Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

SKKN ĐỀ TÀI GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.27 MB, 37 trang )


ĐỀ TÀI: GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 3

I.PHẤN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
Cùng với xu thế phát triển của thời đại, giáo dục đã và đang được đổi mới mạnh
mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI, mà thực chất là cách tiếp cận kỹ năng
sống, đó là: Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung
sống.
-Xuất phát từ đặc điểm của xã hội hiện nay, nên việc hình thành và phát triển kỹ
năng sống trở thành một yêu cầu quan trọng của nhân cách con người hiện đại.
-Giáo dục kỹ năng sống là thực hiện quan điểm hướng vào người học, một mặt
đáp ứng những thách thức của cuộc sống và nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá
nhân. Là những trải nghiệm có hiệu quả nhất, giúp giải quyết hoặc đáp ứng các nhu cầu
cụ thể,trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của con người. Bao gồm cả hành vi vận
động của cơ thể và tư duy của con người, hình thành một cách tự nhiên, thông qua giáo
dục hoặc rèn luyện của các em
Hiện nay, đa số học sinh sống trong hai môi trường có hoàn cảnh khác nhau: một
là các em được sự quan tâm chăm sóc quá sức chu đáo của phụ huynh vì sống trong gia
đình ít con, hoàn cảnh kinh tế ổn định; hai là những em sống trong gia đình với nhiều lo
toan cho cuộc mưu sinh, phụ huynh bỏ mặc con cái.
Ngoài những khó khăn lứa tuổi, các em là con em thành phố và nông thôn, trong
đó có nhiều em nông thôn có nhiều hoàn cảnh khác nhau, có nhiều thói quen trong sinh
hoạt còn chưa văn minh, thiếu kỹ năng thực hành, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết
vấn đề, kỹ năng đối phó với những khó khăn trong cuộc sống và khả năng tự phục vụ
bản thân… Hơn thế nữa trong nền kinh tế thị trường, cuộc sống hiện đại vận động hết
sức khẩn trương và chứa đựng nhiều yếu tố khôn lường đòi hỏi thế hệ trẻ không làm
chủ tri thức, rút ngắn khoảng cách về chênh lệch tri thức giữa các vùng nông thôn và
thành thị mà còn phải thực sự tự tin; phải nắm bắt kịp thời các cơ hội cũng như phải có
1
một số kỹ năng: sống khỏe, sống tốt, sống lành mạnh, cập nhật thông tin nhanh nhạy và
hội nhập với thế giới, góp phần tích cực cho cuộc sống cá nhân và cộng đồng tốt đẹp


hơn, nhằm thích ứng với mọi biến động của hoàn cảnh.
Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh là một trong những nội dung được Bộ
GD&ĐT triển khai khi thực hiện phong trào thi đua xây dựng “Trường học thân thiện,
học sinh tích cực” đối với các trường trung học phổ thông nói chung và bậc tiểu học nói
riêng .
-Dựa trên thực tế cho thấy, nếu các em có kiến thức, có thái độ tích cực mới đảm
bảo sự thành công, xuất phát từ việc cải cách, đổi mới giáo dục. Từ những lí do trên, tôi
chọn đề tài “Tìm hiểu việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học nhằm góp
phần vào việc nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục kỹ năng sống cho các em” .
II/ .PHẤN THỨ HAI : NHỮNG BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Căn cứ vào tình hình thực tế hiện nay, tôi thấy các em còn thiếu những kỹ năng
sống trầm trọng. Chính vì vậy tôi đã đưa ra 1 số phương pháp giáo dục kỹ năng sống
cho các em. Dựa trên thực trạng học sinh nông thôn và thành thị tôi hướng dẫn các
em hình thành một số các kỹ năng cơ bản sau:
1.Kỹ năng tự phục vụ:
Giáo dục cho các em từ những việc nhỏ nhất như: Giao tiếp cư xử với các bạn bè
trong và ngoài lớp, nói năng phải lễ độ với tất cả mọi người xung quanh và biết làm
mộr số công việc nhỏ phù hợp với độ tuổi của các em như vệ sinh cá nhân, đánh răng,
rửa mặt, tắm rửa hàng ngày, vệ sinh xong phải rửa tay, trước khi ăn cơm phải rửa tay.
Ngoài ra các em biết quét nhà, quét lớp, rửa ấm chén, như mắc màn trước khi đi ngủ,
gấp chăn màn gọn gàng vào buổi sáng, mỗi ngày, chăm sóc cây xanh, thân thiện với
môi trường, hay vui chơi giải trí giảm căng thẳng.
2



Các em đang chăm sóc cây của lớp
3

Các em làm vệ sinh lớp và nhặt rác

2. Kỹ năng giao tiếp:
Kỹ năng giao tiếp là khả năng có thể bày tỏ ý kiến của bản thân theo hình thức
nói, viết hoặc sử dụng ngôn ngữ có thể một cách phù hợp với hoàn cảnh và văn hóa,
đồng thời biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến người khác ngay cả khi bất đồng quan
điểm. Bày tỏ ý kiến bao gồm bày tỏ về suy nghĩ, ý tưởng, nhu cầu, mong muốn và cảm
xúc, đồng thời giáo dục cho các em biết đánh giá tình huống giao tiếp và điều chỉnh
cách giao tiếp một cách phù hợp, hiệu quả; cởi mở bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc nhưng
không làm hại hay gây tổn thương cho người khác, giúp các em có mối quan hệ tích cực
với người khác, bao gồm biết gìn giữ mối quan hệ tích cực với các thành viên trong
trong lớp ,khác lớp nơi sinh sống là nguồn hỗ trợ quan trọng cho các em; đồng thời biết
cách xây dựng mối quan hệ với bạn là yếu tố rất quan trọng đối với niềm vui trong cuộc
sống.
4

