Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH ĐỒN ĐIỀN NHÀ NGUYỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (540.58 KB, 28 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA LỊCH SỬ
---------------
TIỂU LUẬN
TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH ĐỒN ĐIỀN NHÀ NGUYỄN
PHẦN BỘ ĐỀ
1
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử Việt Nam, công tác khẩn hoang có sự quan trọng đặc biệt, với
một nước nông nghiệp là chủ yếu, lại có những sông lớn thường xuyên bồi đắp phù
sa như sông Hồng, sông Thái Bình, sông Đáy, sông Cửu Long và một phần giáp
biển Đông cho nên lãnh thổ Việt Nam thường xuyên, không ngừng được bồi đắp,
mở rộng, vì vậy với việc khai hoang, mở rộng diện tích canh tác, cải tạo và biến các
vùng đất ven sông, ven biển thành những cánh đồng mầu mỡ là một việc làm
không thể thiếu được trong mỗi thời đại và từng thời kỳ lịch sử. Từ xa xưa sau khi
đánh bại phong kiến phương Bắc xâm lược, bắt đầu xây dựng nền móng cho một
quốc gia độc lập, các triều đại phong kiến đã quan tâm thích đáng đến công cuộc
khai hoang. Vào thế kỷ 13 năm 1226 vua Trần cho phép các vương hầu, công chúa,
phò mã mộ dân nghèo, dân phiêu tán đi khai hoang lập nên các điền trang rộng lớn.
Trong chính sách khẩn hoang mà nhà Nguyễn đã đề ra với 3 hình thức đồn điền,
doanh điền, khai hoang trong đó em đi sâu vào nghiên cứu vấn đề đồn điền, hiểu
được chính sách đồn điền ta có thể hiểu được một phần chính sách khai hoang của
nhà Nguyễn tức là hiểu được chế độ ruộng đất của nhà Nguyễn, một bước ngoặt
quan trọng từ chế độ phong kiến sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến thời cận đại
và nghiên cứu giai đoạn này nhận biết được chế độ phong kiến Việt Nam trên
đường khủng hoảng của nó, đồng thời xác định được vài trò và trách nhiệm của
triều Nguyễn. Vì vậy em đã chọn đề tài trên.
2. Lịch sử vấn đề và phạm vi nghiên cứu
Đồn điền là một loại hình sở hữu của nhà nước, là loại đất khai hoang lập
thành do nhà nước phong kiến đứng ra tổ chức và chi phí. Lực lượng khai hoang là


binh lính, tù binh, người bị tội, có khi cả dân nghèo. Vấn đề đồn điền được nhiều
các học giả và các nhà sử học nghiên cứu và tìm tòi. Dưới thời Pháp thuộc nhằm
phục vụ cho lợi ích cai trị của mình và tìm hiểu về Việt Nam, đã có một số công
trình nghiên cứu, tìm hiểu về chính sách đồn điền thời Tự Đức: Maspéro với
Empire khrmẻ, Maybon với Histore Moderne du pay d’Annan… Bước sang giai
2
đoạn sau năm 1945 các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này có thể kể
đến: lịch sử khẩn hoang miền Nam của Sơn La 1973, lịch sử Việt Nam tập I của Uỷ
ban Khoa học xã hội.
3. Nguồn tư liêụ và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tư liệu đa dạng và phong phú nói về chính sách này - đồn điền một
loại hình sở hữu của nhà nước như: chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn
hoang lập ấp ở Nam kỳ lục tỉnh, Hội Sử học Việt Nam, H.1992 hay tình hình ruộng
đất nông nghiệp và đới sống nông dân dưới triều Nguyễn, Nxb Thuận Hoá, 1997….
Đặc biệt là cuốn Đại Nam thực lục chính biên, gồm nhiều tập của Quốc Sử quán
triều Nguyễn.
- Để nghiên cứu vấn đề này ta có thể sử dụng nhiều phương pháp như liên
ngành, hay học tập những phương pháp nghiên cứu của các thầy cô.
3
NỘI DUNG
I. TÌNH HÌNH NÔNG NGHIỆP VÀ XÃ HỘI VIỆT NAM TRONG 30
NĂM ĐẦU THẾ KỶ XIX
1. Sự phát triển mạnh mẽ của chế độ tư hữu về ruộng đất và sự suy sụp của
chế độ chiếm hữu ruộng đất công làng xã
Trong từng thời kỳ lịch sử, các vương triều phong kiến luôn luôn duy trì và
bảo vệ ruộng đất công, vì đó là nguồn lợi tô thuế bảo đảm cho sự vững vàng của
nhà nước trung ương, ở thế kỷ XVI, ruộng đất tư hữu phát triển, ruộng đất công bị
thu hẹp  là nguyên nhân dẫn đến sự suy yếu của nhà nước phong kiến.
Thế kỷ 18 nền kinh tế hàng hoá có nhiều biến chuyển đã kích thích ruộng đất
tư ptmạnh  làm cho chế độ chiếm hữu ruộng đất công làng xã bị suy sụp nhưng

