Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

GIÁO DỤC Ý THƯC THẨM MĨ CHO SINH VIÊN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.35 KB, 113 trang )

LV GIÁO DUC Ý THƯC THẨM MĨ CHO SINH VIÊN Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
CHƯƠNG 1
NHŨNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHỦ THỂ, KHÁCH THỂ THẨM MĨ
1. 1. Các khái niệm
1.1.1. Chủ thể thẩm mĩ
1.1.1.1. Khái niệm:
Theo từ điển triết học, chủ thể là con người (cá nhân hay nhóm) tiến
hành hoạt động cải tạo thực tiễn. Con người chỉ có thể trở thành chủ thể nhận
thức một khi con người là một thực thể xã hội, có quan hệ với những người
xung quanh, nắm và sử dụng được các loại công cụ và phương tiện của hoạt
động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn mà các thế hệ để lại” [tr.230,
41].
Chủ thể thẩm mĩ là con người (cá nhân hay nhóm) hoạt động về mặt
thẩm mĩ. Trong các hoạt động của mình, con người quan hệ rất nhiều mối liên
hệ với thực tiễn, trong đó có quan hệ về mặt thẩm mĩ. Thực tiễn thẩm mĩ của
con người là các hoạt động hướng về cái đẹp, hoàn thiện cuộc sống theo qui
luật của cái đẹp. Thực tiễn thẩm mĩ của con người vô cùng phong phú và đa
dạng. Nó bao hàm toàn bộ xúc cảm, tình cảm, các quan hệ thưởng thức, đánh
giá và sáng tạo thế giới theo qui luật của cái đẹp.
Đời sống thẩm mĩ mang bản chất của chủ thể thẩm mĩ, trước hết đó là
hoạt động có mục đích. Trong quá trình tiếp xúc với thế giới tự nhiên, con
người khác hoàn toàn với động vật ở tính mục đích, từ đó đối tượng và
phương pháp hoạt động cũng khác. Con người hoạt động một cách tự giác, có
ý thức, biết lựa chọn đối tượng để cải tạo và bằng một phương pháp hợp lí mà
hoạt động của con người trở thành một kiểu hoạt động tinh vi và cao hơn cả
loài vật. Mục đích của con người là cải tạo thế giới và cải tạo chính bản thân
mình. “ Khao khát của con người là sản sinh ra chính mình bằng cách thay đổi
thế giới tự nhiên (tác giả nhấn mạnh). Vì thế, người ta thường nói về sự đồng
hóa hiện thực bằng con người. điều này có nghĩa là con người biến tự nhiên
thành tự nhiên của con người và biến con người thành con người xã hội.


[tr.232-233, 41]. Ph.Ăngghen nhấn mạnh rằng: “Chỗ khác nhau chủ yếu và
cuối cùng giữa con người và các loài động vật khác là, loài vật chỉ lợi dụng
giới tự nhiên bên ngoài và gây ra những biến đổi trong tự nhiên, chỉ đơn thuần
do sự có mặt của nó thôi, còn con người do đã tạo ra những biến đổi đó mà bắt
giới tự nhiên phải phục những mục đích của mình và thống trị tự nhiên
”[tr.654, 47]
Chủ thể thẩm mĩ bao gồm các khả năng cảm thụ, đánh giá và sáng tạo
các giá trị thẩm mĩ. Khả năng này không phải bẩm sinh vì không có các hoạt
động sáng tạo trong lao động thì không có những khả năng ấy.
Nghiên cứu quá trình phát triển từ một chủ thể thực dụng chuyển sang
một chủ thể mang giá trị thẩm mĩ, phải thấy được vai trò hết sức quan trọng
của sự phân công lao động, đến trình độ kĩ thuật của con người. Nghệ thuật
chỉ ra đời khi tình cảm, xúc cảm của con người đạt đến trình độ nhất định, đời
sống vật chất và tinh thần của con người phát triển khá phong phú.
Trong tính muôn vẻ của cuộc sống- đối tượng thẩm mĩ- thường gây ra
cho chủ thể thẩm mĩ một tín hiệu ban đầu: đó là cảm xúc thẩm mĩ, những cảm
nhận đầu tiên bằng trực giác và cảm giác mang tính người. Chỉ có con người
mới cảm nhận hết sự xao động của cái đẹp trong thiên nhiên và trong xã hội
loài người: một thác nước, một đại dương bao la, sông núi hùng vĩ… Những
2
cảm xúc này không mang tính bẩm sinh, nó đòi hỏi một quá trình rèn luyện
lâu dài mới có được. Mắt của con chim ưng tinh vi hơn, nhìn xa hơn mắt
người, nhưng mắt chim ưng không mang bản chất xã hội như của con người.
Sản phẩm của nhà kiến trúc sư tồi tàn nhất cũng hơn những công trình tuyệt
tác của con ong. Bởi vì trước khi nhà kiến trúc sư xây dựng cái tổ cho con
người thì họ đã có ý thức về các mối quan hệ xã hội trong công trình của
mình.
Từ đó có thể thấy rằng, chủ thể thẩm mĩ là con người (cá nhân hay
nhóm) có khả năng hưởng thụ, đánh giá và sáng tạo thẩm mĩ thông qua các
giác quan tay, mắt, tai được rèn luyện, về sự “ vật chất hóa” thế giới về mặt

thẩm mĩ.
Đúng vậy, những năng lực hưởng thụ và sáng tạo các giá trị thẩm mĩ có
những yếu tố tâm – sinh lí, có sự di truyền và có cả sự bẩm sinh, nhưng tất cả
các yếu tố đó là những tiềm năng ẩn sâu trong cơ thể mà chúng ta thường gọi
là năng khiếu. Những năng khiếu đó, chỉ giúp cho sự lớn mạnh, sự giàu có của
chủ thể thẩm mĩ, nếu nó được tiếp tục rèn luyện, mài dũa. Một hệ quả tất yếu,
chỉ thống qua hoạt động thực tiễn, qua quá trình cải tạo tự nhiên và cải tạo xã
hội, thì con người mới có thể phát huy những năng khiếu tiềm ẩn trong bản
thân mình.
Từ những nhận định trên, chúng ta có thể thấy, về cơ bản, năng lực thẩm
mĩ không phải là những năng lực bẩm sinh mà nó được nuôi dưỡng và được
bộc lộ thông qua năng lực thực tiễn. Các thành tố của chủ thể thẩm mĩ: cảm
xúc thẩm mĩ, thị hiếu thẩm mĩ, lí tưởng thẩm mĩ được hình thành và phát triển
đúng đắn trong thực tiễn. Sự hình thành các năng lực thẩm mĩ có quan hệ mật
thiết với các quan hệ xã hội. Có những quan hệ xã hội thúc đẩy các năng lực
3
thẩm mĩ đúng hướng và phát triển nhanh. Đó là những quan hệ xã hội tiến bộ,
đáp ứng được các nhu cầu giải trí, là nguồn vui trong lao động, con người thấy
tự do, bình đẳng… còn trong các xã hội mà tràn lan áp bức, bóc lột, bất công,
mất dân chủ, đói nghèo thì sẽ làm thui chột năng lực thẩm mĩ của con người.
Vì vậy, hoàn thiện và nâng cao quan hệ xã hội là một quá trình phát triển các
năng lực thẩm mĩ.
1.1.1.2. Các thành tố cấu thành của chủ thể thẩm mĩ
Tình cảm thẩm mĩ
Sự thoả mãn hay không thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ đã được nảy sinh
tình cảm thẩm mĩ ở con người. Đây là loại tình cảm đặc thù được xuất hiện
trong quá trình thưởng thức, sáng tạo và đánh giá các hiện tượng thẩm mĩ
trong cuộc sống cũng như những tác phẩm nghệ thuật.
Có thể thấy rằng, tình cảm và nhu cầu thẩm mĩ gắn bó hữu cơ với nhau.
Nếu thiếu những tình cảm của con người thì không bao giờ có nhu cầu thẩm