Trao đổi trong giờ học nhóm
3.Kỹ năng quản lý thời gian:
Giúp các em quản lý thời gian là khả năng các em biết sắp xếp các công việc
theo thời khoá biểu, biết tập trung vào giải quyết công việc trọng tâm trong một thời
gian nhất định. Giờ ăn, giờ học, giờ làm, giờ chơi một cách hợp lí. Kỹ năng này rất cần
thiết cho việc giải quyết vấn đề, lập kế hoạch, đặt mục tiêu và đạt được mục tiêu đó;
đồng thời giúp các em tránh được căng thẳng do áp lực trong việc học và việc làm .
Quản lý thời gian là một trong những kỹ năng quan trọng làm chủ bản thân. góp
phần rất quan trọng vào sự thành công của cá nhân .
4.Kỹ năng thể hiện sự tự tin:
Các em biết tự tin vào bản thân, hài lòng với bản thân; tin rằng mình có thể trở
thành một người có ích và tích cực, có niềm tin về tương lai, cảm thấy có nghị lực để
hoàn thành các nhiệm vụ. Các em thể hiện sự tự tin giúp các em giao tiếp hiệu quả hơn,
mạnh dạn bày tỏ suy nghĩ và ý kiến của mình, quyết đoán trong việc ra quyết định và
giải quyết vấn đề, thể hiện sự kiên định, đồng thời cũng giúp các em có suy nghĩ tích
cực và lạc quan trong cuộc sống, là yếu tố cần thiết trong giao tiếp.

5.Kỹ năng giải quyết vấn đề:
5
Kỹ năng giải quyết vấn đề là khả năng của cá nhân biết quyết định lựa chọn
phương án tối ưu và hành động theo phương án đã chọn, để giải quyết vấn đề hoặc tình
huống gặp phải trong tập và trong cuộc sống. Để giải quyết vấn đề có hiệu quả, các em
cần nhiều kỹ năng sống khác : Giao tiếp , xác định giá trị , tư duy phê phán , tư duy
sáng tạo , tìm kiếm sự hỗ trợ.
6. Kỹ năng hợp tác :
Hợp tác là cùng chung sức làm việc, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong học tập,
trong công việc, một lĩnh vực nào đó vì mục đích chung, các em biết chia sẻ trách
nhiệm, biết cam kết và cùng làm việc có hiệu quả với những thành viên trong lớp, trong
giờ học nhóm, hoặc những nơi khác. Sự hợp tác trong học tập hay trong công việc các
em điều biết giúp đỡ cho nhau hỗ trợ cho nhau, bổ sung cho nhau, tạo nên sức mạnh trí
tuệ, tinh thần và thể chất, vượt qua khó khăn, đem lại chất lượng và hiệu quả cao hơn
trong học tập, trong công việc chung.
-Biết giao tiếp hiệu quả, tôn trọng, đoàn kết và cảm thông, chia sẻ với các bạn
-Biết bày tỏ ý kiến, tham gia xây dựng kế hoạch hoạt động của bản thân. Đồng thời
biết lắng nghe, tôn trọng, xem xét các ý kiến, quan điểm của mọi người .
-Nỗ lực phát huy năng lực, sở trường của bản thân để hoàn thành tốt nhiệm vụ đã
được phân công. Đồng thời biết hỗ trợ, giúp đỡ mọi người khác trong quá trình hoạt
động.
-Biết cùng chia sẻ đồng cam cộng khổ vượt qua những khó khăn, vướng mắc để
hoàn thành mục đích, mục tiêu hoạt động chung.
-Có trách nhiệm về những thành công hay thất bại, về những sản phẩm do mình tạo
ra.
7/ Kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ :
Trong cuộc sống, nhiều khi các em gặp những vấn đề, tình huống phải cần đến
sự hỗ trợ, giúp đỡ của những người khác mà nếu các em không tự tìm kiếm sự hỗ trợ thì
người khác khó có thể biết để giúp đỡ, chia sẻ các em có thể nhận được những lời
khuyên, sự can thiệp cần thiết để tháo gỡ, giải quyết những vấn đề, tình huống của

6
mình; đồng thời là cơ hội để các em chia sẻ, giải bày khó khăn, giảm bớt được căng
thẳng tâm lý do bị dồn nén cảm xúc. Biết tìm kiếm sự giúp đỡ kịp thời sẽ giúp các em
không cảm thấy đơn độc, bi quan, và trong nhiều trường hợp, giúp các em có cách nhìn
mới và hướng đi mới.
Giáo dục kỹ năng sống là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, xây
dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực trên cơ sở
giúp học sinh có thái độ, kiến thức, kỹ năng, giá trị cá nhân thích hợp với thực tế xã hội.
Mục tiêu cơ bản của giáo dục kỹ năng sống là làm thay đổi hành vi của học sinh,
chuyển từ thói quen thụ động, có thể gây rủi ro, dẫn đến hậu quả tiêu cực thành những
hành vi mang tính xây dựng tích cực và có hiệu quả để nâng cao chất lượng cuộc sống
cá nhân và góp phần phát triển xã hội bền vững.
Giáo dục kỹ năng sống còn mang ý nghĩa tạo nền tảng tinh thần để học sinh đối mặt
với các vấn đề từ hoàn cảnh, môi trường sống cũng như phương pháp hiệu quả để giải
quyết các vấn đề đó.
Khi tham gia vào bất kì hoạt động nghề nghiệp nào phục vụ cho cuộc sống đều đòi
hỏi các em phải thoả mãn những kỹ năng tương ứng.
Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh là giúp các em rèn luyện kỹ năng ứng xử thân
thiện trong mọi tình huống; có thói quen và kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng hoạt
động xã hội; Giáo dục cho học sinh thói quen rèn luyện sức khoẻ, ý thức bảo vệ bản
thân, phòng ngừa tai nạn giao thông, đuối nước và các tệ nạn xã hội.
Đối với học sinh tiểu học việc hình thành các kỹ năng cơ bản trong học tập và sinh
hoạt là vô cùng quan trọng, ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách
sau này. Kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, múa, hát, đi, đứng, chạy, nhảy… kỹ năng tư duy
logic, sáng tạo, suy nghĩ nhiều chiều, phân tích, tổng hợp, so sánh, nêu khái niệm, đặt
câu hỏi…
Trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị thái độ và kỹ năng phù hợp, trên cơ sở
đó hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực, loại bỏ những
7
hành vi thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, các tình huống và hoạt động hàng

