Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Nguyễn Văn Vĩnh với cuộc cải cách giáo dục đầu thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 55 trang )

I HC QUC GIA H NI
TRNG I HC KHOA HC X HI V NHN VN
KHOA LCH S
Báo cáo khoa học
Đề tài:
Nguyễn Văn Vĩnh với cuộc cải cách giáo dục đầu thế kỷ XX
Ging viờn hng dn: PGS.TS Phm Xanh
Sinh viờn thc hin: Nguyn Kim Dung
Lp : Lch s CLC K50
H Ni nm: 2008
M U
1
1.Mục đích của đề tài
“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” câu nói nổi tiếng của Thân Nhân
Trung trong bài sớ dâng lên vua Lê Thánh Tông, đã trở thành mục tiêu của nền
giáo dục Việt Nam trong mấy trăm năm qua. Sự nghiệp trồng người là mối quan
tâm lớn nhất, là nhân tố cơ bản quyết định sự hưng vong của cả một quốc gia
dân tộc. Gắn bó chặt chẽ với vận mệnh dân tộc, nền giáo dục Việt Nam đã
không ngừng sản sinh ra nhiều nhân vật kiệt suất đóng góp cho lịch sử nước
nhà. Thành quả to lớn đó là kết quả của những đóng góp không mệt mỏi của
nhiều cá nhân, nhiều thế hệ cho sự phát triển giáo dục đất nước.
Đề tài này, chúng tôi tập trung đề cập đến những đóng góp của Nguyễn
Văn Vĩnh- một học giả nổi tiếng của Việt Nam đầu thế kỷ XX, đối với nền giáo
dục nước ta. Thông qua đó, chúng tôi mong muốn tái hiện những điểm nổi bật
của nền giáo dục nước nhà đầu thế kỷ XX, một chặng đường đầy gian nan thử
thách với bản sắc văn hóa dân tộc, với những biến chuyển lớn lao về chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội. Là một mũi tiên phong của cuộc cách mạng văn hóa tư
tưởng đầu thế kỷ XX, giáo dục đã có những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc, trước hết là trên bình diện văn hóa tư tưởng. Đặt trên tầm
cao đó, chúng tôi muốn khẳng định vai trò của Nguyễn Văn Vĩnh – một trong
những người thủ xướng cuộc cách mạng giáo dục đầu thế kỷ XX.


2.Tính cấp thiết của đề tài
Khi bắt tay vào nghiên cứu đề tài này, chúng tôi thấy việc nghiên cứu về
một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử, nhất là một học giả lớn như Nguyễn Văn
Vĩnh đến nay không phải là điều mới. Nhưng, chúng tôi cũng nhận thức rằng :
đưa đề tài nay ra xem xét , bàn luận có một ý nghĩa lớn.
+ Thứ nhất, rất nhiều người nghiên cứu về Nguyễn Văn Vĩnh nhưng cho
đến nay chưa có đề tài cụ thể nào khai thác về những đóng góp của ông trên lĩnh
vực giáo dục. Một mũi tiến công mà ông ý thức rất sâu sắc về sức mạnh của nó
trong cuộc cải cách văn hóa đầu thế kỷ XX.
2
+ Thứ hai, Nguyễn Văn Vĩnh là một học giả uyên bác, có những đóng
góp to lớn cho lịch sử dân tộc, nhưng đến nay vẫn còn nhiều ý kiến phiến diện
về vai trò của ông do hoặc thiếu thông tin hoặc hiểu sai lệch.
+ Thứ ba, đặt trong tiến trình phát triển của nền giáo dục Việt Nam, thì
giai đoạn đầu thế kỷ XX có tầm quan trọng lớn lao của sự dứt bỏ nền giáo dục
cũ, hình thành nền giáo dục mới của dân tộc. Do đó, nghiên cứu về giáo dục
Việt Nam đầu thế kỷ XX là một mảnh đất rất màu mỡ và đặc sắc, một việc làm
hết sức có ý nghĩa.
+ Thứ tư, nghiên cứu về những đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh trên lĩnh
vực giáo dục sẽ cung cấp cho chúng tôi kiến thức và cái nhìn đầy đủ sâu sắc
hơn về cuộc tiếp xúc Đông – Tây diễn ra trong lịch sử dân tộc ta đầu thế kỷ XX.
+ Thứ năm, đầu thế kỷ XXI, chúng ta đang bước vào quá trình hội nhập
quốc tế với nhiều thử thách và vận hội lớn. Để đứng vững và phát triển, chúng ta
phải huy động hết mọi nguồn lực quốc gia kể cả những kinh nghiệm từ quá khứ.
Những bài học kinh nghiệm trong cuộc tiếp xúc Đông - Tây đầu thế kỷ XX sẽ
là những bài học quý giá cho dân tộc ta vận dụng để nhận ra mình, bảo vệ mình,
và tiến kịp bạn bè quốc tế. Trong đó, chúng ta đang ra sức cải cách nền giáo dục
đất nước và không thể thiếu những kinh nghiệm của cuộc cải cách giáo dục đầu
thế kỷ XX, càng không thể thiếu những con người như Nguyễn Văn Vĩnh…
3. Lịch sử nghiên cứu và các nguồn tư liệu

Có rất nhiều nghiên cứu trên nhiều phương diện khác nhau về Nguyễn
Văn Vĩnh. Như tác giả Hoàng Tiến với đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước
: “Chữ quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ viết đầu thế kỷ 20”. Cô Phạm Thị Thu
với luận văn thạc sĩ 1997 : “Một vài khía cạnh về lịch sử chữ Quốc ngữ qua khảo
sát Đông Dương Tạp Chí và Nam Phong Tạp Chí”. Ông Phan Khôi với “ Nguyễn
Văn Vĩnh trong con mắt tôi” 1936. Quốc Anh với “Nguyễn Văn Vĩnh trong con
mắt người cùng thời” (tạp chí Xưa và Nay số 27). Cô Nguyễn Thị Lệ Hà (2004)
với “ Nguyễn Văn Vĩnh với cuộc cổ vũ và truyền bá chữ quốc ngữ đầu thế kỷ
XX” ( tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 5). Và gần đây nhất là một khóa luận cử
3
nhân về những đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh với văn hóa Việt Nam. Cùng rất
nhiều những nghiên cứu khác. Nghiên cứu về Nguyễn Văn Vĩnh không phải là
một vấn đề mới nhưng không hề cũ.
Là một nhà văn hóa lớn của Việt Nam đầu thế kỷ XX, hoạt động của
Nguyễn Văn Vĩnh trải rộng trên rất nhiều lĩnh vực : báo chí, giáo dục , văn
chương, xuất bản, dịch sách, và cả kinh tế, chính trị... Do đó, phạm vi tư liệu về
ông rất rộng. Nghiên cứu những đóng góp của ông trên lĩnh vực giáo dục, cũng
có rất nhiều tài liệu có thể khai thác.
Đáng chú ý là: những tài liệu về hoạt động của các tổ chức do ông sáng
lập như Hội Trí Tri, Hội dịch sách…Đặc biệt, Nguyễn Văn Vĩnh là một dịch giả
nổi tiếng, người hoạt động nhiều nhất trên lĩnh vực báo chí và xuất bản, nên
chúng tôi tập trung nhiều nhất đến những bài viết của ông và nhiều học giả khác
cổ động cho giáo dục trên hai tờ báo : Đại Nam Đăng Cổ Tùng Báo và Đông
Dương Tạp Chí… Đấy là những tài liệu trực tiếp.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng hết sức chú ý đến những tài liệu gián tiếp: tài
liệu của những nhân vật cùng thời viết về Nguyễn Văn Vĩnh, những tài liệu
nghiên cứu của nhiều học giả thế hệ sau về ông. Đối với những tài liệu này,
chúng tôi cố gắng giữ con mắt khách quan khi xem xét, đánh giá.
4. Đối tượng nghiên cứu và những vấn đề đi sâu giải quyết của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài được xác định là tất cả các hoạt động của