trong và sang thế kỷ XIX càng suy sụp nghiêm trọng hơn.
Theo cách “sĩ hoạn tu tri” của Nguyễn Công Tiệp cho đến đầu thế kỷ XIX có
những tỉnh như tỉnh PhúYên không có công điền.
Căn cứ vào địa bạ Gia Long năm thứ 4 của 12000 xã thuộc 10 huyện của các
trấn Sơn Tây, Sơn Nam Thượng cho ta biết tỉ lệ vuông đất công và ruộng đất tư
trong tổng diện tích như sau:
STT Huyện số đơn vị Tỉ lệ tư điền Tỉ lệ công điền
Mỹ Lương 5 94,5% 0%
Minh Nghĩa 16 71,8% 0,11%
Yên Sơn 13 65,82% 0,21%
Sơn minh 36 84,72% 4,27%
Hoài An 10 83,1% 4,6%
Phúc Lộc 21 71,7% 5,2%
Đan Phượng 13 47,45% 5,96%
Từ Liêm 43 62,66% 11,3%
Hương Phúc 34 73,85 12,75
Tiền Phong 23 60,35 25,7
Huyện Từ Liêm có những xã khoongt có ruộng công như xã Nhân Mục, xã
Hồng Đô, một số xã có sự chênh lệch về ruộng công và tư rất lớn.
Thôn Tư điền Công điền
Ngọc Kiêu 153 mẫu 3 sào 1 mẫu 7 sào 10
4
Xã Ngọc Hạnh 9 thước 8 tấn thước
Xã Hoàng xá 317 mẫu 5 sào 11 mẫu 4 sào
7 thước 4 tấc 4 thước 5 tấn
Xã Đại Mỗ 788 mẫu 21 mẫu 7 sào
252 thước 2 tấc 11 thước 6 tấc
Thượng Hội 593 mẫu 5 sào 8 mẫu 5 sào
1 thước 8 tấc 13 thuốc
Vĩnh kỳ 391 mẫu 5 sào

11 thước 8 tấc
1 mẫu 6 sào 2 thước 5
tấc
Qua một vài số liệu cho ta thấy, những năm 30 của thế kỷ XIX ruộng đất
công chỉ chiếm 1 tỉ lệ nhỏ, tình hình đó cũng được phẩn ánh trong nhận xét của
Pham Huy Chú: “Nước ta tuy có trấn sơn Nam hà là rất nhiều ruộng đất công và
đất bãi sông, phép quân cấp chỉ nên làm ở xứ ấy là phải còn các xứ khác các hạng
ruộng công không có mấy dù xứ nào có mấy thì cungc chỉ đủ cung cấp lượng và
ngu ngộc không thể san chia cho các hạng [2, tr.70]ư. Trong khi đó ruộng đất tư
hữu đã chiếm ưu thế và ngày càng mở rộng.
Huyện Thụy Anh (phủ Thái Bình trấn Sơn Nam Hạ) đến những năm đầu thế
kỷ 19 ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân cũng chiếm ưu thế (3/4 tổng số ruộng đất các
loại) ở vung tây Thụy Anh trong đó có 54,2% số người là địa chủ có trên 10 mẫu
ruộng chiếm 84,5% ruộng đất nhiều địa chủ có 130 mẫu, ở một trong những vùng
đất được thành lập muộn hơn ruộng đất công còn tồn tại với số lượng và tỉ lệ ra lớn
nhưng ruộng đất tư hữu vẫn phát triển theo hướng tập trung vào tay các tầng lớp
khá giả và giai cấp địa chủ. Bọn địa chủ cường hào ở địa phương thường cậy quyền
thế, ức hiếp dân nghèo, tìm mọi cách để biến công vi tư. Bọn địa chủ cường hào,
chúng không chỉ dừng lại ở đó mà cỏn ẩn lậu ruộng đất, chốn thuế cho nhà nước,
mà vùng đất bồi ven biển, nơi đất rộng là nơi chungd có điều kiện nhất.