mĩ. Bằng những tình cảm thẩm mĩ, con người khám phá ra vẻ đẹp của thể giới
và của chính mình. Mối quan hệ giữa tình cảm và đối tượng thẩm mĩ gắn bó
keo sơn và dường như là sự “nhập cảm” vào đối tượng [tr.131, 44]. Những
tình cảm này không đơn giản chỉ do các khách thể tương ứng sinh ra. Chúng
đi vào đối tượng, thâm nhập vào đó, bộc lộ bản chất đích thực của chúng theo
cách riêng.
Tình cảm thẩm mĩ phản ánh các đặc điểm, các quá trình vật động của
chủ thể trước các hiện tượng thẩm mĩ khách quan. Những tình cảm đó kích
thích tính tích cực về mặt xã hội của con người, điều tiết hành vi của họ và tác
động đến sự hình thành những lí tưởng chính trị - xã hội, thẩm mĩ đạo đức của
cá nhân [tr.259, 7]. Nó là sản phẩm của hoạt động thực tiễn thẩm mĩ của con
4
người và là động lực thúc đẩy thực tiễn tiến lên. Tình cảm thẩm mĩ được bộc
lộ bằng các cảm xúc: vui sướng, hân hoan trước cái đẹp. Chỉ có thống qua tình
cảm thẩm mĩ, con người mới biết thưởng thức cái đẹp, khâm phục cái cao cả,
căm giận cái xấu xa, đồng cảm thương xót trước bi thương… Và, cũng chính
nhờ tình cảm thẩm mĩ, con người mới hiểu sâu cuộc sống, cải tạo hiện thực và
hoàn thiện quá trình sống của mình. Từ đó có thể thấy rằng, tình cảm thẩm mĩ
có ảnh hưởng tích cực, có sức mạnh lớn đến mọi quá trình tâm sinh lí của con
người. Thường thường chúng kích thích tính tích cực sáng tạo xã hội của con
người. Trong một chừng mực nhất định, tình cảm thẩm mĩ góp phần định
hướng sáng tác, có vai trò thúc đẩy, khích lệ các chủ thể sáng tạo
Tình cảm thẩm mĩ là một bộ phận quan trọng của chủ thể thẩm mĩ, bởi
tình cảm thẩm mĩ có tác động sâu rộng đến sự hình thành cá tính, khả năng
sáng tạo vượt bậc và nền tảng cho các tài năng nghệ thuật. Cũng như tình cảm
chính trị, tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mĩ vừa mang màu sắc chủ quan,
vừa mang dấu ấn xã hội. Cho nên, tuy cùng đứng trước một hiện tượng thẩm
mĩ, nhưng do đặc điểm tâm sinh lí khác nhau, do sự khác biệt về hoàn cảnh
lịch sử xã hội mà tình cảm thẩm mĩ cũng muôn màu, muôn vẻ về hình thức và
tính chất thể hiện.

Trên phương diện đạo đức học, tình cảm thẩm mĩ có quan hệ mật thiết
với tình cảm đạo đức, bởi cái đẹp bao giờ cũng nảy sinh từ cái tốt, từ lao động
và đấu tranh phục vụ cho nguồn hạnh phúc của mọi người. Tình cảm thẩm mĩ
đúng đắn thức tỉnh con người đấu tranh cho cái đẹp, cái thiện, bác bỏ cái xấu,
làm cho xã hội văn minh hơn, làm phong phú thêm đời sống tinh thần và dẫn
đến phát triển thị hiếu thẩm mĩ thông qua nghệ thuật. Cần lưu ý rằng, tình cảm
đạo đức gắn chặt với tình cảm đạo đức nhưng không đồng nhất với tình cảm
5
đạo đức. Tình cảm thẩm mĩ bao giờ cũng bao hàm một nội dung hưởng thụ,
thưởng thức, biểu hiện như một nhu cầu được thỏa mãn. Trước một hành vi
đạo đức, con người có thái độ đánh giá căn cứ vào những chuẩn mực nhất
định của xã hội.
Tình cảm thẩm mĩ cũng mang trong lòng nó tính giai cấp, tính dân tộc
và tính thời đại. Chủ thể thẩm mĩ không thể tư duy và sáng tạo nghệ thuật nếu
không có tình cảm thẩm mĩ. Có thể nói, tình cảm thẩm mĩ là động lực của
sáng tạo nghệ thuật. Tình cảm thẩm mĩ càng cao, sự hấp dẫn của tác phẩm
càng lớn, tác động của nghệ thuật càng mạnh.
Con người xã hội, nhân tố tình cảm không bao giờ đứng biệt lập mà
luôn luôn chịu sự tác động của lí trí, thế giới quan, nhân sinh quan, bề dày văn
hóa… Cũng như sự gắn bó khăng khít và tất yếu giữa tình cảm chính trị - đạo
đức và tình cảm thẩm mĩ. Trong thực tiễn, hoạt động sáng tạo của con người
đã hình thành nên những tình cảm thẩm mĩ và chính chúng lại thường xuyên
kích thích, thúc đẩy quá trình sáng tạo. Đây chính là một động lực tinh thần to
lớn giúp chúng ta từng bước vượt qua những khó khăn, gian khổ để hoàn
thành công việc. Đối với hoạt động sáng tạo nghệ thuật, tình cảm thẩm mĩ còn
có vai trò đặc biệt hơn. Chủ thể sáng tạo nếu không có tình cảm thẩm mĩ thì
không thể cho ra đời các tác phẩm nghệ thuật được. Tình cảm thẩm mĩ vừa là
động lực tinh thần thúc đẩy hành vi sáng tạo, vừa là nguyên vật liệu để xây
dựng tác phẩm nghệ thuật. Chủ thể thẩm mĩ đã vật chất hóa các rung động, ấn
tượng, cảm xúc vào trong các tác phẩm nghệ thuật của mình. Vì thế, chủ thể