Nguyễn Văn Vĩnh có liên quan đến cuộc cải cách giáo dục đầu thế kỷ XX.
Trong đó, chúng tôi tập trung vào khai thác các hoạt động của ông trong các tổ
chức giáo dục : Đông Kinh Nghĩa Thục, Hội Trí Tri, Hội dịch sách… và những
nội dung giáo dục trên hai tờ báo do ông làm chủ bút : Đại Nam Đăng Cổ Tùng
Báo và Đông Dương Tạp Chí. Chú ý đến những hoạt động của Nguyễn Văn
Vĩnh cổ vũ việc học chữ Quốc ngữ - phương tiện truyền thụ cơ bản của nền giáo
dục dân tộc mới…
Khi nghiên cứu, chúng tôi cố gắng làm nổi bật lên vai trò của ông trong
cuộc cải cách giáo dục đầu thế kỷ XX, với tư cách là người khởi xướng, người
4
hoạt động tích cực và có nhiều đóng góp nhất. Ông là một trí thức Tây học tài
hoa muốn hiện đại hóa nền giáo dục nước nhà theo Âu Tây tư tưởng, đồng thời
là con người thiết tha với những giá trị truyền thống nhưng cũng vô cùng nhạy
bén với thời cuộc. Ông cũng là người có công đầu trong việc tạo nên mối quan
hệ chặt chẽ và phát huy vai trò của báo chí trong cải cách giáo dục.
5.Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để nghiên cứu đề tài này một cách hiệu quả nhất, chúng tôi đã sử dụng
kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như: phương pháp lịch sử,
phương pháp logic, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh .v.v…
6. Kết quả và những đóng góp của đề tài
Mặc dù còn nhiều hạn chế trong quá trình nghiên cứu, nhưng cơ bản
chúng tôi đã cố gắng tập hợp nhiều tài liệu về những đóng góp của Nguyễn Văn
Vĩnh trên lĩnh vực giáo dục, và đưa ra những nhận định khách quan, khoa học
nhất về vai trò của ông trên lĩnh vực đó.
Thông qua đề tài này, chúng tôi mong muốn đóng góp thêm vào việc tái
hiện lại cuộc cải cách giáo dục đầu thế kỷ XX. Đồng thời, đánh giá lại vai trò,
ảnh hưởng của một số nhân vật lịch sử còn nhiều tranh cãi, trong đó có Nguyễn
Văn Vĩnh. Chúng tôi cũng mong muốn rằng: đề tài này sẽ góp thêm một cái
nhìn mới mẻ, chi tiết, đầy đủ hơn về học giả này.
7. Bố cục của đề tài

Đề tài có bố cục như sau :
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1 : KHÁI LƯỢC CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA
NGUYỄN VĂN VĨNH
1.1. Cuộc đời
1.2.Sự nghiệp
CHƯƠNG 2 : NGUYỄN VĂN VĨNH VỚI CUỘC CẢI CÁCH GIÁO
DỤC ĐẦU THẾ KỶ XX
2.1. Nguyễn Văn Vĩnh - Tấm gương về tinh thần tự học
5
2.2. Quan điểm giáo dục của Nguyễn Văn Vĩnh
2.3. Các biện pháp thực hiện cải cách giáo dục
2.3.1. Truyền bá sâu rộng chữ Quốc ngữ - phương tiện truyền thụ cơ bản
của giáo dục mới
2.3.2. Thành lập và tham gia vào hoạt động của các tổ chức giáo dục –
trung tâm tuyên truyền, ứng dụng và phổ cập mô hình giáo dục mới.
2.3.3. Sử dụng báo chí như một công cụ đắc lực cho tuyên truyền, cổ động
giáo dục Quốc ngữ đồng thời phổ biến nội dung và phương pháp học mới
KẾT LUẬN
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ
nhiệt tình của các cán bộ Thư viện Khoa học xã hội, Thư viện Quốc gia, Thư viện
Đại học Quốc gia, và Thư viện Khoa Lịch sử - Trường đại học Khoa học xã hội
và Nhân văn, cùng các thầy cô, gia đình và bè bạn. Chúng tôi xin chân thành
cảm ơn !
Chúng tôi vô cùng cảm ơn PGS.TS. Phạm Xanh đã tận tình hướng dẫn và
giúp đỡ chúng tôi hoàn thành đề tài này!
CHƯƠNG 1. KHÁI LƯỢC CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA
NGUYỄN VĂN VĨNH
1.1.Cuộc đời
Nguyễn Văn Vĩnh sinh ngày 30 tháng 4 năm Nhâm Ngọ ( tức ngày 15/

6/1882) tại số nhà 46, phố Hàng Giấy, Hà Nội, hiệu là Tân Nam Tử.
6
Ông sinh ra trong cảnh loạn lạc. Hà Nội vừa bị thực dân Pháp chiếm
đóng trước đó ít ngày. Hai năm sau, triều đình Huế kí hiệp ước Pa tơ nốt đầu
hàng, công nhận sự thống trị của thực dân Pháp trên đất nước ta. Việt Nam từ
một nước phong kiến độc lập trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Mười bốn năm sau, phong trào Cần Vương – phong trào đấu tranh vũ trang
giành độc lập do các văn thân sĩ phu yêu nước lãnh đạo bị dìm trong bể máu.
Đến đây, hệ tư tưởng phong kiến đã chính thức cáo chung trong cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc. Tiếp đó, thực dân Pháp dáo diết tiến hành cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ nhất (1897 – 1914). Cuộc khai thác thuộc địa đã làm cho cơ
cấu kinh tế xã hội Việt Nam biến đổi sâu sắc. Chế độ thực dân Pháp đã được
thiết lập trên toàn cõi Việt Nam. Xã hội Việt Nam đang đứng trước một cuộc
tiếp xúc Đông – Tây rộng lớn, toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế,
văn hóa, xã hội. Thời đại đầy biến động đó ít nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của
ông.
Làng Phượng Vũ, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Nội ( bây giờ là huyện Phú
Xuyên tỉnh Hà Tây) quê gốc của ông là một vùng chiêm trũng nghèo khổ, quanh
năm ngập nước. Nhưng đây cũng là vùng quê nổi tiếng hiếu học với nhiều người
đỗ đạt cao.
Do cuộc sống nghèo khổ, bố mẹ phải bỏ ra Hà Nội kiếm sống, ở nhờ nhà
bà Nghè Đại Gia, tại số 46 phố Hàng Giấy. Phố này, hồi đó là một phố Cô đầu
nổi tiếng của Hà Nội, nơi mà khách làng chơi Tây, Tầu lui tới tấp nập, đồng thời
cũng là nơi mà những người cuối cùng của đảng Văn Thân chọn làm nơi hoạt
động chống Pháp.
Ông sinh ra và lớn lên trên đất Hà Thành văn vật, trong lúc Kinh đô cổ
đang chuyển mình thành một đô thị phương Tây hiện đại. Năm 1888, Hà Nội
được Pháp công nhận là thành phố loại I và trở thành Thủ phủ của Đông Dương.
Hà Nội trở thành trung tâm của những biến chuyển kinh tế, văn hóa, xã hội của
nước Việt Nam thuộc địa. Năm 1902, cùng với sự hoàn thành tuyến đường sắt

