Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Những bước chuyển biến trong chính sách đối ngoại Việt Nam với các nước ASEAN trước và sau sự kiện Campuchia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.89 KB, 16 trang )

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO
BỘ MÔN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
-----------------
TIỂU LUẬN
NHỮNG BƯỚC CHUYỂN BIẾN TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI
NGOẠI CỦA VIỆT NAM VỚI CÁC NƯỚC ASEAN
TRƯỚC VÀ SAU SỰ KIỆN CAMPUCHIA
Nhóm thực hiện : Nhóm 6 Lớp CT36D
Nhóm trưởng : Nguyễn Anh Quang

Hà Nội ngày 17 tháng 3 năm 2011
MỤC LỤC
A. LỜI NÓI ĐẦU ........................................................................................................2
B. NỘI DUNG
I. Giai đoạn 1975 - 1979
1. Bối cảnh .........................................................................................................4
a. Tình hình thế giới ...............................................................................4
b. Tình hình trong nước .........................................................................4
2. Chính sách của Việt Nam .............................................................................5
3. Đánh giá .........................................................................................................6
II. Giai đoạn 1979 - 1986
1. Bối cảnh .........................................................................................................6
2. Chính sách của Việt Nam ............................................................................8
3. Đánh giá ........................................................................................................9
III. So sánh Chính sách đối ngoại của Việt Nam với các nước ASEAN trong hai
giai đoạn trên .......................................................................................................9
IV. Trả lời câu hỏi mở rộng .....................................................................................11
1. Ngoài nước ..................................................................................................11
2. Trong nước ..................................................................................................12
a. Ý thức hệ ...........................................................................................12


b. Cơ sở hạ tầng ....................................................................................13
C. KẾT LUẬN ...........................................................................................................14
Đánh giá tinh thần tham gia của các thanh viên nhóm
2
Tài liều tham khảo
LỜI MỞ ĐẦU
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, Việt Nam luôn coi trọng quan hệ đối
ngoại với các nước trong khu vực bởi tính chất địa-chính trị của nó, đồng thời vì đó cũng là cơ
hội để ta bắc cầu vào hội nhập thế giới. Vì vậy, quan hệ với ASEAN luôn là một vấn đề quan
trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam ta.
Năm 2010 vừa qua là một cột mốc đáng ghi nhớ, đánh dấu 15 năm Việt Nam gia nhập
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á - ASEAN, đồng thời cũng là năm Việt Nam chính thức
đảm nhận cương vị Chủ tịch ASEAN. Trong chặng đường 15 năm đó, Việt Nam đã hội nhập
mạnh mẽ và đã có nhiều đóng góp quan trọng tạo nên sự trỗi dậy mạnh mẽ của ASEAN trong
bối cảnh thế giới với đầy những biến động phức tạp. Tuy nhiên, trước khi đạt được những
thành tựu ấy, mối quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN đã phải trải qua không ít những thăng
trầm, sóng gió.
Bài tiểu luận này chúng tôi sẽ đi sâu vào những chính sách đối ngoại của Việt Nam với
các nước ASEAN trong giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1986. Năm 1986 được đưa ra, bởi đó
là năm đánh dấu bước ngoặt của của đối ngoại Việt Nam-năm đổi mới. Là năm Việt Nam thực
hiện chính sách đổi mới toàn diện cả đối nội lẫn đối ngoại, mở cửa, hội nhập với thế giới,
được thể hiện ở Đại hội Đảng VI (12-1986). Chính vì như vậy mà Việt Nam đã chủ động đẩy
mạnh quan hệ với các nước trong khu vực và thế giới, tham gia các tổ chức quốc tế, khu vực
đặc biệt là ASEAN. Vì vậy có thể nhìn nhận giai đoạn từ 1975-1986 là giai đoạn từ khi Việt
Nam thống nhất cho tới khi có những đổi mới tư duy về quan hệ quốc tế và chính sách đối
ngoại.
Để phân tích, xem xét cụ thể hơn nữa những chính sách đối ngoại của Việt Nam với
ASEAN từ 1975-1986, chúng tôi xin chia giai đoạn này thành 2 giai đoạn nhỏ, lấy năm 1979
làm cột mốc:
3

