Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

SKKN Giúp học sinh hứng thú học môn vật lí thông qua việc học sinh tự tạo dụng cụ thí nghiệm đơn giản, rẻ tiền ở nhà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.13 MB, 45 trang )

PHẦN I: ĐẶC VẤN ĐỀ
I . LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trước xu thế phát triển và hội nhập trong khu vực và trên phạm vi toàn
cầu đã đòi hỏi ngành giáo dục phải đổi mới một cách mạnh mẽ , đồng bộ cả mục
tiêu, nội dung, phương pháp và phương tiện dạy học, cũng như phương pháp
kiểm tra đánh giá học sinh để có thể đào tạo ra những lớp người lao động mới
mà xã hội đang cần. Trong đó,việc đổi mới phương pháp và phương tiện dạy học
phải được đặc biệt chú ý.
Vật lý học là một môn khoa học thực nghiệm, đặc điểm này đòi hỏi
giáo viên vật lý phải tăng cường sử dụng thí nghiệm và các phương tiện trực
quan trong quá trình dạy học. Đó là một yếu tố có tính đột phá đối với chiến lược
đổi mới phương pháp dạy học vật lý hiện nay. Bởi việc sử dụng thí nghiệm và
phương tiện trực quan dạy học vật lý sẽ góp phần tích cực vào đổi mới phương
pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học .Vì
như chúng ta đều biết , thí nghiệm và phương tiện trực quan giữ vai trò quan
trọng trong dạy học vật lí ở trường phổ thông , bởi nó không chỉ là nguồn cung
cấp thông tin, mà còn là yếu tố kích thích hứng thú, khuyến khích tính tích cực,
tự giác và sáng tạo của học sinh trong học tập bộ môn.
Việc nghiên cứu nhằm khai thác và sử dụng một cách có hiệu quả các
thiết bị thí nghiệm trong dạy học vật lý là một yêu cầu có tính cấp thiết.Thực tiễn
dạy học cho thấy vật lý học là một khoa học thực nghiệm, phần lớn giáo viên dạy
vật lý nhưng hiểu biết về thí nghiệm và phương tiện dạy học chưa thật tinh
thông, dạy vật lý nhưng kĩ năng thực hành chưa thật nhuần nhuyễn vì thế giáo
viên chưa thể trang bị được cho người học kĩ năng thí nghiệm hợp lí, khoa học.
Do vậy, giáo viên cần có cái nhìn đầy đủ hơn về thí nghiệm. Đồng thời có khả
năng sử dụng chúng một cách có hiệu quả trong quá trình dạy học từ đó giúp cho
người học có được kĩ năng thí nghiệm ngày một tốt hơn. Đó cũng là một trong
1 Năm học: 2014 - 2015
những mục tiêu của việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay trong nhà
trường phổ thông đã được quán triệt trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX : Đổi mới phương pháp dạy phải theo hướng phát huy tư duy sáng


tạo và năng lực tự đào tạo của người học, trong dạy học cần coi trọng thực
hành, tránh kiểu dạy học nhồi nhét, học vẹt dạy chay.
Trong các loại thí nghiệm vật lí mỗi loại có một vai trò riêng mà tùy
theo mục đích mà chúng ta có thể sử dụng sao cho nó có thể phát huy tác dụng
cao nhất. Thí nghiệm vật lí ở nhà là một thí nghiệm rất quan trọng trong việc
phát huy tính chủ động tích cực sáng tạo của người học. Với những dụng cụ đơn
giản, dễ kiếm, dụng cụ tự tạo ít tốn kém chi phí rất phù hợp với tình hình khó
khăn về đồ dùng dạy học hiện tại. Mặt khác học sinh có thể tự mình tạo ra được
những thí nghiệm thành công , thí nghiệm vui, lạ…… giúp các em có thể giải
thích những vấn đề, hiện tượng thực tế xung quanh mình, tạo cho học sinh tác
phong như những nhà nghiên cứu vì thế các em sẽ rất thích thú. Do đó, thí
nghiệm vật lí ở nhà với những dụng cụ tự tạo, đơn giản là một trong những
nguyên nhân chủ yếu tạo nên sự hứng thú học tập cho học sinh.
Từ những lí do trên, tôi quyết định tìm hiểu biện pháp “ Giúp học
sinh hứng thú học môn vật lí thông qua việc học sinh tự tạo dụng cụ thí
nghiệm đơn giản, rẻ tiền ở nhà”.
II . MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Trên cơ sở lí luận và thực trạng việc tìm hiểu về thí nghiệm vật lý nói
chung, thí nghiệm đơn giản, rẻ tiền , thí nghiệm tự tạo của học sinh nói riêng.
Giáo viên xác lập các biện pháp giúp học sinh hứng thú học môn vật lí thông qua
việc học sinh tự tạo dụng cụ thí nghiệm đơn giản, rẻ tiền ở nhà. Từ đó áp dụng
vào thực tế dạy học ở trường TH & THCS Trà Tân.