Hà Nội - Lạng Sơn, cầu Pôn Đume ( Cầu Long Biên), là việc khánh thành Nhà
7
Đấu Xảo,Trường Đại học Đông Dương thành lập vào năm 1906. Năm 1911,
Nhà Hát Lớn được hoàn thành, mô phỏng nhà hát Quốc Gia Pháp. Rạp chiếu
phim Eden cũng được xây xong và hoạt động vào năm 1917.v.v…Ngân hàng
Đông Dương thành lập và đặt trụ sở tại Hà Nội. Đô thị cổ kính với những
phường hội thủ công mang dấu ấn đậm nét của các làng nghề được thay đổi dần
thành một thành phố hiện đại với nhiều ngành kinh tế mới như điện, giao thông,
ngân hàng, dịch vụ .v.v… Những con phố cổ được đổi sang những cái tên Pháp,
bán hàng hóa Pháp; những đường phố mới to đẹp, thẳng tắp với những ngôi nhà
theo kiến trúc Pháp cũng lần lượt được xây dựng quanh hồ Hoàn Kiếm. Người
Pháp cũng ào ạt sang sinh sống ở Hà Thành. Họ lập ra làng Tây, theo sau đó là
lối sống Tây, văn hóa Tây. Hàng loạt các khu công sở, khu biệt thự, khu vui
chơi được ra đời. Người Hà Nội có thêm lối sống thị dân mới. Xe đạp, xe ô tô đi
trên đường phố. Nhiều người ăn mặc quần áo Tây, dùng hàng Tây, những đồ gì
lạ người ta cũng gán cho chữ “đồ Tây”. Trường học kiểu Pháp thành lập, báo chí
Pháp được phát hành, sách phương Tây tràn ngập phố phường Hà Nội, đến nỗi
mà bán sách thành một nghề, các phố bán sách mọc lên như phố Hàng Gai ; làng
Phú Đôi, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây chuyên làm nghề bán sách.v.v…
Chuyển mình mạnh mẽ với đời sống mới nhưng mạch ngầm văn hóa cố đô vẫn
âm thầm chảy trên đất Hà Thành. Hà Nội đầu thế kỷ XX không chỉ là thủ phủ
của chính quyền Thực dân, mà còn là trung tâm tiếp xúc văn hóa phương Tây ở
Việt Nam, nơi mà mọi sự va cham giữa hai nền văn minh phương Đông và
phương Tây đều tác động mạnh mẽ tới từng con người sống trong không gian
văn hóa đó.
Nguyễn Văn Vĩnh lớn lên trên kinh đô ngàn năm văn hiến, kế thừa
truyền thống hiếu học của quê hương, có sẵn trong mình ý chí vươn lên thoát
khỏi cuộc sống nghèo khổ, lại được tác động không ngừng bởi các yếu tố văn
hóa phương Tây đang du nhập ồ ạt cùng những biến chuyển của Hà Thành. Tất
cả đã tác động không nhỏ đến nhân cách và suy nghĩ của Nguyễn Văn Vĩnh, lý

giải phần nào tư tưởng canh tân sau này của ông.
8
Cuộc đời Nguyễn Văn Vĩnh là sự nỗ lực phi thường vươn lên học thức,
địa vị xã hội, sự nghiệp báo chí và hết tâm sức cổ động cho truyền bá chữ Quốc
ngữ, đổi mới giáo dục, canh tân đất nước. Tuy vậy, sống trong buổi giao thời
đầy biến động, lại hoạt động trên lĩnh vực hết sức nhạy cảm là báo chí, từng có
sự nghiệp chính trị nhất định trong chính quyền Pháp, hướng theo Âu Tây tư
tưởng… nên không khỏi có những những điều tiếng khen chê về ông. Nhưng dù
thế nào, cũng không thể phủ nhận được những đóng góp to lớn của Nguyễn Văn
Vĩnh cho nền văn hóa Việt Nam trong đó có giáo dục.
Ta hãy lắng nghe những người cùng thời nói về Nguyễn Văn Vĩnh.
Đây là lời điếu của Trần Tuấn Khải, một lời điếu hàm xúc, như ẩn chứa
cả cuộc đời lắm trầm luân và nhiều định kiến, nhưng vô cùng đáng quý của
Nguyễn Văn Vĩnh :
“ Mấy mươi năm xoay trở một trò đời, nào khi vào nghĩa đảng Đông
Kinh, lúc từ huy chương Bắc Đẩu, khi hò hét Âu Tây tư tưởng, lúc giảng diễn
Niên lịch thông thư, vang lừng giọng nói câu văn, nóng lạnh trái tim, đậy nắp
quan tài chưa hẳn định.
Bao nhiêu bạn đi về cùng lớp trước, nay người đã thượng thư tổng đốc, kẻ
còn Tân Đảo, Côn Lôn, người ca tụng Pháp- Việt đề huề, kẻ theo đuổi quân dân
hiến pháp, rộn rịp đường ngang lối dọc, sang hèn cuộc thế, trông chừng dân
nước vẫn đang suy.”
Bậc trí nhân nỗi đời đầy những trái ngang. Còn ông Phan Khôi có đăng
bài bình luận “Ông Nguyễn Văn Vĩnh trong con mắt tôi” trên tuần báo sông
Hương số 1 ngày 1/8/1936, 3 tháng sau ngày ông Vĩnh mất : “ Cả cuộc đời ông
Vĩnh có hai việc mơ hồ, sự thực nó thế nào chỉ một mình ông biết , đã rước về
cho ông lời bình phẩm khắt khe ấy. Tức là giữa cái đảng họa Đông Kinh Nghĩa
Thục năm 1908 mà ông được thoát, và sau cuộc tự trị năm 1918 mà ông “có
câu”. Xin làm rõ ý của ông Phan Khôi. Hai sự việc mơ hồ trong đời ông Nguyễn
Văn Vĩnh là : Năm 1907, ông tham gia thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục. Khi tổ

chức này bị đàn áp, tất cả những người có liên quan đều bị giết hoặc bị đầy ra
9
Côn Đảo, trong đó có Phan Châu Trinh. Còn Nguyễn Văn Vĩnh và Nghiêm
Xuân Quảng thì không. (sau này Nghiêm Xuân Quảng còn được làm tổng đốc)
Sự việc thứ hai là : Sau đại chiến thế giới thứ nhất ( 1914 – 1918), các nước Đế
quốc thắng trận họp hội nghị tại Vec xây để phân chia quyền lợi sau chiến tranh.
Tổng thống Mỹ Uyn sơn đưa ra chính sách đối ngoại 14 điểm trong đó có đề cập
đến quyền tự quyết cho các nước thuộc địa và phụ thuộc. Ở Pháp, Nguyễn Ái
Quốc đã thay mặt nhân dân Việt Nam gửi đến hội nghị bản yêu sách 8 điểm đòi
quyền tự quyết cho dân tộc Việt Nam. Thì trong nước, ông Nguyễn Văn Vĩnh
cũng gửi yêu sách đề nghị quyền tự do dân chủ cho thực dân Pháp. Ông Nguyễn
Ái Quốc lập tức bị thực dân Pháp săn đuổi, còn ông Nguyễn Văn Vĩnh không
những không bị đàn áp mà còn được chính phủ Pháp ngợi khen.
Vậy ta nhìn nhận sự việc này như thế nào?
Đối với sự việc thứ nhất, ta có thể lý giải nhờ lời của cụ Hoàng Đạo Thúy
- một chí sĩ cùng thời với Nguyễn Văn Vĩnh : “Dự vào việc lập trường Đông
Kinh Nhĩa Thục mà không ra mặt, đến lúc bị khủng bố thì được Schneider che
chở”. Schneider là một người Đức, ký với chính phủ Pháp nhận thầu các công
việc in ấn ở Đông Dương. Ông này quen biết Nguyễn Văn Vĩnh từ năm 1906, và
rất quý ông. Schneider chính là chủ hai tờ báo Đại Nam Đăng Cổ Tùng Báo và
Đông Dương Tạp Chí do Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút.
Còn sự việc thứ hai, chúng ta đều biết rằng đó là âm mưu thâm độc của
thực dân Pháp muốn lợi dụng Nguyễn Văn Vĩnh để ru vỗ đồng bào trong nước.
Âm mưu này chúng không chỉ thực hiện với ông mà với ngay cả cụ Phan Châu
Trinh - một nhà cách mạng khi chúng dự định đưa cụ về nước năm 1924. Việc
làm của Nguyễn Văn Vĩnh đã nhóm lên một ngọn lửa nhỏ, dóng lên một tiếng
nói lớn đòi tự do dân chủ cho dân tộc Việt Nam.
Và chính ông Phan Khôi cũng khẳng định rằng : “ nói tự trong tim mình
ra, tôi có phục ông Nguyễn Văn Vĩnh thật, tôi phục ông ở chỗ có chí tự lập, ở chỗ
không mộ hư vinh”; và với ông, ông Nguyễn Văn Vĩnh là một kẻ sĩ hào hiệp, có