Đứng trước tình hình đó Nhà Nguyễn thấy cần phải có thái độ và biện
pháp để giải quyết vấn đề ruộng đất.
1803 các quan lại ở bắc thành đã đề nghị tịch thu ruộng đất tư, 10 phần chỉ
để lại cho quan lại 3 phần.
5
1804 Gia Long hạ chiếu, làm sổ điền ở mọi trấn Bắc hà tháng 4 năm đó ban
hành bản điều lệ quân cấp công điền công thổ và có các điều cụ thể để mọi người
tuân theo vĩnh viễn làm phép thường. Nhưng việc quản di chỉ trênh danh nghĩa mà
thôi vì mức chia rất chênh lệch, quan nhất phẩm được gấp đôi người thường lại

được nhận trước nên thường là ruộng tốt còn dân phải nhận sau ruộng xấu nên
thường chán nản nên bỏ ruộng ra đi và ruộng ấy lại rơi vào tay địa chủ chiếm đoạt
trong lúc đó nhà nhước vẫn dành một số ruộng cho lính.
 Bằng mọi cách nhà Nguyễn vấn duy trì ruộng công để bảo đảm nguồn lợi
tô thuế cho nhà nước, đồng thời có dân đinh để đi lính và đi lao dịch nhưng tình
trạng chế độ ruộng đất của địa chủ cường hào càng phổ biến thì kèm theo đó là dân
nghèo không có đất ngày càng nhiều, chế độ tô thuế nặng nề với thiên tai lụt lội hạn
hán dẫn đến những nạn đói lớn ở Bắc Hà làm hàng loạt nông dân phiêu tán, nhiều
nơi ruộng đất bị bỏ hoang.
Bảng thống kê tình hình đói khổ và phiêu tán của nhân dân trong 3 thập kỷ
đầu thế kỷ XIX.
Năm xảy ra Những địa phương bị đói và tình trạng nông dân phiêu tán
1803 Thanh Hóa
1804 Sơn Nạ bộ
1806 Kinh Bắc, sơn tây, sơn Nam Hải Dương, Hưng Hóa.
1807 Quảng Trị
1808 Nghệ An
1809 Hải Dương, Kinh Bắc, Yên Quảng Sơn Nam Hạ
1810 Thanh Hóa, Nghệ An
1815 Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương
1816 Thanh Hóa , Nghệ An, 5 nơi trấn Bắc thành
1817 Thanh Hóa, Nghệ An
1818 Nghệ An, Thanh Hóa
1819 Nghệ An, Thanh Hóa, Bắc Thành
1820 Quảng Trị, Quảng Bình, Nam Định, Thanh Hóa
1821 Sơn Nam Kinh Bắc, Nghệ An
1822 Nghệ An, Quảng Trị, Hải Dương, Kinh Bắc
1823 Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, 5 nơi trấn Bắc Kinh
1824 Thanh Hóa, Nghệ An, Ninh Bình, 5 nội trấn Bắc Thành
1825 Nghệ An, Thanh Hóa, Hải Dương, 5 nội trấn Bắc thành.

