Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2007 - 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.23 KB, 28 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ QUỐC TẾ
***
Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ
TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2007 - 2013
Lớp : KTE402.2
Khoá : 50
Giáo viên hướng dẫn : TS. Hoàng Xuân Bình
Hà Nội, tháng 05 năm 2014
DANH SÁCH THÀNH VIÊN
STT Họ và tên Ngày sinh MSSV Ghi chú
1 Đào Hoàng Hải Sơn 16/12/1993 1111120064 Nhóm trưởng
2 Trần Thị Ngọc Anh 12/12/1993 1111120053
3 Nguyễn Tuấn Cường 09/01/1993 1111120091
4 Võ Thị Huệ Anh 30/11/1993 1111120043
5 Lê Hoài Phương 09/02/1993 1111120047
6 Trịnh Thị Hằng 22/06/1993 1113120056
7 Đậu Nhật Hoàng 21/01/1993 1111120037
8 Khương Thúy Hường 20/02/1993 1111120094
9 Nguyễn Thanh Ngọc 14/05/1993 1111120081
10 Nguyễn Việt Ninh 04/08/1993 1111120052
11 Bùi Thị Kim Thanh 24/08/1991 1111120075
12 Phạm Thị Thúy Nga 19/08/1993 1111120092
13 Lê Thị Y Vân 15/12/1993 1111120042
14 Nguyễn Hoàng Quang 25/07/1993 1111120019
Trang 2
PHỤ LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế ở Việt Nam cũng như trên khu vực và
toàn thế giới, mục tiêu kiểm soát lạm phát và tăng trưởng kinh tế luôn là một


vấn đề cấp thiết và rất đáng quan tâm, bởi vì đây là hai yếu tố rất quan trọng để
đánh giá mức ổn định của một nền kinh tế. Tỷ lệ lạm phát và tăng trưởng kinh tế
trung bình của nước ta trong giai đoạn 2001 – 2006 lần lượt là 4,9% và 7,6%.
Với mục tiêu chung trong giai đoạn 2007 – 2012 là phát triển kinh tế vĩ mô và
kiềm chế được lạm phát, đảm bảo an sinh xã hội, Chính phủ đã đề ra được các
giải pháp và chính sách phù hợp, kịp thời và hiệu quả, đạt được những thành quả
nhất định, có vai trò lớn điều hành nền kinh tế trong giai đoạn hội nhập mới này.
Nhóm chúng tôi đã lựa chọn chủ đề “Nghiên cứu chính sách tài khóa và
tiền tệ của Việt Nam trong giai đoạn 2007 - 2013 ” cho bài nghiên cứu của mình
với mục đích hệ thống hóa các kiến thức cơ bản về chính sách kinh tế vĩ mô và
phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2007 đến cuối năm 2013
để từ đó đưa ra những nhận định khách quan và đề xuất hoàn thiện các chính
sách nhằm phát triển nền kinh tế nước ta.
Với mục tiêu trên, nhóm chúng tôi đã xác định 3 câu hỏi chính định
hướng cho bài nghiên cứu của mình:
• Mục tiêu của những chính sách kinh tế vĩ mô của Việt Nam là gì ?
• Tình hình thực hiện mục tiêu đã đưa ra như thế nào?
• Một số đề xuất, kiến nghị cho các chính sách tài khóa và tiền tệ của nước ta
trong năm 2013 nhằm thực hiện tốt các chính sách.
Bài nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở tìm hiểu các chính sách kinh tế
về kiềm chế lạm phát ở Việt Nam, đồng thời sử dụng phương pháp tổng hợp,
phân tích, so sánh các số liệu thống kê nhằm mang đến những tiếp cận trực quan
và thực tế nhất đối với chủ đề nghiên cứu.
Trang 3
Bài nghiên cứu của nhóm có kết cấu gồm 3 phần:
1. Khái quát chính sách kinh tế vĩ mô, lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
2. Tình hình thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong giai đoạn
2007 - 2012
3. Những kiến nghị, đề xuất cho việc thực hiện các chính sách
Trang 4

I) KHÁI QUÁT VỀ CHÍNH SÁCH KINH TẾ VĨ MÔ,
LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1. Chính sách tài khóa
a) Khái niệm
Chính sách tài khóa trong kinh tế học vĩ mô là chính sách thông qua chế
độ thuế (T) và chi tiêu chính phủ (G) để tác động tới nền kinh tế. Trong ngắn
hạn, Chính sách tài khóa chủ yếu ảnh hưởng đến tổng cầu (AD) về hàng hóa và
dịch vụ nhưng trong dài hạn, Chính sách tài khóa có thể ảnh hưởng đến tiết
kiệm, đầu tư và tăng trưởng kinh tế.
b) Các công cụ của Chính sách tài khóa
i. Chi tiêu chính phủ:
Chi tiêu chính phủ là một thành phần trong tổng chi tiêu nên sự thay
đổi trong chi tiêu chính phủ có tác động tới tổng chi tiêu gây ra sự thay đổi
của sản lượng cân bẳng của nên kinh tế từ đó làm tăng hay giảm tổng cầu
của nền kinh tế. Tuy nhiên, Nhà nước cần thận trọng trong quyết định về
chi tiêu chính phủ vì đây là nguyên nhân là khoản chi của ngân sách Nhà
nước làm giảm thặng dư ngân sách hoặc tăng thâm hụt ngân sách tùy vào
mức độ chi tiêu của chính phủ.
ii. Hệ thống thuế:
Hệ thống thuế hiện hành bao gồm nhiều sắc thuế khác nhau tác động
lên tất cả hoạt động của nền kinh tế, các giai đoạn của quá trình sản xuất
kinh doanh. Vì vậy, thuế hoàn toàn có thể được Chính phủ sử dụng như là
một công cụ để điều tiết các hoạt động kinh doanh, sản xuất và tiêu dùng
hàng hóa, dịch vụ như khuyến khích đầu tư, phát triển các hoạt động sản
xuất có lợi cho nhân dân, hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng, thực hiện chính
sách thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài, bảo hộ và khuyến khích sản xuất
trong nước và tao điều kiện cho hàng hóa trong nước có khả năng xuất
khẩu, cạnh tranh với hàng hóa nước ngoài từ đó tác động đén tổng chi tiêu,
Trang 5
tổng cầu của nên kinh tế. Bên cạnh đó, công tác quản lí thuế cần được quan

