có ý định giúp các chi nhánh ngân hàng của họ ở Đông Nam Á hoạt
động vững vàng hơn sau cuộc khủng hoảng bằng cách các công ty đa quốc gia
của Nhật bản thu hồi vốn trên khắp thị trường tài chính trên thế giới thì tình
hình sẽ ra sao?
Tấm gương thị trường tài chính sẽ phản ánh toàn bộ những biến động
trong nước bức tranh kinh tế thế giới. Với những nhà kinh doanh chuyên
nghiệp trên thị trường tài chính hoạt động của họ trên tầm cỡ quốc tế thì
những thông tin ở phạm vi này sẽ là những dữ liệu quí giá trong quyết định
đầu tư mua bán các công cô tài chính trên thị trường. Các nhà đầu tư sẽ phản
ánh gì khi ngày 24 - 11 - 1997 vừa qua công ty buôn bán chứng khoán lớn thứ
tư của Nhật bản tuyên bố phá sản với khoản nợ không có khả năng thanh toán
25 tỉ sau tròn 1 năm hoạt động. Rõ ràng là phân tích của họ là có lý khi thực
17
tế diễn ra là các thị trường chứng khoán và tiền tệ Châu á và thế giới đã sụt

giá đáng kể: Trang phiên dịch ngày 24 - 11 chỉ số Dow - Jone trên thị trường
chứng khoán New york giảm 1,4%, chỉ số ở thị trường Fran furt (Đức) giảm
3%, Hồng Kông giảm 2,04%. Và đúng như dự kiến, ngày 25 - 11 trong
phiên giao dịch đầu tiên chỉ số chứng khoán trung bình Nikkei của thị trường
Tokyo đã giảm 5,1% nghĩa là giảm 854,05điểm so với phiên trước còn
13867,53 điểm.
Như vậy các nền kinh tế trên thế giới có mét mối gắn bó hữu cơ với
nhau, và khi một sự kiệndiễn ra rất dễ gây ra phản ứng dây truyền, lãi suất của
các công cụ tài chính mà chúng ta đang giữ trong tay cũng không nằm ngoài
mối liên hệ này có nghĩa là nó còn chịu ảnh hưởng của những diễn biến cách
chúng ta hàng vạn dặm.
3. Các nhân tố kinh tế xã hội.
Xu thế hoà bình hợp tác ngày nay đã thay thế cho xu hướng đối đầu
trong thời kỳ chiến tranh lạnh.
Các hoạt động ngoại giao diễn ra sôi động giữa các quốc gia điều đó
cũng thật dễ hiểu bởi vì kinh tế và chính trị là hai yếu tố đi song hành, kinh tế
hỗ trợ và quyết định chính trị và chính trị mở đường cho kinh tế. Vậy các hoạt
động ảnh hưởng tới lãi suất của các công cụ tài chính như thế nào hãy xem
xét bằng một vài thực tế chuyến viếng thăm của chủ tịch nước Cộng hoà nhân
dân Trung hoa sang Hoa kỳ là chuyến thăm được nhiều người mong đợi, đặc
biệt là giới doanh nghiệp, ngoài ý nghĩa chính trị cuộc viếng thăm còn mang ý
nghĩa kinh tế đâỷ tới một bước sự hợp tác giữa hai nền kinh tế lớn. Có lợi
nhuận nhất trong cuộc viếng thăm này có lẽ là công ty Boeing, Boeing sẽ
cung cấp cho Trung Quốc sè lượng máy bay trị giá lên tới 4,5 tỉ USD. Liệu
rằng sau này hợp đồng giá cổ phiếu, trái phiếu của công ty này có tăng lên
không?
Với Việt Nam chuyến viếng thăm chính thức của tổng thống Cộng hoà
Pháp G. Sirắc nhân dịp Hội nghị cấp cao VII khối Pháp ngữ tổ chức ở nước
ta từ ngày 14 - 16/11/1997 vừa qua đã gia tăng khối lượng đầu tư của Pháp
vào Việt nam. Các hợp đồng được ký kết trị giá gần 1 tỉ USD chủ yếu trong