ngày.
Tạo cơ hội thuận lợi để học sinh thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình và phát
triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức.
Để việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả, cần phải thay đổi tư duy,
tiếp đó là tiến hành nhiều giải pháp đồng bộ. Giáo dục kỹ năng sống, theo cách hiểu
hiện này là giáo dục những cách ứng phó với những thử thách như: Tai nạn, điện giật,
bị ngộ độc, động vật cắn, bị xâm hại tình dục, phòng chống các tệ nạn xã hội… đây mới
chỉ là mục đích trước mắt. Mục đích quan trọng nhất, lâu dài đó là hình thành nhân cách
cho học sinh, trong đó quan trọng nhất là giáo dục tình thân ái và các ứng xử văn hoá.
Hiện nay, các nội dung dạy học đều có một phần lồng ghép giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh từ cấp tiểu học. Theo tôi nghĩ việc giáo dục kỹ năng sống được lồng vào
trong các môn học là rất cần thiết. Tuy nhiên chúng ta phải giáo dục như thế nào mới là
điều quan trọng.
Như chúng ta thấy giáo dục là quá trình bao gồm giáo dục và giáo dưỡng. Trong
giáo dục có giáo dưỡng, trong giáo dưỡng có giáo dục. Vậy để hai quá trình này tạo
thành mục tiêu chung thì giáo dục đóng vai trò chủ đạo, tích cực để hướng tới mục tiêu
đó. Trong xu thế phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ ngày nay, mỗi nội
dung giáo dục được thể hiện theo xu hướng chung. Trong việc giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh tiểu học được thể hiện trên nhiều mặt từ hoạt động trên lớp, hoạt động
ngoại khoá và hình thức giáo dục khác. Cái lợi thế nhất trong hoạt động giáo dục đó là
hoạt động của tổ chức Đội Thiêu niên Tiền phong. Các tổ chức này có nhiệm vụ bồi
dưỡng giáo dục lý tưởng sống; rèn luyện cho các em nề nếp, tác phong, tư cách đạo
đức; hướng các em vào tất cả các hoạt động văn hoá xã hội, thể dục thể thao và nhiều
phong trào khác để giúp các em trở thành những con người tiến bộ và phát triển toàn
diện. Trong xu thế phát triển hiện nay vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu
học không phải là mới cũng không phải là việc gì to tác rộng lớn. Tuy nhiên nội dung
nào được đưa vào giáo dục cho các em, vấn đề cụ thể nào cũng cần quan tâm đến việc
8
giáo dục kỹ năng sống hiện nay là cấp bách. Theo tôi nghĩ vấn đề giáo dục đạo đức lối
sống, văn hoá con người, văn hoá dân tộc, văn hoá ứng xử là vấn đề quan trọng nhất. Vì

tôi thấy ngày nay các em học sinh thông minh, tiếp thu kiến thức nhanh và vận dụng rất
tốt. Nhưmg việc ứng xử một số vấn đề mang tính văn hoá, mang tính xã hội còn rất hạn
chế. Trước đây hoạt động Đội Thiếu niên sinh hoạt rất phong phú về nội dung, đa dạng
về hình thức và được nhiều thời gian, còn hiện nay thì giờ học trên lớp rất nhiều, thời
gian hoạt động ngoại khoá rất hạn hẹp.
Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh được thể hiện trên nhiều mặt từ hoạt
động trên lớp, lồng vào các môn học như đạo đức, tự nhiên xã hội, Tiếng Việt,…. Vì
các môn học mang tính xã hội rộng lớn hoạt động ngoại khoá và các hình thức giáo dục
khác.
Trong phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong đó
nội dung thứ ba trong năm nội dung chính là “Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh”:
- Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói quen
và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm.


Các em thảo luận nhóm giáo tiếp trao đổi lẫn nhau trong giờ học tự nhiên xã hội
Rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng, chống tai nạn
giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác.
9

Giờ thực hành hướng dẫn học sinh đi xe đạp an toàn
- Rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực
và các tệ nạn xã hội.
Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh có thành công hay không, phụ thuộc rất
lớn vào tư chất, đạo đức và năng lực của thầy giáo, cô giáo. Muốn giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh tốt, trước hết, mỗi thầy giáo, cô giáo phải giáo dục cho học sinh
bằng sự nêu gương. Thầy giáo, cô giáo phải gương mẫu trong ứng xử, trong giáo dục
nhân cách.
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh rất cần sự chung tay, chung sức của tất cả
gia đình phụ huynh, nhà trường và các tổ chức xã hội.

- Ban giám hiệu nhà trường đã chỉ đạo giáo viên luôn đổi mới phương pháp dạy
học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. Sử dụng các phương pháp và kĩ
thuật dạy học tích cực để tạo điều kiện, cơ hội cho học sinh được thực hành, trải nghiệm
kỹ năng sống trong quá trình học tập. Thực hiện lồng ghép, tích hợp giáo dục đạo đức,
giáo dục ngoài giờ lên lớp, giáo dục hướng nghiệp, giáo dục giá trị sống, giáo dục kỹ
năng sống trong các môn học và các hoạt động giáo dục
10
- Giáo viên chủ nhiệm: Quan tâm gần gũi đối với các em học sinh là người cha,
người mẹ thứ hai của các em để hiểu được tâm tư nguyện vọng của các em, phối hợp
chặt chẽ với gia đình học sinh, làm cho họ nhận thức được tầm quan trọng và cùng với
nhà trường giáo dục và rèn luyện cho con em về kỹ năng sống.
- Đối với Đội
+ Gắn việc rèn luyện kỹ năng sống với những nội dung cụ thể của Phong trào thi
đua xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực như: trang trí phòng học, chăm
sóc cây xanh ,