10
tấm lòng cao cả; với những đóng góp của mình, ông Nguyễn Văn Vĩnh xứng
đáng được ghi nhận.
Còn cụ Phan Bội Châu – ngôi sao sáng trên bầu trời cách mạng Việt Nam
đầu thế kỷ XX thì điếu ông rằng : “Tài bác học nổi trong hai nước, đàm ngôn
luận phất cờ, làng văn mở mặt, công nghiệp tuy còn lỡ dở, thanh âm từng bạt gió
Ba-lê”.
Nguyễn Văn Vĩnh là người có tư tưởng cộng hòa, ông chống vương
quyền đến triệt để. Ông từ chối lạy Khải Định lúc vua ngự ra Bắc, lại từ chối
luôn cả huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh do chính quyền Pháp ban tặng. Ông là
người hết lòng vì dân vì nước. Thế cho nên, đến cuối đời, 1936, do sức ép của
thức dân Pháp và những gánh nặng của cuộc khủng hoảng kinh tế, ông bị phá
sản.Thực dân Pháp bắt ông phải lựa chọn : hoặc cam tâm vào Huế làm quan
Nam triều thành tay sai cho Pháp; hai là, chịu phá sản. Ông đã kiên quyết chọn
con đường thứ hai : từ bỏ tất cả để sang vùng rừng rậm của nước Lào tìm vàng,
mong cứu vãn tình thế trong sự tuyệt vọng. Để rồi vào ngày 1/5/1936, ông ốm
rồi mất đột ngột trên một con thuyền độc mộc xuôi dòng Sê-băng-ghi, bản Ban-
san-khúp (Lào) không có một người thân bên cạnh, không một xu dính túi , chỉ
một quản bút trên tay khi ông đang viết dở thiên ký sự “ Một tháng với những
người tìm vàng’ định gửi về đăng trên tạp chí L’An nam Nouveau. Ông mất đúng
vào ngày Quốc tế Lao Động 1/5, khép lại cuộc đời một con người đã lao động
không mệt mỏi cho sự phát triển của nền văn hóa nước nhà. Có điều không ngờ
là : một chủ bút lừng danh, nắm trong tay các tờ báo thuộc loại lớn nhất đương
thời, với những bất động sản không nhỏ giữa Hà Nội, là nghị viên của nhiều hội
đồng dân biểu, lại bị một kết cục buồn như thế ! Tất cả xuất phát từ lí do chính
trị của ông không chấp nhận làm tay sai cho Pháp. Điều này được làm rõ hơn
trong bức thư cuối cùng ông gửi cho người vợ nơi quê nhà trước khi mất đã dự
báo những điều không lành sẽ xảy ra, dường như đang có một thế lực nào đó đe
dọa ông.
11

Ta thấy rằng, Nguyễn Văn Vĩnh là một người yêu nước chân chính, hết
lòng với quốc gia dân tộc. Đánh giá đúng về nhân cách cao cả của Nguyễn Văn
Vĩnh mới thấy hết được tầm cỡ những đóng góp của ông với nền văn hóa Việt
Nam.
1.2. Sự nghiệp
Tháng 1 năm 1896, sau khi tốt nghiệp thủ khoa trường Thông Ngôn
Pháp, ông trở thành thông ngôn cho Tòa sứ Lào Cai khi mới 14 tuổi. Tiếp đó,
ông lần lượt làm thông ngôn cho Tòa sứ Hải Phòng, thông ngôn cho tòa sứ Bắc
Giang, thông ngôn cho Tòa Đốc lý Hà Nội. Ông có chân trong Hội đồng dân
biểu Bắc Kỳ, Hội đồng kinh tế tài chính Đông Dương. Hai lần ông được nhận
huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh của chính phủ Pháp nhưng đều từ chối.Như vậy,
Nguyễn Văn Vĩnh có một sự nghiệp chính trị nhất định trong hệ thống chính
quyền thuộc địa Pháp. Đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến những đánh giá
khắt khe về ông của một số người.
Năm 17 tuổi, ông bước vào nghề làm báo với việc viết các tin ngắn cho
các báo và bắt đầu dịch thơ ngụ ngôn LaFontain.
Năm 25 tuổi, ông được sang thăm Pháp, chứng kiến tận mắt nền văn
minh của một nước phương Tây tiên tiến. Về nước, ông quyết định thôi ngạch
công chức để chuyển sang nghề làm báo và in ấn.
Năm 1907, ông tham gia thành lập Hội Trí Tri, Hội dịch sách, Hội giúp
đỡ người Việt sang Pháp học, thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục và giảng dạy tại
trường.
Cùng thời gian này,ông làm chủ bút tờ Đại Nam Đăng Cổ Tùng Báo.
Tiếp đó là các tờ Lục Tỉnh Tân Văn, Đông Dương Tạp Chí, Trung Bắc Tân Văn,
Học báo, Notre journal, Notre revue và L’Annam nouveaux…
Ông là dịch giả nổi tiếng, đã dịch rất nhiều sách phổ thông bằng tiếng
Pháp ra chữ Quốc ngữ. Ông dịch rất thành công thơ ngụ ngôn LaFontain, một số
tiểu thuyết và kịch nổi tiếng của Pháp như “Những kẻ khốn nạn”, “ Ba người
lính ngự lâm pháo thủ”.v.v…
12

Ông nắm trong tay nhà xuất bản Âu Tây tư tưởng, đã in rất nhiều tác
phẩm có giá trị như : Truyện Kiều, Tam quốc diễn nghĩa, một số bộ sử cổ của
nước ta.v.v…
Đồng thời, ông cũng được coi là một đại gia trong lĩnh vực kinh doanh in
ấn và báo chí.
Ông là một trong những người có công đầu trong việc truyền bá, phát
triển chữ Quốc ngữ ở Việt Nam đầu thế kỷ XX; là một trong những người có
đóng góp nhiều nhất cho công cuộc hiện đại hóa nền văn hóa nước nhà.
13
CHƯƠNG 2. NGUYỄN VĂN VĨNH VỚI CUỘC CẢI CÁCH GIÁO
DỤC ĐẦU THẾ KỶ XX
2.1. Nguyễn Văn Vĩnh - tấm gương về tinh thần tự học
Nguyễn Văn Vĩnh đã lao động không mệt mỏi cho cuộc cải cách giáo dục.
Không những thế, ông còn đóng góp vào cuộc vận động Tân học tấm gương học
tập của chính mình. Do đó, ông đã tạo nên ảnh hưởng to lớn trong phong trào từ
chính bản thân mình, xứng đáng là người chủ xướng cuộc hiện đại hóa nền giáo
dục Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Nguyễn Văn Vĩnh không sinh ra trong một gia đình quyền quý nào cả.
Ông là con cả trong một gia đình nông dân nghèo có tới 7 người con. Do nghèo
khổ, bố mẹ phải bỏ quê ra Hà Nội ở nhờ nhà người bà con để kiếm sống. Trong
hoàn cảnh đó, việc học hành của Nguyễn Văn Vĩnh không được đến nơi đến
chốn. Nho học chỉ gọi là học cho có. Theo Pháp văn thì nhà nghèo không có
tiền. Nhưng từ hoàn cảnh khốn khó đó lại tạo cho ông một cơ hội tiếp xúc với
nền học vấn Pháp. Khi ông 8 tuổi, ông được bố xin cho làm chân kéo quạt ở
Trường Thông Ngôn của Pháp mở ở đình Yên Phụ, Hà Nội; mục đích là để kiếm
thêm chút tiền cho sinh hoạt gia đình,vả lại việc kéo quạt cũng không mấy vất
vả với một cậu bé 8 tuổi. Trường Thông Ngôn là trường đào tạo công chức cho
bộ máy cai trị Pháp. Trường này dạy chủ yếu theo phương pháp truyền khẩu,
dạy tiếng Pháp và cả dạy chữ Quốc ngữ ( Hồi đó, ở miền Bắc chữ này mới chỉ
được dùng trong phạm vi giáo hội ). Với một cậu bé bình thường, mọi chuyện có

