Tải bản đầy đủ (.ppt) (14 trang)

Bài 23: Tình hình kinh tế, văn hóa TK XVI-XVIII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (981.15 KB, 14 trang )

Bài 23: KINH TẾ, VĂN HÓA THẾ KỈ
XVI-XVIII
Trình bày: Nhóm 4
1. Tôn giáo
*Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo:

- Ở thế kỉ XVI-XVIII, Nho giáo được đề cao.

- Phật giáo, Đạo giáo được phục hồi sau thời gian bị hạn chế ở
thế kỉ XV.

-Nhân dân ta vẫn tiếp tục giữ những nết văn hóa truyền thống.
*Thiên Chúa giáo:

- Phát triển ở Châu Âu từ thời trung cổ - trung đại.

- Do các giáo sĩ phương Tây theo thuyền buôn phương Tây đến
truyền bá vào nước ta- năm 1533.
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau
cùng.
Câu ca dao trên nói lên điều gì?
Câu ca dao đã nói lên truyền thống yêu thương,
đùm bọc, chia sẻ của nhân dân ta (tuy tôn giáo hay
dân tộc có thể khác nhau).
Anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ một nhà cùng
thân.
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một
giàn.


Vì sao Thiên Chúa giáo bị chúa Trịnh, chúa Nguyễn cấm ?

- Ở Đàng Ngoài, việc hành đạo của tôn giáo mới này đi trái lại với
một số phong tục cổ truyền chẳng hạn như không chấp nhận việc
thờ cúng Tổ tiên, quan niệm tôn quân và các đạo lý của Nho giáo,
vốn đã ăn sâu trong xã hội Đại Việt. Sự quy tụ các giáo dân và sự
phục tùng truyệt đối của họ vào những người ngoại quốc làm cho
cả hai họ Trịnh Nguyễn lo sợ. Vì thế hai nhà chúa đã hạn chế việc
truyền đạo và dần dần đi đến việc cấm đạo.

- Ở Đàng Trong, chúa Nguyễn cũng cấm đạo. Chúa Nguyễn có vài
lần trục xuất các nhà truyền giáo, nhưng không đến nỗi khắc khe
vì chính các chúa đã dùng các nhà truyền giáo làm thầy thuốc
riêng, hoặc làm nhà thiên văn, nhà toán học cho mình. Do đó,
việc cấm đạo tại Đàng Trong không quá nghiên khắc như Đàng
Ngoài.

Tuy nhiên, các giáo sĩ vẫn tìm cách để tiếp tục truyền đạo.
Biểu diễn võ nghệ (tranh vẽ ở thế kỉ
XVII)
2. Sự ra đời chữ Quốc Ngữ

- Chữ quốc ngữ do một số Giáo sĩ đạo Thiên Chúa sáng tạo ở thế
kỷ XVII , tuy nhiên chỉ được dùng để truyền đạo.

- Nhân dân ta không ngừng sửa đổi , hoàn thiện chữ Quốc ngữ ,
nên chữ viết tiện lợi , khoa học .
Alexandre de Rhôdes và chữ cái La Tinh
Bộ từ điển Việt – Bồ - La Tinh

3. Văn học và nghệ thuật dân gian
*Văn học:

-Văn học chữ Hán vẫn chiếm
ưu thế.

-Văn học chữ Nôm phát triển
mạnh hơn trước:
+Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 –
1585) thơ của ông ca ngợi cuộc
sống trong sạch, phê phán thói
đời xấu xa.
+Đào Duy Từ (1572 – 1634) là
nhà văn, nhà quân sự.
+Thiên nam Ngữ Lục bằng chữ
Nôm hơn 8000 câu thơ lục bát kể
lại lịch sử thời Hồng Bàng đến
thời nhà Mạc .
Hãy trình bày sự phát
triển của văn học ở thế
kỉ XVI-XVII ?
Thể loại: truyện Nôm,
truyện tiếu lâm, thơ song
thất lục bát.
Tác phẩm tiêu biểu: Phan
Trần, Nhị Độ Mai, Thạch
Sanh (Truyện Nôm) ,
Trạng Quỳnh, Trạng Lợn
(Truyện tiếu lâm)
Nguyễn Bỉnh Khiêm Đào Duy Từ

*Nghệ thuật:

-Điêu khắc gỗ ở nông thôn rất phong phú như đánh vật ;
tượng Phật Bà nghìn mắt, nghìn tay.

- Sân khấu có chèo, tuồng lên án kẻ gian nịnh, ca ngợi tình
yêu thương con người .

Nghệ thuật dân gian phát triển mạnh phản ánh truyền
thống cần cù , lạc quan của nhân dân lao động, là vũ khí
lên án sự áp bức bóc lột , bất công trong xã hội đương
thời .
*Tượng Phật Bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay:

-Pho tượng bằng gỗ chạm, sơn
son thếp vàng đầu tiên thờ Đức
Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan
Thế Âm Bồ Tát (dân gian quen
gọi là là Quan Âm nghìn mắt
nghìn tay)

-Được nghệ nhân Trương Văn
Thọ chạm khắc vào năm Bính
Thân (1656), cao 3,45, đặt thờ
tại chùa Bút Tháp (tỉnh Hà Bắc)
đến nay vẫn còn ở chùa Bút
Tháp (Bắc Ninh).
*Ý nghĩa:

-Tượng thể hiện lòng tin tuyệt đối vào sự toàn năng của Phật Bà Quan

Âm: nhìn thấy, xem xét được mọi sự việc, sự vật ở khắp mọi nơi, cứu vớt,
cứu khổ mọi người trong mọi lúc Nghệ nhân đã thành công trong cách
bố cục và diễn tả để pho tượng được tự nhiên, cân đối giữa thân người và
21 đôi tay mềm mại xung quanh. Các đôi cánh tay lớn như đang múa, các
cánh tay nhỏ được sắp xếp theo vầng hào quang tỏa sáng xung quanh.
Trên mỗi lòng bàn tay đều có hình con mắt thể hiện ''nghìn mắt''. Phần bệ
tượng thể hiện ''bể khổ trần gian'' với nhiều sóng gió. Con ác thú đội tòa
sen và người đội bệ tượng là những kẻ ác bị trừng phạt và được Phật Bà
thu phục làm đệ tử. Riêng hoa văn chạm khắc trên bệ tượng mang nét đặc
sắc của hoa văn trang trí thời Lê như ''Lưỡng long chầu nhật'', ''Song lân
chầu nhật'' - trong đó hình tượng Long (rồng) tượng trưng cho uy quyền
của Vua và Lân là biểu tượng cho sự bền vững của triều đại, của quốc
gia Tượng này được xem là cổ vật quý của nước ta và là niềm tự hào to
lớn của nền mỹ thuật điêu khắc dân gian Việt Nam trong tiến trình phát
triển lịch sử Phật giáo dân tộc.

×