tâm và thực hiện tốt nhằm đảm bảo nguồn thu Ngân sách Nhà nước.
2.Chính sách tiền tệ
a) Khái niệm
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ môdo Ngân
hàng trung ương (NHTW) thông qua các công cụ của mình tác động đến lãi suất
hoặc khối lượng tiền cung ứng để đạt được những mục tiêu kinh tế xã hội đề ra.
Chính sách tiền tệ thông qua việc kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền tệ cung
ứng đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế. Do đó chính sách tiền tệ là một
trong những trọng tâm hoạt động của ngân hàng trung ương.
b) Các công cụ của Chính sách tiền tệ:
i. Các công cụ trực tiếp:
• Hạn mức tín dụng(HMTD)
Hạn mức tín dụng là mức nợ tối đa mà NHTW buộc các tổ chức
tín dụng (TCTD) phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế để hạn
chế việc tạo tiền quá mức của ác NHTM.
Khi thị trường tiền tệ chưa phát triển hoặc cầu tiền tệ không nhạy
cảm với lãi suất, khiến NHTW không thể kiểm soát tốt được lượng cung
tiền và lãi suất, buộc NHTW áp dụng công cụ hạn mức tín dụng,qua đó
hạn chế mở rộng tiền gửi, cuối cùng là kiểm soát lượng cung tiền.
• Ấn định lãi suất, khung lãi suất
Ấn đinh lãi suất, khung lãi suất là việc NHTW quy định lãi suất
hoặc khung lãi suất tiền gửi, cho vay hoặc buộc các NHTM cho vay hoặc
buộc các NHTM kinh doanh phải thi hành
Nếu lãi suất quy định cao, sẽ thu hút được nhiều tiền gửi từ đó
tăng lên nguồn vốn cho vay.Còn nếu như lãi suất quy định thấp, sẽ làm
giảm lượng tiền gửi và làm giảm khả năng mở rộng kinh doanh tín dụng.
• Ấn định tỷ giá hối đoái hặc biên độ giao động của tỷ giá hối đoái
Trang 6
Ấn định tỷ giá hối đoái hoặc biên độ giao động của tỷ giá hối
đoái là việc quy định mức tỷ giá tối đa hoặc tối thiểu mà các ngân hàng

được phép áp dụng khi kinh doanh ngoại hối.Đây là công cụ có tính
hành chính, tác động trực tiếp nên khá cứng nhắc. Nó tác động trực tiếp
đến mức tỷ giá trên thị trường, gây ra nhiều phản ứng tiêu cực trên thị
trường và dân tới những biến động không mong muốn về tỷ giá hối đoái
ii. Các công cụ gián tiếp:
• Nghiệp vụ thị trường mở (OMO)
OMO là ngiệp vụ trong đo NHTW mua-bán chứng khoán trên thị
trường mở để thay đổi dự trữ ngân hàng, từ đó tác dộng đến cơ sở số tiền
và lãi suất thị trường.Khi NHTW mua chứng khoán: Tác động đến dự trữ
của các NHTM, và đến cung vốn trên thị trường tiền tệ, từ đó thay đổi lãi
suất thị trường.Ngược lại, khi NHTW bán chứng khoán: Lãi suất ngân
hàng tăng ngay lập tức dẫn đến lãi suất thi trường ngắn hạn tăng theo:
đồng thời dự trữ của hệ thống NHTM giảm và từ đó lượng cung tiền
giảm, tỷ lệ lạm phát được cải thiện.
• Chính sách tái chiết khấu ( TCK)
Chính sách tái chiết khấu là chính sách trong đó NHTW cho các
NHTM vay dưới hình thức chiết khấu các chứng từ có giá ngắn hạn
Hạn mức chiết khấu: dự trữ bổ sung cho các NHTM có thể bị thu
hẹp hoặc nới rộng phụ thuộc vào hạn mức chiết khấu của NHTW, từ đó
ảnh hưởng đến khả năng tạo tiền của hệ thông NHTM, làm thay đổi
lượng tiền cung ứng. Mặt khác khi cung tiền thay đổi sẽ tác dộng làm
cho lãi suất thị trường thay đổi.
Lãi suất chiết khấu: Khi NHTW tăng lãi suất chiết khấu, làm
tăng chi phí vay của NHTM. Để kinh doanh có lãi, NHTM phải tăng lãi
suất cho vay nền kinh tế, từ đó làm giảm nhu cầu tín dụng. Ngoài ra, khi
lãi suất chiết khấu tăng, chi phí vay tăng bắt buộc các NHTM hạn chế
vay NHTW. Để hồi phục dự trữ, các NHTM phải giảm cung ứng tín
dụng, khiến lãi suất thị trường tăng.
Trang 7
• Dự trữ bắt buộc (DTBB)

Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NHTM phải duy trì trong một
tài khoản đặt tại NHTW. Mức dự trữ này do NHTW quy định và được
xác định bằng một tỉ lệ nhất định trên tổng số tiền gửi của NHTM.
Khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng, dữ trữ vượt mức của hệ thống
ngân hàng giảm làm giảm quy mô cho vay, quy mô tiền gửi theo đó giảm
dần và cuối cùng là cung tiền giảm. Tỷ lệ dự trữ cũng là bộ phận cấu
thành mẫu số của số nhân tiền. Do đó, khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng, số
nhân tiền giảm từ đó làm giảm khả năng mở rộng tiền gửi của hệ thống
ngân hàng.
3. Lý thuyết về lạm phát
a) Lạm phát là gì?
Lạm phát nói chung có thể được hiểu là việc giá cả các hàng hóa tăng lên
so với mức giá thời điểm trước (vật giá leo thang). Việc tăng giá ở đây là gia
tăng chung của hầu hết các hàng hóa và dịch vụ, chứ không phải tăng giá một
hàng hóa cá biệt. Khi giá trị của hàng hóa và dịch vụ tăng lên, đồng nghĩa với
sức mua của đồng tiền giảm đi. Khi đó, với cùng một lượng tiền nhưng người
tiêu thụ mua được ít hàng hóa hơn so với trước đó.
Theo các nhà kinh tế học: “Lạm phát là hiện tượng kinh tế, trong đó giá cả
tăng nhanh, liên tục và kéo dài làm cho tiền tệ mất giá so với hàng hóa, ngoại tệ
và vàng”
Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự “mất giá trị thị trường” hay “giảm
sức mua của đồng tiền”. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự
phá giá đồng tiền nội tệ so với các loại tiền tệ khác.
b) Cách đo lường tỉ lệ lạm phát
Tỉ lệ lạm phát cho thời kì t được tính theo công thức:
Π
t
= (P
t
– P