Các em trang trí phòng học
Chỉ đạo Đội trong nhà trường phối hợp tổ chức các hội thi văn nghệ nhân các
ngày lễ lớn trong năm như: 20/11

11

Thực tế các kỹ năng này được đưa vào mục tiêu cụ thể từng môn học, bài học mà
tập trung nhiều nhất là môn Đạo đức, tự nhiên xã hội và tiếng Việt. Song, để có hiệu
quả cao, tôi tổ chức tốt các biện pháp sau đây:
- Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính độc lập, sáng tạo của
học sinh gắn với thực tiễn, có tài liệu bổ trợ phong phú, sử dụng thiết bị dạy học và ứng
dụng trong dạy học, luôn tạo cho các em tính chủ động, tích cực, hứng thú trong học
tập; phát huy tính sáng tạo, tạo được bầu không khí cởi mở thân thiện của lớp của

trường. Trong giờ học, giáo viên cần tạo cơ hội cho các em được nói, được trình bày
trước nhóm bạn, trước tập thể, nhất là các em còn hay rụt rè, khả năng giao tiếp kém
qua đó góp phần tích lũy kỹ năng sống cho các em.
- Quán triệt mục tiêu giảng dạy môn Đạo đức, nhất là hình thành các hành vi đạo
đức ở tiết 2. Giáo viên chủ nhiệm làm tốt công tác kiểm tra đánh giá phân loại hạnh
kiểm của học sinh, rèn cho học sinh khả năng tự học, tự chăm sóc bản thân, biết lễ
phép, hiếu thảo, tự phục vụ bữa ăn và vệ sinh cá nhân.
- Tổ chức tốt hoạt động ngoại khóa, ở phạm vi lớp khối của mình. Mỗi năm học
sẽ có một số chủ đề rèn luyện kỹ năng sống được triển khai. Trong đó nhà trường cần
phát huy vai trò của tổ chức Đội thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh và Sao nhi đồng
theo các chủ điểm hàng tháng. Tổ chức các trò chơi dân gian,
12

hát dân ca và các loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian vào trường học, qua đó mà rèn
luyện kỹ năng sống cho học sinh.
- Giáo viên chủ nhiệm phải làm tốt công tác chủ nhiệm mà nhà trường phân công,
thường xuyên thay đổi các hình thức sinh hoạt lớp, luân phiên nhau cho các em làm lớp
trưởng, tổ trưởng, không nên trong năm học chỉ để một em làm lớp trưởng. Với học
sinh tiêu học, thầy cô giáo là người mẹ hiền thứ hai của các em, các em luôn luôn nghe
lời dạy bảo và làm theo những gì thầy cô dạy, thầy cô giáo phải là tấm gương sáng về
đạo đức, nhất là tấm gương về cách ứng xử văn hóa, chuẩn mực trong lời nói và việc
làm. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh sẽ khó hơn khi chính thầy cô không phải là
một tấm gương sáng.
- Nhà trường tổ chức tốt các buổi chào cờ đầu tuần. Theo đó mục tiêu buổi chào
cờ không chỉ là đánh giá xếp loại nền nếp, học tập, các hoạt động giáo dục trong tuần
qua của giáo viên trực, triển khai kế hoạch tuần tới của Ban giám hiệu nhà trường cần
thay đổi hình thức buổi lễ chào cờ một cách sáng tạo, rèn luyện các kỹ năng cho học
sinh. Chẳng hạn như để các em được thay mặt lớp trực đánh giá, nhận xét thêm phần
giao lưu với toàn trường qua các tiết mục văn nghệ, kể chuyện, câu đố, trò chơi… do
chính các em đứng ra tổ chức dưới sự giúp đỡ và hướng dẫn của giáo viên chủ nhiệm.

Nhà trường đã tổ chức các hoạt động như diễn đàn “Văn hóa ứng xử trong học
đường”, “Phòng, chống bạo lực học đường”, “Một số kỹ năng cần thiết” Vào kỳ
nghỉ hè, trường học kết hợp với địa phương tổ chức các em sinh hoạt hè, tổ chức hoạt
động cung cấp kiến thức và kỹ năng giữ môi trường xanh – sạch – đẹp , thân thiên với
thiên nhiên, với môi trường xung quanh, quét dọn hè phố, các khu di tích để tử đó các
13
em hình thành được thói quen biết bảo vệ môi trường sống của trái đất của con người.
Công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh bậc tiểu học. Qua đó, học sinh không chỉ
có kiến thức văn hóa từ sách vở mà còn có kỹ năng sống, thiết thực phục vụ trong cuộc
sống hàng ngày.
Một nội dung quan trọng trong việc thực hiện phong trào này là các trường học
coi trọng tổ chức hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh vào các ngày sinh hoạt ngoại
khóa. Qua đó giúp hoc sinh hiểu hơn về truyền thống quê hương .
Ngoài ra ban giám hiệu có kế hoạch Triển khai chiếu phim giới thiệu cho học
sinh những giá trị di sản văn hoá vật thể và phi vật thể nhân loại nói chung của địa bàn
học sinh, sinh sống nói riêng (như đề án “Bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá
vùng biển đảo của quê hương đất nước” để các em biết giữ gìn và bảo vệ vùng biển
thiêng liêng của tổ quốc không để kẻ thù xâm phạm.