lẽ chỉ có thế. Nhưng Nguyễn Văn Vĩnh với lòng hiếu học, đã biến thành cơ hội
học tập của mình. Nhưng có lẽ, lúc bấy giờ cái chí hướng học tập ấy mới chỉ
hiện hình ở sự ham thích của một cậu bé 8 tuổi. Cậu bé kéo quạt ngồi ở cuối lớp,
vừa kéo quạt, vừa say mê nghe giảng. Sự theo dõi chăm chú của chú đã lọt vào
mắt thầy D’ Argence ( vốn là hiệu trưởng của trường). Khi lớp học mãn khóa
(1893), thầy cho Vĩnh thi thử. Không ngờ chú đậu thứ 12 trong số 40 học sinh.
Ông thầy bèn cho chú học bổng và nhận chú làm học sinh chính thức của khóa
học tiếp theo. Có thể nói, được vào học tại trường Thông Ngôn là bước ngoặt
14
đầu tiên, lớn nhất trong cuộc đời ông. Năm 1896, Nguyễn Văn Vĩnh đỗ thủ khoa
khóa đó, được tuyển vào làm thông ngôn cho tòa sứ Lào Cai và bắt đầu cuộc đời
công chức khi mới 14 tuổi. Như vậy, mới 14 tuổi, Nguyễn Văn Vĩnh đã có trong
mình vốn Nho học, thông thạo tiếng Pháp và biết về chữ Quốc ngữ. Tất nhiên là
, lúc này so với chữ Pháp thì chú biết về chữ Quốc ngữ ít hơn. Nguyễn Hiền đỗ
Trạng Nguyên năm 14 tuổi - trở thành thần đồng của Việt Nam. Nguyễn Văn
Vĩnh chưa hẳn là một thần đồng, nhưng đã sớm bộc lộ tư chất thông minh. Nhà
văn Đỗ Lai Thúy đã gọi ông là “ một người trưởng thành sớm” bởi sự chín muồi
trong tài năng của ông; đó không chỉ là thiên bẩm mà còn là cả một quá trình nỗ
lực phi thường.
Năm 1896, Vĩnh làm thông ngôn cho tòa sứ Lào Cai tại vùng đất giàu tài
nguyên, là đối tượng vơ vét khoáng sản của Pháp, lại giáp ranh với Trung Quốc.
Ông ra sức học hỏi để mở mang kiến thức.
Thời gian 1897 – 1901, Vĩnh về làm thông ngôn cho tòa sứ Hải Phòng.
Đây là vùng đất cảng đang phát triển sôi động với sự chuyển mình của kinh tế
thuộc địa, sự giao thương với nước ngoài : Anh, Trung Quốc, Pháp .v.v… và sự
tiếp xúc văn hóa Đông – Tây mạnh mẽ. Tại đây, Nguyễn Văn Vĩnh đã bồi đắp
cho mình một khối lượng lớn tri thức. Qua công việc thông ngôn của mình,
Nguyễn Văn Vĩnh được tiếp xúc với rất nhiều thương gia và thủy thủ Anh,
Pháp, Hoa. Cậu đã học thêm tiếng Anh và tiếng Hoa để tiện làm việc. Chỉ sau 3
tháng, cậu đã dịch được hai thứ tiếng trên.

Không chỉ học thêm ngoại ngữ, Nguyễn Văn Vĩnh còn tìm mọi cách để
bồi đắp kiến thức cơ bản cho mình. Một câu chuyện cảm động như sau : Một
thủy thủ Pháp gạ bán cho cậu một bộ sách để tự học chương trình trung học phổ
thông với giá bằng nửa tháng lương của cậu. Món tiền tuy là rất lớn với cậu,
nhưng cậu đã dốc túi để mua lấy sách. Có được sách quý, cậu vùi đầu vào tự
học. Trong khoảng 2 năm, cậu đã lập danh mục những sách cần mua để học
thêm. Sau 5 năm làm việc ở Hải Phòng, cậu đã dành dụm được cả một hòm
sách, tài sản quý giá mà đi đâu cậu cũng mang theo.
15
Tại Hải Phòng, Nguyễn Văn Vĩnh cũng đặt những bước đi đầu tiên cho
sự nghiệp báo chí và dịch thuật. Ông tập viết báo bằng Pháp văn, ban đầu là
những mẩu tin nhỏ cho báo “Courrier de Hải Phòng” và trở thành cộng tác viên
Việt Nam đầu tiên của tờ báo này. Ông cũng bắt đầu dịch những bài thơ ngụ
ngôn của La Fontaine, truyện của Perrault .v.v… từ tiếng Pháp ra Quốc ngữ.
Lúc này, ông mới 17 tuổi.
Cùng thời gian, ông nhận được một học bổng sang Pháp học ở trường
Đại học Sư phạm, nhưng ông đã từ chối với lí do mẹ đã mất, là con cả trong nhà,
phải chuẩn bị lập gia đình để mau có cháu cho bố đã nhiều tuổi. Sẵn sàng từ bỏ
một cơ hội mà nhiều người mơ ước cho thấy Nguyễn Văn Vĩnh trước hết là một
người phương Đông, và ông có được lòng tự tin, tinh thần tự học rất cao.
Không tiếp nhận văn hóa một chiều, khi làm thông ngôn ở tòa sứ Bắc
Giang 1902 – 1905, Nguyễn Văn Vĩnh cùng Phạm Huy Hồ, Trần Tấn Hằng
thành lập tổ tự học ba người nghiên cứu về sách Tân thư của Trung Quốc, tìm
hiểu tình hình cách mạng Trung Quốc, về gốc rễ của chữ Nôm và về văn hóa
của dân tộc Việt Nam.
Năm 1906 diễn ra một bước ngoặt lớn thứ hai trong cuộc đời Nguyễn
Văn Vĩnh. Ông được sang Pháp dự hội chợ ở Mác xây. Tại đây, ông chứng kiến
nền văn minh Pháp. Với vốn tri thức tự học khá uyên bác trong 17 năm, ông lập
tức nhận thấy sức mạnh của nước Pháp bắt nguồn từ sức mạnh của văn minh,
một dân tộc yếu là một dân tộc thất học. Ông nhận ra tầm quan trọng của việc

cải cách giáo dục, nâng cao tri thức cho nhân dân. Cũng từ đây, canh tân đất
nước, cải cách giáo dục được ông đặt lên hàng đầu, trở thành “ niềm vui thích
êm ái nhất” , rồi thành sự nghiệp cả đời ông. Ông viết : “ … Rằng tôi sẽ là
người đầu tiên để làm cái công việc đó để mà gây lấy một tương lai tốt đẹp đó,
tôi sung sưóng vô cùng. Cha mẹ, anh em, vợ con, tất cả đều phai nhòa trước tư
tưởng đó để nhường chỗ cho lòng vui thích êm ái nhất…” ( thư gửi về cho bạn,
1906). Lúc này, Nguyễn Văn Vĩnh tròn 25 tuổi.
16
Những năm sau cho đến cuối đời, ông vẫn không ngừng học tập để nâng
cao kiến thức. Ông trở thành một học giả uyên bác, là trung tâm của phong trào
cải cách văn hóa đầu thế kỷ XX. Ông sử dụng thông thạo tiếng Pháp, tiếng Hoa,
tiếng Anh, và am hiểu sâu sắc về chữ Quốc ngữ. Ông là một nhà báo, một dịch
giả tài năng, một nhà kinh doanh, một chủ xuất bản lớn. Tất cả là kết quả của
quá trình tự học và phấn đầu không mệt mỏi. Ông là một tấm gương lớn mà bất
cứ người học trò nào cũng cần phải noi theo.
Tất nhiên, cũng cần nhận thấy rằng, lúc đó không chỉ có Nguyễn Văn
Vĩnh là người Việt Nam duy nhất hiếu học và có tham vọng đổi mới văn hóa
dân tộc, mà có rất nhiều người Việt Nam cũng có được cái tinh thần quý báu đó.
Nguyễn Văn Vĩnh trước hết là một trong số ít những người may mắn hơn, có
điều kiện được tiếp xúc đầy đủ với văn minh Pháp, và có khả năng kết hợp
những kiến thức của văn minh phương Tây với tảng nền văn hóa Á Đông để
hoàn thiện thêm tri thức của bản thân mình, và luôn có khát khao phổ biến
những tri thức tiến bộ đó cho đồng bào, tăng cường sức mạnh cho dân tộc.
Ông xứng đáng là một trong những người đứng đầu phong trào cải cách
giáo dục đầu thế kỷ XX bởi tài năng, sự uyên bác và nghị lực phi thường của
mình. Quá trình tự học đã giúp ông có cái nhìn đúng đắn trong tiếp nhận tư
tưởng, nội dung giáo dục mới và đưa ra được các phương pháp giáo dục phù
hợp. Đổi mới mà không xa rời, đi ngược lại truyền thống văn hóa. Ông là người
ý thức rõ rệt về bản sắc văn hóa dân tộc. Ông đã kế thừa truyền thống hiếu học
ngàn đời của dân tộc Việt Nam.

