Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

luận văn Tập quán sinh hoạt truyền thống với vấn đề tái định cư ở Hoàng Khai –Yên Sơn –Tuyên Quang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.37 KB, 29 trang )

TẬP QUÁN SINH HOẠT TRUYỀN THỐG CỦA NGƯỜI
DAO ĐỎ VỚI VẤN ĐỀ TÁI ĐỊNH CƯ Ở HOÀNG KHAI –
YÊN SƠN –TUYÊN QUANG HIỆN NAY.
LỜI MỞ ĐẦU:
1.Lý do chọn đề tài
Tỉnh Tuyên Quang là địa bàn cư trú của 22 dân téc anh em, có số dân
cư 172.136 người, mật độ trung bình 29.632 người/km
2
, vào loại cao so với
các tỉnh trong khu vực (năm 1999). Tư xa xưa, nơi đây đã thu hót được các
dòng người từ bốn phương tụ lại trong đó có các dân téc thiểu sè nh Tày,
Dao, Sán Dìu, Hmông, Pà Thẻn… đã tạo nên bức tranh văn hoá Tuyên
Quang đa dạng mà thống nhất. Đặc biệt là dân téc Dao, đây là dân téc còn
mang năng văn hoá truyền thống đậm đà với 9 nhóm nhá nh nhóm Dao đỏ,
Dao Tiền, Quần chẹt, ôgang, Cooc Mùn, Quân Trắng, Thanh Y, Dao áo dài.
Tuy là các nhóm khác nhau nhưng họ đều có nguồn gốc lịch sử chung, tín
ngưỡng chung, cùng trải quan nhiều biến cố lịch sử như chiến tranh, hạn
hán, không đất canh tác, khiến cho họ phải sống du canh du cư, đi nhiều nơi,
biết nhiều vùng và có những phong tục tập quán đặc trưng của dân téc Dao.
Tập quan sinh hoạt của người Dao đã được hình thành từ rất lâu đời,
đã trở thành bộ phận không thể tách rời của văn hoá các dân téc Việt Nam.
Những giá trị, văn hoá trong phong tục, tập quán đã hình thành nên cốt cách,
diện mạo của người Dao đỏ và được lưu truyền từ đời này sang đời khác,
trải qua những thăng trầm biến động lịch sử, nó được chặt lọc và bổ sung tạo
nên nét văn há độc đáo riêng của người Dao đỏ. Vì vậy trong suy nghĩ, trong
đời sống người Dao đỏ những nét văn hoá Êy vẫn tồn tại và lưu giữ, Ýt
nhiều có biến đổi và tác động tới chính sách phát triển kinh tế –xã hội chung.
Cùng với sù phát triển chung của cả nước, Tuyên Quang là tỉnh miền
núi đang có sự thay da đổi thịt nhanh chóng với tiềm năng và thế mạnh đang
được đầu tư, khai thác như các chương trình phát triển du lịch, các khu công
nghiệp…Trong đó có công trình xây dùng Thuỷ điện tại Thị trấn Na Hang.


Với việc giải phóng mặt bằng vùng lòng hồ Thuỷ điện đã được triển
khai thực hiện từ năm 2002 và đến nay đã dần đi vào ổn định nhưng đây là
vấn đề lâu dài không thể một lúc đáp ứng, đảm bảo được đời sống cho người
dân nhất là vùng đồng bào dân téc thiểu số với phong tục tập quán truyền
thống đã gắn liền với cuốc sống của họ như dân téc Tày, Doa, Mông ở xã
Tùng Khánh, xã Xuân Tân, Xuân Tiến, Thuỷ Loa, Sơn Phù…thuộc huyện
Na Hang. Các dân téc vùng này đã chuyển đến khu tái định cư mới trong
huyện Na Hang, các huyện Chiêm Hoá, Hàm Yên, Yên Sơn và dân téc Dao
đỏ ở Hoàng Khai –Yên Sơn –Tuyên Quang là một bộ phận trong dự án di
dân tái định cư đó.
Vốn là dân téc có tập quán sinh hoạt truyền thống lâu đời, gắn liền với
rừng núi và hoạt động tín ngưỡng đặc trưng riêng nên có sự tác động không
nhỏ tới quá trình vận động cũng như ổn định được cộng sống cho người dân
ở khu tái định cư xã Hoàng Khai, mặt khác, khu tái định cư tuy có nhiều
thuận lợi đồng thời có không Ýt những khó khăn, thiếu đất ở, đất sản xuất,
điều kiện sống khó khăn, cuộc sống mới chưa phù hợp với tập quán của
đồng bào Dao đỏ chưa được đồng bào chấp nhận nên còn xẩy ra hiện trạng
chuyển cư về quê cũ và đi nơi khác khiến cho người dân chưa ổn định cuộc
sống làm ảnh hưởng tới quá trình ổn định dân cư cuộc sống mới, quê hương
mới, môi trường mới cũng làm thay đổi mọi mặt đời sống xã hội của đồng
bào Dao đỏ đồng thời cũng biến đổi dần những giá trị văn hoá độc đáo đặc
trưng riêng của họ.
Vì vậy, là một sinh viên khoa văn hoá Dân téc thiểu số của Trường
Đại học Văn hoá Hà Nội và là con em sinh ra và lớn lên cùng với đồng bào
Dao đỏ, muốn được góp một phần sức nhỏ bé của mình vào công cuộc xây
dùng quê hương, cho nên tác giả bài nghiên cứu chọn đề tài “Tập quán sinh
hoạt truyền thống với vấn đề tái định cư ở Hoàng Khai –Yên Sơn –Tuyên
Quang hiện nay”.
2.Mục đích nghiên cứu của đề tài.
Mục đích của bài nghiên cứu là tìm hiểu tập quán sinh hoạt truyền

thống của người Dao đỏ ở Hoàng Khai nhằm thấy rõ được sự tác động tới
quá trình vận động ổn định đời sống khu tái định cư và những biến đổi của
nó., từ đó đề xuất một số giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả
cuộc vận động dân cư về khu vực tái định cư cũng như để duy trì và phát
triển những nét văn hoá truyền thống của người Dao đỏ tại khu tái định cư
mới.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Để xác định được phạm vi và đối tượng nghiên cứu đề tài cần định rõ
nội dung một số khái niệm:
-Hộ định cư: Là hộ gia đình hoặc hộ độc thân, tổ chức bị thu hồi đất
phải di chuyển để giải phóng mặt bằng thực hiện dự án Tuyên Quang.
-Điểm tái định cư: Là điểm dân cư được xây dùng theo quy hoạch
gồm đất của hộ gia đình tái định cư và đất khu chức năng nông thôn.
-Khu tái định cư: Là một địa bàn thống nhất được quy hoạch xây dùng
để bố trí cho hộ tái định cư gồm đất sản xuất, đất ở, đất chuyên dùng…trong
khu tái định cư Ýt nhất 1 điểm tái định cư.
-Vùng tái định cư: Là địa bàn các huyện được quy hoạch để tiếp nhận
dân tái định cư. Trong vùng tái định cư có Ýt nhất 1 khu tái định cư.
Tập quán sinh hoạt: Là những sinh hoạt tồn tại lâu đời của người dân
téc trở thành những thãi quen, nếp sống của họ. Những tập quán mà đề tài
nghiên cứu là tập quán cư trú, tập quán sản xuất, tập quán tìn ngưỡng, tôn
giáo, quan hệ cộng đồng và tri thức dân gian.
4.Nguồn tư liệu thực hiện đề tài.
Đề tài nghiên cứu ở một địa phương cụ thể bà dân téc cụ thể nên
nguồn tư liệu sử dụng là tư liệu dân dã do tác giả khảo sát trên địa bàn
Hoàng Khai –Yên Sơn –Tuyên Quang. Bên cạnh đó, có tham khảo và sử
dụng và sử dụng một số tài liệu, công trình nghiên cứu về bộ téc người Dao
và các tài liệu liên quan của các tác giả ở TW và địa phương.
5.Phương pháp thực hiện đề tài.
Phương pháp chủ yếu được sử dụng trong bài nghiên cứu là phương