Biển đảo quê hương Việt Nam
14
Xây dựng trường, lớp an toàn – xanh - sạch - đẹp. Trong đó cần chú trọng tạo
môi trường tự nhiên gần gũi với cuộc sống như trồng vườn cây thuốc nam, các câu khẩu
hiệu ở các cây xanh, bồn hoa để thông qua đó mà giáo dục ý thức bảo vệ môi trường ở
các em. Ngoài ra, nhà trường cần phối hợp với gia đình, các tổ chức xã hội trong và
ngoài nhà trường để cùng góp phần giáo dục kỹ năng sống cho các em. Tổ chức các
buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp, các cuộc thi bằng các hình thức như vẽ tranh, xé dán
tranh, tiểu phẩm về bảo vệ môi trường ,


Sản phẩm xé dán tranh về bảo vệ môi trường của lớp 3A
Hàng năm nhà trường tổ chức cho các em chăm sóc đình, Miếu, thăm và chăm
sóc bà mẹ Việt Nam anh hùng neo đơn,

Các em chăm sóc Khu di tích lịch sử Miếu Phủ Thành
15
thăm và thắp hương các anh hùng liệt sĩ, dã ngoại, du lịch như cha ông ta đã nói: “Đi
một ngày đàng, học một sàng khôn”.
Dạy kỹ năng sống cho tuổi trẻ học đường trong giai đoạn hiện nay là một yêu cầu
cấp thiết ở các trường phổ thông nói chung, bậc tiểu học nói riêng. Trong lúc nội dung
về rèn luyện kỹ năng sống chưa được đưa vào thành một chương trình riêng mà chủ yếu
được giáo viên lồng ghép trong từng bộ môn như giáo dục đạo đức, tự nhiên xã hội,
Tiếng Việt… hay trong các tiết chào cờ đầu tuần. Với thời lượng hạn hẹp như vậy, các
em chưa được trang bị đầy đủ các kỹ năng sống. Đó là điều đang còn khó khăn, lúng
túng cho giáo viên nhằm rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. Một trong những mục
tiêu được chú trọng trong năm học 2009-2010 mà Bộ GD-ĐT yêu cầu lòng ghép vào
giảng dạy kỹ năng sống cho học sinh tiểu học. Mong rằng các thầy cô giáo trực tiếp
giảng dạy, các nhà quản lý giáo dục quan tâm và thực hiện tốt nội dung này. Tuy nhiên,
làm thế nào để triển khai hoạt động rèn kỹ năng sống một cách hiệu quả thu hút được
học sinh và các bậc phụ huynh đang là trăn trở của các thầy cô giáo, các nhà trường và
toàn xã hội hiện nay. Tùy vào hoàn cảnh thực tế của từng địa phương, nhà trường tổ
chức sao cho sáng tạo và hiệu quả.đưa giáo dục kỹ năng sống (giáo dục kỹ năng sống)
lồng ghép vào một số môn học như thế nào? Làm sao để không gây quá tải đối với học
sinh… là vấn đề đặt ra với nhà trường.Trong xã hội hiện đại, chúng ta phải đối diện
với việc khi xã hội có gì, trong nhà trường. Hệ quả là, những vụ án học sinh hay đánh
nhau có thể gây thương tích, cố ý gây thương tích mà đối tượng gây án là học sinh và
nạn nhân chính là bạn học. Nhiều em học giỏi, nhưng ngoài điểm số cao, khả năng tự
chủ và kỹ năng giao tiếp lại rất kém. Và dường như câu chuyện kỹ năng sống theo trào
lưu, a dua và đua đòi theo cái xấu, cái tiêu cực đang là thực tế nhức nhối, học sinh chưa
bao giờ được dạy cách đương đầu với những khó khăn của cuộc sống như cha mẹ ly

hôn, gia đình phá sản, kết quả học tập kém Các em không được dạy để hiểu về giá trị
của cuộc sống. Trong khi đó, giáo viên đến lớp chỉ mỗi việc dạy học các môn theo
chương trình không có thời gian để giáo dục thêm mốt số kỹ năng sống cho các em.
16
Việc Bộ GD&ĐT quyết định đưa giáo dục kỹ năng sống lồng ghép vào giảng
dạy các môn là phù hợp với xu hướng quốc tế cũng như mong đợi của xã hội. Học sinh
cần phải được rèn luyện song song cả kiến thức và kỹ năng, nếu chỉ có kiến thức không
thì các em sẽ gặp khó khăn trong cuộc sống, dễ bị vướng vào tệ nạn xã hội. Tình trạng
bạo lực học đường cũng một phần do các em thiếu các kỹ năng sống như kỹ năng kiềm
chế. Cảm xúc, kỹ năng giải quyết mâu thuẫn, kỹ năng đoàn kết
Hiện nay; chúng ta vẫn thường hay nói đến việc giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh, giáo dục kỹ năng sống tức là không chỉ dạy cho học sinh kiến thức mà là giáo dục
toàn diện về đức, trí , thể, mỹ, giúp các em biết ứng xử có văn hóa, biết cách xử lý
những tình huống xảy ra trong cuộc sống. Hạn chế của giáo dục hiện nay là mới chủ
yếu dạy chữ, chưa thật sự quan tâm đến dạy người một cách toàn diện. Các gia đình coi
điểm các bộ môn là thước đo của sự tiến bộ của con cái, tạo thành sức ép buộc học sinh
chỉ nghĩ đến chuyện phải học để có điểm cao. Các trường học cũng đã tích cực triển
khai phong trào thi đua “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” nhưng cũng còn dập
khuôn, máy móc. Nhiều gia đình chưa thực sự quan tâm, cùng với nhà trường giáo dục
con cái cũng là nguyên nhân của tình trạng trên. Giáo dục kỹ năng sống, góp phần xây
dựng đạo đức, lối sống lành mạnh cho học sinh là trách nhiệm và cần có sự phối hợp
chặt chẽ của gia đình, nhà trường, và của toàn xã hội.
Môi trường hoàn cảnh khác nhau thường mang đến cho các em một thiếu sót lớn
trong từng bước trưởng thành, đó là kỹ năng sống. Vì vậy, việc giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh tiểu học qua học tập – sinh hoạt ở trường là điều hết sức cần thiết.
III/.PHẤN THỨ BA: KẾT QUẢ VÀ HIỆU QUẢ PHỔ BIẾN ỨNG DỤNG NỘI
DUNG VÀO THỰC TIỄN
17
1.KẾT QUẢ
Theo đó, bằng trách nhiệm, bằng kinh nghiệm và vốn sống của mình, tôi cần từng