thẩm mĩ đã biến đối tượng không còn là vật – tự - nó mà trở thành sự vật –
cho - ta. Thông qua các hình tượng ở tác phẩm, công chúng đón nhận cảm
xúc của chủ thể sáng tạo thẩm mĩ và rồi các thể nghiệm tâm lí được diễn ra
6
trong nội tâm mỗi người. Tình cảm thẩm mĩ góp phần quan trọng vào việc
điều tiết các chức năng tâm lí và sinh lí của con người, giúp con người được
thanh lọc về mặt nhân cách. Vì vậy, tạo điều kiện thuận lợi về mặt tình cảm
thẩm mĩ tích cực và năng lực trực quan thẩm mĩ là một nhiệm vụ quan trọng
nhất của văn hóa thẩm mĩ.
Trong thực tế, tình cảm thẩm mĩ đã chi phối toàn bộ quá trình định
hướng, sáng tạo và thưởng thức của chủ thể thẩm mĩ. Tình cảm thẩm mĩ có
ảnh hưởng rất lớn đến các thành tố khác của chủ thể, đặc biệt là thị hiếu thẩm
mĩ và lí tưởng thẫm mĩ. Tức là luôn có ý thức vươn tới cái đẹp, cái cao cả, phủ
định cái thấp kém. Tình cảm thẩm mĩ là cái “kết lại” của quá trình nhận thức
và sáng tạo thẩm mĩ [tr.208, 6].
Thị hiếu thẩm mĩ
Thị hiếu thẩm mĩ là khả năng lựa chọn phổ biến của con người, là sở
thích trong mọi lĩnh vực của cá nhân và tập thể [tr. 200,7]. Theo Hoài Lam, thị
hiếu thẩm mĩ là năng lực lựa chọn phổ biến của con người trước thế giới các
hiện tượng thẩm mĩ. Thị hiếu thẩm mĩ thể hiện năng lực của con người trong
thưởng thức, đánh giá và sáng tạo nghệ thuật.
Thị hiếu thẩm mĩ tốt cũng chính là cơ sở để có một thế giới quan đúng
đắn, lọc bỏ cái xấu, tiếp cận được cái đẹp trong mọi mối quan hệ. Thị hiếu
thẩm mĩ tốt còn là cánh cửa giúp con người tiếp cận được những giá trị thẩm
mĩ tốt đẹp. Trình độ phát triển của thị hiếu là nguồn gốc tình cảm cho việc
đánh giá đúng các hiện tượng thẩm mĩ khách quan, phê bình đúng các tác
phẩm nghệ thuật.
Từ đó có thể nhận thấy rằng, thị hiếu thẩm mĩ không phải là một năng
lực bẩm sinh, thần bí mà nó là một hiện tượng xã hội – lịch sử, trải qua thực
7

tiễn lao động và hoạt động xã hội, trong đó kết hợp những yếu tố có tính nhân
loại và những yếu tố thuộc về tầng lớp, giai cấp, giới tính và cá nhân. Thị hiếu
vốn uyển chuyển, dễ đổi thay nhưng lại mang tính cá biệt, nhưng đồng thời nó
chứa đựng một cái gì bền vững và ổn định. Sự thay đổi của đời sống xã hội
gắn liền với sự biến đổi về thị hiếu thẩm mĩ. Thị hiếu thẩm mĩ của một thời
đại, một cộng đồng người luôn biểu thị qua những thị hiếu cá nhân đa dạng,
độc đáo. Về phần mình, thị hiếu thẩm mĩ cá nhân được hình thành trên cơ sở
kinh nghiệm thẩm mĩ của nhân loại, thời đại, đồng thời còn bao hàm những
kinh nghiệm mới mà cá nhân đó trải nghiệm khi tiếp xúc với đời sống thẩm
mĩ.
Nghệ thuật là biểu hiện tập trung nhất, là hạt nhân của thị hiếu thẩm
mĩ.Thị hiếu thẩm mĩ càng phong phú, càng đậm đà, nếu cái vốn hình tượng
tích lũy được của tình cảm thẩm mĩ qua thực tiễn lao động, chiến đấu, qua
hoạt động nghệ thuật ngày càng nhiều. Một thị hiếu thẩm mĩ lành mạnh, sắc
bén, có tính chiến đấu do chiều sâu của các hình tượng đúng đắn được huy
động vào hành động cảm thụ, đánh giá và sáng tạo nghệ thuật. Cố Tổng Bí thư
Trường Chinh đã khẳng định sức mạnh của hình tượng trong nền nghệ thuật:
“Tác dụng mạnh mẽ của văn nghệ trong việc giáo dục và bồi dưỡng con người
mới là do bản thân những hình tượng nghệ thuật phản ánh một cách sinh động
những tính cách và hiện tượng quan trọng và nổi bật nhất trong cuộc sống của
chúng ta ngày nay. Do đó, văn nghệ gây được những ấn tượng sâu sắc và lâu
bền, tạo ra được những rung động mãnh liệt, tác động đến con người một cách
mạnh mẽ” [tr. 200-201,50]. Từ những hình tượng tốt đẹp của cuộc sống hàng
ngày, tâm hồn của công chúng sẽ trở nên phong phú, thị hiếu thẩm mĩ lành
8
mạnh hơn bởi vì quan hệ giữa chủ thể và khách thể thẩm mĩ được tập trung
đầy đủ và sâu sắc trong tác phẩm nghệ thuật.
Thế kỉ XXI là thế kỉ của khoa học và công nghệ cao đã đẩy xã hội đi lên
với tốc độ phi thường, tuy nhiên nó cũng ẩn chứa những dấu hiệu của cuộc
khủng hoảng toàn cầu: lương thực, thực phẩm, năng lượng, tài chính, bệnh

tật…, đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật cũng có sự xáo trộn lớn, đòi
hỏi các chủ thể thẩm mĩ phải có sự tìm tòi, phát hiện và sáng tạo mới về đề tài,
phát hiện những thị hiếu thẩm mĩ mới.
Chính tầm quan trọng như đã nêu trên, mĩ học Mác – Lênin xác định,
thị hiếu thẩm mĩ là tiềm năng thường trực, là khát vọng vươn tới của con
người. Nó trở thành động lực quan trọng của cốt cách văn hóa và nội dung sâu
sắc của cá tính cao đẹp. Do đó, trọng sự nghiệp xây dựng con người mới phải
nhằm đến phát triển hài hòa, toàn diện con người thì không thể bỏ qua công
việc xây dựng thị hiếu thẩm mĩ lành mạnh, trong sáng trong tâm hồn và tình
cảm
Lí tưởng thẩm mĩ
Đời sống thẩm mĩ của con người được bắt nguồn từ cảm xúc, ổn định ở
thị hiếu và hoàn chỉnh ở lí tưởng. Xác định lí tưởng thẩm mĩ đúng đắn là góp
phần quan trọng xây dựng một kiểu nhân cách mới.
Bản chất của con người là luôn hướng tới Chân – Thiện - Mĩ. Lí tưởng
thẩm mĩ là tổng thể những phương hướng cơ bản của đời sống được kết lại
thành hình ảnh mẫu mực, cảm quan về sự hoàn thiện, hoàn mĩ về xã hội, là
cuộc sống đang phát triển, là khát vọng, là hành động muốn hoàn thiện cuộc
sống. Lí tưởng thẩm mĩ là khát vọng, niềm tin, ước mơ đúng đắn về xã hội
hoàn thiện, về mẫu người hoàn thiện, nền nghệ thuật hoàn thiện. Lí tưởng của
9
chủ thể thẩm mĩ vừa phản ánh, vừa cổ vũ, vừa khẳng định cái đẹp đang tới và
sẽ tới trong cuộc sống.
Lí tưởng là ý niệm về sự hoàn thiện, là ước mơ về tương lai. Lí tưởng
phát huy sức mạnh của trí tuệ, giúp hành động của con người vươn tới một
mục tiêu cụ thể. Để có thể thực hiện được lí tưởng thì tiền đề đầu tiên là con
người phải có tự do trong tất cả các hoạt động của mình. Lí tưởng thẩm mĩ là
một bộ phận của lí tưởng xã hội, thể hiện các lợi ích xã hội của con người, cho
nên nó gắn với các lí tưởng xã hội khác như: lí tưởng chính trị, lí tưởng pháp
luật, lí tưởng đạo đức… Tuy nhiên, nếu lí tưởng chính trị là quan niệm về một