2 Năm học: 2014 - 2015
III . ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
 Khách thể nghiên cứu:
+ Hứng thú của học sinh đối với môn học vật lí.
+ Việc sử dụng dụng cụ thí nghiệm ở nhà với những dụng cụ
đơn giả, tự tạo của học sinh
 Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp giúp học sinh hứng thú học môn

vật lý thông qua việc tự tạo dụng cụ thí nghiệm đơn giản, rẻ tiền ở nhà của học
sinh THCS.
IV. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC:
Nếu tất cả giáo viên vật lý đều đồng bộ thấy được vai trò của thí
nghiệm vật lý ở nhà của học sinh và thực hiện đúng yêu cầu, phát huy tác dụng
của thí nghiệm vật lý với dụng cụ đơn giản, rẻ tiền, thí nghiệm tự tạo của học
sinh thì học sinh sẽ phát huy được tính chủ động sáng tạo , nâng cao năng lực thí
nghiệm . Từ đó các em sẽ hứng thú với môn vật lý và yêu thích môn học.
V. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về hứng thú của học sinh, về thí nghiệm vật lý
ở nhà, thí nghiệm với những dụng cụ tự tạo, đơn giản của học sinh.
2. Khảo sát và đánh giá thực trạng về hứng thú của học sinh, về thí nghiệm
vật lý ở nhà, thí nghiệm với những dụng cụ tự tạo, đơn giản của học sinh.
3. Xác lập các biện pháp giúp học sinh hứng thú học môn vật lý thông
qua việc tự tạo dụng cụ thí nghiệm đơn giản, rẻ tiền ở nhà của học sinh trường
TH & THCS Trà Tân.
3 Năm học: 2014 - 2015
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1. Nhóm các phương pháp lí luận:
 Phân tích và tổng hợp tài liệu.
 Phân loại và hệ thống hóa lí thuyết .
 Nhằm xây dựng cơ sở lí luận của đề tài
2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
 Phương pháp điều tra.
 Phương pháp quan sát sư phạm.
 Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
 Nhằm khảo sát, đánh giá thực trạng về việc sử dụng dụng cụ thí
nghiệm ở nhà và hứng thú của học sinh đối với môn học vật lí .
3. Phương pháp thống kê toán học:
 Nhằm xử lí kết quả nghiên cứu.

VII. PHẠM VI ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU:
Nghiên cứu biện pháp giúp học sinh hứng thú học môn vật lý thông qua
việc tự tạo dụng cụ thí nghiệm đơn giản, rẻ tiền ở nhà của học sinh trên địa bàn
Trường TH & THCS Trà Tân.
4 Năm học: 2014 - 2015
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN
I. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC:
 Nghị quyết số 40/2000/QH 10 ngày 9.12.2000 của Quốc hội khóa X Về
đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đã khẳng định mục tiêu của việc đổi
mới chương trình giáo dục phổ thông lần này là “ Xây dựng nội dung chương
trình , phương pháp giáo dục , SGK phổ thông mới nhằm nâng cao giáo dục toàn
diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp
hóa , hiện đại hóa đất nước phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam, tiếp
cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế
giới” ( 9, tr 1 )
5 Năm học: 2014 - 2015
 Một trong số các giải pháp phát triển giáo dục được đưa ra trong
chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 là “ phát triển đội ngũ nhà giáo, đổi
mới phương pháp giáo dục” ( 6, tr 30 )
 Chỉ thị 40-CT/TƯ về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục ghi rõ: “ Đặc biệt đổi mới mạnh mẽ và
cơ bản phương pháp giáo dục nhằm khắc phục kiểu truyền thụ một chiều, nặng lí
thuyết, ít khuyến khích tư duy sáng tạo; bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên
cứu, tự giải quyết vấn đề, phát triển năng lực thực hành sáng tạo cho người
học…”( 1, tr 2 )
II. NHỮNG CĂN CỨ CỦA BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỨNG THÚ:
Mỗi lọai thí nghiệm vật lí đều có ý nghĩa, tầm quan trọng riêng của
nó. Theo tôi, thí nghiệm vật lí ở nhà với những dụng cụ tự tạo, đơn giản, học