t-1
)/P
t-1
*100%
Với:
Π
t
là tỉ lệ lạm phát thời kì t (tháng, quý, năm…)
P
t
, P
t-1
: mức giá chung thời kì (t) và thời kì trước đó (t-1)
Trang 8
Người ta thường dùng chỉ số điều chỉnh GDP (DGDP) và chỉ số giá tiêu
dung dùng CPI để đo mức giá chung. Tuy nhiên, thước đo lạm phát phổ biến
nhất chính là chỉ số giá tiêu dùng CPI (consumer price index) là chỉ số đo giá cả
của một số lượng lớn các loại hàng hóa và dịch vụ, bao gồm thực phẩm, lương
thực, chi trả cho các dịch vụ y tế , được mua bởi "người tiêu dùng thông
thường".
c) Nguyên nhân lạm phát
Có nhiều nguyên nhân gây ra lạm phát, trong đó nguyên nhân do cầu kéo
và do chi phí đẩy là 2 nguyên nhân chính:
Lạm phát do cầu kéo Khi nhu cầu của thị trường về một mặt hàng nào đó
tăng lên sẽ kéo theo sự tăng lên về giá cả của mặt hàng đó. Giá cả của các mặt
hàng khác cũng theo đó leo thang, dẫn đến sự tăng giá của hầu hết các loại hàng
hóa trên thị trường. Lạm phát do sự tăng lên về cầu (nhu cầu tiêu dùng của thị
trường tăng) được gọi là “lạm phát do cầu kéo”.
Lạm phát do chi phí đẩy: Chi phí đẩy của các doanh nghiệp bao gồm tiền
lương, giá cả nguyên liệu đầu vào, máy móc, chi phí bảo hiểm cho công nhân,

thuế Khi giá cả của một hoặc vài yếu tố này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất
của các xí nghiệp chắc chắn cũng tăng lên, vì thế mà giá thành sản phẩm cũng sẽ
tăng lên nhằm bảo toàn lợi nhuận và thế là mức giá chung của toàn thể nền kinh
tế cũng sẽ tăng được gọi là “lạm phát do chi phí đẩy”.
Ngoài ra còn có các nguyên nhân khác:
Lạm phát do cơ cấu: các doanh nghiệp tăng tiền công cho nhân viên khi
làm ăn có hiệu quả. Những doanh nghiệp khác mặc dù kinh doanh không hiệu
quả cũng phải tăng lương theo xu thế này này dẫn tới tăng giá thành sản phẩm
để đảm bảo mức lợi nhuận làm phát sinh lạm phát.
Lạm phát do cầu thay đổi: thị trường giảm nhu cầu mặt hàng nào đó và
cũng có lượng cầu mặt hàng khác tăng lên. Tuy nhiên mặt hàng giảm cầu là mặt
hàng độc quyền cứng nhắc (như điện của Việt Nam) không đổi giá. Kết quả là
mức giá chung tăng lên dẫn đến lạm phát.
Lạm phát do xuất nhập khẩu:
Trang 9
• Khi xuất khẩu tăng, tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, sản phẩm được thu gom
cho xuất khẩu khiến hàng cung cho thị trường trong nước giảm làm tổng cung
trong nước thấp hơn tổng cầu. Khi tổng cung và tổng cầu mất cân bằng nảy sinh
lạm phát.
• Khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng (do thuế nhập khẩu tăng hoặc do giá cả trên
thế giới tăng) thì giá bán sản phẩm đó trong nước sẽ phải tăng lên. Khi mức giá
chung bị giá nhập khẩu đội lên sẽ hình thành lạm phát.
Lạm phát tiền tệ: Khi cung lượng tiền lưu hành trong nước tăng, chẳng
hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước
khỏi mất giá so với ngoại tệ; hay do ngân hàng trung ương mua công trái theo
yêu cầu của nhà nước làm cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên cũng là
nguyên nhân gây ra lạm phát.
4. Lý thuyết về tăng trưởng kinh tế
a) Khái niệm về tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của GDP hoặc GNP hoặc thu nhập bình

quân đầu người trong một thời gian nhất định. Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự
thay đổi về lượng của nền kinh tế.
Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Products, GDP) hay tổng sản
sản phẩm trong nước là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối
cùng được sản xuất, tạo ra trong phạm vi một nền kinh tế trong một thời gian
nhất định (thường là một năm tài chính).
Tổng sản phẩm quốc gia (Gross National Products, GNP) là giá trị tính
bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được tạo ra bởi công dân một
nước trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Tổng sản phẩm quốc
dân bằng tổng sản phẩm quốc nội cộng với thu nhập ròng.
Tổng sản phẩm bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc nội chia cho
dân số. Tổng thu nhập bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc gia chia cho
dân số.
Trang 10
b) Cách đo lường tăng trưởng kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy
mô kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế
kỳ trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %. Biểu diễn
bằng toán học, sẽ có công thức:
y = dY/Y × 100(%),
trong đó Y là qui mô của nền kinh tế, và y là tốc độ tăng trưởng.
Nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có
tốc độ tăng trưởng GDP (hoặc GNP) danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được
đo bằng GDP (hay GNP) thực tế, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP)
thực tế. Thông thường, tăng trưởng kinh tế dùng chỉ tiêu thực tế hơn là các chỉ
tiêu danh nghĩa.
c) Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển lẫn các nước đang phát triển
đều phải được đi cùng trên bốn bánh xe, hay bốn nhân tố của tăng trưởng kinh tế
là nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, tư bản và công nghệ. Bốn nhân tố này