cơ cấu xã hội hoàn chỉnh và một chế độ chính trị dân chủ. Lí tưởng khoa học
vươn tới những chân lí. Lí tưởng đạo đức là quan niệm về cái thiện cao nhất.
Lí tưởng thẩm mĩ là sự biểu hiện khát vọng vươn tới cái đẹp hoàn mĩ, cái đẹp
hài hòa của đời sống thiên nhiên và xoa dịu và xóa bỏ những mâu thuẫn về
mặt thẩm mĩ đang vận động trong đời sống. Chân, thiện, mĩ có quan hệ chặt
chẽ với nhau trong mỗi lí tưởng chân chính.
Lí tưởng thẩm mĩ có tính khách quan xã hội. Đó là hình ảnh về cuộc
sống của một tập đoàn xã hội chứ không chỉ là của cá nhân. Lí tưởng thẩm mĩ
mang dấu ấn sâu sắc của thời đại, dân tộc, giai cấp. Thực tiễn thẩm mĩ diễn ra
khách quan không chỉ là cội nguồn của những lí tưởng thẩm mĩ mà còn là tiêu
chuẩn duy nhất để đánh giá tính chất đúng đắn của lí tưởng thẩm mĩ. Khi
những lí tưởng thẩm mĩ không tuân thủ các tiêu chuẩn của hiện thực khách
quan của các quan hệ thẩm mĩ thì khi đó chúng chỉ con là những ảo tưởng.
Trong xã hội có giai cấp, thì những lí tưởng thẩm mĩ bao giờ cũng
mang tính giai cấp. Tính giai cấp của lí tưởng thẩm mĩ không mang tính vĩnh
cửu, những lí tưởng đó tồn tại trước khi xuất hiện giai cấp và chúng còn tồn tại
10
ngay cả khi giai cấp đã không còn. Mỗi giai cấp, mỗi dân tộc, mỗi thời đại đều
có những mối quan tâm khác nhau, có những phương thức khác nhau trong
việc giải quyết các mâu thuẫn trong cuộc sống và trong nghệ thuật. Vận dụng
một cách linh hoạt và sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể
của Việt Nam, trong suốt tiến trình đấu tranh cách mạng và xây dựng xã hội
mới, Đảng ta đã khắc phục những quan niệm sai lầm về lí tưởng, tạo điều kiện
thuận lợi cho những hoạt động sáng tạo. Lí tưởng thẩm mĩ Mác – Lênin được
hình thành trên cơ sở cuộc đấu tranh tiêu diệt áp bức, bóc lột và xây dựng một
xã hội cao đẹp; là một lí tưởng nhân đạo, nó cổ vũ đẹp và loại trừ cái xấu
trong quá trình vận động của các quan hệ thẩm mĩ, nó tôn thờ những cái đẹp,
cái cao cả, cái anh hùng trong cuộc sống và trong nghệ thuật. Vì thế, lí tưởng
thẩm mĩ Mác – Lênin bao trùm toàn bộ mọi hoạt động sáng tạo ra cái đẹp của
cuộc sống, làm cho cuộc sống và nghệ thuật ngày càng hoàn mĩ.

1.1.2. Khách thể thẩm mĩ
Khách thể thẩm mĩ là các phạm trù thể hiện nhận thức khái quát của con
người về những hiện tượng trong tự nhiên và trong xã hội, ở con người và
trong nghệ thuật. Thẩm mĩ là phạm trù rộng nhất, được xác định trong sự tồn
tại của các phạm trù hẹp hơn như cái đẹp, cái cao cả, cái bi, cái hài. Từ ý
nghĩa đó, khách thể thẩm mĩ bao gồm cả các phạm trù phổ biến (cái đẹp, cái
cao cả) tồn tại trong thiên nhiên, trong lao động, ở con người và trong nghệ
thuật; cũng như các phạm trù thẩm mĩ chỉ đặc trưng cho nghệ thuật (cái bi, cái
hài, …).
1.1.2.1 Cái đẹp
Cái đẹp là phạm trù trung tâm của mĩ học. Vị trí này không phải do các
nhà mĩ học đặt mà chính do vai trò cái đẹp trong cuộc sống qui định. Điều này
11
đồng nghĩa rằng, cái đẹp trước hết chính là những đặc tính của thế giới hiện
thực khách quan. Cái đẹp bắt nguồn từ hiện thực, có cơ sở khách quan trong
cuộc sống, nhưng nó đồng thời là hình thức khái quát của tư duy, thể hiện
nhận thức của con người về những đặc tính thẩm mĩ của các sự vật, hiện
tượng.
Từ những quan sát trong cuộc sống thường ngày chỉ ra cái này đẹp, cái
kia chưa đẹp đến chỗ rút ra cái đẹp là gì, nhận thức con người phải đi từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ cụ thể đến khái quát. Quá trình này
hết sức phức tạp. Cái đẹp đi vào tất cả các lĩnh vực của cuộc sống, làm cho cái
xấu bị đẩy lùi. Một ngọn núi đẹp, một ánh trăng hay tâm hồn đẹp, ánh mắt
đẹp, nụ cười… làm cho con người thấy hạnh phúc và có giá trị. Những nghĩa
cử cao đẹp làm cho con người thêm gần nhau hơn. Cái đẹp làm cho trí tuệ của
con người ngày càng được nâng cao và hoàn thiện.
Cái đẹp trong mối quan hệ chủ thể - khách thể:
Cái đẹp có nguồn gốc từ trong quá trình lao động của con người. C.
Mác là người đầu tiên phát hiện ra bản chất cái đẹp gắn liền với lao động. Cái
đẹp không phải là cái vốn có của tự nhiên mà “ toàn bộ cái gọi là lịch sử toàn

thế giới chẳng qua chỉ là sự sáng tạo con người kinh qua lao động của con
người” [tr.182, 45]. Lao động đã cải biến mặt sinh học trong con người thành
cái thẩm mĩ. Ph.Ăngghen đã dẫn chứng rằng, lao động đã sáng tạo ra chính
bản thân con người và mọi hoạt động xã hội của con người và của cả loài
người. Quan hệ thực tiễn đầu tiên và cơ bản nhất của con người là lao động.
Điều này đồng nghĩa rằng, chưa có con người và lao động thì chưa có các hiện
tượng thẩm mĩ trong cuộc sống, tức là chưa thể có cái đẹp.
12
Lao động là hoạt động tích cực của con người tác động vào tự nhiên, cải
biến thiên nhiên khiến thiên nhiên trở thành thiên nhiên của con người và từ
đó tạo ra cái đẹp đầu tiên - cái đẹp nằm trong sản phẩm lao động của con
người. Lao động ban đầu mới chỉ ra những sản phẩm thực dụng như cái gậy,
hòn đá… mới chỉ đáp ứng các nhu cầu trước mắt. Cùng với sự tăng lên của
nhu cầu con người về hiệu quả lao động, họ tiếp tục tiến hành chế tạo những
hòn đá và cây gậy mới theo hình ảnh mà họ tưởng tượng ra ở trong đầu. Kết
quả ấy đem lại sự thích thú, từ đó họ có thể tự hào ngắm nghía những thành
phẩm lao động đó mang trong mình tài năng và phẩm chất của con người.
Những sản phẩm hoàn thiện trên đã từ tính hữu dụng mang tính thẩm mĩ. Nó
trở thành cái đẹp. Do đó, cái đẹp ra đời trong quá trình hoàn thiện các công cụ
lao động.
Từ đó thấy rằng, sản phẩm lao động chỉ đẹp khi nó bao gồm tổng thể
các yếu tố có khả năng tác động vào chủ thể thẩm mĩ, gây nên chủ thể những
khoái cảm. Sự thích thú thẩm mĩ, các cảm xúc thẩm mĩ của con người nhờ vậy
cũng ra đời từ trong thực tiễn lao động sản xuất của con người. Những sản
phẩm lao động đó đã được hoàn thiện dần bởi bàn tay lao động của con người.
Những sản phẩm đó là những đứa con tinh thần của chủ thể thẩm mĩ. Dần dần
những sản phẩm này trở thành các yếu tố hấp dẫn, cuốn hút người lao động,
gây nên tâm lí hài hòa, hoàn thiện, đẹp.
Như vậy là, những kinh nghiệm sống hình thành nên tâm lí của sự hợp
lí, sự cân đối, hài hòa, toàn vẹn. Đó là cơ sở để con người đi đến các phán