pháp: điều tra, điền dã thực địa, quan sát phỏng vấn người dân, phân tích,
tổng hợp và so sánh đối chiếu.
6.Đóng góp khoa học của đề tài:
-Bài nghiên cứu là sự tác động về tập quán sinh hoạt người Dao đỏ
với vấn đề tái định cư ở Hoàng Khai –Yên Sơn –Tuyên Quang.
-Đóng góp thêm nguồn tư liệu mới, qua đó thấy được sự tác động của
tập quán sinh hoạt truyền thống người Dao đỏ với vấn đề tái định cư.
-Kết quả nghiên cứu của bài nghiên cứu sẽ góp thêm cơ sở khoa học
cho việc định hướng các chính sách, xã hội, văn hoá, giáo dục của địa
phương. Trong đó việc gìn giữ và phát triển văn hoá dân téc trước trào lưu
“hội nhập” của văn hoá hiện nay.
7.Bè cục của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, bài nghiên cứu gồm 3 chương.
Chương 1: Tập quán sinh hoạt truyền thống của người Dao đỏ ở Hoàng Khai
–Yên Sơn –Tuyên Quang.
Chương II: Cuộc sống người Dao đỏ ở khu tái định cư Hoàng Khai –Yên
Sơn –Tuyên Quang.
Chương III: Một vài suy nghĩ –giải pháp và kiến nghị về sự tác động tập
quán sinh hoạt người Dao đỏ với vấn đề tái định cư ở Hoàng Khai –Yên Sơn
–Tuyên Quang.
Chương I
Tập quán sinh hoạt của người Dao đỏ ở xã Hoàng Khai –Yên Sơn –Tuyên
Quang.
1.1.Điều kiện môi trường tự nhiên và xã hội vùng người Dao đỏ ở xã Hoàng
Khai.
1.1.1.Khái niệm về môi trường tự nhiên.
Hoàng Khai là xã thuộc huyện Yên Sơn, cách huyện lỵ Yên Sơn
khoảng 12 km về phía tây nam có tổng diện tích là 1232 ha nằm trong vị trí
từ 21
0

45’ đến 21
0
48 vĩ độ bắc, 105
0
10’ đến 105
0
13’kinh độ đông phía bắc
giáp với xã An Tường, phía nam giáp với Nhữ Khê xã Phù Lâm, phía đông
giáp với xã Đội Cấn, phía tây giáp với xã Kìm Phù.
Hoàng Khai là nơi giao lưu thuận tiện vì phía tây có đường liên tỉnh
Tuyên Quang –Yên Bái chạy qua. Tù Hoàng Khai có thể đi Hà Giang, Yên
Bái, Phú Thọ một cách dễ dàng. Từ trung tâm xã cách thị xã Tuyên Quang
khoảng 10km, cách huyện lỵ Yên Sơn 12km có 3km đường liên xã và mạng
lưới giao thông liên thôn xóm rất thuận lợi cho việc phát triển -kinh tế –xã
hội, an ninh quốc phòng.
Hoàng Khai và vùng đất tương đối bằng phẳng chiếm 1/2 diện tích đất
tự nhiên thuận lợi cho việc bố trí sản xuất nông nghiệp và một số đồi thấp
thuận cho việc phân bổ dân cư và trông cây công nghiệp. Phía nam xã
Hoàng Khai bao bọc bởi dãy núi Nghiêm Sơn do đó vùng này phức tạp, có
độ dốc lớn, không có khả năng sản xuất nông nghiệp. Hoàng Khai có tổng
diện tích đất rừng là 169,13ha chiếm 50,49% tổng diện tích tự nhiên. Thực
vật chủ yếu là cây cỏ dại, nứa. Động vật là loại chim chóc. Sóc…
Hoàng Khai nằm trong vùng nhiệt đời gió mùa, một năm chia làm 2
mùa rõ rệt có mùa đông lạnh và mùa khô bắt đầu từ tháng 10 năm trước đến
khoảng tháng 4 năm sau, nhiệt độ trung bình khoảng 15-25
0
C. Mùa hè nóng
Èm kéo dài từ tháng 5 -10, nhiệt độ trung bình khoảng 35
0
C, lượng mưa

trung bình trong năm từ 1500 -1800mm. Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa,
có gió mùa đông bắc thổi vào mùa đông mang theo không khí lạnh, khô nên
ảnh hưởng việc sản xuất.
Hoàng Khai là xã có diện tích tự nhiên nhỏ, không có sông suối lớn
chạy quá, có công trình thuỷ lợi hồ An Lưỡng là một công trình thuỷe lợi
lớn, có nhiều ao, hồ, phân bố đồng đều trên toàn xã, ngoài ra còn có các con
suối nhỏ là nguồn nước đảm bảo cung cấp cho sinh hoạt, sản xuất.
1.1.2.Khái quát về môi trường xã hội.
Xã Hoàng Khai có 14 thôn, bản. Đến năm 2006 dân số ở Hoàng Khai
có 3724 người gồm có 4 dân téc anh em sinh sống nh: Việt, Tày, Cao Lan,
Dao. Các dân téc cư trú chủ yếu ở phía chân núi Nghiêm Sơn và vùng đất
đồi thấp tạo nên cộng đồng dân téc với những truyền thống và sắc thái riêng,
đã hình thành nền văn hoá đa dạng, độc đáo qua các làn điệu dân ca như:
hát ru, hát lượm hát páo chung được thể hiện rõ vào díp lễ hội và tết cổ
truyền. Trong đó, có téc người Dao đỏ với số dân khoảng 388 người đứng
thứ 3 sau người Việt và người Cao Lan. Cư trú tại khu tái định cư cách trung
tâm xã 1km và đây là khu duy nhất trong xã có người Dao đỏ sinh sống.
Theo số liệu điều tra dân số năm 1999 của tổng cục thống kê thì người
Dao trong cả nước có dân số 620.538 người, cư trú và quan hệ gắn bó với
các dân téc anh em khác. Cư trú chủ yếu ở vùng trung du và miền núi tập
trung đông ở các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái
Nguyên…Trong đó Tuyên Quang có 77.015 người chiếm 10.61% dân số
toàn tỉnh với 9 nhóm khác nhau, mỗi nhóm cư trú ở một vùng nhất định
nhoám Dao đỏ, Dao Tiền và Dao áo dài cư trú ở vùng núi phía bắc cao hiểm
trở, nhóm Dao Cooc mùn, ôgang, Thanh Y, Cooc Ngang, Quần Tràng, Quần
Chẹt lại tập trung đông ở vùng có nhiều ruộng và đồi thấp giao thông thuận
tiện. Nhóm Dao đỏ ở có 27 xã thuộc 2 huyện Chiếm Hoá, Na Hang. Từ năm
2002 thực hiện dự án giải phóng mặt bằng vùng lòng hồ thuỷ điện Tuyên
Quang, Người Dao đỏ đã có mặt tại các vùng tái định cư ở Hàm Yên, Yên
Sơn.

