Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Tên gọi người Thái và sự phân chia thành Thái Trắng-Thái Đen ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.5 KB, 8 trang )

BÀI THI MÔN CHUYÊN ĐỀ 3
Câu 1: Tên gọi người Thái và sự phân chia thành Thái Trắng-Thái
Đen ở Việt Nam
BÀI LÀM
Người Thái là một trong bảy dân tộc thiểu số có số dân đông trong đại gia
đình 54 dân tộc Việt Nam. Phân bố chủ yếu ở miền Bắc, tập trung ở Tây Bắc và
Bắc Trung Bộ. Người Thái bao gồm nhiều ngành, mỗi ngành gồm nhiều nhóm
khác nhau.
Với giới hạn bài thi hết chuyên ngành, chúng ta chỉ đi qua, tìm hiểu đôi
nét về tên gọi và sự phân chia thành hai ngành Thái Trắng - Thái Đen ở Việt
Nam.
Trong lịch sử, người Thái ở Trung Quốc có nhiều tên gọi khác nhau, từng
thời điểm, biến cố lịch sử mà có tên gọi khác nhau. Ở Việt Nam người Thái tự
gọi mình là Phủ Táy hay Khăm Táy.
Tay, Táy đều có nghĩa là người hay con người.
Phủ, Khăm đều có nghĩa là dân tộc.
Phủ Tay hay Khăm Tay đều mang nghĩa nhấn mạnh về cộng đồng hay
dân tộc người.
Trong bày danh mục các dân tộc Việt Nam, từ Thái là từ chỉ dân tộc
người chính thức và cư trú ở Tây Bắc (trung tâm Mường Thanh, Điện Biên) và
Bắc Trung Bộ (Thanh Hoá, Nghệ An)
Chúng ta phải nói thêm rằng từ Thái là một từ gốc Hán Việt (với nghĩa Tự
do hay Người Tự do – Thái Lan) và do người Việt gọi.
Hiện nay trong giới khoa học tồn tại nhiều cơ sở phân chia hai ngành Thái
Trắng (Táy Khao), Thái Đen (Táy Đăm):
Sự phân chia Táy Đắm, Táy Khao là do màu da.
Sự phân chia Táy Đắm, Táy Khao là do trang phục (Thái Trắng ưa mặc
trang phục trắng, Thái Đen ưa mặc trang phục đen).

Dựa trên cơ sở phân chia địa lý các dân tộc (Người Thái ở Việt Nam –
Cầm Trọng, 1973).


Như chúng ta thấy, Thái Trắng – Thái Đen màu da không có sự khác biệt
rõ ràng, và trang phục ở một số vùng cũng không có sự đồng nhất như người
Thái Trắng ở một số nơi vẫn mặc đồ đen khi làm lễ cúng tổ tiên.
Sự phân chia gắn liền với cơ cấu lưỡng phân, lưỡng hợp của thiết chế
công xã thị tộc (có hiện tượng rất cổ).
Ph.Ăngghen đã nêu ra và phân tích trong tác phẩm nguồn gốc gia đình
(Tập VI, Mác-Ăngghen toàn tập). Theo người, các bộ tộc nguyên thuỷ thường
phân chia thành hai Nưả (bào tộc), các tên gọi đều có tên gọi xác định (riêng)
như thổ dân Châu Mỹ lấy tên động vật chỉ các bào tộc của mình; người da đỏ có
bộ lạc Xênêca phân thành hai bào tộc là bào tộc gấu và bào tộc nai. Tên gọi các
bào tộc này có khi là màu sắc hoặc phương hướng như người Cacađu-Braxin:
trắng-đen.
Sự phân chia này với mục đích tiến hành hôn nhân, nhằm tránh hậu quả
gần dòng máu.
Giới học giả Việt Nam cho rằng có khả năng người Thái Việt Nam cũng
chia thành hai ngành Trắng, Đen: Những nghiên cứu và giải thích về sự phân
chia hai ngành Thái Trắng –Thái Đen cồng với truyền thuyết người Thái coi
Mường Thanh là trung tâm người Thái cổ (Điện Biên Phủ) của các nhà khoa học
giúp chúng ta đi đến một số nhận xét:
Vùng Tây Bắc Việt Nam từ rất lâu đã có mặt các bộ lạc người Thái cổ,
với sự phân chia thành hai nửa Trắng và Đen, chính là hai bào tộc cổ. Sự phân
chia đó thuộc phạm trù xã hội liên quan đến cơ chế của chế độ công xã thị tộc,
có liên quan đến giai đoạn lịch sử nguyên thuỷ của vùng này.
Có bộ phận bản địa, nó đón những bộ phận di cư từ Vân Nam-Trung
Quốc di cư vào làm cho bộ phận người Thái tăng lên rất đông.
Chế độ công xã thị tộc tan rã, các bộ phận Thái bước vào giai đoạn có giai
cấp, tên gọi bào tộc Trắng-Đen vẫn tồn tại (ban đầu tồn tại trong ý thức, đến lúc