sinh tự khám phá, tự làm thí nghiệm sẽ góp phần phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo. Các em sẽ tự tin vào khoa học hơn . Từ đó các em sẽ hứng thú
và yêu thích môn học. Vì vậy , tôi đi sâu, tìm hiểu và đưa ra biện pháp giúp học
sinh hứng thú học môn vật lý thông qua việc tự tạo dụng cụ thí nghiệm đơn
giản, rẻ tiền ở nhà
1. Thí nghiệm vật lí ở nhà:
 Thí nghiệm ở nhà là một loại bài thực hành mà giáo viên giao
cho từng học sinh hoặc từng nhóm học sinh thực hiện ở nhà với những dụng cụ
thông thường , đơn giản và dễ kiếm, nhằm tìm hiểu một hiện tượng , xác định
một đại lượng, kiểm chứng một định luật , một quy tắc vật lý nào đó.
 Thí nghiệm ở nhà được tiến hành trong điều kiện không có sự
giúp đỡ, hướng dẫn và kiểm tra trực tiếp của giáo viên. Do đó, nó có tác dụng tốt
trong việc phát huy tính tự giác và tự lực của học sinh trong học tập. Thí nghiệm
ở nhà chỉ đòi hỏi học sinh tiến hành với những dụng cụ thí nghiệm tự kiếm ( lon
6 Năm học: 2014 - 2015
bia, chai nước khoáng đã dùng, những đồ chơi bán trên thị trường …) , hoặc
những dụng cụ tự tạo từ những vật dụng đơn giản . Chính đặc điểm này đã tạo
nhiều cơ hội cho sự phát triển hứng thú học tập và sự ham mê yêu thích môn học
của học sinh. Thí nghiệm ở nhà là cơ hội tốt để rèn luyện cho học sinh kĩ năng,
kĩ xảo thực hành , là điều kiện tốt để giáo dục kĩ thuật tổng hợp cho học sinh.
Ngoài ra, thí nghiệm ở nhà còn có tác dụng phát triển năng lực sáng tạo của học
sinh qua việc đề xuất, thiết kế , chế tạo các dụng cụ thí nghiệm nhằm thực hiện
các nhiệm vụ học tập.
 Thí nghiệm ở nhà có tác dụng mạnh mẽ đối với học sinh trên
cả hai mặt giáo dục và giáo dưỡng thông qua việc tự lực thiết kế các phương án
thí nghiệm, chế tạo hoặc lựa chọn các dụng cụ, bố trí tiến hành thí nghiệm và xử
lí kết quả…Thí nghiệm vật lí ở nhà có tác dụng tiếp tục rèn luyện và phát triển
những kĩ năng, kĩ xảo thực hành, những thói quen của người làm thực nghiệm
mà học sinh thu được qua thí nghiệm trực diện và thí nghiệm thực hành vật lí ở
lớp.

 Khi tiến hành thí nghiệm ở nhà, đòi hỏi học sinh phải phát
huy nhiều mặt, nhiều năng lực khác nhau, nên nó có tác dụng tốt đối với sự phát
triển toàn diện của học sinh.
 Khi sử dụng loại thí nghiệm này, giáo viên cần lựa chọn
những đề tài phù hợp với khả năng và điều kiện của học sinh, nhất là trong khâu
tìm kiếm dụng cụ cũng như tiến hành thí nghiệm.Kết quả thí nghiệm phải được
báo cáo trước lớp và phải nhận được sự đánh giá của giáo viên, nhằm động viên
và khuyến khích học sinh.
 Nội dung của thí nghiệm ở nhà rất phong phú và đa dạng, có
thể là đề xuất các phương án thí nghiệm, chế tạo dụng cụ thí nghiệm , tiến hành
thí nghiệm, giải thích các hiện tượng…Thí nghiệm ở nhà cũng có thể là thí
nghiệm định tính hoặc thí nghiệm định lượng.
7 Năm học: 2014 - 2015
Ví dụ 1: Có thể áp dụng sau khi học bài SỰ NỔI - chương trình vật lí
8
Một bình đong đựng gần đầy nước có một củ khoai tây nằm ở đáy
bình. Hãy đề xuất phương án lấy củ khoai tây ra mà không phải đổ nước đi hoặc
nhúng tay vào nước.
Ví dụ 2: Có thể áp dụng sau khi học bài THỰC HÀNH XÁC ĐỊNH
KHỐI LƯỢNG RIÊNG CỦA MỘT VẬT - chương trình vật lí 6
Dụng cụ thí nghiệm gồm:
 1 bình chia độ.
 1 cân Rô-béc-van
 1 quả cầu bằng đồng có đường kính nhỏ hơn đường kính bình
chia độ.
Hãy nêu phương án xác định quả cầu đặc hay rỗng ( không được
gõ)
2. Sử dụng thí nghiệm đơn giản, rẻ tiền:
* Thí nghiệm đơn giản, rẻ tiền
Là những thí nghiệm được tạo ra với những dụng cụ thí nghiệm

đơn giản, dễ kiếm trong đời sống hằng ngày hoặc mua nhưng không đắt tiền.
Như chúng ta đã biết, thí nghiệm hiện đại luôn gắn với những thí nghiệm định
lượng , những thí nghiệm đòi hỏi độ chính xác cao, trái lại đối với những thí
nghiệm định tính thì thí nghiệm đơn giản, rẻ tiền lại chiếm ưu thế.
* Ưu điểm của thí nghiệm đơn giản, rẻ tiền:
Những ưu điểm nổi bật của thí nghiệm đơn giản, rẻ tiền:
+ Dụng cụ cần cho thí nghiệm là những dụng cụ đơn giản, dễ kiếm
trong đời sống hằng ngày, có thể kiếm ở mọi nơi.
+ Dễ thao tác và dễ thành công, vì những thí nghiệm này do chính
giáo viên tự thiết kế, chế tạo và khai thác để sử dụng trong giảng dạy hoặc hướng
dẫn cho học sinh làm ở nhà.
8 Năm học: 2014 - 2015
+ Thí nghiệm cho kết quả rõ ràng, thuyết phục ( thường là những thí
nghiệm gắn với những hiện tượng vật lí gần gũi trong đời sống hằng ngày )
+ Thí nghiệm đơn giản, rẻ tiền không đòi hỏi ở người sử dụng
những kĩ năng thực hành đặc biệt , nên ai cũng có thể tiến hành được.
+ Thí nghiệm đơn giản, rẻ tiền không đòi hỏi khắt khe các điều kiện
về cơ sở vật chất như phòng bộ môn, mạng điện, thiết bị…nên ở đâu cũng có thể
tiến hành thí nghiệm được.
+ Hiện tượng và kết quả thí nghiệm có sức hấp dẫn lôi cuốn, vì vậy
nó có tác dụng kích thích hứng thú học tập của học sinh.
Tóm lại thí nghiệm đơn giản, rẻ tiền có ưu điểm là rất đơn giản, tiện
lợi, dễ tiến hành và cho kết quả thuyết phục, do đó có tác dụng tốt trong việc gây
hứng thú học tập cho học sinh. Bởi vậy, ở nhiều nước trên thế giới, thí nghiệm
đơn giản, rẻ tiền thường chiếm một vị trí quan trọng trong các loại thí nghiệm và
phương tiện dạy học vật lý ở trường phổ thông hiện nay. Đặc biệt , do nó không
đòi hỏi những điều kiện khắt khe về cơ sở vật chất : phòng ốc, điện… như các
thiết bị, máy móc hiện đại , nên nó có thể được khai thác tốt ở mọi nơi, mọi lúc,
nhất là ở vùng nông thôn, miền núi , vùng sâu, vùng xa, những nơi mà cơ sở vật
chất , thiết bị thí nghiệm có thể nói là rất khó khăn.