Người Dao đỏ ở Hoàng Khai –Yên Sơn –Tuyên Quang cũng như
người Dao đỏ và các nhóm Dao khác trong toàn tình đều có người gốc
chung là ở miền nam Trung Quốc (nam Trường Giang), theo tài liệu viết về
nguồn gốc người Dao, dùa trên thư tích và sử sách Trrung Quốc) Người Dao
đỏ cư trú ở Tuyên Quang từ thế kỷ XIII. Cùng với sự di cư của nhóm Dao
Tiền vào khoảng thời Minh từ Quảng Đông, Quảng Tây (Trung Quốc) đến
Tuyên Quang.
Bên Cạnh đó nguồn gốc của người dao đỏ còn được giải thích qua câu
truyện truyền khẩu Bàn Hồ. Đây là con Long Khuyển, đã giúp Bình Hoàng
giết chết Cao Vương và được gả cung nữ, sau này con cháu Bàn Hồ nhiều và
được Bình Hoàng ban sắc thành 12 họ, nơi họ phát triển thành một ngành và
chia thành nhiều nhóm nhỏ đi nhiều nơi để sinh sống. Người Dao coi đây là
ông tổ của mình và được thờ cóng rất tôn nghiêm nhất là lễ cấp sắc…
Thực hiện dự án thuỷ điện Tuyên Quang người Dao đỏ ở Trùng
Khánh, Na Hang –Tuyên Quang đã có mặt ở Hoàng Khai vào cuối năm
2003. Do vậy, người Dao đỏ ở Hoàng Khai nói riêng và người Dao đỏ trên
toàn tỉnh Tuyên Quang nói chung đều có cùng chung nguồn gốc lịch sử,
cùng chung phong tục tập quán, có văn hoá tín ngưỡng chung góp phần
phong phú đa dạng cho nền văn hoá các dân téc tỉnh Tuyên Quang.
1.2. Tập quán sinh hoạt truyền thống người Dao đỏ ở xã Hoàng Khai –Yên
Sơn –Tuyên Quang.
1.2.1.Sinh hoạt kinh tế.
Còng nh hầu hết các dân téc sinh sống ở vùng cao Đông bắc, Việt
Bắc, trồng trọt là hoạt động kinh tế chủ đạo của người Dao đỏ xưa kia. Tất
cả các hoạt động mưu sinh khác nh chăn nuôi, thủ công gia đình, trao đổi
buôn bán, săn bắn, hái lượm…chỉ là những hoạt động phụ, mang tính hỗ trợ
cho hoạt động trồng trọt. Những người Dao đỏ, hình thức kinh doanh chủ
yếu lại là nương rẫy du canh. Ruộng nước và ruộng bậc thang chiếm tỷ lệ
nhỏ.
Người Dao đỏ chủ yếu làm nương rẫy vùng cao núi đá, trồng trọt trên

các thửa ruộng hẹp có nhiều đá lởm chởm. Loại hình này gọp là thổ canh
hộc đá, chủ yếu trồng ngô ngoài ra còn trồng kê, lúa. Dụng cụ sản xuất rất
thô sơ chủ yếu là cái rừu, con dao, cái gậy chọc lỗ, cáo nạo, cái hái nhắt.
Đất đai Ýt được bón phân và hay bị xói mòn nhanh và thường xuyên bị thiếu
nước nên năng suất cây trồng thấp.
Trồng lúa nương là hoạt động sản xuất đặc trưng của người Dao đỏ
xưa kia. Người ta bắt đầu phát rẫy từ tháng giêng âm lịch cho tới tháng tư.
Rừng già, rậm rạp có nhiều cây to và gần nguồn nước là nơi làm rẫy tốt nhất.
Rộy được phát để độ khoảng 20-30 ngày mới đốt. Nừu đốt quá sớm cây
còn tươi cháy không hết Ýt tro, tốn nhiều công dọn dẹp và sau có nhiều cỏ.
Đôt xong, khi nào tro nguội, những cây cành cháy chưa hết dọn ra ngoài rìa
nương và bắt đầy gieo trồng. Người Dao đỏ thường trồng lúa vào tháng 4,
tháng 5 và thu hoạch và tháng 9, tháng 10 thu thành từng léo đem về nhà để
trên gác bếp cho khô. Giống lúa chủ yếu là lúa tẻ và lúa nếp dẻo và thom
ngon. Sau gieo trồng họ còn chăm sóc lúa làm cỏ để mỗi khi mưa to gió lớn
không bị đổ, ảnh hưởng đến năng suất.
Bên cạnh trồng lúa người Dao đỏ còn trồng ngô. Đây là hoạt động sản
xuất quan trọng người Dao đỏ, Ngô vừa là nguồn lương thực, vừa cung cấp
cho chăn nuôi và tích luỹ lương thực. Bên cạnh lua nương Ngô gọi là “kia
mẹ” được trồng hai vụ từ tháng 1 đến tháng 5 vụ hè thu từ tháng 5 đến tháng
9. Ngô được thu hoạch cả bắp đem về để trên gác bếp để dùng dần. Cùng với
ngô, lúa trên nương người Dao đỏ còn trồng nhiều thứ khác nh sắn, khoai,
đậu, các loại rau, rau cải ,dưa, bầu, bí…đều là những cây trồng không thể
thiếu được trông nương ngô hoặc lúa. Kê hoặc khoai sọ, khoai lang có thể
trồng cùng với ngô, chỉ có sắn trồng riêng. Ngoài các cây lương thực trên
nương còn trồng chè, móc, bãng, trúc, vầu…Đó là cây có giá trị kinh tế cao.
Những cây thân củ có nhiều bột giữ lâu ngày nh khoai từ, khoải cẩm cũng
được người Dao đỏ ưa trồng.
Ruộng bậc thang gần có nguồn nước cũng là một hình thức sản xuất
người Dao đỏ do tiếp thu cách sản xuất dân téc khác. Nhưng chiếm tỷ lệ nhỏ

và trồng chủ yếu là lúa nếp, tẻ, năng suất chưa cao, kỹ thuật canh tác còn
thấp.
Trên địa bàn cư trú người Dao đỏ xưa kia vốn sẵn có đồi cỏ, thung
lòng, khu suối nên việc chăn nuôi khá phát triển nh gia sóc, gia cầm. Tập
quán chăn nuôi chủ yếu là thả rông, thả trâu vào rừng có thể hàng tháng khi
nào mùa vụ tìm về, lơn gà chăn thả tự nhiên tối nhốt vào chuồng, song phổ
biến là nuôi gà để khi có việc dùng làm đồ cóng. Gia súc chủ yếu là trâu vì
nó là nguồn sức kéo chính cho nông nghiệp, lợn cũng là gia xúc không thể
thiếu được trong mét gia đình, mỗi gia đình thường có Ýt nhất là 2 con lợn
trở lên để làm thức ăn cho ngày lễ ngày tết đặc biệt là cóng lễ cóng bái.
Ngoài ra, còn nuôi cá ao nhưng không phổ biến.
Nghề thủ công của người Dao đỏ không phát triển lắm, chỉ l à đan lát
các vận dụng trong gia đình như rổ, rá, nong, nia, gùi…nghề rèn ở người
Dao đỏ Hoàng Khai xưa kia hầu như không có chủ yếu lấy từ dao ở các
vùng khác. Ngoài ra, còn trồng tràm nhuộm vải, nghề làm giấy. Nguyễn liệu
làm giấy chủ yếu là từ vỏ cây dương, các loại tre nứa giấy mỏng, mịn được
người Dao đỏ dùng để ghi chép sách cóng, gia phả, còn dùng làm pháo và
vàng mã.
Trước đây rừng còn nhiều, chim thó lắm, người Dao đỏ cũng đi săn
bắn, để cung cấp thêm thức ăn, cải thiện bữa ăn hàng ngày và bảo vệ mùa
màng, đồng thời còn là nguồn giải trí hứng thó đối với nam giới ngưới Dao
đỏ. Vũ khí chủ yếu là súng kíp, nỏ, bẫy. Có hai hình thức săn là săn cá nhân
và săn tập thể. Con thó săn được cả làng được mời tới ăn và các cá nhân đi
sưn được chia phần đều.
Bên cạnh đó, Lâm thổ sản là nguồn lợi đáng kể vào những năm mùa
màng thất bát, củ nâu, của bẩu, bột nhúc, củ mài, các thứ măng, rau rừng
giúp đồng bào vượt qua ngày thiếu thốn, ngoài ra đồng bào còn hái nấm
hương, mốc nhĩ, cánh kiến, các loại hạt có dầu, khai thác gỗ, gỗ, nứa, song,
mây.
Có thể nói, trước đây người Dao đỏ sống chủ yếu bằng nương rẫy,