2.2. Quan niệm giáo dục của Nguyễn Văn Vĩnh
Trong điếu văn của ông Phan Trần Chúc, đại diện báo giới Bắc Việt có
đoạn đánh giá Nguyễn Văn Vĩnh :
“ Sinh về cuối thế kỷ thứ 19, Nguyễn tiên sinh trưởng thành vào lúc trên
dải đất Đông Dương vừa im tiếng súng của người Pháp với người Nam. Cũng
như tất cả các nước bị chinh phục, xã hội ta về thời đó đã đổ nát hoàn toàn. Con
thuyền quốc gia phút chốc mất hẳn tay lái, chơi vơi ở giữa trận phong ba. Phái
17
trí thức, một phần tự nhận có cái trách nhiệm phải bênh vực cho đất nước thì chủ
trương cuộc phấn đấu đến kỳ cùng. Những cuộc bạo động đó đưa người ta đến
một kết quả rất khốc liệt là thua và chết. Một phái nữa tin ở hai chữ “vận nước”
bó tay sống trong sự thất vọng, chịu chết về tinh thần. Phái thứ ba đã uốn mình
theo chủ nghĩa chiều đời để bảo toàn sự no ấm trong lúc ngót hai mươi triệu
đồng bào bị điêu đứng vì thời thế.
Nguyễn tiên sinh đứng hẳn ra ngoài ba hạng ấy. Nhân đọc các sách Thái
tây mà soi gương nước Nhật Bản, tiên sinh cũng nhận thấy như Từ Dũ Thái Hậu
“ Nước yếu tất phải theo nước mạnh” và sự yếu mạnh, không phải chỉ ở khí giới,
tiền tài. Trên những cái đó, cái thế lực của quốc gia có căn cứ vào một điều quan
hệ hơn nữa : dân trí. Cho nên muốn cho nước mạnh, cần phải mưu việc giáo dục
cho bình dân, gieo cái tinh thần quốc gia vào khối óc phái bình dân,và làm cho
phái bình dân thâu thái được những tư tưởng thích hợp với thời đại. Theo tiên
sinh, thì nước không phải là một người hay của riêng bọn người. Nước là của
chung tất cả mọi người sinh ra trên dải đất này…”
Phát triển giáo dục, cải cách đất nước có thể là cách riêng mà Nguyễn
Văn Vĩnh lựa chọn để tìm ra một con đường phục hưng dân tộc, giải phóng đất
nước.
Phan Trần Chúc đã nêu được một số điểm cơ bản trong quan niệm giáo
dục của Nguyễn Văn Vĩnh, trước hết là về mục đích, đối tượng và tư tưởng
chính trong giáo dục.
Vốn là một trí thức tiêu biểu đầu thế kỷ XX, nhận định của Phan Trần

Chúc đã thể hiện thái độ của một bộ phận trí thức đương thời với quan điểm
giáo dục của Nguyễn Văn Vĩnh. Chính nhờ sự ủng hộ của đội ngũ này mà
Nguyễn Văn Vĩnh cùng một số học giả khác như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn
Tố… đã dấy lên phong trào cải cách giáo dục rộng lớn trong cả nước, thu hút
đông đảo mọi tầng lớp nhân dân đóng góp cho sự nghiệp giáo dục. Một không
khí sôi nổi chưa từng có trong lịch sử giáo dục Việt Nam.
18
Xét về quy mô, tính chất, và kết quả đạt được, cuộc cải cách giáo dục đầu
thế kỷ XX xứng đáng là cuộc cách mạng trên lĩnh vực giáo dục. Nó là sự bùng
nổ của cuộc đấu tranh âm thầm suốt 1000 năm chống những tiêu cực của nền
giáo dục Nho học, là sự thức dậy của ý thức dân tộc, của khát vọng đưa con
người Việt Nam tiến kịp nhân loại. Nó đã thay thế nền học vấn cũ đã lỗi thời
bằng nền học vấn mới tiến bộ trên tất cả mọi phương diện : chữ viết, nội dung,
phương pháp và đối tượng giáo dục. Với tư cách là người khởi xướng, quan
điểm giáo dục của Nguyễn Văn Vĩnh có tác dụng lớn trong phát huy ảnh hưởng
của ông với các tầng lớp xã hội tham gia vào cải cách giáo dục, đồng thời định
hướng cho phong trào cải cách. Đây là đóng góp đầu tiên, quan trọng cho cuộc
cải cách giáo dục đầu thế kỷ XX.
Quan điểm giáo dục của Nguyễn Văn Vĩnh được thể hiện trên mấy điểm
cơ bản sau :
+ Ông chỉ rõ và phê phán nghiêm khắc những nhược điểm của nền giáo
dục cũ để thức tỉnh nhân dân hướng theo cải cách giáo dục. Theo ông, nền giáo
dục Nho học là nền giáo dục giáo điều, thụ động, coi trọng việc học thuộc lòng
các sách kinh điển, chỉ biết đọc hiểu mà không biết diễn giải, ưa lối tầm chương
chích cú bóng bẩy mà khuôn sáo, không thiết thực, học còn quá coi trọng cái hư
vinh nên nảy sinh nhiều tiêu cực trong chốn học đường. Đặc biệt, Nho học là
nền giáo dục cho thiểu số, không đáp ứng nhu cầu học tập cho quảng đại quần
chúng nhân dân - những người chủ thật sự của xã hội, sức mạnh dân tộc, sức
mạnh quốc gia ở đó mà ra cả. Trên Đại Nam Đăng Cổ Tùng Báo số 813, ngày
15/8/1907, Nguyễn Văn Vĩnh có viết : “ Chẳng qua từ xưa đến nay, trong những