khác nhau ở mỗi quốc gia và cách phối hợp giữa chúng cũng khác nhau đưa đến
kết quả tương ứng.
• Nguồn nhân lực: chất lượng đầu vào của lao động tức là kỹ năng, kiến
thức và kỷ luật của đội ngũ lao động là yếu tố quan trọng nhất của tăng
trưởng kinh tế. trong các yếu tố hợp thành quá trình lao động sản xuất,
sức lao động là yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế bền vững.
• Nguồn tài nguyên thiên nhiên: là một trong những yếu tố sản xuất cổ điển,
những tài nguyên quan trọng nhất là đất đai, khoáng sản, đặc biệt là dầu
mỏ, rừng và nguồn nước. Tài nguyên thiên nhiên có vai trò quan trọng để
phát triển kinh tế, tuy vậy việc sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên phong
phú không quyết định một quốc gia có lợi thế trong tăng trưởng kinh tế.
• Tư bản: hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ của cải vật chất do con người tạo
ra, tích luỹ nhằm sử dụng vào quá trình sản xuất, là toàn bộ tài sản được
sử dụng để sản xuất, kinh doanh. Có thể chia làm hai loại là tư bản tài
chính và tư bản hiện vật.
Trang 11
• Công nghệ: Công nghệ sản xuất cho phép cùng một lượng lao động và tư
bản có thể tạo ra sản lượng cao hơn, nghĩa là quá trình sản xuất có hiệu
quả hơn. Sự phát triển khoa học và công nghệ cho phép tăng trưởng và tái
sản xuất mở rộng theo chiều sâu, làm xuất hiện những ngành kinh tế có
hàm lượng khoa học cao nhằm hướng tới nền kinh tế tri thức, đóng vai trò
đặc biệt quan trọng đối với sự tăng trưởng nhanh và bền vững.
Trang 12
II. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH KINH TẾ
VĨ MÔ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2007 – 2012
1. Năm 2007:
Năm 2007 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng đối với nền kinh tế Việt
Nam khi bước đầu gia nhập WTO, đặt ra nhiều thách thức cho việc phát triển
nền kinh tế. Vì thế, mục tiêu điều hành chính sách của nước ta trong giai đoạn
này là xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa, tạo khung pháp lý đồng bộ cho phát triển kinh tế có hiệu quả; đẩy mạnh
kiểm soát chặt chẽ giá cả thị trường, tỷ giá và các công cụ điều tiết tiền tệ, ngân
sách.
Chính sách tiền tệ trong giai đoạn này có những đặc điểm nổi bật như:
• Quy chế nghiệp vụ thị trường mở được ban hành ngày 05/01/2007 (Quyết
định số 01/2007/QĐ-NHNN), góp phần đáng kể trong điều hành chính
sách tiền tệ.
• Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã được nâng lên 2 lần từ tháng 6 năm 2007, lãi suất
đã được duy trì ở mức ổn định.
• Công tác chiết khấu và cho vay cầm cố đã được tiến hành hợp lý trong
những trường hợp cần thiết, công tác thu nợ đã được đẩy mạnh để rút tiền
về Ngân hàng Nhà nước khi đến hạn.
• NHNN Việt Nam phát hành VNĐ mua lại lượng vốn đầu tư nước ngoài
gần 20 tỷ đồng với mục đích kìm tỉ giá của VNĐ với USD.
Năm 2007 cũng là năm mà Chính phủ tiếp tục áp dụng, phát huy Chính
sách tài khóa mở rộng. Theo báo cáo “Tình hình kinh tế - xã hội năm 2007” của
Tổng cục Thống kê đưa ra thì: “Tổng chi ngân sách Nhà nước năm 2007 ước
tính tăng 17,9% so với năm trước và bằng 106,5% dự toán năm.Bội chi ngân
sách Nhà nước năm 2007 ước tính bằng 14,8% tổng số chi và bằng mức bội chi
dự toán năm đã được Quốc hội thông qua đầu năm.”
Xét một cách tổng quan, năm 2007, các chính sách kinh tế của nước ta đã
phần nào phát huy hiệu quả trong việc ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện mục
tiêu tăng trưởng kinh tế, lạm phát mặc dù ở mức cao nhưng không thực sự đáng
Trang 13
lo ngại. Cụ thể tỷ giá đã được giữ ổn định trước sự gia tăng ồ ạt của vốn đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam khi nước ta bắt đầu gia nhập WTO, tăng trưởng kinh
tế lên tới 8.48%, đạt được mức kiến nghị 8.2 – 8.5%(Nghị quyết 17/2007/NQ-
CP về phiên họp chính phủ thường kỳ tháng02 năm 2007). Tuy nhiên vẫn còn
những hạn chế trong chính sách cần khắc phục như: việc áp dụng chính sách tiền
tệ thiếu hiệu quả của Ngân hàng Trung ương (NHTW) khi không tiến hành bất

cứ biện pháp nào đi kèm với việc mua ngoại tệ để trung hòa dẫn đến hệ quả của
chính sách này là lượng cung tiền của Việt Nam đã tăng đột biến mà biểu hiện rõ
ràng nhất là việc tổng phương tiện thanh toán cả năm 2007 tăng khoảng 37% so
với năm 2006 (Thấy gì từ những con số thống kê năm 2008? – Báo Thể thao &
Văn hóa, 02/01/2009). Những điểm bất cập và thiếu hợp lý cũng như bội chi lớn
trong chính sách tài khóa mở rộng cũng là điểm yếu trong việc thực hiện chính
sách của nước ta trong thời kì này. Cả 2 yếu tố trên đã đẩy mức lạm phát Việt
Nam năm 2007 lên mức 8.3% (Tình hình kinh tế - xã hội năm 2007, Tổng cục
Thống kê). Tác động của Chính sách tài khóa và Chính sách tiền tệ mở rộng đã
song song thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy lạm phát lên mức cao hơn nhiều
so với những năm trước đó.
2. Năm 2008:
Kinh tế - xã hội nước ta năm 2008 diễn ra trong bối cảnh tình hình thế
giới và trong nước có nhiều biến động phức tạp, khó lường; nhiều nền kinh tế
lớn trên thế giới đang lâm vào khủng hoảng; mức lạm phát đã đạt đến con số
đáng báo động. Đứng trước những biến động lớn của nền kinh tế khu vực và thế
giới, chính phủ đề ra mục tiêu kiềm chế lạm phát, đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao, chất lượng, bền vững, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế gắn với cải
thiện đời sống của nhân dân; Để thực hiện những mục tiêu này, chính sách tiền
tệ đã được thực hiện qua các công cụ:
• Công cụ gián tiếp: NHNN đã áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt, bước
đầu điều chỉnh tăng 1% tỷ lệ DTBB đối với tất cả các kỳ hạn (Quyết định
187/2008/QĐ-NHNN), áp dụng cho cả tiền gửi VND và ngoại tệ đối với
Trang 14
tất cả các kỳ hạn và đối với hầu hết các tổ chức tín dụng (TCTD). Tuy
nhiên, đến cuối năm, để ngăn chặn suy giảm kinh tế, NHNN điều chỉnh
giảm tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng VND . Cùng với đó, NHNN cũng
triển khai nghiệp vụ thị trường mở OMO:
o Phát hành 20.300 tỷ dồng tín phiếu NHNN bắt buộc.
o Từ tháng 2 năm 2008, tăng các loại lãi suất chủ đạo của NHNN.