một phương thức canh tác vô cùng lạc hậu, hoàn toàn lệ thuộc vào tự nhiên.
Một năm được lại nhiều năm mất mùa, lang thang nghèo dốt, bệnh tật, thất
học…cuộc sống thất là đen tối. Nền kinh tế mang tính tự cung tự cấp.
1.2.2. Sinh hoạt vật chất.
1.2.2.1.Tập quán cư trú.
Còng nh mét và dân téc ở miền núi, thôn bản của người Dao đỏ trước
đây phụ thuộc vào điều kiện, vị trí canh tác. Thôn bản được lập trên sườn
núi, dưới thung lòng thoai thoải hoặc nơi có thể dẫn nguồn nước về nhà. Từ
các điểm này, sù phát triển tạo nên thôn bản. Ranh giới giữa các thôn bản
hình thành có tính ước lệ, chỉ là những cánh rừng, dòng suối, đèo dốc,
đường mòn… được dân bản công nhận theo quy ước không thành văn.
Ngoài ra nương đã có người sở hữu, còn tất cả rừng, núi, suối đều thuộc
quyền sử dụng chung mọi nhà trong thôn bản.
Tổ chức xã hội thôn bản người Dao đỏ, vận hành theo cơ chế tự quản.
Mỗi bản thường có người đứng đầu, giữ vai trò trụ cột, điều hành toàn bộ
mọi hoạt động của bản. Người đứng đầu phải là người có uy tín, biết thổ
thần, am hiểu phong tục tập quán dân téc, hiểu lai lịch và mối quan hệ họ
hàng của dân bản, kinh nghiệm sản xuất. Người đứng đầu có vai trò quyết
định mọi việc quan trọng của thôn nh chia đất, quyết định thời điểm, gieo
trồng, thu hoạch mùa màng, giải quyết các mâu thuẫn, chù trì các lễ cúng…
Bên cạnh vai trò chính của người đứng đầu thôn bản thì các cụ già
làng, trưởng họ, thầy cóng cũng là người có uy tín cao, thường có mặt việc
quan trọng các công việc chung của bản.
Xưa kia, người Dao đỏ sống tập quán du canh du cư, chủ yếu là hoạt
động nương rẫy nên thôn bản người Dao đỏ thường phân tán, rất Ýt nóc nhà
khoảng 5 -7 hoặc 10 nóc nhà và người đứng đầu thường là trưởng họ có vai
trò quyết định trong sản xuất và di chuyển nơi ở của thôn.
Về nhà ở người Dao đỏ chủ yếu là nhà nền đất. Nhười ta cho rằng có
ở nhà nền đất mới có chỗ để cóng Bàn Vương, và nó là loại hình nhà phù
hợp với tập quán du canh, du cư, thường xuyên di chuyển chỗ ở theo nương

rẫy. Nguyên vật liệu để làm nhà thường kiếm ngay tại chỗ: gỗ, các loại tre,
nứa, dây rừng, là gồi, cỏ tranh…công cụ làm nhà chủ yếu là rìu và con dao
tay, nếu làm nhà có gỗ đục và méc thì phải có thêm cưa, bào và các loại đục.
Người Dao đỏ không có thợ làm nhà chuyên nghiệp mà mọi người trong
thông đều có thể làm nhà được, nhất là nam giới. Trong việc làm nhà, người
Dao đỏ có tập quán tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, mỗi khi trong thôn bản có ai
làm nhà thì mọi người làm giúp và góp thêm nguyên vật liệu.
Ngôi nhà của người Dao đỏ thường có 3 gian trở lên, ngoài ra còn 2
trái, gian giữa là nơi đặt bàn thờ, có khoảng không gian rộng Ýt để đồ vật để
có không gian làm lễ cóng lớn, đối diện với bàn thờ là cửa chính vì trong tín
ngưỡng người Dao đỏ của chính và bàn thờ là hai vị trí quan trọng, linh
thiêng nhất vào dịp lễ cóng, là con đường nối giữa tổ tiên và trời đất, gian
trái thường là nơi đặt bếp nấu ăn, chạn bát, bếp cám, nấu rượu, nơi để bể
nước, gian phải để bàn uống nước, giường ngủ con trai, giường khách. Đăng
sau ba gian con được ngăn làm buồng ngủ, buồng ngủ vợ chồng chủ nhà
thường để sau bàn thờ, buồng ngủ vợ chồng con trai có cửa riêng và không
qua chỗ ngủ của gia chủ.
Trước đây, người Dao đỏ thường xuyên thay đổi chỗ ở theo tập quán
du canh du cư nên việc chọn địa điểm và hướng nhà rất được coi trọng.
Vị trí làm nhà thường là nơi khuất gió, cao giáo, gần nguồn nước, có
bãi chăn thả, gần ruộng nương thuận tiện đi làm và lấy củi, hái rau và nơi
gần họ hàng.
Ngoài ra, người Dao đỏ còn tập quán chọn hướng nhà theo họ, theo
tuổi chủ nhà và theo thổ đất. Thường là phía sau lưng nhà là còn nghi lễ
chọn đất và nghi lễ vào nhà mới vì theo họ việc thực hiện nghi lễ này ngôi
nhà tìm được đất lành dựng, mới đưa được hồn các thành viên gia đình, hồn
ma tổ tiên và linh hồn thóc lúa vào nhà mới. Có nh vậy ở nhà mới gia đình
mới khoẻ mạnh, yên ổn, làm ăn no đủ, chăn nuôi đầy dần.
Nh vậy, Người Dao đỏ chủ yếu cư trú ở vùng núi cao, gần nguồn nước
nơi ở nhà thương thay đổi song vẫn có tính cố kết thôn bản, gia đình cao.