người học Nho, thì phần nhiều, chỉ học dã hình như người học câu thần-chú, để
mở cái cửa công đường đó mà thôi. Đeo đuổi hơn hai nghìn năm nay, cũng chỉ
nghĩ rằng : một võng-điều áo-gấm; hai cử tú, ta cũng về dành thủ lợn ở làng; ba
nữa là thầy khóa, thầy đồ ta cũng tránh được xuất sưu dịch hơn con em…”. Rồi
tư tưởng an phận thủ thường, sống lâu lên lão làng, suốt ngày chỉ “ nghĩ đến hai
bữa tênh tênh, ra đình ngồi mâm cao cỗ đầy là xướng, cho nên không cần dùng
19
phải học gì nữa”. Ông cho rằng đó là nguyên nhân làm cho mấy nghìn năm nay,
văn chương nước An Nam ta thua sút, sức nước yếu kém vì học hành kém cỏi.
Vốn tri thức dân tộc thì phong phú mà không biết khai thác chỉ thích học vẹt của
người. Ông đề xướng bỏ nền giáo dục Nho học để thực hiện nền giáo dục mới
hiện đại.
+ Ông coi đổi mới giáo dục là việc làm hệ trọng và vô cùng cấp thiết đối
với việc canh tân đất nước.Mục đích chính của giáo dục là tăng cường học vấn
cho quảng đại quần chúng nhân dân để thoát khỏi tình trạng dốt nát, tiến kịp
phương Tây, sức mạnh dân tộc nhờ thế mà được tăng cường. Do đó, bình dân
phải được coi là đối tượng chính , là lực lượng quyết định của giáo dục. Theo
ông thì “ Một dân tộc thất học có đến chín mươi phần trăm thì còn hi vọng ngóc
đầu lên sao được, nếu phái trí thức không lo giáo dục cho phái bình dân là phần
cốt yếu của dân tộc ấy. Nhưng thực hành một chương trình của giáo dục không
phải là việc dễ…”. Giáo dục là giáo dục cho quốc dân đồng bào, không phân
biệt sang hèn, nam nữ. Nhưng ông đưa ra yêu cầu giáo dục phải phân bậc và có
chương trình giáo dục với từng lứa tuổi, quy định giới hạn tuổi tác cho từng cấp
học.
+ Ông rất coi trọng thực học. Coi nghề học là cốt của các nghề. Ông đề
cao tính hướng nghiệp trong giáo dục.Học trước là để nâng cao tri thức, hiểu
biết xã hội, đồng thời để tự lập, sau là để tăng cường sức mạnh dân tộc bằng sức
mạnh của văn hóa. Trong mục “Xét tật mình” trên Đông Dương Tạp Chí số 9,
Nguyễn Văn Vĩnh viết : “ Nghề học là cốt của các nghề, cho nên việc làm ăn
được tính, mà người làm ăn biết coi cái chức phận của mình ở trong xã hội cũng

chẳng kém gì ai, vinh hạnh mà cầm cày, vẻ vang mà cầm cuốc”. Ông phê phán
cực lực thói học hành ỷ lại, học hành viển vông, hướng đến những mục đích
thiển cận. “ Không phải học lấy chiếu trên chiếu dưới, không phải học để ngâm
phú vịnh ca, mà học lấy cách làm người ở đời sao cho bằng người ta, sao cho giữ
được địa vị, sao cho gánh vác được một vai trong xã hội”. Ông có so sánh : “Ở
bên đại Pháp, chỉ trừ có khi còn bé dại thì phải nhờ cha mẹ nuôi cho đi học, còn
20
đã nhớn lên mà không lập thân được, không dùng được trí khôn hoặc hai bàn tay
mà nuôi miệng thì coi mình như một giống xâu bọ ăn hại. Tự lấy làm tủi nhục còn
như chú bác anh em thì thực là kiến giả nhất phận, phải đến ngửa tay mà nhở vả
điều gì, lấy làm hổ thẹn vô cùng. Ai bất đắc dĩ mà phải đến nỗi ấy thì cả họ khinh
bỉ, người ta chê cười” . Còn ở nước Nam ta thì thói dựa vào cha mẹ, họ hàng
như một tệ nạn phổ biến.
So với lối học cũ, thì mục đích học tập này thật là mới mẻ. Học tập là để
có tri thức, để lập thân. Nguyễn Văn Vĩnh có tư tưỏng rất tiến bộ. Tư tưởng này
vượt lên hẳn lối suy nghĩ của một số trí thức lúc bấy giờ vẫn còn vấn vương với
cách nghĩ, cách học cũ tồn tại mấy nghìn năm. Và kể cả ngày nay, trong xã hội
hiện đại, hậu công nghiệp, vẫn có rất nhiều người còn chưa nhận thức được cái
mục đích thực tế mà sâu sắc này của sự học tập. Chính vì vậy, khi nhận xét về
Nguyễn Văn Vĩnh, cụ Hoàng Đạo Thúy có viết : “ Nguyễn Văn Vĩnh là một
trong những thông ngôn đầu tiên giỏi tiếng Pháp, có học thức, tinh khôn, tài hoa.
lại có óc kinh doanh. Vĩnh rất hăng hái trong việc truyền bá chữ Quốc ngữ…”.
Óc năng động và thực tiễn là rất cần thiết đối với bất kỳ người đi học nào muốn
vươn cao, vươn xa trong sự lập thân của mình. Nguyễn Văn Vĩnh là một học giả
có óc thực tiễn cao và có một tầm nhìn xa.
+ Về phương tiện truyền thụ giáo dục, ông nhấn mạnh: nền học vấn của
dân tộc phải gắn bó chặt chẽ với chữ viết dân tộc. Chữ viết dân tộc ở đây là chữ
Quốc ngữ. Có như thế mới phát huy được đầy đủ tri thức phong phú của dân tộc
và tiếp thu tốt nhất tinh hoa của văn minh nhân loại. Theo ông “ Các nước
người ta văn minh là do ở như đấy. Như nước Nam ta có học hành mấy nghìn

năm nay, mà tư tưởng vẫn hẹp hòi , người vẫn ngu dốt, cũng vì tại đi học chữ
mượn” (Đăng Cổ Tùng Báo số 813, 1907). Do đó ông coi cổ động học chữ Quốc
ngữ là trọng tâm của cải cách giáo dục.
+ Về nội dung và phương pháp giáo dục : Ông rất hăng hái trong phổ
biến nội dung và phương pháp giáo dục mới của phương Tây nhằm hiện đại hóa
nền giáo dục. Để thực hiện được điều này, ông đã sử dụng rất nhiều phương tiện
21
khác nhau : tuyên truyền, thành lập các hội truyền bá tư tưởng mới, dịch hàng
loạt các sách phương Tây, phổ biến nội dung và phương pháp giáo dục mới qua
báo chí… Là người thiết tha với những giá trị truyền thống của dân tộc, ông đưa
ra đề nghị : giáo dục mới phải kết hợp giữa truyền thống và hiện đại về cả nội
dung và phương pháp. Những quan điểm về nội dung và phương pháp giáo dục
của ông được thể hiện rõ trên Đông Dương Tạp Chí - tờ báo do ông làm chủ bút.
Và, ông đã trực tiếp áp dụng những nội dung và phương pháp giáo dục mới này
trong chính công việc giảng dạy của mình ở các trường Đông Kinh Nghĩa Thục,
trường học của Hội Trí Tri… Khi ông mất, ông Bùi Kỷ, đại diện hội Phật giáo
Bắc Việt đã điếu rằng : “Ông là người hấp thụ trước nhất những phần hay phần
đẹp trong văn hóa Âu châu mà nước Pháp đã đem sang cho ta, mà lại biết bảo
tồn những điều nên giữ nên theo ở trong văn hóa Á Đông. Ông thường nóng lòng
sốt ruột đến vận mệnh của nước nhà, cốt mong gây dựng lấy một nền học vấn
dung hòa cả mới cũ, để thích hợp với trình độ hiện thời, cho nên không những
ông đã giúp được bao nhiêu việc có ích cho nền tân học…”.
Là một trí thức Việt Nam yêu nước, Nguyễn Văn Vĩnh có sẵn trong mình
kháng thể của nền văn hóa dân tộc đã trải qua hàng nghìn năm phát triển. Sức
kháng thể đó đã giúp ông trên nền tảng tinh hoa văn hóa Á Đông mà có đủ năng
lực để tiếp thu tinh hoa văn hóa phương Tây hiện đại. Từ bản thân mình, ông đã
nhìn ra khả năng tiếp thu những yếu tố hiện đại của nền giáo dục Việt Nam mà
không làm mất đi những giá trị tốt đẹp vốn có. Dù vậy, ông vẫn đề cao việc giữ
gìn những giá trị truyền thống trong giáo dục để làm nền tảng tiếp thu những
yếu tố mới.