bước một giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua từng bài dạy, thông qua các
hoạt động ở trường, ở lớp.
Qua giáo dục hàng ngày trên lớp hoặc thông qua các tiết dạy tôi thấy các em đã
biết và làm quen được một số kỹ năng làm việc theo nhóm: biết cách phân công, công
việc, lắng nghe ý kiến người khác, tranh luận, biết chấp nhận đúng sai, thống nhất ý
kiến, thực hiện đúng ý kiến đã thống nhất. Các em biết làm việc trong tập thể. Ở môn kĩ
thuật, các em biết được việc khâu may, nấu cơm, rửa chén bát, li cốc, luộc rau, quét
nhà, quét lớp, chăm sóc cây đơn giản và biết tránh những việc làm xấu như nói không
với thuốc lá, ma túy, rượu… dứt khoát với những lời dụ dỗ, lôi kéo vào những thói hư
tật xấu. Ở môn đạo đức, qua các bài học giáo viên lồng ghép thêm giáo dục các em biết
chào hỏi lễ phép, kính trọng ông bà, cha mẹ, anh chị em, thầy cô giáo, biết chia sẻ yêu
thương, giúp đỡ người già, em nhỏ, bạn bè, và những người có công lao to lớn , huy
sinh gian khổ bảo vệ quê hương đất nước như các anh hùng thương binh - liệt sĩ, những
người lao động nghèo khổ. Bằng những hành vi, thái độ, việc làm nho nhỏ hằng ngày,
biết xác định các giá trị hành vi đạo đức. Ở môn tự nhiên xã hội, giáo dục các em yêu
thiên nhiên, gần gũi với thiên nhiên, động vật, thực vật để từ đó các em biết giá trị của
sống quan trọng như thế nào để từ đó các em cảm nhận được bảo vệ môi trường là hết
sức quan trọng đối với cuộc sống của con người .
Trong sinh hoạt hằng ngày các em biết sử dụng đúng các quy tắc : ứng xử giao
tiếp với mọi người , biết thông cảm chia sẻ với mọi niềm vui, nỗi buốn với mọi người
xung quanh . Luôn luôn là một người mẫu mực, trung thực là niền tự hào của cha mẹ .
2. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Là giáo viên, bản thân hiểu rõ tầm quan trọng trong công tác trồng người. Vì thế,
bản thân luôn cố gắng trao dồi kinh nghiệm, học hỏi từ đồng nghiệp cũng như đúc kết
kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, nâng cao đạo đức và chuyên môn, luôn tôn trọng
18
và kiên nhẫn, nhất là tạo cơ hội cho các em được nói, được diễn đạt, bày tỏ thoải mái ở
mọi nơi mọi lúc để các em có cơ hội phát triển một cách toàn diện.
- Bản thân luôn học tập, rèn luyện, nêu cao khẩu hiệu là một giáo viên có tấm
gương tốt cho học sinh noi theo .

- Phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong và ngoài nhà trường để
xây dựng môi trường an toàn, thân thiện, hiệu quả, phù hợp với điều kiện của địa
phương đáp ứng nhu cầu mới của xã hội .
Học và học nữa , học mãi và không ngừng nghiên cứu thực hiện các giải pháp
phát huy cao độ tính chủ động, khả năng sáng tạo của, giáo viên, tổng phụ trách đội xây
dựng nhà trường “ Xây dựng trường học thân thiện , học sinh tích cực”. Qua phong
trào phát động của Phòng giáo dục và đào tạo Thành phố Phan Rang- Tháp Chàm- Tỉnh
Ninh Thuận “Rèn kỹ năng sống đi đôi với xây dựng trường học thân thiện , học sinh
tích cực” giáo viên chủ nhiệm kết hợp cùng với trách cán bộ quản lý , giáo viên, tổng
phụ trách đội có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc rèn luyện cho các em phẩm chất
đạo đức năng lực học tập và tự học của các em, xây dựng cho các em những kế hoạch
thiết thực, những buổi học tổ, nhóm, học sinh giỏi khá kèm những học sinh yếu kém.
Hình thành và phát triển các kỹ năng ứng xử hợp lý các tình huống trong cuộc sống,
sinh hoạt .
Là giáo viên chủ nhiệm người có vai trò quan trọng trong việc nhắc nhở động
viên, phát hiện những mặt tích cực, tiêu cực của học sinh lớp mình nhanh nhất. “Xây
dựng và tổ chức thực hiện mô hình giáo dục giá trị sống, rèn luyện kỹ năng sống cho
học sinh, nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng sống cho học sinh một cách tích cực”
mang lại một ý nghĩa rất quan trọng và là công việc hết sức cần thiết, bởi lẽ các em
sẽ học được cách rèn luyện và rút ra những kinh nghiệm, kỹ năng mà các em sẽ gặp
lại trong cuộc sống, là bài học quí báu mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc để các em tự
hoàn thiện mình. Qua đó, giúp các em nhìn lại những việc làm của mình từ trong hành
động, trong suy nghĩ, lời nói việc làm. Nó còn giúp các em hoàn thiện hơn về nhân
cách, về lối sống, các em sẽ tích cực hơn. Có kỹ năng tham gia các hoạt động mang ý
19
nghĩa cộng đồng, đoàn kết, yêu thương,trách nhiệm, hợp tác, hòa đồng, thân ái, đồng
cảm chia sẻ với mọi người xung quanh và hơn hết là sống tốt, sống có ý nghĩa và có
một niềm tin thiết tha hơn về cuộc sống hiện tại và tương lai.
3 .KẾT LUẬN
Thực hiện giáo dục kĩ năng sống cho học sinh cũng cần được thông tin đến phụ