o NHNN ban hành quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN ngày 1/2/2008
về sửa đổi chỉ thị thắt chặt cho vay chứng khoán.
• Công cụ trực tiếp: việc điều hành tỉ giá được diễn ra một cách linh hoạt:
o Quý 1 năm 2008, NHNN đã tăng lãi suất cơ bản, không thực hiện
mua ngoại tệ USD nhằm hạn chế việc việc bơm tiền ra lưu thông,
tăng biên độ tỷ giá USD/VND từ +/- 0,75% lên +/- 1% từ ngày
10/03/2008 để đối phó với việc sụt giảm của tỉ giá liên ngân hàng.
o Quý 2 năm 2008, NHNN không cho phép vay ngoại tệ đối với
doanh nghiệp xuất khẩu nhằm tránh việc vay ngoại tệ để bán ra bên
ngoài dotỷ giá tăng dần đều và đột ngột tăng mạnh từ giữa tháng.
o Quý 3 năm 2008 : Nhớ có sự can thiệp kịp thời của nhà nước cơn
sốt tỷ giá giảm mạnh. Đồng thời NHNN đã ban hành một loạt các
chính sách kiểm soát chặt chẽ việc mua bán thu hồi ngoại tệ như
cấm mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do không đăng ký với các
NHTM, cấm mua bán USD thông các biên độ khác để lách biên
độ…
o Quý 4 năm 2008, tỷ giá USD tăng trở lại mức cao nhất sau đó giảm
nhẹ. NHNN bán USD cho các NHTM nhằm hỗ trợ nhập khẩu.
Về mặt tài khoá, chính phủ tiếp tục áp dụng chính sách mở rộng bằng việc
tăng mạnh tổng chi tiêu chính phủ, đẩy mạnh tổng cầu khiến giá một số mặt
hàng thiết yếu như điện, nước, tăng mạnh, tiếp tục khiến lạm phát giữ ở mức
cao.
Có thể nói, năm 2008, chính sách tiền tệ vẫn là một thành công lớn chính
phủ khi vẫn giữ vững được nền tài chính nước nhà tránh khỏi nguy cơ sụp đổ dù
đối mặt với quá nhiều biến động từ thì trường tài chính thế giới và khu vực. Việc
điều hành của chính phủ và NHTW trong việc điều chỉnh lãi suất tiền gửi và lãi
Trang 15
suất dự trữ bắt buộc kịp thời đã giúp được các NHTM kịp thời vượt qua sóng
gió, nhờ đó các ngân hàng gần như đi vào ổn định vào cuối năm 2008. Tuy
nhiên, việc tiếp tục sử dụng chính sách tài khoá mở rộng trong suốt một thời

gian dài cũng như độ trễ của các chính sách tiền tệ từ năm 2007 như một hệ quả
của tỷ lệ lạm phát cao ở mức kỷ lục. Tóm lại, về chính sách kinh tế trong năm
2008 cần nhấn mạnh một vài điểm hạn chế:
• Nửa đầu năm 2008, tỉ lệ lạm phát luôn giữ mức rất cao; Chính phủ đã yêu
cầu tăng lãi suất cơ bản buộc các ngân hàng thương mại lao vào một cuộc
chạy đua tăng lãi suất tiền gửi. Việc nâng cao lãi suất tiền gửi dẫn đến
việc lãi suất cho vay tăng cao đột biến, lên mức 20 – 25%. Những doanh
nghiệp có số vốn ít, khả năng điều hành yếu kém đã phá sản hàng loạt
hoặc buộc phải cắt giảm nhân công, giảm quy mô sản xuất. Qua đó, quy
mô sản xuất của cả nền kinh tế bị ảnh hưởng khá nghiêm trọng, tăng
trưởng giảm còn 6.18%.
• Việc thắt chặt tiền tệ, tín dụng làm cho số vốn khả dụng để cho vay của
các ngân hàng giảm đi, dẫn đến họ phải đầu tư số vốn còn lại sau khi trừ
phần dự trữ cất kho vào những lĩnh vực có rủi ro cao như cho vay chứng
khoán; cho vay kinh doanh bất động sản…. Kết quả là, nguy cơ các ngân
hàng thương mại bị mất vốn, thua lỗ đang ngày càng hiện hữu; tính thanh
khoản của hệ thống ngân hàng ngày càng gặp nhiều khó khăn.
• Tỷ giá VNĐ trong cả năm 2008 có những biến động khá lớn, cao nhất là
19400 VNĐ/USD, thấp nhất là 15960 VNĐ/USD. Rõ ràng dù đã rất cố
gắng bình ổn tỷ giá nhưng Chính phủ vẫn không thể hoàn thành mục tiêu
này vì yếu tố khủng hoảng kinh tế, tâm lý của người dân và nhà đầu tư.
• Chính phủ tăng chi tiêu công nhằm kích thích kinh tế nhưng lại không
minh bạch, thiếu tính tập trung dẫn đến lãng phí, không hiệu quả. Việc
đầu tư nhiều nhưng không hiệu quả nên tổng cung tăng hạn chế trong khi
tổng cầu có xu hướng tăng mạnh vào năm 2008 khiến một số hàng hóa
yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất tăng như điện, xăng dầu, than là
Trang 16
nguyên nhân cho lạm phát. Kết quả là lạm phát năm 2008 tăng ở mức 2
con số là 22.97%, vượt xa mục tiêu mà Quốc hội đề ra.
3. Năm 2009:

Bước vào năm 2009, nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn do hệ quả của
khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới từ năm 2008. Đặc biệt, với việc lạm phát
ở mức kỉ lục trong năm 2008, mục tiêu của chính phủ trong năm 2009 đó là
ngăn chặn suy giảm kinh tế, phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý,
bền vững, giữ ổn định kinh tế vĩ mô; chủ động phòng ngừa lạm phát cao trở lại,
trước những biến động lớn như vậy, NHNN đã thực hiện chính sách tiền tệ một
cách linh hoạt, phối hợp đồng bộ nhiều giải pháp giúp bình ổn thị trường:
• Về lãi suất: NHNN đã hạ lãi suất chỉ đạo từ 14% xuống 7%, hạ thấp tỉ lệ
dự trữ bắt buộc từ 11% xuống 5%. Các loại lãi suất: lãi suất tái cấp vốn,
lãi suất tái chiết khấu,… đều được giảm mức phổ biến là 1%.
• Về điều chỉnh tỷ giá ngoại tệ:NHNN mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua
bán USD/VND của các NHTM từ +/- 3% đến +/- 5% so với tỷ giá bình
quân liên ngân hàng, cùng phối hợp với những biện pháp điều tiết cung
cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ. Tuy nhiên, ngày 26/11, NHNN đã
điều chỉnh tỷ giá, nâng tỷ giá công bố lên 17.980 VND/USD và thu hẹp
biên độ tỉ giá từ +/-5% xuống con +/- 3%, đồng thời yêu cầu các tổ chức
tín dụng thực hiện nghiêm biên độ tỉ giá.
Chính sách tài khóa mở rộng cũng được Chính phủ áp dụng trong giai
đoạn này, cụ thể là việc sử dụng các gói kích cầu. Gói thứ nhất được triển khai
nhằm hỗ trợ lãi suất khoảng 17000 tỉ đồng, gói kích cầu thứ hai với tổng nguồn
vốn khoảng 8 tỉ USD nhằm kích cầu đầu tư, phát triển sản xuất.
Bên cạnh đó, năm 2009, thủ tướng chính phủ đã tập trung chỉ đạo kích
cầu đầu tư, tạm hoãn thu hồi vốn đầu tư xây dựng cơ bản ứng trước, đồng thời
ứng trước từ ngân sách để thực hiện một số dự án cấp bách, tăng vốn đầu tư từ
nguồn Ngân sách và trái phiếu Chính phủ. Bên cạnh đó, Chính phủ ta cũng đề
cao việc thu hút đầu tư nước ngoài và vốn viện trợ phát triển. Dựa trên báo cáo
Tình hình kinh tế - xã hội năm 2009 của Tổng cục Thống kê, “Tổng chi ngân
Trang 17
sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/12/2009 ước tính đạt 96,2% dự toán năm.Bội
chi ngân sách Nhà nước năm 2009 ước tính bằng 7% GDP.”