6
1827 Nam Định, Sơn Tây, Ninh Bình, Thái Nguyên, Quảng Bình
Bảng thống kê cho ta thấy 30 năm đầu thế kỷ 19 tình hình đói kém và nạn
dân phiêu tán liên tục xảy ra ở các vùng Nam Định, Ninh Bình, nạn đói vf phiêu tán
càng xảy ra trầm trọng hơn vào những năm đầu của thập kỷ 20 dưới thời Minh
Mạng.;
 Tình trạng dân đói kém phải bỏ đi phiêu tán đã đưa đến một diện tích lớn
ruộng đất hoang phế không người cày cấy. Nó đã ảnh hưởng lớn đến tình hình sản
xuất nông nghiệp trong nước và làm thất thu đến ngân quỹ nhà nước. Dân nghèo
mất đất, không có ruộng để làm ăn sinh sống, một bộ phận lớn thì phải sống nhờ
vào canh tác ruộng đất công hoặc làm thuê cày mướn cho địa chủ. Sư triều Nguyễn
cũng thú nhận “sau khi khẩn hoang, nông dân chỉ cày vài ba năm rồi bỏ đi, vì tô
thuế quá nặng không thể tiếp tục được nữa” [44, tr 10]
2. Nạn đói kém thường xuyên, nông dân phiêu tán ruộng đất hoang hóa là
những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến các cuộc khởi nghĩa nông dân
Tình hình kinh tế suy đốn, nông nghiệp thì khủng hoảng do lực lượng sản
xuất bị phá hoại, giai cấp thống trị bóc lột thậm tệ lại thêm thiên tai lũ lụt, đói kém
hoành hành đe dọa cuộc sống của người nông dân , sự bất bình sâu sắc của những
người dân nghèo bị bần cùng phá sản với giai cấp thống trị đã đẩy họ đến một con
đường duy nhất là tập hợp nhau lại và đứng dậy đấu tranh. Ngay từ khi Gia Long
lên ngôi các cuộc khởi nghĩa nông dân ở đầu thế kỷ XIX thì cuộc khởi nghĩa Phan
Bá Vành là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu cho phong trào đấu tranhh của nhân dân vùng
ven biển Nam Định, Thái Bình và cũng là cuộc khởi nghĩa nông dân có quy mô,
phạm vi lớn nhất trong phong trào đấu tranh của nông dân ở đầu thế kỷ 19 muốn
đàng Gia thế phả xã Quang Thiên huyện Kim Sơn ghi lại: “Nhân triều đình
(Nguyễn) nhu nhược chuyên lo vơ vét của cải, luôn năm xây dựng thành quách,
cung đình, bê trễ đê điều, đồng ruộng, nông trang, luôn năm lụt lội dân tình đói
rách, làng mạc điêu tàn, nhũng loạn, khắp nơi , có ông Phan Bá Vành nhân nạn đói
năm Canh Thìn (dầu 1821) tập hợp dân chúng chống lại triều đình được dân đi theo
7

lập cắn cứ chính ở truyện ngắn Trà Lũ” Từ một cuộc khởi nghĩa có tính chất địa
phương ở vùng ven biển Nam Định, chỉ trong một thời gian ngắn địa bàn hoạt động
đã phát triển ra các tỉnh Thái Bình, Hải Phòng, Hải Dương, Kiến An, Hưng Yên,
đây cũng là phong trào tồn tại lâu nhất (1821 – 1827) thu hút đông đảo nông dân
nghèo ở các tầng lớp xã hội tham gia đã có tác động không nhỏ đến kinh tế, chính
trị xã hội đương thời. Lo sợ trước sự phát triển mạnh của cuộc khởi nghĩa, triều
đình đã phái những tướng giỏi như Trương Phúc Đặng, tiên phong đi thống chế
Trương Văn Minh cùng với Nguyễn Hữu Thận trông coi việc đàn áp và phái tham
hiệp trấn thanh Hóa là Nguyễn Công Trứ cùng trấn Nghệ An là Nguyễn Đức
Nhuận ra theo giúp, cuối cùng mới đàn áp được cuộc khởi nghĩa.
 Động lực chính trong tất cả các cuộc khởi nghĩa ở đầu thế kỷ 19 đều là
quần chúng nông dân nghèo đói không những ở miền xuôi còn có các dân tộc miền
núi.
Và giải pháp có thể ổn định trật tự xã hội điều hòa mâu thuẫn giai cấp chỉ có
thể bằng việc giải quyết ruộng đất cho nông dân để ổn định cuộc sống cho họ, tạo
điều kiện cho sức sản xuất phát triển cũng là nhằm phục hồi nền kinh tế nông
nghiệp, đáp ứng được yêu cầu mà đất nước đang đòi hỏi.
 có thể nói, bức tranh xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ 19 là một bức tranh
mang nhiều nét ảm đạm, vua quan nhà Nguyễn đã không tận dụng cơ hội quốc gia
thống nhất để làm cơ sở cho sự phát triển tiến bộ đi lên cho đất nước sau nhiều nặm
nội chiến kéo dài mà còn đẩy cuộc khủng hoảng toàn diện và sâu sắc hơn trước.
II. NGUYỄN CÔNG TRỨ NGƯỜI KHẨN HOANG LỖI LẠC CỦA
THẾ KỶ XIX
*Nguyễn Công Trứ là một nhà trí thức có tài tên tuổi của ông còn lại đến
ngày nay một phần là nhờ sự nghiệp khẩn hoang của ông, ông đã thừa kế những
kinh nghiệm của người xưa và có những sáng kiến về khai khẩn đất dâi bỏ hoang,
nó đã có ảnh hưởng lớn đến công cuộc khẩn hoang của triều Nguyễn…
8
-Dưới thời Nguyễn, Nguyễn Công Trứ là người hoạt động tích cực cho sự
nghiệp cải biến những khu đất hoang thành ruộng đồng phì nhiêu trong khoảng thời