lĩnh vực bưu chính viễn thông. Theo các chuyên gia kinh tế thì để hấp thụ
được một đồng vốn của đầu tư nước ngoài thì nước sở tại cần phải có từ 1
đến 2 đồng tương ứng. Như vậy là nảy sinh nhu cầu nguồn vốn lớn trong
nước để hấp thụ dòng đầu tư này, cho nên cung về trái khoán sẽ tăng làm
tăng lãi suất theo lý thuyết trên.
18
Thị trường tài chính cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của yếu tố tâm lý.
Mặc dù theo lý thuyết kinh tế thì mọi thứ đều đáng nhưng yếu tố tâm lý nhiều
khi lại đi ngược với dự đoán. Trong lúc giá trái khoán đang xuống dốc thì có
nhà đầu tư vẫn tung tiền thu gom về bất chấp những lời tiên đoán có khủng
hoảng kinh tế.
Các yếu tè tâm lý cũng chịu ảnh hưởng bởi nhân tố chính trị. Sau khi
Thái Lan đã tuyên bố phá giá đồng Bạt tháng 7/1997. Nền kinh tế đã lâm
vào suy thoái, đồng Bạt liên tục mất giá. Trong bối cảnh đó ông
Ch.Youchajudh cùng nội các đã buộc phải từ chức. Và sự trở lại chính trường
của ông Chuanleckpai cùng với đội ngò chuyên viên kinh tế giỏi nhất Thái
Lan đã khiến cho thị trường chứng khoán nhén nhịp trở lại và các nhà đầu tư
nước ngoài lại nhen lẫn niềm hy vọng.
Trên thị trường tài chính nhiều khi chỉ một lời tuyên bố của những người
có tên tuổi còng ảnh hưởng tới lãi suất của các hàng hoá của nó. Cơn khủng
hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam Á vừa qua đã gây chấn động các thị
trường tài chính trên toàn thế giới thậm chí làm sụt cả chỉ số Dove - Jone và
thị trường chứng khoán New york phải ngừng giao dịch trong 30 phót. Trước
tình hình đó vào ngày 29 - 10 - 97. Tổng thống Mỹ Bill lintơn đã xuất hiện
trên thị trường chấn an các nhà đầu tư bằng các thông báo rằng nền kinh tế
Hoa kỳ đang trong giai đoạn phát triển, thất nghiệp đang ở mức thấp và hệ
thống ngân hàng vững mạnh, ngay sau lời tuyên bố các thị trường chứng
khoán trên thế giới như được hồi phục chỉ số Dove - Jone tăng 4,7%, Heng
Shang (HongKong) tăng 18,7%, Franfurt (Đức) tăng 3,5%.
Như vậy, yếu tố chính trị xã hội là nhân tố gián tiếp ảnh hưởng đến lãi

suất của các công cụ tài chính trên thị trường.
4. Tình hình của công ty
Theo các phân tíchtrên đó thì chỉ là các nhân tố chung ảnh hưởng đến lãi
xuất của các công cụ tài chính. Nhưng lãi xuất cụ thể của công cụ phát hành
của một công ty không hoàn toàn phụ thuộc vào những nhân tố trên. Với
những đầu tư nhỏ thì tình hình của công ty là nhân tố quyết định xem có đem
của cải của mình ra mua các hàng hoá được công ty phát hành không. Trước
khi quyết định đầu tư thì người mua phải cân nhắcvà xem xét tình hình làm ăn
kinh doanh của công ty có phát đạt hay không? có tương lai sáng sủa hay
không?có lẽ là người ta sẽ không ngần ngại lắm khi quyết định đầu tư mua cổ
phiếu hay trái phiếu của công ty do GEROGE-SOROS người bị tình nghi
19
dính líu đến cơn khủng khoảng tài chính tiền tệ ở châu áđiều hành khi đưọc
nghe dẫn chứng về biện tài kinh doanh của ong ta" nếu ai đó đã đầu tư 100
ngàn USDvào năm 1989 khi SOROS thành lập quỹ định lượng và đầu tư trực
tiếp vào đó các phần lãi được chia của mình thì người đó sẽ thu được cả thay
khoảng130 triệu USDvào năm 1994 vì vậy khi biết những tin tốt lành về công
ty người ta sẽ tìm mua những cổ phiếu trái phiếu của công ty làm cho cầu về
những trái khoán của công ty phát hành tăng lên.
Người ta sử dụng phương pháp xếp hạng trái khoán cong ty theo mức độ
rủi ro.Công việc này được giao cho 2 công ty nổi tiếng thế giới là standard
and poon Wody's theo các thang bậc như sau:
Mody's Standard and Poor
Aaa Tuyệt vời rất chắc chắn, an toàn tối đa AAA
A a Chắc chắn, chất lượng cao AA
A Tốt, an toàn A
Bbb Trung bình khá BBB
Bb Dưới dạng trung bình BB
B Rủi ro có tính đầu cơ B
Caa Rủi ro cao CCC