3. Vai trò của hứng thú đối với học tập và cách phát triển hứng thú
của học sinh:
Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động, làm tăng hiệu quả của
hoạt động nhận thức, tăng sức làm việc. Vì thế cùng với nhu cầu hứng thú là một
trong những hệ thống động lực của nhân cách.
Trong bất kì hoạt động nào, tạo được hứng thú là điều cực kì quan
trọng , làm cho các em hăng say với công việc của mình, đặc biệt là học tập.
Đối với môn vật lí, có hứng thú các em sẽ có tinh thần học bài, tìm thấy
cái lí thú, cái hay trong môn học, không cảm thấy khô cứng, khó hiểu nữa. Từ đó
9 Năm học: 2014 - 2015
tạo niềm tin say mê học tập, đồng thời nó làm cho các em nhận thức đúng đắn
hơn.
Học sinh sẽ biết coi trọng tất cả các môn học, có sự đầu tư, phân chia
thời gian hợp lí để kết quả học tập của mình có sự đồng đều, không coi nhẹ môn
phụ hay môn chính nào cả. Khi các em có sự phát triển đồng đều, như vậy sẽ tạo
điều kiện để phát triển nhân cách của các em.
Muốn học sinh hứng thú say mê hoạt động nào thì đối tượng của nó
chứa đựng những nội dung phong phú, hấp dẫn mới mẻ, càng tìm tòi học hỏi
sáng tạo, càng phát hiện trong hoạt động nhiều cái mới mẻ, cái hay có giá trị.
10 Năm học: 2014 - 2015
CHƯƠNG II
CƠ SỞ THỰC TIỄN
I. THỰC TRẠNG NHẬN THỨC, HỨNG THÚ CỦA HỌC SINH ĐỐI VỚI
MÔM VẬT LÍ:
Để khảo sát, nghiên cứu hứng thú học tập môn Vật lí THCS, đầu năm
học tôi đã tiến hành lập phiếu điều tra, gồm một số câu hỏi ( phụ lục 1 ) tại lớp
7A (37 hs )và lớp 9A( 22 hs ) Trường TH & THCS Trà Tân.
Sau khi thu thập số liệu, tôi thu được kết quả như sau:
1. Để xem học sinh có thích học môn vật lí không? Tôi đặt câu hỏi số 1.
" Em có thích học môn Vật lí không "

STT Phương án Số HS Tỷ lệ %
A Rất thích. 11 18,6
B Không thích lắm. 46 78
C Không thích. 2 3,4
11 Năm học: 2014 - 2015
 Qua bảng số liệu thu thập: Đối với môn vật lý thì tỷ lệ cao nhất
là 78% ý kiến "không thích lắm", tiếp đến là "rất thích"18,6%. Điều này thể hiện
quan điểm của học sinh về môn vật lí là chưa thật cao. Nhưng cũng không phải
là điều đáng ngại vì tỷ lệ "không thích" là 3,4%.
 Các em đã có sự thích thú với môn Vật lí, nhưng chưa thật sự
thích hẳn.
2. Để biết mức độ khó hay dễ của môn Vật lí theo đánh giá của HS ,
thông qua câu hỏi 2: "Em thấy môn Vật lí khó hay dễ so với các môn học
khác" ?
STT Phương án Số HS Tỷ lệ %
A Rất khó. 2 3,4
B Rất dễ. 0 0
C Bình thường. 57 96.6
 Qua số liệu trên ta thấy rằng: Theo các em HS đánh giá thì môn
Vật lí không phải là quá khó với môn học khác, bởi tỷ lệ ý kiến "rất khó" chỉ có
3,4%, nhưng cũng không phải là môn học quá dễ 0%, 96,6% ý kiến "bình
thường".
3. Xem học sinh có chuẩn bị bài khi đến lớp? Tôi đặt câu hỏi 3, kết quả
như sau:
STT Phương án Số HS Tỷ lệ %
A Chuẩn bị kỹ bài. 26 44
B Thỉnh thoảng. 13 22
C Không chuẩn bị bài. 0 0
D Chỉ làm bài tập. 5 8,5
E Chỉ học lý thuyết. 15 25,5