• 1975 - 1979: Mở rộng quan hệ
• 1979 - 1986: Đấu tranh chống bao vây, cô lập.
Năm 1979 có thể coi là mốc quan trong quan hệ Việt Nam – ASEAN bởi đây là năm
diễn ra nhiều biến động trong quan hệ đối ngoại của Việt nam.Việc Việt Nam đưa quân vào
Campuchia khiến cho quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN giai đoạn này trở nên lạnh nhạt, đối
đầu. ASEAN cho rằng Việt Nam đưa quân vào Capuchia là hành động xâm lược, và cùng
nhiều nước khác tham gia vào chính sách bao vây, cô lập Việt Nam. Đây cũng là một trong
những nguyên nhân chính dẫn đến những khó khăn thách thức trong quá trình gia nhập
ASEAN của Việt Nam.
Việc phân chia giai đoạn 1975-1986 dựa trên sự kiện Campuchia1979 như trên nhằm trả
lời rõ hơn cho câu hỏi lớn mà chúng tôi đưa ra cho bài tiểu luận:
“ Những bước chuyển biến trong chính sách đối ngoại Việt Nam với các nước ASEAN
trước và sau sự kiện Campuchia”.
Mở rộng hơn nữa, trong quá trình nghiên cứu, có một vấn đề chúng tôi luôn đặt câu hỏi,
đó là, ngay từ những năm đầu sau thống nhất 1975, Việt Nam luôn có những chính sách mở
rộng quan hệ với các nước ASEAN. Nhưng trong hơn 10 năm từ 1975 đến 1986, vẫn chưa thể
gia nhập vào tổ chức này, nguyên nhân tại sao? Phải chăng có những nhân tố tác động đến
chính sách đối ngoại của ta vào giai đoạn này, dẫn đến những hạn chế, làm chậm bước tiến hội
nhập khu vực của Việt Nam?
4
NỘI DUNG
I. Giai đoạn 1975-1978
1. Bối cảnh
Sau thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ mùa xuân năm 1975, một trang mới
trong lịch sử dân tộc được mở ra, hòa bình được lập lại trên toàn vẹn lãnh thổ. Cả nước tiến
lên chủ nghĩa xã hội với khí thế của một dân tộc vừa giành được thắng lợi vĩ đại trong cuộc
kháng chiến chống lại kẻ thù mạnh nhất lúc đó - Đế quốc Mỹ. Với thắng lợi của Việt Nam và
các nước Đông Dương, có thể nói hệ thống xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới đã
không ngừng được mở rộng, phong trào cách mạng thế giới phát triển ngày càng mạnh mẽ.
a. Tình hình thế giới

Việc Mỹ rút quân khỏi Đông Nam Á lục địa đã khiến cho nền chính trị thế giới bước vào thời
kỳ "sau Việt Nam". Cục diện quan hệ giữa các nước lớn cũng diễn biến phức tạp. Nước Mỹ
suy giảm thế và lực, khủng hoảng toàn diện về chính trị, kinh tế, xã hội. Trong khi đó, Tây Âu
và Nhật Bản vươn lên, trở thành các trung tâm kinh tế thế giới cạnh tranh với Mỹ, các khối
quân sự trở nên lỏng lẻo hoặc tan rã ( SEATO). Xu hướng độc lập với Mỹ trong thế giới
phương Tây không ngừng tăng lên.
Năm 1975, Liên Xô thúc đẩy ký Định ước Helsinki, kết thúc 30 năm đối đầu ở châu Âu. Liên
Xô cũng tăng cường mở rộng ảnh hưởng đến Mỹ Lantinh, châu Á, châu Phi, đặc biệt là ở các
nước thuộc khối thuộc địa của Bồ Đào Nha mới giành được độc lập và bắt đầu quan tâm nhiều
hơn tới Đông Nam Á, châu Á – Thái Bình Dương.
Trên mặt trận quốc tế lúc này, xu thế hòa hoãn đang thay thế dần xu thế đối đầu.
b. Tình hình trong nước
Tranh thủ tình hình quốc tế thuận lợi với Việt Nam sau chiến tranh, Đảng và nhà nước đã mở
rộng quan hệ đối ngoại và hợp tác kinh tế với nước ngoài nhằm thu hút vốn, thiết bị kỹ thuật
phục vụ công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng lại đất nước. Công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được một số thành tựu quan trọng .
2. Chính sách của Việt Nam
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12-1976), Đảng ta xác định nhiệm vụ đối ngoại là
“ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những vết thương
chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, khoa học kỹ thuật, củng cố
quốc phòng, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước ta”
1
. Trong quan hệ
với các nước, Đại hội IV chủ trương củng cố và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và quan
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà
Nội.
5
hệ hợp tác với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa; bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt
Việt Nam – Lào – Campuchia; sẵn sàng thiết lập, phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với