Ca Nguy cơ vì nợ lớn C
C Tồi, không có khả năng trả nợ D
Khi nhìn vào bảng này nhà đầu tư có quyết định lên đầu tư vào công ty
nào. Những công ty dưới trung bình (BbnoặcBB) không thể phát hành những
trái khoán có lãi suất thấp vay mượn trong dân cư. Để làm được việc này thì
công ty phải nâng cao lãi xuất tuy nhiên theo phần trên đặc tính của phần lớn
các nhà đầu tư là không ưu rủi ro họ thường chọn công ty tốt thông thường
đó là công ty Ýt nợ trong 10 - 15 năm qua làm ăn phát đạt có nhiều lợi nhuận
chia lời đều, hiện tại vẫn có lời và trong tương lai cũng tốt.
Do vậy, đứng dưới góc độ vi mô thì công ty mới là yếu tố chủ yếu quyết
định đến thái độ của nhà đầu tư. Ngày nay cùng với tiến bộ của khoa học kỹ
thuật mỗi phát minh có thể cho ra đời một ngành mới vậy các công ty đang
hoạt động trên hàng ngàn lĩnh vực cho nên mỗi công ty ngoài những đặc
20
trưng riêng của nói còn mang đặc trưng của lĩnh vực mà nó hoạt động. Do đó
các loại hình, qui mô của các công ty là muôn hình muôn vẻ tồn tại, hợp tác
và cạnh tranh lẫn nhau. Để đáp ứng lại các tín hiệu thị trường mỗi công ty có
phản ứng khác nhau, có các chiến lược kinh doanh khác nhau. Vì vậy cho nên
nhu cầu về vốn tại mỗi thời điểm của công ty cũng không giống nhau. Nếu
xét theo những tiêu thức này thì lãi suất quy mô nhá từng công ty phát hành
cũng diễn biến không ngừng.
Nhận xét:
Thị trường tài chính Việt Nam đang từng bước hội nhập vào thị trường
tài chính sôi động trên thế giới như thế nào? Có một tin vui là ngày 25/8/1997
vừa qua Uỷ ban chứng khoán nhà nước đã làm lễ ra mắt thúc đẩy sự hình
thành của thị trường chứng khoán hình thức phát triển cao của thị trường vốn
ở Việt Nam trong tương lai gần vai trò chức năng của thị trường tài chính nói
chung và thị trường chứng khoán nói riêng đã được nhiều sách báo đề cập. Để
thực hiện thành công chiến lược vốn cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất
nước ước tính khoảng 42 tỉ USD thì thị trường tài chính góp một phần quan