Năm 2009, các biện pháp mạnh đã được áp dụng để kìm hãm đà suy thoái
của nền kinh tế. Cùng với chính sách tài khóa mở rộng là chính sách tiền tệ mở
rộng đã góp phần duy trì tăng trưởng ở mức 5.32%, đồng thời thành công trong
việc kiềm chế lạm phát còn 6.88% qua đó ổn định kinh tế vĩ mô. Trong năm
2009, Bội chi ngân sách đã được kiểm soát ở mức mà quốc hội đã đề ra, tỷ lệ lãi
suất thấp đã giúp cho các doanh nghiệp chủ động hơn về nguồn vốn. Tuy nhiên
vẫn còn những hạn chế: Việc kích cầu mạnh tay, CS tiền tệ khá lỏng và bội chi
ngân sách lớn đã dẫn đến nguy cơ lạm phát cao khó kiểm soát trong các năm
tiếp theo, tạo bong bóng đầu cơ, bong bóng chứng khoán và bất động sản, cùng
với đó là bài toán về chất lượng tăng trưởng: tăng trưởng chủ yếu vẫn theo chiều
rộng, năng suất lao động, chất lượng và sức cạnh tranh còn thấp; việc điều hành
tỷ giá và ngoại hối chưa đủ sự linh hoạt, dẫn đến găm giữ USD, cán cân thanh
toán bị thâm hụt (dự báo 1,9 tỉ USD). Tình hình này đang đặt ra cho năm 2010
những vấn đề mới cần nghiên cứu và giải đáp.
4. Năm 2010:
Với những nguy cơ tiềm ẩn từ năm 2009, năm 2010, nhà nước đặt trọng
tâm vào mục tiêu giữ vững ổn định nền kinh tế vĩ mô, ngăn ngừa lạm phát cao,
duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế gắn với hợp lý gắn với mục tiêu nâng cao chất
lượng tăng trưởng, tạo tiền đề thúc đẩy cao hơn trong các năm tiếp theo. Theo
đó, CSTT được chính phủ và NHNN áp dụng cũng có những biến chuyển linh
hoạt phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ mà nhà nước đặt ra:
• Ấn định tỷ giá: NHNN đã 3 lần chính thức điều chỉnh tỷ giá liên ngân
hàng giữa VND với USD. Ngày 26/11/2009 nâng tỷ giá thêm 5,44%, hạ
biên độ tỷ giá từ mức 5% xuống 3%; Ngày 11/2/2010 nâng thêm 3,3 %,
trong khi biên độ được giữ nguyên là 3%; Ngày 18/8/2010 tỷ giá lại được
điều chỉnh tăng gần 2,1%, giữ nguyên biên độ tỷ giá
• Ấn định lãi suât: NHNN cho phép các tổ chức tín dụng và NHTM cho vay
theo lãi suất thỏa thuận ( Thông tư số 07 ngày 26/2/2010 và Công văn số
Trang 18
2651/NHNN-CSTT). Lãi xuất được giữ ổn định ở mức 8%/năm, lãi suất

tái cấp vốn 8%/năm, lãi suất tái chiết khấu 6%/năm. Lãi suất cho vay
VND của NHTM tối đa là 12%/năm. Tuy nhiên cuối năm, lãi suất tăng
cao giao động trong khoảng 13,5 – 18,5%.
• Dự trữ bắt buộc: Theo Thông tư số 13/TT-NHNN, tỷ lệ dự trữ bắt buộc
bằng ngoại tệ hạ từ 7% xuống 4% đối với kỳ hạn dưới 12 tháng, từ 3%
xuống 2% đối với kỳ hạn trên 12 tháng.
• NHTW chỉ đạo các các TCTD kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng đi
đôi với mở rộng tín dụng, cho vay, thực hiện việc quyết toán hỗ trợ lãi
suất đối với các khoản cho vay ngắn hạn bằng VND phát sinh trong năm.
Trong năm 2010,Chính sách tài khóa mở rộng đã được thực hiện theo
hướng chủ động, linh hoạt, nhưng thận trọng hơn so với năm 2009 nhằm ổn định
kinh tế vĩ mô, kiểm soát nhập siêu và ngăn chặn lạm phát ở mức cao. Gói kích
cầu thứ hai được thông qua ngày 30/09/2009 và có hiệu lực từ năm 2010 với
những nội dung chính sau:
• Chính sách miễn thuếkhông còn được áp dụng nhưng thời gian nộp thuế
thu nhập doanh nghiệp tiếp tục được giãn 3 tháng đối với doanh nghiệp
sản xuất, gia công dệt may, da giày Chính phủ tiếp tục thực hiện biện
pháp hoàn thuế, giãn thời gian nộp thuế nhập khẩu như năm 2009.
• Về chi tiêu chính phủ đặt ra mục tiêu làm giảm suy thoái và bảo đảm anh
sinh xã hội, Chính phủ đã cho phép dùng khoảng 2.800 tỉ đồng vốn ngân
sách để tăng mua dự trữ quốc gia về gạo và xăng dầu, cho phép ứng chi để
thực hiện các nhiệm vụ chi thường xuyên phát sinh ngoài dự toán tất cả
khoảng 7.000 tỉ đồng.
Chính sách tài khóa và tiền tệ trong năm 2010 đã đạt được những thành
công nhất định: tỉ giá được giữ ở mức ổn định, nhu cầu thanh khoản của các
ngân hàng thương mại được đáp ứng, gỡ rối cho các doanh nghiệp bằng chính
sách tài khóa, tăng trưởng kinh tếđạt mức 6.78% Tuy nhiên,mục tiêu kiềm chế
lạm phát 2010 vẫn chưa đạt nhiều khởi sắc khi mức lạm phát ở mức cao
(9.19%).
Trang 19