đoán: cái này là hợp lí, cân đối, còn sự kết hợp kia là không hợp lí, mất cân
xứng. Rõ ràng, cái đẹp không chỉ chịu sự chi phối bởi cái khách quan mà có
sự kết hợp giữa yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan. Yếu tố chủ quan này
13
được rèn luyện để ngày càng tinh tế hơn, sâu sắc hơn, hợp lí hơn và đóng vai
trò quan trọng trong sự thẩm định cái đẹp. Vì thế, trước một hiện tượng, sự
vật, một mặt nhiều người có chung một sự đánh giá là đẹp; mặt khác, mỗi
người trong số đó lại có sự nhận thức khác nhau trước sự vật, hiện tượng đẹp
đó. Mẫu số chung về đánh giá đẹp trước hết là ở đối tượng có các yếu tố đẹp
khách quan, nhưng nó làm cơ sở cho chủ thể đánh giá. Còn cái riêng trong sự
đánh giá cái đẹp là do, mỗi cá nhân có những điều kiện kinh tế - xã hội khác
nhau, tâm lí khác nhau, thị hiếu thẩm mĩ riêng, trình độ văn hóa riêng… do đó,
sự hình thành kinh nghiệm- tâm lí thẩm định riêng.
Con người là một thực thể xã hội. Lao động của con người, quan hệ
giữa con người với thế giới xung quanh, tình cảm của con người đều có tính
xã hội. Do vậy, chủ thể thẩm mĩ tất yếu mang tính xã hội. Cái đẹp không chỉ
đem lại sự hứng khởi cho một cá nhân riêng lẻ, mà phải đem lại sự thích thú
phổ biến có tính xã hội.
Cái đẹp gắn với hoạt động thực tiễn của chủ thể xã hội. Cái đẹp đáp ứng
với nhu cầu của chủ thể, thỏa mãn những tình cảm thẩm mĩ của chủ thể ấy do
lí tưởng xã hội định hướng. Các lí tưởng xã hội chính là thước đo để kiểm tra,
định hướng sự thích thú cá nhân. Sự thích thú của cá nhân đó phải gắn chặt
với các chuẩn mực của xã hội.Cho nên, cái đẹp trước hết là sản phẩm lao
động, lao động mang lại một hứng thú phổ biến cho chủ thể thẩm mĩ từ tính
hoàn thiện, tính hình tượng và tính xã hội của nó.
Hơn thế nữa, cái đẹp cũng bi qui định bởi tính dân tộc, tính giai cấp và
tính nhân loại. Cái đẹp mang tính dân tộc, bởi vì mỗi dân tộc được gọi là dân
tộc khi nó có lãnh thổ riêng, ngôn ngữ riêng, phong tục tập quan riêng, văn
hóa riêng… Những sự vật, hiện tượng, hành vi, nếp nghĩ, nếp sống được xem
14

là đẹp phụ thuộc rất lớn vào bản sắc riêng đó của mỗi chủ thể đánh giá trong
mỗi nghệ thuật.
Cái đẹp mang tính giai cấp. Giai cấp tiến bộ thường hướng đến những
chuẩn mực giá trị gắn liền với cái phát triển. Giai cấp đã hết sứ mệnh lịch sử
thường hay đề cao những chuẩn mực lỗi thời, kìm hãm cái mới.
Tính nhân loại của cái đẹp thể hiện những chuẩn mực chung cho mọi
nhóm người, mọi dân tộc, mọi giai cấp. cái đẹp mang tính nhân loại còn thể
hiện khi chủ thể tiếp xúc với khách thể đã vượt qua mọi đặc tính riêng và
vươn tới những chuẩn mực chung của toàn thể con người. Cần chú ý rằng, tính
nhân loại mang các chuẩn mực đẹp ở tính đồng đại. Về mặt lịch đại, các chuẩn
mực của tính nhân loại cũng chịu sự qui định của yếu tố thời đại. Cái đẹp
trong thời đại phong kiến không thể có được các tiêu chuẩn cái đẹp của xã hội
tư bản. Sự phát triển của loài người sẽ nảy sinh yêu cầu mới về thẩm mĩ, cái
đẹp.
Đặc biệt là, tính thời đại của cái đẹp liên quan đến tính vĩnh cửu qui
chuẩn đẹp, chúng nằm trong mối quan hệ biện chứng. Dù là ở thời đại nào,
cũng có những chuẩn mực cái đẹp riêng. Song, các tiêu chuẩn có tính thời đại
đó là cần những yếu tố của cái chung mà mọi thời đều chấp nhận. Những qui
chuẩn vĩnh cửu là sự kết hợp hài hòa – cái đẹp khách quan qui định, mặt khác,
nó được qui định bởi các tiêu chuẩn lí tưởng mà loài người muốn vươn tới.
Những tiêu chuẩn lí tưởng đó mang tính nhân văn cao cả, gắn liền với cái thật,
cái tốt, cái có ích và sự hoàn mĩ, hoàn thiện. Một sự vật, hiện tượng gọi là đẹp
khi nó hướng tới các giá trị Chân – Thiện – Mĩ.
Nói tóm lại, cái đẹp là một phạm trù cơ bản của mĩ học, giữ vị trí trung
tâm giữa con người và hiện thực ra đời từ thực tiễn, lao động và chiến đấu của
15
con người bao chứa các quan hệ chân – thiện – ích, tồn tại dưới dạng hình
tượng toàn vẹn, cân xứng, hài hòa và gây được khoái cảm thẩm mĩ tích cực
đối với chủ thể xã hội.
1.1.2.2 Cái cao cả