nào đó tồn tại trong tiềm thức và dần dần tồn tại trong vô thức của các thế hệ
sau)

Địa bàn trung du miền núi Bắc Bộ không chỉ là địa bàn cư trú lâu đời của
cá dân tộc thuộc ngữ hệ Việt-Mường, Môn_Khơme mà còn là nơi sinh tụ của
các dân tộc thuộc ngữ hệ Tày Thái. Nói như vậy tổ tiên của người Tày-Thái hiện
nay cũng là cư dân bản địa-tổ tiên người Tày Đáy cũng có thể là cư dân bản địa
Việt Nam.
Câu 2. Thiết chế bản mường của người Thái và thành tố văn hoá vật
chất của văn hoá bản mường
Nói đến người Thái, ngoài tộc danh và sự phân ngành Trắng-Đen, chúng
ta không thể không đi tìm hiểu qua về thiết chế bản mường và văn hoá vật chất
của thiết chế đó, đó là kết tinh của văn hoá tộc Thái, bản mường là nơi sáng tạo,
lưu giữ và bảo tồn các giá trị văn hóa vật chất, tinh thần của tộc Thái nói riêng
và văn hoá của 54 dân tộc Việt Nam nói chung.
Dân tộc Thái đã định cư thành bản mường. Đơn vị cư trú nhỏ nhất gọi là
bản (bản của người Thái lớn hơn xóm và nhỏ hơn làng của người Kinh ở đồng
bằng Bắc Bộ)
Bản là một đơn vị quần cư bền vững, có danh giới đất đai rõ rệt, đất thuộc
về bản thì gọi là đất bản, quy mô các bản không đều nhau, có bản chỉ có 5-7 nóc,
có bản 100 nóc.
Để xác định bản, người Thái có những quy tắc:
Phải có từ hai nóc nhà trở lên (vũng nước đã thành ao, hai nhà thành bản)
Phải có đủ yếu tố để cấu tạo nên bản như phải có đất thung lũng đủ điều
kiện để khai phá làm ruộng.
Phải có đất rừng, đất núi để làm nương rẫy và săn băn-hái lượm.
Nói đến bản chúng ta không thể không nói đến các khu rừng cấm và các
vực sông suối.
Người Thái có hai khu rừng cấm đặc biệt: Rừng làm nghĩa địa-rừng ma
cửa áo, dành cho các loại ma quỷ trên rừng núi, sông suối và là nơi linh hồn đất
bản trú ngụ. Nơi đây được người Thái coi là chốn linh thiêng.