5. Năm 2011
Những tháng đầu năm 2011 chỉ số giá tiêu dùng CPI của Việt Nam đã
tăng khá cao đe dọa mục tiêu kiềm chế lạm phát trong năm dưới mức hai con số
và tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn năm
2010. Trước tình hình đó, nghị quyết 11 ngày 24/2/2011 đưa ra tiếp tục siết chặt
CSTT, đồng thời áp dụng một loạt giải pháp hành chính hỗ trợ Cụ thể:
• Ấn định tỷ giá: Ngày 11/2, NHNN đã tăng tỷ giá lên 9.3% đồng thời thu
hẹp biên độ giao dịch tỷ giá từ 3% xuống 1%.Sau "cú sốc" điều chỉnh vào
tháng 2, tỷ giá chỉ tăng 0,97% trong 9 tháng còn lại của năm 2011.
• Ấn định lãi suất: Năm 2011, NHNN đã 2 lần tăng lãi suất chiết khấu
(Quyết định số 379/QĐ-NHNN và Quyết định số 929/QĐ-NHNN) 4 lần
tăng lãi suất tái cấp vốn, 5 lần tăng lãi suất OMO, quy định trần lãi suất
14%/năm.
• Tỉ lệ dự trữ bắt buộc: Quyết định số 1925/QĐ-NHNN ngày 26/8/2011 về
điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ là 8%, được áp dụng đối với
các NHTM Nhà nước, NHTM cổ phần, ngân hàng 100% vốn nước ngoài,
ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Riêng Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Quỹ tín dụng nhân dân
trung ương, ngân hàng hợp tác, tỷ lệ này là 7%.
Bên cạnh chính sách tiền tệ, Chính phủ cũng yêu cầu thực hiện thắt chặt
chính sách tài khóa thắt chặt theo hướng : kiểm soát chặt chẽ đầu tư công và đầu
tư của các doanh nghiệp nhà nước; giảm mạnh chi phí hành chính trong các cơ
quan nhà nước và dự án công, tuy nhiên vẫn khuyến khích khu vực tư nhân và
khu bực có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư cơ sở hạ tầng và công trình phúc lợi ,
Có thể thấy năm 2011 là năm thưc hiện triệt để CSTT thắt chặt. Kể từ
tháng 8, CPI đã xuống dưới 1%/tháng. Các áp lực tỷ giá đã hạ nhiệt. Khoảng
cách tỷ giá trên thị trường tự do và tỷ giá chính thức thu hẹp, có thời điểm tỷ giá
thị trường tự do thấp hơn tỷ giá chính thức. Mức tăng trưởng kinh tế đạt 5,89%.
Tuy nhiên, vẫn tồn tại những điểm yếu trong chính sách tiền tệ:
Trang 20

• Trên thị trường ngoại hối, tình trạng đô-la hóa vẫn chưa được giải quyết
triệt để, tín dụng ngoại tệ tăng cao, một số TCTD có hệ số sử dụng vốn
vượt 100%, một số TCTD huy động vốn nước ngoài để tăng trưởng tín
dụng cao, tiềm ẩn rủi ro khi các nguồn vốn nước ngoài bị rút đột
ngột.Trên thị trường vẫn còn tình trạng các TCTD lách các quy định về tỷ
giá làm tăng bất ổn trên thị trường ngoại hối.
• Một số hạn chế của hệ thống ngân hàng về thanh khoản, nợ xấu đang
ngày càng bộc lộ rõ khi NHNN triển khai các biện pháp nhằm lập lại trật
tự, kỷ cương trong lĩnh vực ngân hàng.
• Việc VND bị phá giácùng với lượng cung tiền tăng liên tục trong vài năm
gần đây gây mất cân đối tiền hàng đã góp phần đẩy lạm phát Việt Nam
năm 2011 lên mức rất cao là 18.58% (Tình hình kinh tế - xã hội 2011,
Tổng cục Thống kê)
6. Năm 2012:
Kinh tế nước ta vẫn đối đầu nhiều khó khăn từ ảnh hưởng bởi sự bất ổn
của kinh tế thế giới do khủng hoảng tài chính và khủng hoảng nợ công ở Châu
Âu chưa được giải quyết.Thị trường tiêu thụ hàng hóa bị thu hẹp, hàng tồn kho ở
mức cao, sức mua trong dân giảm. Vì thế mục tiêu chung của nền kinh tế là tiếp
tục tập trung kiềm chế lạm phát,giảm cung tiền một cách thận trọng, ổn định
kinh tế vĩ mô, đạt tốc độ tăng trưởng hợp lý.
Chính sách tiền tệ năm 2012 được áp dụng linh hoạt hơn:
• Lãi suất:NHNN duy trì áp dụng việc áp trần lãi suất huy động do dấu hiệu
căng thẳng thanh khoản trên hệ thống ngân hàng trong những tháng cuối
năm 2011 tiếp tục kéo dài sang năm 2012.Trong quý 1, trước xu hướng
giảm tốc của chỉ số giá tiêu dùng và lạm phát kỳ vọng, NHNN đã bắt đầu
kéo giảm đồng loạt các lãi suất chính sách và trần lãi suất huy động.
• Song song với động thái kéo giảm trần lãi suất huy động, NHNN cũng đã
áp trần lãi suất cho vay (13%/năm) đối với 4 lĩnh vực ưu tiên: (1) Phục vụ
lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, (2) Thực hiện phương án, dự án sản xuất
– kinh doanh hàng xuất khẩu, (3) Phục vụ sản xuất – kinh doanh của