huynh để phụ huynh thấy được tầm quan trọng của kỹ năng sống đối với con em mình,
cùng với giáo viên thực hiện, theo dõi, ủng hộ động viên các em. Nếu được sự hỗ trợ
của phụ huynh học sinh thì việc thực hiện sẽ dễ dàng thành công hơn.
Trong quá trình thực hiện và áp dụng sáng kiến kinh nghiệm, tôi đã rút ra được
những bài học quí giá để bổ sung kinh nghiệm nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ năm học
như sau:
Thực hiện đúng theo các văn bản chỉ đạo của Ngành, bám sát chủ đề kế hoạch
thực hiện phù hợp với đặc điểm tâm lý và hoàn cảnh cụ thể của từng học sinh trong
lớp .
Có bước chủ động trong công việc, nắm bắt kết quả qua các bước thực hiện một
cách nhanh nhất để đưa vào việc điều chỉnh kế hoạch đúng lúc, đúng thời điểm.
Luôn tạo sự đổi mới, sáng tạo trong công việc để tăng sự thu hút từ phía học sinh.
Phối hợp nhịp nhàng với các đoàn thể trong nhà trường, phụ huynh học sinh.
Luôn lắng nghe những ý kiến về những khó khăn của học sinh
Mô hình này rất dễ dàng thực hiện dành cho học sinh tiểu học với các hình thức
phong phú nêu trên, làm cho các em cảm nhận được kỹ năng sống, giá trị sống là
những kỹ năng chuẩn mực trong một xã hội văn minh. Nó có thể xem là hành trang
hết sức cần thiết cho các em trong cuộc sống, là những vốn sống không thể thiếu đối
với các em, trong thời kỳ đất nước ta đang hội nhập với nền kinh tế thế giới, đang
tiến hành công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Trước mắt giúp cho các em đổi mới phương pháp, tích cực học tập, có năng lực
tự học và biết tự điều chỉnh hành vi, tự giác chấp hành tốt nội qui nhà trường.
20
Chuyên đề có được sự thành công như đã nêu trên là nhờ sự quan tâm chỉ đạo của
nhà trường hơn hết là sụ phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường sự hăng hái tích
cực của các thành viên là học sinh .
Cùng kết hợp với phụ huynh học sinh đoàn kết, phối hợp với nhau cùng đưa các
em trở thành những học sinh có đủ đức và tài qua sự kết hợp giáo dục toàn diện về
đức, trí, thể, mỹ, giúp các em biết ứng xử có văn hóa, biết cách xử lý những tình huống
xảy ra trong cuộc sống, một cách có hiệu quả thiết thực và có hiệu quả cao trong phong

trào giáo dục toàn diện. Toàn khối nói chung Lớp 3A nói riêng quyết tâm thực hiện các
tiêu chí thi đua xây dựng phong trào, gương tốt việc tốt và học tấp tốt năm điều Bác Hồ
dạy “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tuy theo sức của mình. Chính vì vậy mà các em đã thực
hiện được một cách tích cực” theo các quy định của trường, lớp. Hình thành và phát
triển các kỹ năng ứng xử hợp lý các tình huống trong cuộc sống, sinh hoạt
Bản thân đã cố gắng áp dụng những kinh nghiệm, sáng tạo thêm những phương
pháp mới nhằm nâng cao nhiều kỹ năng sống tốt cho học sinh từ môi trường giáo dục ở
nhà trường, giáo dục và xây dựng cho các em có năng lực tốt, lối sống lành mạnh để các
em có thể tự lập, tự tin hơn trong cuộc sống, đem lại niềm vui, hạnh phúc cho các em,
gia đình và xã hội. Trên đây là những suy nghĩ của bản thân về việc nghiên cứu một số
biện pháp giáo dục và rèn kỹ năng sống cho học sinh lớp 3 thông qua các môn học và
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Rất mong được nhận sự giúp đỡ góp ý bổ sung của đồng nghiệp và ban lãnh đạo
các cấp để đề tài hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

Phan Rang, ngày 14 tháng 3 năm 2014
Người viết
21
Nguyễn Thị Hoa
Nhận xét của Hội đồng sáng kiến cơ sở : Trường tiểu học Phủ Hà I
……………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………
……
PHÒNG GD- TP. PR-TC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TRƯỜNG TH PHỦ HÀ 1 Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

ĐỀ TÀI:

PHƯƠNG PHÁP RÈN ĐỌC DIỄN CẢM CHO HỌC SINH
LỚP 3
I.Phần thứ nhất : Đặt vấn đề
Giáo dục bậc tiểu học là một khoa học giáo dục khó nhất. Nó là nền móng đầu
tiên để giúp con người tồn tại và phát triển. Đặc biệt là môn tiếng Việt có vị trí quan
22
trọng trong tất cả các phân môn ở trường, nó hình thành khả năng giao tiếp, là cơ sở để
phát triển tư duy cho trẻ để tiếp thu các môn học khác.
Tiếng việt ở tiểu học gồm nhiều phân môn : Tập đọc, học thuộc lòng, luyện từ và
câu, kể chuyện , tập làm văn, chính tả, tập viết Mỗi phân môn đều có một chức năng
riêng nên khi dạy ngữ văn ở tiểu học, giáo viên cần chuẩn bị vốn kiến thức vững vàng
để truyền thụ cho học sinh khi lên lớp. Tập đọc là môn học mang tính chất tổng hợp vì
vậy ngoài nhiệm vụ dạy học giáo viên cần trao dồi kiến thức về Tiếng Việt cho học
sinh(về phát âm, từ ngữ, câu văn… ) kiến thức bước đầu về văn học, đời sống và giáo
dục tình cảm thẩm mỹ. Môn tập đọc ở tiểu học nói chung và ở lớp 3 nói riêng đặt ra
một nhiệm vụ quan trọng. Trong các giờ tập đọc, học thuộc lòng học sinh biết đọc diễn
cảm bài văn, bài thơ đã tạo cho các em sự say mê hứng thú và để lại một vốn văn học
đáng kể cho các em. Cũng thông qua các bài văn, học sinh học và hiểu được về các
vùng miền của đất nước, hiểu được công sức của các tầng lớp nhân dân đang ra sức xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, hiểu được các truyền thống quý báu của dân tộc.
Môn tập đọc có tác dụng mạnh mẽ trong giáo dục mỹ cảm, học sinh yêu cái đẹp,
rung cảm trước cái đẹp trong thiên nhiên, cái đẹp trong xã hội, cái đẹp trong văn
chương. Môn này có thể rèn luyện cho học sinh tư duy trừu tượng và cả tư duy lôgic.
Giờ tập đọc ngoài việc dẫn dắt học sinh và cho học sinh tìm đại ý để phát triển óc tổng
hợp, tìm bố cục để phát triển óc phân tích. Ngoài ra học sinh còn được rèn luyện óc
tưởng tượng, phán đoán, ghi nhớ.