1.2.2.2.Tập quán ăn uống.
Trước đây, do ảnh hưởng của tậpp quan du canh du cư nên đồng bào
Dao đỏ còn nhiều thiếu thốn, ăn uống rất kham khổ. Nguồn lương thực chủ
yếu là lúa nương, ngô nhưng hàng năm còn thiếu thốn nên các loại sắn,
khoai, dong giềng, kê, củ mài, ruột đao, móc…là nguồn lương thực bổ xung
của đồng bào. Thức ăn của người Dao đỏ thường chỉ là măng rau, các loại
thực phẩm từ trồng trọt, Ýt khi có cá thịt. Mặc dù người Dao đỏ có nuôi
nhiều gà lợn nhưng chỉ dùng làm lễ cũng hay trong dịp đám ma, lễ cưới…
thịt thường được ướp chua hoặc sấy khô. Gia vị chủ yếu là ớt, gừng, giềng,lá
xả, chanh… và các thứ rau mùi thơm. Ngoài ra các món sào, rán, luộc, hoa
chuối rừng, măng chua, thịt muối chua, thịt treo gác bếp…
Người Dao đỏ thường ăn hai bữa là bữa trưa(11-12 h) bữa tối (20 -21h
0. Người dao đỏ thích ăn gạo lúa lương và ngô. Về đồ uống, ngưoứi Dao
đỏ thường uống nước chè, nước từ dễ cây thân cây thuốc lấy ở trên rừng,
băm nhỏ, sấy khô sau đó đun sôi uống, nước uôngs là nước khe suối.
Đặc biệt trong các bữa cơm tiếp khách hoặc vào ngày lễ người Dao
thường uống rượu, rượu được làm từ gạo, ngô, khoai, sắn. Nhất là rượu chế
biến trừ bột báng, dây đao cây móc. Đẩ là rượu đặc sắc đồng bào Dao đỏ
vừa thơm ngon, dễ uống. Men chủ yếu là cây lá, quả rễ cây vừng và gạo.
Rượu là thành phần rất quan trọng và không thể thiếu trong đời sống Dao
đỏ. Nên dù ở đâu người Dao đỏ không thể không cất rượu nó không chỉ để
tiếp khách hay uống lúc mệt nhọc mà còn là thành phần quan trọng trong
sinh hoạt tín ngưỡng, các nghi lễ cóng baíu của người Dao đỏ.
1.2.3 Sinh hoạt xã hội.
1.2.3.1 Quan hệ gia đình dòng họ
Dân téc Dao đỏ là téc người cư trú theo từng thôn bản giữa các hộ gia
đình có mối quan hệ với nhau. Họ luôn gắn bó đoàn kết giúp đỡ nhau trong
mọi công việc lên mỗi thành viên trong làng đều có một vị trí bình đẳng
trong lao đọng sản xuất và trong công việc chung của làng.
Về gia đình, loại hình gia đình chủ yếu của người Dao đỏ là hình thức

gia đình nho phụ quyền. Thường có từ hai thế hệ gồm một cặp vợ chồng và
các con hoặc ba thế hệ ông bà, bố mẹ và các con chưa lập gia đình. Gia đình
bốn thế hệ rất hiếm.
Trong gia đình quyền lực thuộc về người đàn ông nếu bố chết thì con
lớn thau thế quyết định moi công việc của gia đình. Người vợ vai trò nội trợ,
quản lí kinh tế, thêu thùa, may vá và giáo dục con cái là việc của người cha.
Cả hai vợ chồng cùng gánh việc nương rẫy.
Các thành viên trong gia đình có tôn ti trật tự nhất định. Con cái nghe
lời cha mẹ, vợ nghe chồng, con dâu, em dâu, với bố mẹ chồng và em rể với
mẹ vợ có quy định nghiêm ngặt không được ngồi ăn cùng mâm, trước mặt
không được ngồi ghế, không được đến khu vực buồng ngủ.
Người con trai sau khi lấy vợ được bố mẹ chia tài sản và ở riêng,
người nào sống với bố mẹ có trách nhiệm giữ bàn thờ tổ tiên và được nhận
thêm phần tài sản của bố mẹ. Con gái cũng được chia nhỏ tài sản sau khi lấy
chồng. Nhìn chung, trong quan hệ gia đình truyền thống người Dao đỏ tuy
có một số quy định nghiêm ngặt nhưng thể hiện sự bình đẳng đoàn kết, yêu
thương tương trợ nhau trong sản xuất.
Về dòng họ, người Dao đỏ có một số dòng họ phổ biến như họ Triệu,
Bàn, La, Phùng, họ Chúc….Người Dao đỏ ở Hoàng Khai – Yên Sơn chủ yếu
là Triệu là họ chiếm số lượng người đông nhất, bên cạnh đó còn có họ La,
Phùng, họ Chúc…Người ta phân biệt các thế hệ trong cùng dòng họ bằng hệ
thống tên đệm chỉ thế hệ thứ bậc đàn ông như Triệu Tài, Triệu Xuân, Triêụ
Quý là ba thế hệ. Hệ thống tên đệm nh chu kì đóng kín. Vì vậy, quan hệ
dòng họ khác nhau cùng cư trú không phân biệt là dòng hộ nào ai sinh trước
đều được gọi anh chị, sinh sau là em và người Dao đỏ luôn có sự đoàn kết
giữa các dòng họ.
Người trong cùng dòng họ phải cách năm đến bảy thế hệ mới được lấy
nhau còn khác dòng họ không có sự phân biệt
Tuỳ từng dòng họ người Dao đỏ ở Hoàng Khai – Yên Sơn – Tuyên
Quang không có lệ bầu trưởng họ nhưng những người cao tuổi am hiểu

phong tục và biết cóng bài luôn là người có vai trò quyết định trong mọi việc
gia đình, của các thành viên trong dòng họ có vai trò quán xuyến và chủ
trìma chay, cưới hỏi…
1.2.3.2 Quan hệ cộng đồng thôn bản, quan hệ dân téc
Đối với đồng bào Dao đỏ ở Hoàng Khai – Yên Sơn – Tuyên Quang
ngoài mối quan hệ trong phạm vi gia đình, dòng họ thì người Dao đỏ còn có
mối quan hệ cộng đồng thôn bản rất gắn bó được thể hiện trong lao động sản
xuất. Đó là hình thức đổi công giữa các gia đình Dao đỏ gọi là “pũi công” .
Mỗi khi bước vào mùa sản xuất phát lương, làm rẫy, gieo trồng hay thu
hoạch các gia đình đều đổi công làm việc cho nhau theo tinh thần tù
nguyện vì vậy mà công việc được hoàn thành nhanh chóng. Hay mỗi khi gia
đình nào neo người, khó khăn bà con làng xóm đều đến giúp đỡ và cho vay
tiền gạo không tính lãi hoặc đến làm giúp không công. Mỗi khi có người
chết hay làm việc lớn nh cấp sắc, chấu đàng hay làm nhà mới dù có bận
người ta vẫn tậm dừng để đến dự đồng thời góp thêm rượu, gạo, củi cho chủ
nhà.
Trong việc săn bắn thì khi đi săn được con thó thì họ thường mời cả
dân bản đến dự ăn vui vẻ nếu còn thừa cho mỗi nhà phần nhỏ kể cả người
không đi săn.
Mối quan hệ thôn bản đồng bào Dao đỏ rất chặt chẽ tạo nên tình đoàn
kết giữa người trong cùng một thôn cùng sống vui vẻ hoà thuận, cùng giúp
nhau trong sản xuất, trong đời sống người Dao đỏ có tính cố kết cộng đồng
cao.
Người Dao đỏ xưa kia đã có mối quan hệ với các dân téc khác từ rất
sớm thể hiện trong mối quan hệ trao đổi giao lưu hàng hoá với nhau và thể
hiện trong một sè các cụ già cao tuổi không chỉ biết nói tiếng Dao mà có thể
nói tiếng dân téc khác như Tày, Mông …Đồng thời mối quan hệ thể hiện
qua quá trình đấu tranh chống giặc ngoại sâm…
Tuy nhiên, cũng có những khía cạnh người Dao đỏ Ýt chia sẻ với các
dân téc khác nh kết hôn với người khác téc và các lễ thức tín ngưỡng. Ngoài