Trang 21
doanh nghiệp nhỏ và vừa, (4) Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ; hay
kêu gọi đưa lãi suất cho vay cũ về mức 15%…
• Hạn mức tín dụng: NHNN ban hành chỉ thị ấn định chỉ tiêu tốc độ tăng
trưởng tín dụng năm 2012 đối với các TCTD theo 4 nhóm như sau: Nhóm
1 tăng trưởng tối đa 17%, Nhóm 2 tăng trưởng tối đa 15%, Nhóm 3 tăng
trưởng tối đa 8% và Nhóm 4 không được tăng trưởng.
• Ấn định tỷ giá :Tỷ giá hối đoái được giữ ổn định trong suốt năm 2012.
Chênh lệch giữa tỷ giá tự do và tỷ giá chính thức được giữ ở mức rất nhỏ,
chỉ khoảng dưới 1% so với tỷ giá chính thức.
Cùng với chính sách tiền tệ, bước vào năm 2012, những bất lợi từ sự sụt
giảm của kinh tế thế giới ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh và
đời sống dân cư trong nước. Nhìn chung, năm 2012 tiếp tục coi trọng Chính
sách tiền tệ có sự kết hợp với Chính sách tài khóa thắt chặt nhưng có sự hỗ trợ
về thuế và đầu tư công nhằm hỗ trợ cho khu vực doanh nghiệp đang gặp khó
khăn, đồng thời đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công nhằm gia tăng tổng cầu của
nền kinh tế.
Năm 2012, Chính phủ đã đưa ra chính sách tài khóa theo hướng chặt chẽ
bên cạnh chính sách tiền tệ thắt chặt. Các chính sách đã phát huy tác dụng của
mình khi đã có các dấu hiệu cho thấy nền kinh tế Việt Nam đang dần được phục
hồi, các chính sách được điều chỉnh chặt chẽ và linh hoạt. Chi ngân sách nhà
nước chủ động, tích cực, đáp ứng đầy đủ kịp thời kinh phí cho các nhiệm vụ và
mục tiêu nhà nước. Lạm phát được kiềm chế về một con số (9.21% - Tổng cục
thống kê), tăng trưởng kinh tế hợp lý, từng bước tạo tiền đề cho việc tăng trưởng
kinh tế bền vững trung và dài hạn. Chính sách tiền tệ đang từng bước nâng cao
niềm tin cho thị trường. Tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng được cải
thiện và tăng cường. Lãi suất huy động và cho vay đã giảm xuống theo định
hướng của NHNN, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và lạm phát. Tuy nhiên
trong việc thực hiện chính sách vẫn có những điều cần nhìn nhận lại. Ví dụ như
thiếu nguồn đầu tư có kiểm soát được tăng cường từ ngân sách nên nền kinh tế

vẫn còn khó khăn. Nợ công tiếp tục gây ra những rủi ro trong dài hạn. Lãi suất
Trang 22
cho vay quá cao gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận nguồn vốn
dẫn đến nhiều doanh nghiệp phá sản. Tiến trình tái cơ cấu các tổ chức tín dụng
và xử lí nợ xấu vẫn còn khá chậm gây tác động trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng
tín dụng hệ thống ngân hàng. Mặt khác lãi suất cho vay tuy có giảm nhưng
nguồn vốn tín dụng vẫn chưa thực sự đến với doanh nghiệp. Một bộ phận các
ngân hàng thương mại đang gặp vấn đề về thanh khoản nhưng do không đủ điều
kiện để tham gia vào thị trường liên ngân hàng nên phải tiếp tục nâng lãi suất
huy động lên cao để giải quyết vấn đề thanh khoản.
Trang 23
III) NHỮNG KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT CHO VIỆC
THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH Ở VIỆT NAM
Dựa trên các tác động và ưu nhược điểm của các chính sách của chính
phủ và NHTW giai đoạn 2007-2012 đã trình bày ở trên, nhóm chúng em xin đề
xuất một số ý kiến để góp phần xây dựng và thực hiện chính sách tài khóa và
tiền tệ của nước ta như sau:
Trong ngắn hạn, cần phải phối hợp hiệu quả CSTT và CSTK để “cứu” các
doanh nghiệp (DN) giải quyết các vấn đề khó khăn tồn đọng như nợ xấu và hàng
tồn kho, mở rộng sản xuất kinh doanh, đồng thời hoàn thành mục tiêu của năm
2013, ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát:
Vấn đề cần giải quyết lúc này là “phá băng tín dụng” và kích thích tổng
cầu tăng lên để đẩy dòng vốn ra ngoài thị trường và thúc đẩy mở rộng sản xuất,
qua đó góp phần giải quyết các vấn đề nợ xấu và hàng tồn kho thông qua các
biện pháp:
• Tác động vào tâm lý người tiêu dùng: Sử dụng phương tiện truyền
thông để hướng người tiêu dùng theo các mục tiêu của các chính
sách Kinh tế của Nước ta, ví dụ như đưa ra các đoạn quảng cáo về
việc mua trả góp bất động sản để tăng khả năng tiêu dùng…
• Giảm Lãi suất NHTM: hiện tại các NHTM đang dư thừa 1 lượng

vốn đáng kể không thể cho vay do các DN không thể tiếp cận được
nguồn vốn, do đó, cần thiết phải tiếp tục hạ lãi suất để đẩy nguồn
vốn ra ngoài thị trường, giúp các DN giải quyết khó khăn và mở
rộng sản xuất, ví dụ như có thể áp dụng trần lãi suất cho vay, qua đó
khuyến khích DN vay vốn
• Kích cầu:
o Chính phủ nên cân nhắc việc giảm thuế, đặc biệt là thuế thu
nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân, để kích thích,
mở rộng sản xuất song song với đó là kích thích tiêu dùng
qua đó cứu các doanh nghiệp đang gặp khó khăn và góp phần
hồi phục cho nền kinh tế. Để tránh gây thất thu quá lớn cho
Trang 24
ngân sách nhà nước, CP trước mắt nên tiếp tục miễn giảm
hoặc giãn thuế cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cùng với
đó là hạ mức thuế suất cho các bậc thuế thấp trong biểu thuế
lũy tiến từng phần của Việt Nam.
o Ưu tiên mở rộng và hỗ trợ tín dụng tiêu dùng
o Nếu các biện pháp trên thiếu hiệu quá, Chính phủ cần phải
xem xét 1 biện pháp mạnh tay và mạo hiểm hơn, đó là việc
CP “tiêu dùng” thông qua các gói kích cầu.
Về dài hạn, Nhà nước ta cần có những chính sách để tái cấu trúc lại nền
kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp và các ngân hàng thương mại, đảm bảo cho
mục tiêu phát triển hiệu quả và bền vững trong tương lai.
Tái cơ cấu các NHTM, các doanh nghiệp, xử lý các ngân hàng yếu kém,
khó khăn về thanh khoản. Cải thiện bộ máy thực thi chính sách của Việt Nam để
đảm bảo sự hiệu quả của các chính sách. Hạn chế tác động của độ trễ của các CS
thông qua việc nâng cao hiệu quả của cơ chế tự điều tiết.
Giảm nợ công và cân đối thu chi chính phủ để đảm bảo an ninh quốc gia
trong dài hạn thông qua việc tiết kiệm chi ngân sách, giảm thiểu các khoản chi
không cần thiết như lễ hội, liên hoan, các lễ khánh thành…

Trang 25

×