Sông suối, khe rạch là nơi cung cấp đạm thuỷ sản cho con người, đặc biệt

các vũng nước sâu được coi là điểm thiêng. Nơi ở của thần Mẹ Nước (con rồng
hay con thuồng luồng) và hàng năm đồng bào dùng trâu để hiến tế (Thái Đen
dùng trâu đen, Thái Trắng dùng trâu trắng).
Bản người Thái có những thiết chế xã hội rất chặt chẽ:
Ruộng đất thuộc về bản mường-ruộng đất thuộc về công hữu của cộng
đồng, mọi người có quyền sử dụng chứ không có quyền chuyển nhượng hoặc
đổi bán.
Ai gánh vác công việc của bản thì được chia ruộng.
Bản chịu trách nhiệm phân phối quản lý ruộng đất, để quản lý và phân
chia đất bản bầu ra hai chức dịch: trưởng bản (nếu thuộc họ quý tộc gọi là tạo
bản, họ thường dân gọi là quan bản), ông phó (chủ yếu thuộc họ thường dân).
Bản vừa là đơn vị hành chính khép kín (tự cung tự cấp) vừa là đơn vị xã
hội đảm nhận chức năng văn hoá (mang đậm màu sắc tộc người).
Trưởng bản phải biết chữ (chữ Thái) nhằm đọc lại lịch sử văn hoá người
Thái
Mỗi bản đều có tục chọn linh hồn chủ bản, vào mỗi dịp cúng bản người ta
đem áo của người được chọn là chủ bản ra để cạnh mâm cúng.
Có thể nói đơn vị bản là chỗ dựa tin cậy cho các thành viên cả về kinh tế –
văn hoá - xã hội, các gia đình trong bản có công việc lớn thì mọi người trong
bản tự nguyện giúp sức, tiền của rất nhiệt tình, mọi người coi nhau như anh em.
Mang tính cộng đồng rất tự nhiên và vững trắc.
Với kinh tế nông nghiệp lúa nước thung lũng, mỗi gia đình hoặc mỗi bản
(kinh tế tự cung tự cấp) khép kín nhưng xã hội không ngừng phát triển và sự tập
hợp các bản lại thành một mường với người đứng đầu là trưởng bản.
Ban đầu sự hợp nhất các bản là nhu cầu cấp thiết hợp sức nhau lại để
chống chọi với sự uy hiếp của các mường khác xung quanh hay giặc, cướp hoặc
mưu đồ của chúa đất có thế lực trong vùng.
Những người đứng đầu các bản họp nhau thành Hội đồng kỳ mục (Hóng
thầu ké) của mường, người đứng đầu bản lớn nhất trở thành Tạo mường (chúa


đất). Các bản vẫn giữ quyền tự quản về kinh tế – xã hội – văn hoá riêng, nhưng
càng ngày chúa mường càng mạnh, về sau chính quyền mường chi phối toàn bộ
cơ cấu của bản, buộc các bản phải cung cấp vật lực cho mường.
Các mường có xu hướng hợp nhất tạo nên mường lớn (mường Hàng
Châu). Sự hợp nhất các mường có thể do tự nguyện hoặc do thôn tính lẫn nhau
giữa các chúa đất.
Mường người Thái có thành phần cư dân đồng nhất hoặc không đồng
nhất, cơ cấu tổ chức kinh tế – xã hội của mường cũng giống như bản.
Tổ chức xã hội trong mường ngay từ buổi ban đầu đã mang tính chất đa
tộc người.
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc cư trú xen kẽ (cài răng lược) với đặc
điểm chung sống hoà bình chung sống lẫn nhau, vì vậy các tổ chức mường về
mặt quản lý xã hội đã làm đơn vị phải quản lý xã hội đa cư dân, đa tộc người.
Trong thiết chế này, quan hệ đa số và thiểu số đã hình thành rất sớm, như
vùng Tây Bắc đa phần quý tộc Thái nắm quyền trong bộ máy hành chính của
mường, và phần lớn thung lũng do người Thái chiếm giữ, các dân tộc thiểu số đa
phần sống ở sườn núi hay đỉnh núi.
Văn hoá vật chất là một trong những trụ cột nâng đỡ thiết chế bản mường.
Ăn-ở-mặc là những giá trị văn hoá vật chất tiêu biểu cơ bản của nền kinh tế
nông nghiệp lúa nước thung lũng nói chung trong đó có đồng bào Thái.
Xã hội cổ truyền Thái dùng chủ yếu đồ nếp (lúa nếp) làm lương thực
chính trong bữa ăn, và lúa nếp được gieo trồng đại trà, các món ăn từ lương thực
của người Thái đa phần đều liên quan đến yếu tố nếp.
Người Thái chủ yếu xôi cơm nếp trong chõ, khi xôi chín được đổ ra quạt
nguội sau đó cho vào đồ đựng để ăn cả ngày.
Ngoài lương thực chính là lúa nếp người Thái còn trồng các cây lương
thực khác như khoai, ngô…đặc biệt có lúa tẻ nhằm dùng trong các tháng nước
hạ hoặc trao đổi với các tộc người khác.
Thực phẩm trong các bữa ăn chủ yếu là động vật thuỷ sản và một lượng
lớn rau xanh.


×