ra đồng bào Dao đỏ chủ yếu tập trung trên một thôn bản Ýt xen kẽ với dân
téc khác lên Ýt nhiều còn tồn tại tính tự ti dân téc, Ýt giao lưu, ngại tiếp xúc
người khác téc một phần là do bất đồng ngôn ngữ.
1.2.4 Sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng.
ở người Dao đỏ còn nhiều tàn dư tôn giáo nguyên thuỷ, và tôn giáo
thể hiện rõ rệt, đặc biệt là đạo giáo ảnh hưởng sâu sắc tới tôn giáo – tín
ngưỡng của người Dao đỏ.
Người Dao đỏ còng nh người Dao khác đều tin rằng vạn vật có linh
hồn( vần) khi thực thể bị huỷ diệt thì hồn lìa khỏi xác và biến thành
ma( miên) theo người Dao đỏ thì có ma lành ma dữ. Ma lành là các loại ma
tổ tiên, ma Bàn vương, thần nông , thổ địa… ban phóc lành cho con người,
nhưng đối với ma lành không tốt thì có thể bị quở trách. Ma dữ là ma sông,
suối, núi, rừng…thường giáng hoạ cho con người và động vật.
Người Dao đỏ cũng tin rằng người ta có 12 linh hồn, khác với người
Dao khác người Dao đỏ cho rằng linh hồn chính ở đầu (goòngvân) ngay nơi
xoáy tóc, ở vị trí cao nhất trong thân thể người nên rất kỵ người lạ sê vào
đầu trẻ con của họ.
Do tin là có hồn lên khi bị ốm người ta cho rằng không có đủ số hồn
trong cơ thể do bị ma bắt hoặc lại ở đâu đó nên phải nhờ thầy cóng bói và
chuộc chúng về.
Người Dao đỏ cho rằng, khi ngủ say hồn tạm thời lìa khỏi xác đi chơi
lên khi ngủ thường nằm mơ. Từ quan niệm này nên họ mới btin vào việc
đoán mộng theo cách đoán ngược nh mơ thấy lợn, chã, trâu là có khách, mơ
khóc là có niềm vui và mơ cười ắt có chuyện buồn.
Người Dao đỏ còn có niềm tin vào chiêm bao và sự linh cảm: Khui
nóng tai có người mong, sót ruột thì có chuyện gì xảy ra với ngưới nhà hoặc
có người mong… hay đi xa gặp hoẵng kêu, cây gẫy thì có điều chẳng lành…
Do có niềm tin tín ngưỡng nh vậy nên người Dao đỏ sinh các nghi lễ
cóng bái để trừ tà ma, chữa bệnh, tạ ơn rất tốn kém và ảnh hưởng không nhỏ
đến đời sống kinh tế xã hội.

Ngoài ra, người Dao đỏ còn nhiều tín ngưỡng và nghi lễ liên quan đến
nông nghiệp như trong khâu sản xuất đều chọn ngày lành tháng tốt các kiêng
kỵ như và lễ cóng như cóng thóc giống, lễ cóng lương, lễ cóng cơm mới, lễ
cóng hồn lúa. Với gia sui kiêng kị không được khen béo, không được chê
nhỏ gầy, sợ bị thần quở trách ngoài ra còn lễ cóng săn bắn nghề thủ công.
Người Dao đỏ cũng thờ tổ tiên nh các nhóm Dao và nhiều dân téc
khác ở nước ta. Xuất phát từ quan niệm rằng ông , bà, cha, mẹ sau khi chết
linh hồn về thế giới bên kia vẫn thường xuyên xuất hiện về chăm sóc phù hộ
cho con cháu đang còn sống vào ngày mồng một và ngày rằm nên con cháu
có nghĩa vụ thờ cóng tổ tiên. Ma tổ tiên thường thường được thờ cóng theo
từng gia đình, dòng họ. Bàn thờ được đặt ngay nhà giữa hướng nhìn ra cửa
chính. Đây là nơi tôn nghiêm nhất trong nhà, người phụ nữ Ýt được đến gần,
việc thờ cóng do đàn ông chủ nhiệm.
Thờ cóng Bàn Vương cũng thuộc tục thờ cóng tổ tiên phải chuẩn bị 2
con lợn thần, hai chum rượu 1 cho Bàn Vương, 1 cho các vị thần. Còng nh
Bàn Vương, cấp sắc là không thể thiếu ở người Dao đỏ, tất cả người đàn
ông (10 tuổi) đều phải trải qua lễ này. Người được cấp sắc mới được làm
thầy cóng được công nhận là trưởng thành, mới là sía tía( thân) công nhận và
cấp âm linh, khi chết mới lên được dương châu về với tổ tiên. Người được
cấp sắc mới được công nhận là con cháu Bàn Vương và được Bàn Vương
phù hộ nếu không cấp sắc thì không thống lĩnh được âm linh gia đình, do đó
chúng sẽ làm loạn nguy hại con cháu. Do quan niệm vậy, dù tốn kém bao
nhiêu người ta vẫn tiến hành lễ cấp sắc, lễ được tổ chức đúng bảy ngày, bảy
đêm tốn kém rất nhiều thịt lợn, rượu gạo, và sức người. Được tổ chức tại
nhà người cấp sắc và có bàn thờ, không gian rộng để tiến hành nghi lễ.
Ngoài ra người Dao đỏ còn có tập quán cưới xin và ma chay là tập
quán được tiến hành 2 ngày và tốn không Ýt tiền của chủ yếu là thịt, gạo,
rượu, nên mỗi nhà mỗi gia đình luôn chủ động tro ng việc sản xuất và chăn
nuôi nhằm phục vụ đời sống hàng ngày và vừa phục vụ cho nghi lễ sinh hoạt
tín ngưỡng của gia đình.

1.2.5 Văn nghệ và tri thức dân gian
1.2.5.1 Văn nghệ dân gian.
Mặc dù văn nghệ ở người Dao đỏ không thực sự phát triển như các
dân téc khác nhưng đã phản ánh đầy đủ và sâu sắc nguồn gốc lịch sử dân téc
người phản ánh quá trình thiên tri dân gian và những mối quan hệ xã hội
phức tạpp trong cuộc sống của họ. Đồng thời là lời ca điệu hát mượt mà ca
ngợi vẻ đẹp quê hương đất nước, tình yêu giữa con người với con người, chủ
nghĩa người với thiên nhiên. Tất cả những điều Êy được đúc kết trong truyện
kể, tục ngữ, câu đố, hát páo dung: Và sinh hoạt múa tín ngưỡng thông qua
đó phản ánh đời sống tinh thần, đới sống xã hội của người Dao đỏ trong mỗi
bối cảnh lịch sử xã hội.
1.2.5.2 Tri thức dân gian.
Đồng bào Dao đỏ ncũng có kiến thức trong việc chữa bệnh và chăm
sóc sức khẻo. Nguồn dược liệu chủ yếu cây, rễ, lá, hoa, củ trong rừng hoặc
trồng xung quanh nhà hay từ một số động vật hoang dã săn bắn được. Đó là
các vị thuốc chủ yếu thuốc bổ, thuốc chữa bệnh, thuốc độc đều từ cây dược
liệu pha chế, sấy khô sắc kết hợp với nhiều loại khác nhau hoặc là các loại
khác nhau hoặc là các loại thuốc trừ một số bộ phận động vật ngâm rượu.
Người Dao đỏ biết cách tính thời gian theo cách tính lịch Trung Quốc,
qua đó biết thời vụ trong chăn nuôi, biết ngày lành tháng tốt để tổ chức sinh
hoạt, làm nhà, cưới hỏi, ma chay…
Đồng thời, người Dao đỏ còn có thể phán đoán thời tiết theo các hiện
tượng tự nhiên ví dụ mối ra nhièu sắp có giông bão
Tóm lại, người Dao đỏ ở Hoàng Khai là một cộng đồng có nền văn
hoá mang đậm bản sắc dân téc. Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn cản trở trên
con đường tồn tại phát triển tại quê hương nhưng hộ vẫn trung thành với lối
sống truyền thống ông cha, vẫn tiếp tục khẳng định mình theo cách của họ.
Những nét văn hoá truyền thống dễ nhận thấy ở người Dao đỏ ở nếp
sống và lối sống, những niềm tín ngưỡng, sự tôn trọng nề nếp trong quan hệ
dòng họ, gia đình, thôn bản…