 Với kết quả thu thập 44% HS chuẩn bị kỹ bài trước khi đến lớp
đối với môn vật lí. Điều này có nghĩa : Các em đã có ý thức tự giác, tự lực
nghiên cứu, chuẩn bị bài ở nhà. Các em đã nhận thức được tầm quan trọng của
việc chuẩn bị bài, chuẩn bị kiến thức để có thể tiếp thu kiến thức mới tốt hơn, ôn
và nhớ lại kiến thức đã học, phục vụ cho các đơn vị bài học tiếp theo.
12 Năm học: 2014 - 2015
 Tỷ lệ "thỉnh thoảng" chuẩn bị bài cũ là 22%. Có nghĩa những em
này bình thường tới lớp không chuẩn bị bài, hoặc là các em đã hiểu đủ bài học
hoặc là chưa hiểu. Nếu hiểu đủ bài học nhưng không chuẩn bị bài thì ý thức của
các em trong học tập là không cao, có thể các em chưa hiểu hết tầm quan trọng
của việc chuẩn bị bài. Các ý kiến này có thể gây khó khăn cho giáo viên khi
giảng bài.
 Tỷ lệ chỉ làm bài tập 8,5%, lý thuyết 25,5% sẽ gây chênh lệch
trong tương quan giữa dạy và học.
4. Để xem xét mức độ đầu tư thời gian của các em cho môn Vật lí, tôi
đặt câu hỏi 4, kết quả:
STT Phương án Số HS Tỷ lệ %
A Trong vòng 30 phút. 30 50,8
B Từ 30-40 phút. 20 33,9
C Từ 45-60 phút. 6 10,2
D Từ 60 phút trở lên. 3 5,1
 Tỷ lệ chuẩn bị bài cho môn Vật lí từ 30-45 phút là 50,8%, cao
hơn các ý kiến khác. Đối chiếu với kết quả thu thập của câu hỏi 2 có tới 96,6 %
cho rằng môn Vật lí "bình thường" so với các môn học khác cũng là hợp lý. Và
so sánh với các đơn vị kiến thức của môn học như vậy là chấp nhận được.
 Tỷ lệ ý kiến phương án B là 33,9%, phương án C là 10,2%,
phương án D là 5,1% càng thêm khẳng định các em chưa có ý thức tự giác, đầu
tư thời gian nhiều cho môn Vật lí. Điều đó khẳng định các em chưa có hứng thú
nhiều với môn Vật lý.
5. Ngoài ra để tìm hiểu hứng thú ở môn Vật lí của HS, tôi đặt câu hỏi 5:

"Điều gì ở môn Vật lí khiến em thích thú nhất ?"
 Đa số các ý kiến khẳng định: "Thích môn Vật lí nhất là được làm
các thí nghiệm trực quan và giải thích được các hiện tượng từ đó". Điều này cho
13 Năm học: 2014 - 2015
thấy: thí nghiệm Vật lí có sức thu hút các em, tạo được hứng thú cho các em; thể
hiện tinh thần hợp tác nhóm trong học tập, tinh thần đoàn kết, giúp đỡ.
II. THỰC TRẠNG VỀ VIỆC SỬ DỤNG THÍ NGHIỆN VẬT
1. Thực trạng về việc sử dụng thí nghiệm vật lí:
 Giáo viên thực hiện đầy đủ các thí nghiệm theo yêu cầu của
SGK.
 Tận dụng tối đa tính năng của dụng cu thí nghiệïm:
VD: + Một số thí nghiệm trong chương trình vật lí lớp 6, 7, 8 cần sử dụng
nguồn điện là pin, để khỏi phải tốn chi phí mua pin giáo viên sử dụng biến thế
nguồn trong bộ dụng cụ thí nghiệm vật lí 9.
+ Sử dụng nam châm trong bộ dụng cụ thí nghiệm vật lí 9 để làm một
số thí nghiệm trong chương trình vật lí lớp 7……… v.v
 Tích cực làm đồ dùng dạy học bổ sung vào những tiết mà dụng
cụ ở trường không có.
Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng giáo viên gặp rất nhiều khó khăn:
 Dụng cụ bị hỏng nhiều nên một số thí nghiệm không đủ dụng cụ
thí nghiệm cho 6 nhóm.
 Không có phòng chức năng nên việc trưng bày cũng như sử dụng
không khoa học.
Mặc dù thí nghiệm vật lí ở nhà của học sinh với những dụng cụ đơn giản,
dễ kiếm, dụng cụ tự tạo của học sinh là một thí nghiệm rất quan trọng đã được
phần lớn giáo viên quan tâm nhưng thực tế việc sử dụng nó thì chưa được
thường xuyên và chưa phát huy hết vai trò của nó trong quá trình giảng dạy.
2. Thực trạng về việc sử dụng thí nghiệm vật lí ở nhà của học sinh
14 Năm học: 2014 - 2015
Để nắm được thực trạng việc sử dụng thí nghiệm vật lí ở nhà của