gian tương đối ngắn (từ năm 1828 đến năm 1835) ông gửi liên tiếp 6 tờ tâu lên
Minh Mạng xin trực tiếp tổ chức khai hoang, hoặc xin triều đình cử quan lại tổ
chức khai hoang ở nhiều địa phương trong nước.
Trong những năm làm quan ở Bắc thành và tham gia đàn áp cuộc khởi nghĩa
nông dân, Nguyễn Công Trứ có điều kiện để chứng kiến nỗi đau của dân chúng, tệ
nạn mà bọn cường hào, quan lại gây lên. Nguyễn Công Trứ đã hiẻu được nguyên
nhân của các cuộc khởi nghĩa nông dân và nhận thấy muốn khắc phục tận gốc nạn
lưu tán và nông dân nổi dậy đấu tranh thì phải tiêu diệt nạn tham ô, trừng trị bọn
cường hào gian ác, nắm quyền sinh quyền sát ở nông thôn, và đặc biệt là phải giải
quyết yêu cầu về ruộng đất cho nông dân. Nhưng đáp ứng nguyện vọng của nhân
dân bằng cách nào, lấy ruộng đất từ đâu để cấp cho dân; Những năm tham gia đàn
áp cuộc khởi nghĩa, Nguyễn Công Trứ đã mục đích được một thực tế của lối thoát
khỏi bế tắc trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ đó là quang cảnh bãi bồi ven biẻn
Nam Định - Ninh Bình mênh mông bát ngát có thể khai phá bằng đất canh tác với
sự nhạy bén và sáng suốt của tài năng kinh tế lỗi lạc, Nguyễn Công Trứ biết chắc
rằng đây là khả năng có thể thành hiện thực để giải quyết được vấn đề ruộng đất
đang được đặt ra. Nếu tổ chức tập hợp nông dân nghèo vào tạo điều kiện cho họ
tiến hành khẩn hoang trên một phạm vi và qui mô lớn.
Chủ trương khẩn hoang của Nguyễn Công Trứ được trình bày sâu sắc trong
bản điều trần. Khẩn hoang để yên nghiệp dân nghèo Ông viết: “Đời làm ăn xưa,
chia ruộng đất của dân có nghiệp thường cho nên ở yên nơi làng mạc, không có
gian tà. Ngày nay những dân nghèo từng ăn dưng chơi không, khi cùng thì họp
nhau trộm cướp, cái tệ không ngăn cấm được trước thần đến Nam Định, thấy ruộng
bỏ hoang ở các huyện Giao Thuỷ, Chấn Định mênh mông, bát ngát hỏi ra dân
muốn khai khẩn những phí tổn không mấy mà cái lợi tự nhiên sẽ đến vô cùng,
phàm các hạt xét thấy những dân du đãng, không bấu víu vào đâu đều đưa ra cả đầy
9
như thế thì đất không bỏ hoang, dân đều làm ruộng. ông đã nêu ra lợi ích khai
hoang.
Lợi ích khai hoang:

Theo Nguyễn Công Trứ khai hoang của nhà nước phong kiến, nó đêm lại lợi
ích toàn diện cho nước, cho dân, trong bản điều trần 1828, ông nói tóm tắt lợi ích
đó như sau:
“Như thế thì đất không sót lợi mà của nước được dồi dào… dân có nghề làm,
thói phiêu lưu trở thành thuần hậu”.
+ Về mặt kinh tế: khai hoang khắc phục được được tình trạng “đất có thể reo
trồng được còn bỏ hoang nhiều, đất rất màu mỡ mà chưa khai khẩn hết” góp phần
phát triển sản xuất nông nghiệp, làm cho nguồn lợi tự nhiên lưu truyền mãi mãi.
+ Khai khẩn ruộng hoang còn làm tăng thêm thuế ruộng - nguồn thu nhập tài
chính quan trọng nhất của nhà nước phong kiến đồng thời một bộ phận nông dân
lưu tán không đăng kí hộ tịch được thu hút đến khu vực đất hoang, còn mở rộng
thuế số người đóng thuế đinh, chịu lao dịch và bệnh dịch cho nhà nước. Mặt khác,
việc huy động quân lính và tù phạm tham gia khẩn hoang, rồi trồng lúa và hoa màu,
chăn nuôi gia súc để tự túc một phần nhu yếu phẩm (vừa rút bớt được số lương
thực mà nhà nước phải cung cấp cho họ, vừa giảm bớt được chi phí vận chuyển
lương thực đến những vùng xa xôi, hẻo lánh thu hẹp một phần khoản chi của công
quỹ dành cho quân lính.
-Còn góp phần ổn định tình hình xã hội và chính trị vì việc làm này “gây
nghiệp cho dân nghèo”, giải quyết được vấn đề ruộng đất trong khuôn khổ trật tư
phong kiến cho một bộ phận nông dân, tạo ra cơ sở để nông dân an cư lạc nghiệp
thanh toán một phần cái nạn “những dân đói nghèo rong ăn, rong chơi” nguồn gốc
của “cái tệ giặc cướp không sao trừ diệt được”. Hơn nữa sự thành lập những làng
ấp có đông dân cư sinh sống yên ổn trên những khu vực trước đây còn là “cỏ cây
hoang rậm không có dấu chân người” không những mở đường làm ăn cho dân
10
nghèo mà còn trừ được nơi ẩn lánh “của các lực lượng chống đối lại chính phủ
phong kiến”.
Ngoài ra việc di dân và chuyển tù phạm đến biên giới hoặc khu vực mới
chinh phục để họ khai khẩn” thêm đất trồng trọt, vừa củng cố và làm mạnh biên
giới khi tình hình yên ổn, vừa có lực lượng bổ sung cho quân đội mỗi khi cần tiến

hành công việc bành trướng hoặc chống lại quân địch vượt qua biên ải.
III. CHÍNH SÁCH ĐỒN ĐIỀN QUA HAI THỜI KÌ
Cũng như các triều đại phong kiến khác, căn bản dựa trên kinh tế nông
nghiệp, nhưng với tính chất phản động cao hơn luôn luôn tìm mọi cách đối phó với
sự chống đối của nhân dân, triều Nguyễn ngay từ đầu đã chú trọng khai khẩn ruộng
hoang, coi đó là một trong những vấn đề quan trọng nhất trong việc chiếm lấy và
giữ vững ngôi vua. Suốt trong thời gian thống trị của triều Nguyễn từ lúc bắt đầu
khởi nghiệp đến khi sắp sửa mất nước vào cuối đời Tự Đức, vấn đề khẩn hoang vẫn
được thường xuyên nêu ra nhằm giải quyết nạn dân lưu tán, nguồn gốc của mọi
cuộc khởi nghĩa nông dân. Trong chính sách khẩn hoang của nhà Nguyễn ông đề ra
chính sách đồn điền, doanh điền, khai hoang trong đó chính sách đồn điền được
ông chú trọng và phát triển .
1. Thời kỳ Nguyễn Ánh chiếm giữ gia Định
1.1. Hoàn cảnh lịch sử
Nhà Tây Sơn đánh đổ chúa Nguyễn vào năm 1977 và chiếm giữ toàn bộ đất
phía Nam. Nguyễn Ánh chạy thoát ra đảo Thổ Châu và luôn tìm cách đánh chiếm
Gia Định. Dựa vào bọn địa chủ làm nội ứng bên trong đem quân về đánh chiếm Gia
Định và đã chiếm được một vùng Gia Định lớn tức Nam Bộ ngày nay. Trong tình
hình lực lượng còn quá yếu chỉ dựa vào sự chia rẽ của đối phương mà thu được
thắng lợi nên Nguyễn Ánh nghĩ ngay đến việc sắp đặt tổ chức để vững chắc tạo
thời cơ thuận lợi đánh lại Tây Sơn. Việc đầu tiên quan trọng là cung cấp lương
thự2c nuôi quân lính tiến hành cuộc chiến tranh chiếm đất nước. Trong tình trạng
chiến tranh, sản xuất nông nghiệp luôn luôn bị đe doạ và ở một vùng nhỏ hẹp, sự
11

×