Thông qua giá trị văn hoá tinh thần nh truyện kể, tịc ngữ, ca dao, văn
hoá văn nghệ có thể khẳng định người Dao đỏ là người giàu lòng nhân ái, có
lối sống kính già, yêu trẻ, mến khách giàu lòng vị tha. Cuộc sống người Dao
đỏ là cuộc sống nội tâm phong phú, có sự gắn kết cộng đồng bền chặt.
Ngoài ra còn có nhiều chính sách của Đảng và Nhà nước của tỉnh
phục vụ cho đới sống nhân dân như hỗ trợ di dân tái định cư, chính sách xã
hội khác để tạo điều kiện tốt hơn so với nơi ở cũ nhằm nâng cao dân trí,
nâng cao sự nhận thức của dân nhất là đối với các đòng bào dân téc thiểu số
với nhận độ nhận thức còn thấp, mù chữ vẫn tồn tại và nhiều người dân chưa
biết tiếng phổ thông. Vừa tạo niềm tin của người dân tái định cư vào đường
lối của Đảng, chính sách của nhà nước để người dân sớm yên tâm, ổn định
tinh thần phát triển sản xuất.
* Nhận xét.






3.2.7.Hiệu trưởng chỉ đạo CTGD hướng nghiệp của thư viện trong trường
THPT:
-Lùa chọn và giới thiệu danh mục các sách báo, tạp chí có liên quan đến
việc lùa chọn nghề của học sinh. Tổ chức triển lãm các sách báo nói về nghề
nghiệp và sự lùa chọn nghề nghiệp.
-Thông qua danh sách mượn đọc của học sinh, kết hợp với ban hướng
nghiệp để lập kế hoạch tìm hiểu hứng thó đọc sách của học sinh. Trên cơ sở
đó có phương hướng giới thiệu cho học sinh đặt mua các tạp chí, sách báo có
liên quan đến sự lùa chọn nghề của các em.
3.2.8.Hiệu trưởng kết hợp với các cơ sở sản xuất và các tổ chức xã hội thúc
đẩy công tác công tác giáo dục hướng nghiệp – dạy nghề:

Các trường phổ thông khi tiến hành công tác hướng nghiệp – dạy nghề
không thể thiếu sự giúp đỡ của các tổ chức xã hội như: Cơ quan chính Đảng,
các đoàn thể (Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, các hiệp hội) các tổ
chức này sẽ tạo những điều kiện hữu hiệu hỗ trợ về lực lượng, giải quyết về
mặt pháp lý, hành chính mà trong rất nhiều trường hợp hoạt động giáo dục
hướng nghiệp – dạy nghề không thể bỏ qua được.
3.2.9.Hiệu trưởng kết hợp với trung tâm hướng nghiệp – dạy nghề trong
công tác giáo dục hướng nghiệp – dạy nghề.
-Tổ chức tư vấn nghề cho học sinh.
-Tổ chức dạy nghề lao động sản xuất và dịch vụ kĩ thuật phục vụ yêu
cầu đào tạo góp phần tạo thêm của cải vật chất, đồ dùng dạy học…
-Dạy nghề cho thanh thiếu niên có nhu cầu học nghề ở địa phương.
Dạy nghề cho học sinh THPT nhằm trang bị tri thức, hình thành kĩ năng lao
động nghề nghiệp và phát triển tư duy kĩ thuật thích hợp với trình độ học
vấn phổ thông tương ứng, đồng thời phù hợp với nhu cầu và khả năng kinh
tế – xã hội từng địa phương.
3.3.Định hướng đổi mới phương pháp tổ chức hoạt động giáo dục hướng
nghiệp – dạy nghề ở các trường THPT:
3.3.1.Cơ sở đổi mới phương pháp tổ chức hoạt động giáo dục hướng nghiệp
– dạy nghề.
Trong điều kiện mới của đất nước, đòi hỏi thanh niên và học sinh phải
đáp ứng với yêu cầu mới của việc lùa chọn việc làm và nghề nghiệp. Các
hình thức và cơ hội tìm được việc làm của họ đã thay đổi cũng ảnh hưởng
mạnh đến tính động cơ, linh hoạt của từng cá nhân, đến sự phân công lao
động trong từng gia đình và vị trí từng công việc trong xã hội. Giáo dục
hướng nghiệp có vai trò quan trọng trong việc giúp học sinh nắm được
những kiến thức cơ bản về các nghề và phát huy được tính chủ động, sự tự
tin trong khi lùa chọn nghề tương lai, giúp các em linh hoạt và năng động
đáp ứng với sự tác động phức tạp của nền kinh tế thị trường. Hoạt động giáo
dục hướng nghiệp có những đặc thù riêng về mặt phương pháp tổ chức hoạt

động cho học sinh. Tính đặc thù thể hiện ở chỗ học sinh đóng vai trò chủ thể
của hoạt động.
Đứng trước thực trạng thực hiện giáo dục hướng nghiệp hiện nay, việc
đổi mới phương pháp dạy, học hướng nghiệp trở nên yêu cầu bức thiết, là
một trong những điều kiện quyết định sự thành công của công tác giáo dục
hướng nghiệp ở trường THPT.
3.3.2.Việc đổi mới tổ chức hoạt động giáo dục hướng nghiệp – dạy nghề cần
được tiến hành theo các định hướng sau:
-Phát huy tính năng động sáng tạo của học sinh:
Giáo dục hướng nghiệp là bộ môn các em được tìm hiểu với thời
lượng, thời gian it. Tại những buổi học đó, giáo viên không thể dẫn dắt các
em từng ngành nghề cụ thể mà nên khái quát hoá cho các em hình dung thế
giới nghề nghiệp xung quanh các em vô cùng phong phó. Do vậy, thông qua
tìm hiểu một nghề cụ thể và nhận thức những nguyên tắc chọn nghề, học
sinh phải nắm được cách thức tự xây dựng bản mô tả nghề một cách sơ lược
để phác hoạ những nét chính của nghề định chọn.
-Coi trọng tính giáo dục của công tác hướng nghiệp – dạy nghề.
Giỏo dc hng nghip khụng n thun l cụng vic gii thiu
ngh cho hc sinh v nhng nguyờn tc chn ngh cn c hc sinh tuõn
th, m v c bn l quỏ trỡnh iu chnh liờn tc ý nh chn ngh cho hc
sinh, giỳp cho hc sinh thy c nhng ngh ang cú nhu cu nhõn lc
lựa sc mỡnh m lựa chn. Giỏo dc hng nghip rt tụn trng hng thú v
nng lc ca hc sinh, nhng li hng c quỏ trỡnh hỡnh thnh hng thú
v nng lc lao ng ngh nghip vo nhng ngh m xó hi cn.
-Tự tu dng t hc l iu kin quan trng to ra s phự hp
ngh.
Thụng qua giỏo dc hng nghip giỏo viờn phi chng minh c
rng, s phự hp ngh khụng phi t nhiờn m cú. Nhng c im ú
khụng phi l bt bin. Thụng qua rốn luyn, tu dng, s phự hp ngh s
c hỡnh thnh. Vớ d mt ngi rt thớch tr thnh thy thuc nhng c