trọng và quan trọng hơn là thúc đẩy các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả.
Đúng như vậy chúng ta chỉ có một thị trường tài chính nhén nhịp khi có một
nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định điều này phụ thuộc vào nhà nước và
chủ yếu là các tế bào của nền kinh tế đó là các doanh nghiệp, tập trung lại thì
sự hấp dẫn của các công cụ được các chủ thể này phát hành sẽ quyết định sự
nhén nhịp của thị trường tài chính hay nói hẹp hơn là lãi suất được đưa ra có
cuốn hót hay không? Các doanh nghiệp sẽ còn cân nhắc mức lãi suất đưa ra
tuỳ thuộc vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. Theo
Mác thì người đi vay trừ trường hợp phải vay với bất cứ giá nào để có tiền
thanh toán tránh phá sản lãi suất tín dụng có giới hạn là lợi nhuận bình quân
trong nền kinh tế và giới hạn tối thiểu bằng 0.
Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất của các công cụ trênthị
trường tài chính chỉ ra rằng lãi suất không chịu ảnh hưởng của hoạt động
doanh nghiệp riêng lẻ mà còn nhiều nhân tố khác. Vậy chúng ta cần chuẩn bị
những gì để khi hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế ta có thể đạt được
nhiều lợi Ých nhất?
Với những công ty lớn vững vàng, uy tín cao, trên thế giới nhưn General
Electric, Coca - cola hay Toyota bên cạnh lợi thế về qui mô sản xuất khi còn
vốn huy động bằng uy tín và khả năng tài chính sẽ hấp dẫn được các nguồn
21
vốn có lãi suất thấp trên thị trường bằng các trái khoán được đánh giá nhất
trên thị trường tài chính hoạt động ngày càng thuận lợi. Thực trạng hiện nay
đối với các doanh nghiệp Việt Nam là rất thiếu thốn về nguồn vốn, nếu xét
khoảng trên 7000 doanh nghiệp nhà nước vốn tù có chỉ khoảng 60.459 tỉ
đồng thì quả là con số khiêm tốn. Các công ty chưa tạo lập cho mình được uy
tín cao cho nên gia nhập thị trường tài chính họ phải trả cho nguồn vốn vay
với một lãi suất cao do vậy kinh doanh gặp khó khăn, không dễ dàng mở rộng
quy mô, uy tín tạo lập chậm, đây thực sự là cái vòng luẩn quẩn. Để nhanh
chóng tạo lập uy tín cho mình không có cách nào khác là các doanh nghiệp
phải nỗ lực vượt bậc trong sản xuất kinh doanh, kết quả sản xuất kinh doanh

là sẽ phá vỡ cái vòng luẩn quẩn trên. Đây chính là ảnh hưởng của nhân tố chủ
thể phát hành nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro do vậy ảnh hưởng đến lãi suất của
các công cô tài chính. Tạo lập uy tín cho doanh nghiệp ở nước ta không phải
là việc có thể làm trong chốc lát. Mặt khác không phải công ty doanh nghiệp
nào cũng có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu mà chỉ có những doanh nghiệp
có đủ các điều kiện, vừa qua nhà nước đã cho một số doanh nghiệp chẳng hạn
nhà máy xi măng Hoàng Thạch phát hành trái phiếu công ty để mở rộng sản
xuất.
Trong thực tế hiện nay, có rất Ýt doanh nghiệp đã xây dựng được niềm
tin trong nhân dân để chuẩn bị hàng hoá cho thị trường tài chính thì nhà
nước giữ vai trò quan trọng. Vai trò của nhà nước ở Việt Nam quyết định đến
sự nhén nhịp của thị trường tài chính trong thời gian tới ở 2 điểm.
Thứ nhất, Nhà nước cũng là một chủ thể một người phát hành nhiều loại
công cụ tài chính trên thị trường. Trong thời gian từ năm 1991 - 1996 kho bạc
nhà nước đã phát hành được 14334 tỉ đồng, trái phiếu kho bạc thời hạn từ 3 -
5 năm là 630 tỉ đồng điều này chứng tỏ loại hàng hoá của chính phủ là khá
hấp dẫn. Trong tương lai thì nhà nước cũng cần phải vay để thăng bằng ngân
sách hoặc đầu tư phát triển. Do đó trái phiếu chính phủ là nguồn thường
xuyên mang tính ổn định, hiện nay có một số công trình lớn các dự án quốc
gia như công trình xa lé Bắc - Nam, nhà máy lọc dầu Dung Quất, tiếp tục xây
dựng nhà máy thủy điện Yaly.
Thứ hai, là nhà nước có thể tác động đến tất cả các biến số vi mô mở
đường về chính trị, xây dựng pháp luật theo phân tích trên thì nhà nước tác
động mạnh mẽ đến các công cụ tài chính trên thị trường. Thực tế ở nước ta
trong thời gian qua đã khẳng định vai trò của nhà nước trong có công lớn
22
của ngân hàng nhà nước trong kiềm chế lạm phát và ổn định tỷ giá hối đoái,
chính sách ngoại giao mở rộng của nhà nước đã tạo điều kiện cho nền kinh
tế nước ta hội nhập vào nền kinh tế thế giới hệ thống ngân hàng thương mại
quốc doanh có tác động lớn đến hoạt động của nền kinh tế. Tính đến tháng 7