Cái cao cả được cái nhà nghiên cứu mĩ học gọi bằng nhiều cái tên như
cái trác tuyệt, cái cao cả và anh hùng…Cái cao cả khái quát các hiện tượng
thẩm mĩ có quan hệ đến sức mạnh, đến độ lớn, gắn với cái phi thường, cái
hoành tráng. Khái niệm cái cao cả ngoài phản ánh sức mạnh bản chất của con
người trong tự nhiên, còn phản ánh các hiện tượng thẩm mĩ xã hội: mạnh mẽ,
sôi nổi, rực rỡ, khẩn trương, và gây nên những xúc động hào hứng, khâm
phục, say sưa. Đó là cuộc cách mạng có ý nghĩa lớn đối với lịch sử nhân loại
hay mọi dân tộc. Chẳng hạn thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga,
Chiến thắng Điện Biên Phủ …
Cái cao cả trong sự thống nhất giữa khách thể và chủ thể
Nguồn gốc của cái cao cả là trong quá trình lao động và chiến đấu của
con người. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác khẳng định, cái vĩ đại và cao cả
thực sự mang tính người. Cuộc đấu tranh khốc liệt của con người với tự nhiên,
khả năng sáng tạo vô tận của con người đã chứng minh con người chính là
thượng đế. Con người không chỉ nhận thức thế giới, hơn thế nữa, con người có
khả năng cải tạo thế giới, trong tương lai con người với các phát minh khoa
học của mình có thể chinh phục được các lực lượng tự nhiên, do đó cái cao cả
là “bản chất riêng của con người vĩ đại hơn nhiều và cao quí hơn nhiều, so với
bản chất tưởng tượng của tất cả những “Thượng đế”” [tr.820,46]
Cái cao cả không phải là cái vốn có của tự nhiên, nó được sản sinh ra từ
thực tiễn thẩm mĩ của con người, con người đã cống hiến toàn bộ nâng lực bản
16
chất của mình chinh phục tự nhiên và do đó con người cũng trở thành cái cao
cả. Cái cao cả nhất trong tự nhiên, trong xã hội là quá trình lao động sáng tạo
của con người. Con người là sản phẩm trực tiếp của tự nhiên, nó phát huy
năng lực bản chất của mình theo qui luật của cái đẹp. Tính thẩm mĩ của cái
cao cả phụ thuộc vào sức mạnh của con người.
Cái cao cả phải được đặt trong quan hệ thẩm mĩ. Một hiện tượng tự
nhiên được gọi là cao cả thì phải đặt nó trong quan hệ thực tiễn thẩm mĩ của
con người và thể hiện sức mạnh bản chất của con người. Nó cao cả đối với

con người và loài người. Trước khi có con người và loài người, các hiện tượng
tự nhiên chưa phát lộ bản chất cao cả của nó.
Cái cao cả tồn tại khách quan, nhưng khách quan trong quan hệ với thực
tiễn thẩm mĩ của con người. Con người có ý chí, ý thức thẩm mĩ sẽ không
ngừng làm phong phú các hiện tượng cao cả: Con người hiện đại đã chinh
phục được những ngọn núi cao, nắm được các qui luật của biển cả tạo ra một
thái độ ứng xử có văn hóa… Cái cao cả là cái đẹp mạnh hơn, cái đẹp lí tưởng
hơn chứ không phải là cái ngoài thẩm mĩ. Theo quan niệm của mĩ học Mác –
Lênin, cái cao cả được đặc trưng bằng chất lượng và gần gũi với lí tưởng. Nó
là cái đẹp trở về với nó tập trung hơn, mạnh mẽ hơn và có ý nghĩa xã hội rộng
lớn hơn.
Trong cuộc sống, cái cao cả là một quá trình sáng tạo không ngừng và
khát vọng vươn lên của con người đã làm nảy sinh sức mạnh của nó. Cái cao
cả biểu hiện trong cuộc sống mang yếu tố thẩm mĩ trước hết là những cái đẹp
của con người. Đó là những cái đẹp trong lao động, trong hành vi, trong các
quan hệ ứng xử, trong đạo đức của con người. cái đẹp đó được nhân rộng ra,
phát triển cao hơn trong những hoàn cảnh khó khăn; cái đẹp từ cái thẩm mĩ
17
bình thường đã mang yếu tố cái cao cả. Cái cao cả trong cuộc sống thể hiện cố
gắng không ngừng của con người, thể hiện khát vọng vươn đến cái vĩ đại. Nếu
như cái đẹp hướng con người vươn tới cái hoàn thiện thì cái cao cả phản ánh
một phẩm chất đáng quí là: trong khi hoàn thiện bản thân mình, con người còn
muốn hũng vĩ hóa con người một cách bất tận, để đáp ứng những nhiệm vụ to
lớn của cuộc sống đang đặt ra trước con người. Đồng thời, cái cao cả cũng
mang đậm dấu ấn của dân tộc và thời đại, đáp ứng các chuẩn mực mà xã hội
đã đặt ra.
Nhìn chung, cái cao cả là một phạm trù mĩ học cơ bản thể hiện sức
mạnh bản chất của con người trong quan hệ thẩm mĩ, mang giá trị cái đẹp
mạnh hơn, gần gũi hơn với lí tưởng xã hội rộng rãi.
1.1.2.3. Cái bi

Nói đến cái bi, người ta thường liên tưởng tới sự thất bại, nỗi đau đớn
hay cái chết của một con người hay một hiện tượng xã hội nào đó. Cái bi biểu
hiện mâu thẫu giữa khả năng và hiện thực, giữa tính tất yếu về mặt lịch sử và
khả năng không thực hiện được điều đó trong thực tiễn. Điều đó không có
nghĩa, mọi sự thất bại, mọi đau khổ hay cái chết đều là cái bi. Cái bi chỉ thuộc
về con người hay các lực lượng xã hội tiến bộ dám đứng lên đấu tranh chống
lại những thế lực đen tối, lỗi thời mà trong điều kiện cụ thể nhất định những
thế lực ấy còn quá mạnh. Xét về chiều hướng tất yếu của lịch sử xã hội thì sự
thất bại của cái bi chỉ là sự thất bại tạm thời. Đó là sự thất bại gieo mầm chiến
thắng, nó vẫn mang tính lạc quan lịch sử. Cái bi là sự mất mát, nhưng là sự
mất mát của lí tưởng, của cái cao cả, cái đẹp. Bởi vậy, cái bi rất gần gũi với
cái cao cả.
18
Bản chất cái bi là sự xung đột. nội dung cái xung đột này thay đổi qua
các thời kì lịch sử và có những biểu hiện độc đáo ở các lĩnh vực khác nhau.
Chẳng hạn, như thời kì cổ đại nó được biểu hiện ra như mâu thuẫn giữa con
người và định mệnh; thời kì cổ điển thì đó là mâu thuẫn giữa dục vọng và
nghĩa vụ, trong nghệ thuật phương Tây hiện đại chính là mâu thuẫn giữa cá
nhân và xã hội. Việc thể hiện cái bi trong nghệ thuật có ý nghĩa nhận thức và
giáo dục sâu sắc. Nó giúp con người lĩnh hội cuộc sống trong sự phong phú,
phức tạp có thật của nó, đồng thời khơi dậy tình cảm cao cả lành mạnh, kích
thích những hành động mãnh liệt và sự tham gia tích cực của con người vào
các hoạt động thực tiễn.
1.1.2.4. Cái hài
Cái hài được các nhằt tưởng nghiên cứu rất sớm. P-la-tông, A- ri -x
tốt,Can- tơ, Hê-ghen, …đã có những kiến giải khác nhau về cái hài. Nhưng
tựu trung lại, các nhà tư tưởng đều cho rằng, việc tìm hiểu cái hài thể hiện
nguyện vọng muốn khám phá bản chất của một kiểu quan hệ đặc thù của con
người đối với thế giới, một hình thức độc đáo của nhận thức và đánh giá hiện
thực trong nghệ thuật; bởi vì khác với cái đẹp, cái hài không phải là một phạm