nhỡn thy mỏu l choỏng. Nhng nu cú cỏch tp luyn tinh thn thỡ n mt
lỳc no ú hin tng choỏng s c khc phc, nh vy cú th i vo hc
ngnh y. Trong trng hp khụng khc phc c tỡnh trng trờn thỡ ngi
ấy phi nh hng vo ngh khỏc.
-Quỏn trit quan im hot ng trong dy hc:
Trong cỏc bui hot ng giỏo dc hng nghip cn phi t chc hng
hc sinh vo cỏc hot ng xõy dng bi: Giỏo viờn khụng nờn dựng phng
phỏp thuyt trỡnh hc sinh th ng trong cỏc hot ng. Giỏo viờn hng
dn cỏ nhõn hc sinh hay mt nhúm hc sinh phi cựng nhau xõy dng bi
hc, tham gia vo cỏc cụng vic, k c cỏc hot ng ca hỏt, din kchtheo
ch hng nghip. Trong các buổi hoạt động giáo dục hớng nghiệp
cần phải tổ chức hớng học sinh vào các hoạt động xây dựng bài: Giáo viên
không nên dùng phơng pháp thuyết trình để học sinh thụ động trong các
hoạt động. Giáo viên hớng dẫn cá nhân học sinh hay một nhóm học sinh phải
cùng nhau xây dựng bài học, tham gia vào các công việc, kể cả các hoạt
động ca hát, diễn kịchtheo chủ đề hớng nghiệp.
-Gn vi cỏc bui tham quan cỏc c s sn xut, trng dy ngh,
trng i hc:
Trong quỏ trỡnh giỏo dc hng nghip nờn b trớ mt s bui tham
quan c s sn xut, trng dy ngh hay trng i hc, giao lu vi
nhng ngi lao ng gii, cỏc n v sn xut tiờn tin. õy l nhng hot
ng mang tớnh giỏo dc v ngh nghip.
Vic tham quan hay giao lu l cỏch thc rt cn thit hc sinh
tng tớnh tớch cc, ch ng tỡm hiu ngh v bit cỏch thc tỡm kim thụng
tin v ngh. Sau cỏc bui tham quan hoc giao lu giỏo viờn phi yờu cu
hc sinh vit thu hoch. giỳp cỏc em bit cỏch thc tỡm hiu ngh ng
thi cỏc em s cú c nhng ấn tng c th v ngh.
3.4.Tổ chức bồi dưỡng đội ngò giáo viên giáo dục hướng nghiệp dạy
nghề.
3.4.1.Nội dung bồi dưỡng:

Nội dung bồi dưỡng giáo viên giáo dục hướng nghiệp – dạy nghề được cụ
thể hoá bằng sơ đồ sau:
3.4.2.Hình thức bồi dưỡng:
-Bồi dưỡng dài hạn:
Hiệu trưởng xây dựng kế hoạch bồi dưỡng giáo viên trên cơ sở căn cứ
vào chỉ tiêu của trên giao, đồng thời tạo điều kiện cho giáo viên đi học các
khoá bồi dưỡng tập trung dài hạn, do trường sư phạm tổ chức.
-Bồi dưỡng ngắn hạn:
Gồm các hình thức bồi dưỡng như: Bồi dưỡng thưỡng xuyên theo chu
kỳ, tổ chức thực hành sản xuất tại địa phương về một số nghề điển hình hoặc
tổ chức tham quan giao lưu với các tổ chức sản xuất tiên tiến đóng trên địa
bàn. Tổ chức bồi dưỡng tại trường thông qua một số hoạt động như: Tổ chức
viết sáng kiến kinh nghiệm, tổ chức hội giảng…tham gia tập huấn ngắn ngày
do sở giáo dục - đào tạo Gia Lai tổ chức.
3.5.Huy động ngân sách đầu tư mua sắm xây dựng cơ sở vật chất, thiết bị
phục vụ dạy nghề, giáo dục hướng nghiệp.
3.5.1.Huy động ngân sách từ các nguồn: Trung ương, địa phương, tích luỹ
ngân sách từ lao động sản xuất, tăng cường công tác xã hội hoá giáo dục để
huy động vốn…
3.5.2.Tính toán ngân sách ưu tiên xây dựng phòng học nghề, thực hành
nghề, xây dựng các câu lạc bộ tư vấn nghề, mua sắm trang thiết bị phục vụ
Néi dung båi dìng
NghiÖp vô s
ph¹m gi¸o dôc
híng nghiÖp
d¹y nghÒ.
NghiÖp vô
chuyªn m«n
c«ng nghÖ
míi.

HÖ thèng kiÕn
thøc bæ trî
(tin, ngo¹i
ng÷)
NghiÖp
vô s
ph¹m
chung
NghiÖp
vô s
ph¹m
GD
HN-DN
C«ng
nghÖ
míi

n¨ng
nghÒ
thực hành nghề đảm bảo cho giê thực hành nghề. Hoạt động giáo dục hướng
nghiệp sinh động, đạt hiệu quả cao.
3.6.Xây dựng câu lạc bộ “Bạn yêu thích nghề”.
Thông qua câu lạc bộ để các chuyên gia tư vấn nghề sẽ giúp các em học
sinh phát hiện được sự phù hợp nghề, từ đó tạo điều kiện cho các em lao
động một cách sáng tạo, định hướng được việc chọn nghề cho mình trong
tương lai nhằm phù hợp với năng lực và sở trường, tâm sinh lý của bản thân.
3.7.Mét số biện pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục hướng
nghiệp.
3.7.1.Giới thiệu và tuyên truyền nghề:
Bước đầu tiên của giới thiệu nghề là phải xây dựng bảng hoạ đồ nghề,

thông qua bảng hoạ đồ đó để giới thiệu nghề cho học sinh gồm những nội
dung nh sau:
-Tên nghề và những chuyên môn thường gặp trong nghề.
-Nội dung và tính chất lao động của nghề.
-Những điều kiện cần thiết để tham gia lao động trong nghề.
-Những chống chỉ định y học.
-Những điều kiện đảm bảo cho người lao động làm việc trong nghề.
-Những nơi có thể học nghề.
3.7.2.Tư vấn nghề:
Tư vấn nghề thực chất là điều chỉnh động cơ chọn nghề của học sinh phổ
thông. Công việc chủ yếu của tư vấn nghề là nghiên cứu toàn diện nhân cách
học sinh (thiên hướng, năng lực, tính cách, các phẩm chất tâm sinh lý, tình
trạng sức khoẻ…).Đối chiếu với mức độ sẵn sàng tâm lý và thực tế đối với
yêu cầu nghề định chọn. Chỉ cho học sinh những phẩm chất nhân cách quan
trọng còn thiếu để nắm vững, hứa hẹn thành đạt trong hoạt động nghề
nghiệp sau này. Tư vấn nghề cho học sinh phổ thông có 2 loại:
-Loại tư vấn sơ bộ.
-Loại tư vấn chuyên sâu.
3.7.3.Thay đổi cách suy nghĩ áp đặt của một số phụ huynh học sinh về việc
chọn nghề cho con.

×