Môn tập đọc không chỉ có nhiệm vụ trên mà còn kết hợp chặt chẽ với chương
trình Tiếng việt.Qua các bài văn chọn lọc học sinh vừa cảm thụ được cái hay, cái đẹp
vừa học được cách sử dụng từ chính xác, cách đặt câu gọn gàng sinh động, được luyện
về nghĩa âm, chính tả, tập làm văn.
Ở bậc tiểu học nói chung và lớp 3 nói riêng môn tập đọc có 2 yêu cầu chính là :
+ Rèn kĩ năng tập đọc.
+ Giúp học sinh cảm thụ tốt bài văn.
23
Học môn tập đọc, việc đọc và cảm thụ bài văn là hai khâu có quan hệ mật thiết
với nhau, gắn bó hổ trợ đắc lực cho nhau. Cảm thụ tốt giúp cho việc đọc diễn cảm tốt,
đọc diễn cảm tốt giúp cho việc cảm thụ bài văn thêm sâu sắc. Thật vậy học sinh có đọc
thông thạo được và trên cơ sở đã hiểu nội dung câu thơ, câu văn, đoạn thơ, đoạn văn thì
các em mới thể hiện được cảm xúc có nghĩa là đã hiểu tường tận về nội dung và nắm
được ý nghĩa giáo dục của bài. Điều đó khẳng định rằng trong tiết dạy tập đọc lớp 3,
việc luyện rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh là rất cần thiết. Trong giờ học, học
sinh biết đọc diễn cảm thì tiết học mới có hiệu quả cao và mới thể hiện được tầm quan
trọng của bộ môn.
Qua các lớp học dưới, học sinh lớp 3 đã có điều kiện và kĩ năng để đọc diễn cảm
tốt. Đọc diễn cảm chính là nghệ thuật đọc thơ văn được tiến hành trong những điều kiện
của nhà trường phổ thông.Trong những tầm quan trọng đặc biệt của bộ môn tập đọc nói
chung và việc rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 3 nói riêng trong giờ tập
đọc, để có kết quả cao mỗi giáo viên phải nhận thức rõ trong phương pháp giảng dạy.
Trong quá trình dạy tập đọc lớp 3 , tôi nhận thấy chất lượng đọc diễn cảm của học
sinh còn yếu. Đặc biệt ngày nay xã hội ta ngày càng phát triển thì nhu cầu đòi hỏi về trí
thức con người ngày càng cao, trong đó ngôn ngữ nói và viết là vô cùng cần thiết cho
mỗi người.Mỗi thành công không phải tự nhiên mà có được mà phải trải qua một quá
trình rèn luyện kiên trì ngay từ đầu .
Để góp phần nâng cao chất lượng đọc cho học sinh, tôi mạnh dạn đề xuất một vài
kinh nghiệm nhỏ của mình về vấn đề :
“ Phương pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 3”.

II. Phần thứ hai : Giải quyết vấn đề
1. Điều tra hiện trạng:
Qua 7 năm giảng dạy ở lớp 3 cũng như quá trình quan sát, dự giờ việc dạy và học
của thầy trò trong thời gian trước đây tôi có những nhận xét sau :
24
Về người dạy học : Giáo viên khá tôn trọng phương pháp học mới : “ Thầy thiết
kế, trò thi công” lấy học sinh làm trung tâm. Giáo viên cố gắng tìm tòi nghiên cứu để
giảng dạy phân môn tập đọc nhưng chất lượng chưa cao. Bởi vì giáo viên chỉ coi trọng
một vấn đề đọc thành tiếng to, rõ hoặc có hướng dẫn đọc diễn cảm nhưng chỉ lướt qua
không có tranh để giới thiệu bài, rèn đọc diễn cảm cho học sinh còn ít.
Về người học : Học sinh đã biết đọc thành tiếng bài văn, bài thơ, đã để ý và đọc
đúng các phụ âm khó. Nhưng đọc hiểu nắm nội dung bài còn rất ít, do vậy không nêu
được ý chính của bài, chưa biết đọc diễn cảm toàn bài văn. Khi đọc ở các dấu phẩy, dấu
chấm còn ngừng nghỉ như nhau, chưa đọc đúng giọng câu hỏi, câu cảm.
Qua điều tra khảo sát chất lượng học sinh ngay từ đầu năm học tôi đều thấy số
lượng học sinh đã biết đọc diễn cảm bài văn, bài thơ rất ít. Cụ thể điều tra chất lượng
đọc của học sinh lớp 3B đầu năm học 2014-2015 này, tôi có số lượng cụ thể như sau :

Tổng số học sinh Đọc nhỏ, ấp úng Đọc to, rõ, lưu loát Đọc diễn cảm

36 10 = 27,8%

20= 55,5% 6 = 16,7%
2. Phương pháp nghiên cứu
Trước hiện trạng đó, tôi đã phân tích và tự đặt ra cho mình câu hỏi : Phải làm gì ?
Làm như thế nào ? Để khắc phục tình trạng đó và nâng cao chất lượng đọc cho học
sinh. Qua quá trình nghiên cứu tôi đã tiến hành sử dụng phối hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu đó là : Phương pháp điều tra, phương pháp đối chứng và phương pháp tổng
quát. Phương pháp điều tra không chỉ dừng lại ở điều tra thực trạng mà phải điều tra
từng giai đoạn trong suốt năm học. Ở mỗi giai đoạn tôi đều lấy kết quả đã đạt được để

25

×