trì thẩm mĩ phổ biến, mà trước hết là một phạm trù thẩm mĩ của nghệ thuật.
Cái hài thường gắn bó với cái cười. Song không phải cái cười nào cũng
mang tính hài. Cái cười mang tính hài đòi hỏi trước hết phải có một đối tượng
cười, tức là cái có thể gây cười và bị cười. Cái gây cười là sự đối lập, không
cân xứng, không hài hòa. Nó là cái bao chứa mâu thuẫn giữa hình thức và nội
dung, giữa bộ phận và cái toàn thể, giữa ý nghĩa và phương tiện, giữa ước
muốn và khả năng hiện thực, giữa cái được phép và không được phép, quen và
không quen, bình thường và bất thường. Mặt thứ hai của cái cười là chủ thể
19
cười. Bản thân đối tượng cười không thể gây nên tiếng cười nếu chủ thể không
nhận thức được những mâu thuẫn chưa đựng trong nó.
Bên cạnh đó, tiếng cười trong cái hài cũng mang tính xã hội, thể hiện
không chỉ nhận thức mà còn cả thái độ. Cười là hình thức để chế ngự cái xấu.
Dám cười cái xấu là dám tin, tự khẳng định sự tốt đẹp của mình. Cái hài là
một hình thức đánh giá, thể hiện trình độ của con người làm chủ đối tượng,
làm chủ bản thân. Cái hài sẽ đem lại niềm vui, sự sảng khoái và do đó tăng
cường khỏe cho con người. Tiếng cười thể hiện trình độ nhận thức và phẩm
chất của con người. Hơn thế, nó là thứ vũ khí lợi hại, nhằm phê phán những
thói hư tật xấu và đấu tranh chống lại các lực lượng kìm hãm sự phát triển của
con người. Mức độ phổ biến của cái hài là một trong những biểu hiện nói lên
nhu cầu và trình độ dân chủ hóa của xã hội.
1.2. Các quan niệm khác nhau của các nhà mĩ học về môi quan hệ giữa
chủ thể và khách thể thẩm mĩ
Đối tượng nghiên cứu của mĩ học là đời sống thẩm mĩ. Vì vậy, lịch sử
tư tưởng mĩ học một mặt tất yếu gắn liền với lịch sử phát triển của xã hội, mặt
khác nó là một bộ phận của lịch sử tư tưởng triết học. Nhìn vào lịch sử tư
tưởng mĩ học thế giới, ta thấy nó được phát triển quan nhiều giai đoạn lịch sử
khác nhau với nhiều trường phái và học thuyết khác nhau. Nhưng tựu trung
lại, vấn đề nổi bật là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm về việc xác lập mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể trong đời sống

thẩm mĩ của con người.
1.2.1. Tư tưởng mĩ học phương Đông
Tư tưởng mĩ học của phơng Đông chủ yếu tập trung ở các học thuyết
chính trị - xã hội của các nhà tư tưởng Trung Hoa cổ đại
20
Những mầm móng tư tưởng thẩm mĩ cổ xưa của Trung Hoa cổ đại gắn
liền với nền nông nghiệp – thủ công nghiệp cuả người dân. Đời sống thẩm mĩ
của nhân dân Trung Hoa được làm phong phú thêm với sự phát triển của âm
nhạc, thi ca, của mĩ thuật thực dụng. Những tư tưởng mĩ học được nảy sinh và
được phản ánh thông qua các công trình nghiên cứu của các nhà tư tưởng
Trung Hoa cổ đại như : Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử, Mặc Tử…Những quan
niệm về thẩm mĩ chưa có một tính chất độc lập và hệ thống hóa; chúng được
lồng vào các vấn đề chính trị - xã hội, vào những quan niệm về đạo đức và
những tư tưởng có tính chất triết học.
Mặc dù những tư tưởng ở Trung Hoa cổ đại chưa hình thành học tuyết
mĩ học khá hoàn chỉnh như ở Hi lạp cổ đại những chúng có ảnh hưởng khá
mạnh đến quá trình phát triển về sau của nền văn hóa nghệ thuật.
Nho giáo quan niệm, con người phải tiếp nhận cuộc sống với tất cả
những niềm vui, nổi khổ của nó vì vậy mà họ không phủ nhận sự tiếp thu các
hiện tượng của cuộc sống bằng cảm xúc và bằng nghệ thuật. Khổng tử cho
rằng, nghệ thuật (đặc biệt âm nhạc và thi ca) có vai trò lớn trong việc điều
hành bộ máy chính trị quốc gia. Ông đặc biệt chú ý rằng, nghệ thuật là một
phương tiện tốt để giáo dục đạo đức. Trong mối quan hệ giữa “mĩ” và thiện thì
ông đặt “thiện” cao hơn “mĩ”.
Lão giáo và Mặc giáo thì phủ nhận sự tận hưởng cuộc sống bằng cảm
xúc và bằng nghệ thuật. Họ cho rằng, sự chói lọi của màu sắc làm hoa mắt, sự
vang ầm quá đổi làm điếc tai. Lão giáo quan niệm, cái đẹp tồn tại khách quan
trong thế giới, cái đẹp là một trong những biểu hiện đầu tiên từ bản chất bên
trong của thế giới vật chất, xuất phát từ “đạo”. Tác phẩm Đạo đức kinh viết” “
Đạo bao gồm các hình tượng… Đạo bao gồm mọi vật”; sự huyền bí của Đạo

21
là tuyệt diệu, - đạo là tuyệt mĩ, nhưng nó không có tên và không thể diện đạt
được, và chỉ những ai “ thoát khỏi những say đắm” mới có thể nhận thức nó
được [tr.65, 59 ] Cái đẹp luôn song hành với cái xấu, cái thiện đi cùng với cái
ác. Cái đẹp gắn với cái giản dị, “ giống như gỗ chưa qua tay người”.
Những nhà mĩ tư tưởng Trung Hoa cổ đại đã đặt cơ sở cho sự phát triển
về sau của những tư tưởng mĩ học Trung Hoa. Những quan niệm của họ về
nghệ thuật, về cái đẹp, về giáo dục của nghệ thuật, lí tưởng thẩm mĩ … đã
được các nhà tư tưởng về sau kế thừa và phát triển, xây dựng nên một nền
nghệ thuật vĩ đại của thế giới.
1.2.2. Tư tưởng mĩ học phương Tây trước C.Mác
1.2.2.1. Tư tưởng triết học – mĩ học Hi Lạp
Nội dung chính của thời kì này là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa duy tâm, xét đến cùng, đó là sự phản ánh cuộc đấu tranh giữa các
lực lượng tiến bộ và các lực lượng phản động trong xã hội chủ nô. Trong các
học thuyết triết học nổi lên hai trường đối lập nhau đó là chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm.
Một điểm đáng lưu ý trong thời kì này là, trong hệ thống triết học của
mình, thẩm mĩ học là phần kết lại của cuộc đời tìm tòi và sáng tạo của các nhà
triết học lỗi lạc, như tác phẩm Phê- đơ -rơ của Pla- tông, Thi pháp của A- ri- x
tốt. Điểm chung của các công trình nghiên cứu này của các nhà triết học – mĩ
học Hi Lạp cổ đại là nhìn nhận mối quan hệ giữa khách thể và chủ thể thẩm
mĩ từ góc độ bản thể luận. Triết học - mĩ học Hi Lạp dựa trên luận điểm “ Con
người là thước đo của vạn vật” để khám phá vẻ đẹp của con người. Về cơ bản,
mĩ học Hi Lạp cổ đại là đi tìm sự kết hợp hài hòa giữa tự nhiên và con người,
giữa con người và con người trong xã hội.
22
Nếu như các nhà tư triết học như Hê -ra -clit, Đê- mô- crít, … nhìn nhận
cái đẹp mang tính khách quan, vốn có của vũ trị, vũ trụ là hiện thân của sự hài
hòa, cân đối, có trật tự. Các nhà triết học Hi lạp đã giải quyết mối quan hệ