+ Muốn hiện đại hóa giáo dục một cách toàn diện phải đảm bảo tính
thống nhất của nó trên phạm vi cả nước : Bắc, Trung, Nam đều hòa hợp.
Nguyễn Văn Vĩnh hiểu rất rõ sự khác nhau trong sắc thái ngôn ngữ, văn hóa của
ba miền. Vì vậy, trong quá trình vận động cải cách giáo dục, ông luôn kêu gọi và
đề ra phương án nhằm tạo nên sự hòa hợp trong ngôn ngữ, văn hóa của cả nước ;
đảm bảo tính thống nhất trong giáo dục. Ông cổ động xây dựng một chương
22
trình học, soạn sách giáo khoa thống nhất trong cả nước, tìm mọi cách hoàn
thiện và phổ biến chữ Quốc ngữ, từng bước đưa nó trở thành chữ viết dân tộc
làm phương tiện truyền thụ cho giáo dục. Ông phát huy tất cả khả năng của
mình trên lĩnh vực in ấn và báo chí để thực hiện cho kỳ được mục đích đó. Cao
hơn, đề ra vấn đề thống nhất giáo dục trong cả nước chính là ông đã góp phần
tạo tiền đề cho việc xây dựng , thống nhất một nền tảng tư tưởng chung cho xã
hội Việt Nam.
Với mong muốn này, Nguyễn Văn Vĩnh cũng mong đợi khá nhiều vào hệ
thống giáo dục Pháp - Việt, muốn lợi dụng nó. Vì nền giáo dục Pháp - Việt do
chính quyền Pháp thành lập nên có tính chính quy và được đảm bảo bởi nhà
nước do vậy dễ phổ cập hơn. Nên, Nguyễn Văn Vĩnh tích cực cổ động cho giáo
dục Pháp - Việt, liên tục đưa ra kiến nghị, vận động chính quyền thực dân tăng
cường chữ Quốc ngữ và đổi mới chương trình dạy học trong hệ thống giáo dục
Pháp - Việt. Trên Đăng Cổ Tùng Báo và Đông Dương Tạp Chí đăng rất nhiều
bài cổ vũ nền giáo dục Pháp - Việt nhất là vấn đề dạy chữ Quốc ngữ trong hệ
thống giáo dục này.
Trên đây là vài nét cơ bản về quan điểm giáo dục của Nguyễn Văn Vĩnh.
Những quan điểm này sẽ được thể hiện đầy đủ hơn trong những hoạt động cụ
thể của ông với giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ XX.
2.3. Các biện pháp thực hiện cải cách giáo dục
2.3.1. Truyền bá sâu rộng chữ Quốc ngữ - phương tiện truyền thụ cơ bản
của nền giáo dục mới.
Để thúc đẩy cải cách giáo dục, Nguyễn Văn Vĩnh đã chủ trương truyền

bá sâu rộng chữ Quốc ngữ làm phương tiện truyền thụ cơ bản của giáo dục mới.
Chữ viết ra đời là một trong những nhân tố quan trọng đưa con người
bước vào thời đại văn minh. Nền văn hóa một dân tộc muốn phát triển đến trình
độ văn minh thì dân tộc đó phải biết sử dụng một hệ thống chữ viết để ghi lại
lịch sử, tư tưởng của chính mình. Freud từng khẳng định : “ Ngôn từ thông tri
23
cho chúng ta, chữ viết hình thành nên chúng ta và chữ viết biến đổi chúng ta một
cách thiết yếu…”. Ngôn từ và chữ viết có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Sự kết
hợp hài hòa giữa chúng sẽ tác động to lớn đến việc hình thành tri thức của con
người. Giáo dục ra đời và trở thành một hệ thống chỉ khi chữ viết xuất hiện.
Điểm lại lịch sử phát triển giáo dục, ta thấy rằng mỗi mô hình giáo dục
đều có những đặc trưng cơ bản, trong đó chữ viết là một đặc trưng thiết yếu
nhất. Mô hình giáo dục Trung Hoa đặc trưng bởi chữ Hán ; mô hình giáo dục
phương Tây trung đại đặc trưng bởi chữ Latinh ; và mô hình giáo dục Nho học ở
Việt Nam đặc trưng bởi chữ Nho ( chữ Hán ). Đầu thế kỷ XX, ở Việt Nam, chữ
Quốc ngữ đã đặc trưng cho mô hình giáo dục Quốc ngữ ở nước ta.
Xét về vai trò của chữ viết trong hệ thống giáo dục, ta có sơ đồ sau:
phương tiện truyền thụ
chữ viết là chủ yếu
Nhận thức được vai trò to lớn của chữ viết đối với giáo dục, Nguyễn Văn
Vĩnh đã ra sức cổ động học chữ Quốc ngữ. Ông muốn biến chữ Quốc ngữ làm
gốc của nền giáo dục mới. Ông nêu ra : “ Sự học ấy, muốn cho cả nước đều học,
cho nó khỏi mất hai lần công, trước hết phải có chữ như tiếng nói, đọc là hiểu
được chứ không như trước, muốn học điều hay lại còn phải học chữ nữa”. Do
đó, giáo dục Việt Nam rất nên dùng chữ Quốc ngữ - loại chữ dễ viết, dễ đọc,
đồng thời là công cụ ghi âm chuẩn xác giọng nói của người Việt.
Chữ Quốc ngữ không phải đến đầu thế kỷ XX mới có. Nó ra đời vào thế
kỷ XVII. Công sáng chế ra chữ Quốc ngữ thuộc về một số giáo sĩ phương Tây
như Francisco de Pina, Gaspar de Ammarl, Antonio de Barbosa, đặc biệt là
Alexandre de Rhodes và một số người Việt cộng tác…Ban đầu chữ Quốc ngữ

24
Thầy
Trò
được sáng tạo ra với mục đích là : các giáo sĩ đã sử dụng mẫu tự Latinh phiên
âm tiếng Việt để giảng đạo tốt hơn. Từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, rất ít người
Việt Nam biết và dùng chữ Quốc ngữ. Đến khi Pháp chiếm Nam kỳ, chữ Quốc
ngữ mới bắt đầu được dạy và được phổ biến. Người Việt Nam đầu tiên có công
truyền bá chữ Quốc ngữ là Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của. Nhưng chữ
Quốc ngữ không tạo nên một phong trào rầm rộ trong nhân dân Nam kỳ vì
người Nam kỳ chỉ học chữ Quốc ngữ như một phương tiện để bước sang học
tiếng Pháp dễ dàng hơn và dễ đi du học Pháp hơn. Phải đến Nguyễn Văn Vĩnh ,
với sự cổ động học chữ Quốc ngữ của mình , ông đã gióng tiếng trống đầu tiên
mở màn cho cuộc cách mạng chữ Quốc ngữ , tạo nên một phong trào học Quốc
ngữ sâu rộng trong nhân dân. Phong trào này phát triển trên đất Bắc, rồi dần có
tầm quan trọng trong cả nước, đáp ứng ý nguyện của quần chúng nhân dân là có
chữ viết chung cho dân tộc.
Còn đứng về phía thực dân Pháp, chúng cũng muốn phát triển chữ Quốc
ngữ, nhằm lợi dụng ảnh hưởng của thứ chữ này để xóa bỏ địa vị của chữ Hán –
là đại diện cho ảnh hưởng của Trung Hoa trên đất thuộc địa An Nam. Mặt khác,
phát triển chữ Quốc ngữ là một cách ru vỗ dân An Nam vì có công bảo trợ cho
sự phát triển chữ viết, tiếng nói dân tộc họ. Đồng thời, chúng cũng thấy được lợi
thế so sánh rằng : Để đọc thông viết thạo chữ Quốc ngữ, người Việt Nam chỉ
cần một thời gian rất ngắn, người bình thường chỉ cần 3 tháng, người thông
minh thì thời gian còn ngắn hơn. Trong khi đó, học tiếng Pháp, do sự khác biệt
về ngôn ngữ, nên đào tạo sẽ rất lâu, tốn kém mà không hiệu quả bằng. Chính lúc
này, yêu cầu xây dựng hệ thống quản lý hành chính và truyền bá ảnh hưởng văn
hóa của thực dân Pháp đang rất cấp thiết và cần một lực lượng đông đảo người
Việt tham gia. Tạo điều kiện cho người Việt Nam học chữ Quốc ngữ được coi là
giải pháp hữu hiệu nhất để thực hiện những mục đích trên. Lợi dụng điều này,
cộng với lợi thế có trong tay như báo chí, nhà in, nhà xuất bản, Nguyễn Văn

Vĩnh đã dấy lên cuộc cách mạng chữ viết rộng lớn.
25

×