học sinh như thế nào ? Tôi tiến hành điều tra lớp 7
3
và lớp 9
1
với câu hỏi như
sau:
Câu 6: Có khi nào các em làm thí nghiệm vật lí ở nhà không?Kết quả:
STT Phương án Số HS Tỷ lệ %
A Không làm 40 67,8
B Chỉ làm khi giáo viên yêu cầu 19 32,2
C Rất thích làm 0 0
 Từ kết quả cho thấy tỉ lệ học sinh làm thí nghiệm ở
nhà rất thấp, mà chỉ làm khi giáo viên yêu cầu ( 32,2% ). Học sinh chưa tích cực
trong việc thực hiện các thí nghiệm ở nhà, chưa hứng thú, chưa phát hiện cái hay
của loại thí nghiệm này.
III. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:
Từ những thực trạng nêu trên cùng với vai trò đặc biệt của thí
nghiệm vật lí ở nhà, tôi thiết nghĩ, là một giáo viên, chúng ta phải làm thế nào để
phát huy tối đa vai trò của thí nghiệm vật lí ở nhà của học sinh, giúp học sinh
tích cực chủ động, sáng tạo hơn. Từ đó làm học sinh hứng thú, say mê học môn
vật lí.
15 Năm học: 2014 - 2015
16 Năm học: 2014 - 2015
CHƯƠNG III
NỘI DUNG VẤN ĐỀ
I. VẤN ĐỀ ĐẶT RA:
Để giúp học sinh hứng thú học tập môn vật lí thông qua việc tự tạo dụng
cụ thí nghiệm đơn giản, rẻ tiền ở nhà thì :
 Giáo viên cần nhận thức đúng đắn về vai trò, tác dụng của thí
nghiệm vật lí ở nhà và hướng học sinh thực hiện sao cho mang lại hiệu

quả cao nhất.
 Giáo viên phải làm như thế nào để thí nghiệm ở nhà của học sinh
mang lại hiệu quả, hứng thú cao đối với học sinh.
+ Những thí nghiệm, bài tập nào cho học sinh làm ở nhà là
hợp lí, kích thích hứng thú của học sinh ?
+ Thí nghiệm yêu cầu học sinh làm nhằm mục đích gì: thí
nghiệm để củng cố kiến thức hay thí nghiệm để tìm hiểu kiến thức mới.
+ Dụng cụ cần thiết học sinh chuẩn bị là gì ?
+ Chuẩn bị, gia công dụng cụ như thế nào ?
+ Cách tiến hành thí nghiệm như thế nào ?
II. BIỆN PHÁP:
1. Đối với giáo viên:
 Nhận thức đúng đắn ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của thí
nghiệm vật lí nói chung, thí nghiệm vật lí ở nhà nói riêng.
17 Năm học: 2014 - 2015
 Đưa ý kiến ra tổ chuyên môn thảo luận để đi đến thống nhất về
vai trò của thí nghiệm vật lí ở nhà đối với việc giúp học sinh hứng thú học môn
vật lí . ( chuyên đề ở tổ )
 Giáo viên bộ môn thảo luận thống nhất đưa ra chỉ tiêu, hế hoạch
những thí nghiệm vật lí nào cần yêu cầu học sinh làm ở nhà theo từng khối.
 Thành lập câu lạc bộ, nhóm học sinh yêu thích môn vật lí.
 Tích cực đầu tư, suy nghĩ và chọn lựa để bổ sung ngày càng
nhiều những thí nghiệm gần gũi, lí thú để giao cho học sinh.
 Giao nhiệm vụ cho học sinh, đồng thời phải theo dõi, kiểm tra,
đôn đốc, động viên các em hoàn thành.
 Khuyến khích, khích lệ tinh thần lớp, nhóm nào làm việc tốt.
2. Đối với học sinh:
 Tích cực hoàn thành nhiệm vụ mà giáo viên giao cho, có thể làm
việc cá nhân và theo nhóm.
 Ngoài những bài tập, thí nghiệm mà giáo viên giao cho học sinh,

có thể tự mình đưa ra một số phương án thí nghiệm, giải thích một số hiện tượng
theo khả năng của các em. Sau đó báo cáo kết quả cho giáo viên.
 Tích cực suy nghĩ và đưa ra ý kiến, những câu hỏi , tình huống
mà các em không giải thích được.
3. Áp dụng, minh họa trong một số bài học cụ thể ở trường TH &
THCS Trà Tân:
Ví dụ 1:
Khi học xong bài Định luật phản xạ ánh sáng trong chương trình
vật lí 7 giáo viên có thể giới thiệu với học sinh HỘP ẢO THUẬT
GV vẽ hình ( Chưa có vị trí các gương và đường truyền ánh sáng
từ vật đến mắt) và nêu vấn đề: thầy có thể ảo thuật nhìn xuyên qua vật chắn
sáng. ( Hình dưới )
HS: Tò mò và cảm thấy hứng thú.
18 Năm học: 2014 - 2015
HS: Suy nghĩ , thảo luận và tìm cách giải thích nguyên tắc hoạt
động.
GV: Nếu HS không giải thích được thỉ GV vẽ tiếp vị trí các
gương và đường truyền ánh sáng từ vật đến mắt.
HS: Tự giải thích.
GV: Hướng dẫn cách làm HỘP ẢO THUẬT
HS: Theo dõi, làm dụng cụ và thí nghiệm ở nhà và báo cáo kết
quả cho GV trong tiết sau.
* Cách làm:
a/ Dụng cụ:
 04 tấm gương soi bằng mica.
 Một số đoạn ống nhựa PVC,ø 2 khớp nối chữ T và 2 khớp nối
chữ L.
 Một hộp kín.
 Một vật chắn sáng.
b/ Chuẩn bị dụng cụ:

 Nối các ống và lắp các kính như hình vẽ.
 Dùng vật chắn sáng chắn giữa hai ống.
c/ Tiến hành:
 Đặt mắt ở vị trí như hình vẽ sẽ thấy vật qua vật chắn sáng.
19 Năm học: 2014 - 2015
Ví dụ 2: Trước khi học bài THẤU KÍNH HỘI TỤ phần hướng
dẫn học sinh học ở nhà của bài cũ GV nêu vấn đề: Để chuẩn bị cho tiết học sau,
thầy sẽ hướng dẫn lớp chế tạo một dụng cụ để lấy lửa từ ánh sáng mặt trời.
HS: Tò mò và cảm thấy hứng thú.
HS: Yêu cầu GV hướng dẫn.
GV: Hướng dẫn cách làm ( Hình dưới )
HS: Theo dõi, về nhà làm, tiến hành thí nghiệm và báo
cáo kết quả cho GV trong đầu tiết sau.
* Cách làm:
a/ Dụng cụ :
 01 phần của bóng đèn dây tóc.( Gia công bằng cách dùng một
vòng kim loại có đường kính nhỏ hơn một so với đường kính
lớn nhất của bóng đèn. Lấy vòng kim loại nung nóng đỏ sau
đó đặt lên cổ bóng đèn )
 01 cốc nước.
 01 mảnh giấy hoặc vật dễ cháy.
b/ Chuẩn bị dụng cụ:
20 Năm học: 2014 - 2015
 Gia công bóng đèn chỉ lấy một phầ bóng đèn.
 Đặt nửa bóng đèn lên giá đở.
c/ Tiến hành:
 Đổ nước vào một phần của bóng bóng đèn ( tạo thành thấu
kính hội tụ ).
 Hứng ánh sáng mặt trời để tập trung ánh sáng tại một vị trí
thích hợp.

 Dùng vật dễ cháy đặt tại điểm tập trung ánh sáng. Quan sát
hiện tượng và nhận xét.
Ví dụ 3: Trước khi học bài SỰ NHIỄM TỪ CỦA SẮT, THÉP
phần hướng dẫn học sinh học ở nhà của bài củ GV nêu vấn đề: Để chuẩn
bị cho tiết học sau, thầy sẽ hướng dẫn lớp chế tạo nam châm.
HS: Cảm thấy thích thú và có nhu cầu muốn biết.
HS: Yêu cầu GV hướng dẫn.
GV: Hướng dẫn cách làm ( Hình dưới )
21 Năm học: 2014 - 2015
HS: Theo dõi, về nhà làm, tiến hành thí nghiệm và báo cáo
kết quả cho GV trong đầu tiết sau.
* Cách làm:
a/ Dụng cụ :
 01 cái đinh sắt dài 10 cm.
 01 m dây đồng nhỏ có lớp cách điện ( loại 1mm )
 01 pin loại 1,5 V
 Một ít đinh ghim bằng sắt.
b/ Chuẩn bị dụng cụ:
 Bọc lên đinh sắt một lớp giấy.
 Quấn dây đồng lên đinh khoảng 30 – 40 vòng.
c/ Tiến hành:
 Nối nguồn điện vào hai đầu cuộn dây và đưa một đầu đinh lại
gần các đinh ghim. Yêu cầu học sinh quan sát hiện tượng và nhận xét.
Ngoài ra còn một số thí nghiệm mà trong quá trình tìm hiểu, vận
dụng tôi nhận thấy nó sẽ mang lại hiệu quả đáng kể trong việc kích thích óc tò
mò, hứng thú của học sinh góp phần làm học sinh yêu thích môn vật lí hơn nên
tôi nêu ra ở phần phụ lục 2
III. KẾT QUẢ CỦA VIỆC ÁP DỤNG GIẢI PHÁP VÀO THỰC TẾ:
22 Năm học: 2014 - 2015
1. Trước khi áp dụng:

 Từ thực tiễn nêu trên đối với học sinh môn vật lí là một môn học không
quan trọng lắm nhưng các em cũng không xem nhẹ môn học này.
 Hứng thú học tập của học sinh đối với môn vật lí không cao, biểu hiện
ở chỗ : thời gian học tập dành cho môn học không nhiều , chuẩn bị bài chưa
tốt.Một số học sinh cho rằng môn vật lí không dễ cũng không khó…Từ đó việc
học tập bộ môn chưa tốt thể hiện học sinh ít trao đổi ý kiến với bạn bè , giáo viên
về những khó khăn, thuận lợi , những vấn đề thích thú đối với môn học…
 Đối với thí nghiệm vật lí nói chung và thí nghiệm vật lí ở nhà nói riêng
phần lớn học sinh chỉ thực hiện theo yêu cầu của giáo viên . Thí nghiệm chưa
làm các em thích thú , chưa phát huy được tính tích cực , chủ động sáng tạo của
các em.
2. Sau khi áp dụng:
Để khảo sát, nghiên cứu hứng thú học tập môn Vật lí THCS, lần hai
tôi vẫn tiến hành lập phiếu điều tra, gồm một số câu hỏi ( phụ lục ) tại lớp 7A( 37
hs )và lớp 9A( 22 hs ) Trường TH & THCS Trà Tân.
Sau khi thu thập số liệu, tôi thu được kết quả:
2.1. Để xem học sinh có thích học làm thí nghiệm vật lí ở nhà
không? Tôi đặt câu hỏi số 7. " Em có thích làm thí nghiệm vật lí ở nhà
không ? "
STT Phương án Số HS Tỷ lệ %
A Rất thích. 25 42,4
B Không thích lắm. 34 57,6
C Không thích. 0 0
 Qua bảng số liệu thu thập ta thấy mặc dù tỉ lệ rất thích chỉ
chiếm 42,4% nhưng không có học sinh nào là không thích.Qua đó ta thấy các em
đã có sự thích thú với môn Vật lí.
23 Năm học: 2014 - 2015
2.2. Để biết học sinh thích thí nghiệm vật lí ở nhà như thế nào, tôi
đặt câu hỏi 8: “ Vì sao em thích thí nghiệm vật lí được tiến hành ở nhà?”
 Đa số học sinh cho rằng làm thí nghiệm ở nhà được thoải

mái, kết quả thí nghiệm lí thú. Các em tự mình tạo dụng cụ và tự làm thí nghiệm.
 Một số học sinh cho rằng thí nghiệm dễ làm hơn trong lớp
mà mang lại hiệu quả cao.
2.3. Để biết thái độ của học sinh như thế nào đối với thí nghiệm vật
lí ở nhà, tôi đặt câu hỏi 9: “ Theo em, nếu được giáo viên cho bài tập, thí
nghiệm ở nhà thì em thích ?
STT Phương án Số HS Tỷ lệ %
A Chỉ làm những thí nghiệm theo yêu cầu SGK. 7 11,9
B
Làm những thí nghiệm gần gũi cuộc sống gắn
liền với kiến thức trong SGK.
30 50,8
C Làm những thí nghiệm lạ, vui. 7 11,9
D Tất cả các ý trên. 15 25,4
 Kết quả điều tra cho thấy, mặc dù học sinh thấy được vai trò của thí
nghiệm vật lí nhưng phần lớn các em còn chưa hiểu được hết vai trò của nó
 Qua bảng số liệu ta thấy học sinh không những hứng thú với thí nghiệm
vật lí ở nhà mà thí nghiệm trở thành nhu cầu đối với học sinh .
Từ việc các em hứng thú hơn đối với môn vật lí thông qua việc các em
làm thí nghiệm ở nhà thì thái độ của các em đối với bộ môn cũng sẽ khác đi. Sau
đây là một số kết quả về thái độ của học sinh đối với môn vật lí mà tôi điều tra
được sau khi áp dụng các biện pháp
2.4. Xem mức độ hiểu bài của học sinh khi giáo viên giảng bài, tôi
đặt câu hỏi số 10, kết quả thu được:
STT Phương án Số HS Tỷ lệ %
A Em hiểu tất cả các nội dung bài học. 30 50,8
24 Năm học: 2014 - 2015
B
Trên lớp em thấy khó hiểu, về nhà đọc thêm
SGK thì em đã hiểu.

20 33,9
C
Em hiểu lý thuyết nhưng không áp dụng
được vào bài tập.
9 15,3
D Không hiểu gì cả. 0 0
 Với các mức độ ý kiến trên thì việc hiểu được tất cả các nội dung
bài học chiếm 50,8% là khá ổn.
 Tỷ lệ 33,9% phương án B cho thấy trên lớp các em thấy khó hiểu
nhưng về nhà đọc thêm SGK thì đã hiểu thêm. Điều này nói lên rằng các em đã
có sự đầu tư tìm hiểu môn học, có sự tự giác tìm tòi kiến thức để hiểu .
 Nhưng điều đặc biệt quan tâm và đáng chú ý: 15,3% các em
nhận định: Hiểu lý thuyết nhưng không áp dụng được vào bài tập Vật lí. Đối với
môn Vật lí thì việc hiểu lý thuyết để làm bài tập vận dụng mới là điều quan
trọng.
2.5. Khảo sát việc trao đổi học hỏi với bạn bè của HS qua câu hỏi
số 11. Kết quả:
STT Phương án. Số HS Tỷ lệ %
A Có. 30 50,8
B Trao đổi thường xuyên. 20 33,9
C Không trao đổi. 9 15,3
 Việc HS trao đổi kiến thức, học hỏi bạn bè là điều hết sức quan
trọng, nó giúp cho các em có sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, tạo tình đoàn kết,
tương trợ nhau cả trong cuộc sống; bổ sung cho nhau để cung nhau tiến bộ.
 Phương án A là 50,9% cho thấy các em đã có ý thức tốt về điều
này và có ý thức với môn học.
2.6. Điều tra hứng thú, sáng tạo của học sinh khi gặp bài khó, câu
hỏi khó, qua câu hỏi số 12 "khi gặp bài khó, câu hỏi khó em thường làm thế
nào"?. Kết quả
25 Năm học: 2014 - 2015

×