giữa chủ thể và khách thể thẩm mĩ trên lập trường duy vật – đó là mối quan hệ
giữa ý thức thẩm mĩ với thực tại khách quan. Đối với các nhà triết học này, vũ
trụ là sự thể hiện sự cân đối, trật tự, hài hòa. Đây chính là cơ sở khách quan
của cái đẹp.
Hê- ra- clít cho rằng khởi nguyên của tất cả những cái tồn tại là “chất
lửa vĩnh viễn mang chất sống”. Theo ông, cái đẹp là thuộc tính của hiện thực,
nhưng đồng thời cái đẹp cũng là một thuộc tính tương đối. Con khỉ đẹp nhất
trong loài khỉ cũng không thể so sánh với con người. Con người sáng suốt
nhất so với Thượng đế cũng chỉ vẫn là con khỉ xét về trí tuệ, sắc đẹp. Ông là
người đầu tiên đưa ra tiêu chuẩn đồng nhất cụ thể trong đánh giá nghệ thuật.
Kế tục những tư tưởng của thầy mình Pla- tông quan niệm, nghệ thuật
là bắt chước của bắt chước, tác phẩm nghệ thuật là cái bóng của cái bóng. Ông
lí giải, các sự vật cảm tính trong thế giới này là sự mô phỏng, bắt chước của ý
niệm con người lại mô phỏng các sự vật để làm nên các công trình nghệ thuật
của mình. Do vậy, nghệ thuật không có khả năng giúp con người nhận thức
được hiện thực. Ông cho rằng, chúng ta chỉ có thể đến với cái đẹp trong trạng
thái hôn mê, người nghệ sĩ chỉ có thể sáng tác trong trạng thái bị ám ảnh. Thế
nên, sáng tạo nghệ thuật là một quá trình mang tính chất phi lí và không kiểm
soát được
Cơ sở lí luận của mĩ học của A- ri- x tốt là quan niệm về sự thống nhất
giữa vật chất và hình dạng. Nghệ thuật không phải là hiện thân của ý niệm, mà
nghệ thuật là toàn bộ hoạt động vật chất và sản phẩm được tạo ra trong toàn
23
bộ quá trình hoạt động vật chất của con người. Vì thế, nhiệm vụ của nghệ
thuật được thực hiện thông qua hoạt động mô phỏng và bắt chước. “Nghệ
thuật trong một số trường hợp hoàn thành những cái mà ở giới tự nhiên không
thể làm được, trong một số trường hợp khác mô phỏng nó”; nhưng mỗi dạng
nghệ thuật có cách thức mô phỏng riêng. Tiêu chuẩn chung của đánh giá nghệ
thuật là ở tính chân thực, hữu ích của nó. Ông nói: “ người ta chỉ có thể nhìn
thấy cái đẹp khi thấy nó có ích và cần thiết” [tr.35, 28].

Để làm rõ bản chất đặc sắc của nghệ thuật, A- ri- xtốt so sánh nghệ thuật
với khoa học lịch sử, “ thơ ca thực hơn lịch sử”[tr. 36, 28]. Nếu như khoa học
lịch sử tái hiện lại những sự kiện đã xảy ra một cách trung thực, khách quan
thì nghệ thuật không chỉ trình bày cái đã xảy ra mà quan trọng hơn, nó hướng
tới qui luật tất yếu phải xảy ra. Người nghệ sĩ không bắt chước một cách máy
móc mà anh ta còn tái tạo hiện thực và, đề xuất một kiểu mẫu, ở đó chúng ta
thấy bản chất sự vật một cách sáng tạo hơn - Thực tế nghệ thuật bao giờ cũng
ở trên hoặc ở dưới hình mẫu tự nhiên. Ông khẳng định: “ sự khác nhau giữa
hài kịch và bi kịch chính là bi kịch muốn tô đậm những con người cao đẹp,
còn hài kịch thì bôi nhọ những con người xấu xa, hơn là những gì ta thường
trong thấy” [tr. 24, 28].
1.2.2.2. Tư tưởng mĩ học Tây Âu thời kì phong kiến
Sau khi phương thức sản xuất cổ đại sụp đổ, đời sống kinh tế, văn hóa –
xã hội đầy biến động và đảo lộn. Từ đế quốc La Mã hùng mạnh, hàng loạt các
nhà nước phong kiến xuất hiện như Anh, Pháp, Đức … Cốt lõi xã hội là nền
sản xuất nông nghiệp. Các lãnh chúa phong kiến mọc lên nhan nhản. Vị trí cá
nhân phụ thuộc vào vị trí của dòng họ. Nét tiêu biểu của đời sống tinh thần
24
của thời kì này là sự thống trị tuyệt đối của thần học, nghệ thuật chịu sự lan
tỏa của tôn giáo.
Do đặc điểm “ đói ở trần thế phải no ở thiên đường”, mĩ học thời phong
kiến Châu Âu phủ định cái đẹp ở trần thế, tôn vinh cái đẹp ở thiên đường.
chính nguyên nhân này mà không có nghệ thuật của hiện thực, nghệ thuật bị
lợi dụng làm công cụ cho công cuộc truyền giáo và trang trí nhà thờ. Điểm đặc
sắc của mĩ học giai đoạn này là phát hiện ra vẻ đẹp tâm linh của con người. Vì
vậy, đối tượng nghiên cứu của mĩ học giai đoạn này chủ yếu được xem xét
trong mối quan hệ giữa đức tín và lí trí, giữa sống và chết, thân xác và linh
hồn, giữa trần thế và thiên đường.
Ô- guyt - xtanh quan niệm chúa là cái đẹp tuyệt đối, bất biến, trường
tồn, không thể hủy diệt. Và vượt lên trên tất cả các phẩm tính đó, Thiên chúa

tồn tại siêu không gian, siêu thời gian, phi vật chất và vĩnh cửu. Nghệ thuật
không tái hiện những hình thức thực tế của cái đẹp vĩnh cửu này, mà chỉ tái
hiện “ hình thức mang tính bản thể” của nó. Nguồn gốc tạo nên những khoái
cảm ở các tác phẩm nghệ thuật không phải ở bản thân nghệ thuật, mà ở những
ý niệm thần thánh vốn có của nó. Nếu bản thân âm nhạc khiến người nghe
thánh ca nhà thờ cảm thấy sung sướng thì họ đã sai lầm tai hại và “ tốt hơn hết
là họ hoàn toàn đừng nghe nhạc nữa”. Theo ông, hình thức nghệ thuật phải
tách rời nội dung. Vì thế, nghệ thuật mang đặc điểm nổi bật là sơ lược và theo
chủ nghĩa tượng trưng. Nó phải hoàn toàn tuân thủ giáo lí của nhà thờ.
1.2.2.3 Ttư tưởng mĩ họcTây Âu thời kì Phục hưng
Khi bóng tối của đêm trường Trung cổ đã bị ánh sáng của nền văn minh
công nghiệp đẩy lùi thì Tây Âu đã có những biến chuyển dữ dội, chuyển sang
thời kì Phục hưng. Thực chất của nền văn hóa Phục hưng là văn hóa của giai
25

×