các nước trong khu vực; thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường giữa Việt Nam với tất cả
các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.
Nhìn lại quá khứ, vào những năm 1960 khi cuộc chiến tranh mà Mỹ tiến hành ở Việt
Nam đang ở cao trào và có sự tham gia (trực tiếp hay gián tiếp) của một số nước ASEAN, hai
bên hầu như không có quan hệ với nhau (trừ mối quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và
Indonesia). Cho tới những năm 1970, quan hệ Việt Nam - ASEAN đã dần được thiết lập và
phát triển cùng với thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước.
Ngày 27/11/1971 các nước ASEAN ra tuyên bố ở Kuala Lumpur thành lập "một khu vực hòa
bình, tự do và trung lập ở Đông Nam Á" (ZOPFAN). Tiếp đó, ngày 24/2/1976, các nước
ASEAN đã ký kết "Hiệp ước thân thiện và hợp tác" ở Bali với mục tiêu là xây dựng những
mối quan hệ hòa bình, thân thiên và hợp tác giữa các nước trong khu vực, tạo nên "một cộng
đồng Đông Nam Á hùng mạnh" trên cơ sở tự cường khu vực. Hiệp ước này có điều khoản để
ngỏ cửa cho các nước khác ở Đông Nam Á tham gia. (Hồ Sỹ Khoách Quan hệ Việt Nam -
ASEAN chuyển sang đối thoại, hợp tác và hội nhập để phát triển - Tập san KHXH nhân văn
số 4/1997)
Ngày 5/7/1976, để từng bước xóa tan mối lo ngại từ phía các nước ASEAN, trả lời
phỏng vấn Thông tấn xã Việt Nam, Ngoại trưởng Việt Nam Nguyễn Duy Trinh đã công bố
chính sách bốn điểm của nước ta đối với các nước Đông Nam Á, mà chủ yếu là các nước
ASEAN. Nội dung bốn điểm đó là:
• Thiết lập quan hệ hữu nghị láng giềng thân thiện, hợp tác kinh tế, văn hoá toàn diện
trên cơ sở công bằng và tôn trọng lẫn nhau;
• Nỗ lực phát triển hợp tác vì sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh theo điều kiện
riêng của mỗi nước vì lợi ích độc lập dân tộc, hòa bình, trung lập thực sự ở ĐNÁ;
• Không để lãnh thổ nước mình cho bất kì nước ngoài nào sử dụng làm căn cứ xâm
lược và can thiệp vào công cuộc nội bộ và hợp tác khu vực Đông Nam Á;
• Nguyên tắc quan trong nhất là tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can
thiệp vào công việc nội bộ, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi và chung sống hoà bình.
Có thể nói, tuyên bố bốn điểm của Việt Nam đã được các nước ASEAN hoan nghênh, vì nó
phù hợp với các nguyên tắc của Hiệp ước Bali. Nó đã thể hiện lòng mong muốn của Việt Nam
là hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực Đông Nam Á trong cùng tồn tại hòa bình

và vì một Đông Nam Á hòa bình, trung lập thực sự, không có căn cứ quân sự và quân đội của
nước ngoài.
Sau khi công bố chính sách bốn điểm này, Việt Nam nhanh chóng đã thiết lập quan hệ ngoại
giao với Philippin ngày 12/7/1976, với Thái Lan ngày 6/8/1976. Nếu tính cả Indonesia đã có
quan hệ ngoại giao với ta từ 1964, Malaysia và Singapore đã có quan hệ với ta từ năm 1973
sau khi Hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết, thì ta đã có quan hệ ngoại giao với cả 5
6

×