- 1997 hệ thống ngân hàng thương mại Quốc doanh nắm giữ khoảng 50200 tỉ
đồng nếu có đủ tiền gửi cho các chứng chỉ tiền gửi này được tự do chuyển
nhượng mua bán thì thị trường tài chính còng tăng thêm phần sôi động.
Nói tóm lại là ở nước Việt Nam chóng ta có thể tác động đến một sè
nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất để có một lãi suất chung phù hợp làm cơ sở
cho lãi suất của các công cô trên thị trường tài chính có lợi nhất cho nền kinh
tế huy động và sử dụng vốn có hiệu quả các nguồn vốn sớm đưa nước ta đến
mục tiêu "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh"
23
KẾT LUẬN
Sự tồn tại và phát triển của mỗi một sự vật hiện tượng bao giê cũng tuân
theo nguyên tắc về môí liên hệ phổ biến thị trường tài chính cũng vậy, các
công cụ trên thị trường này biến động chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố
kinh tế, chính trị, xã hội và bản thân nó cũng tác động trở lại nhân tố này.
Sống trong xã hội "bùng nổ thông tin" như hiện nay, hàng ngày chúng ta
phải tiếp xúc thu nhận hàng trăm thông tin đang diễn ra trong nước và trên thế
giới. Vậy trong những thông tin mà ta thu nhận được t rong nước có những sự
kiện những diễn biến nào có thể ảnh hưởng đến cung cầu về loại công cụ tài
chính mà mình đang nắm giữ. Chúng ta cũng xác định được trong những sự
kiện diễn biến đó thì diễn biến nào là ảnh hưởng trực tiếp, diễn biến nào ảnh
hưởng gián tiếp và cơ chế ảnh hưởng của chúng đến lãi suất để ra một quyết
định đúng đắn là bên bán hay giữ những loại công cụ tài chính của mình để
mua những chủng loại khác sắp được bán ra với lãi suất cao hơn. Tuy nhiên
việc ra quyết định này không đơn giản và người ta nói rằng chỉ có những nhà
kinh doanh nhạy cảm phân tích tình hình sáng suốt mới mong làm giàu nhanh
chóng trên trường này.
Trong tương lai không xa thì thị trường chứng khoán sẽ chính thức ra
đời và thị trường tiền tệ với những qui định mới chắc chắn sẽ hoạt động nhén
nhịp ở Việt Nam. Và các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất của các công cụ trên
thị trường tài chính cũng sẽ thu hót được sự quan tâm của nhân dân ta giống

như ở các nước phát triển. Đây cũng chính là lý do cho em quyết định lùa
chọn và hoàn thành đề tài này.
"Các nhân tố ảnh hưởng đến các công cô tài chính trong điều kiện thị
trường" là đề tài rất rộng đụng chạm đến nhiều vấn đề, do vậy bài viết của
em khó tránh khỏi nhiều sai sót. Một lần nữa em xin trân trọng cảm ơn thầy
giáo và mong muốn nhận được những nhận xét, góp ý kiến của thầy để chất
lượng bài làm được tốt hơn.

24

×