Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

Vai trò của nhà nước trong thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.87 KB, 62 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân chủ là khát vọng sâu xa cũng là thành tựu của cuộc đấu tranh lâu
dài của dân tộc và của loài người. Trong xã hội ta, xã hội do nhân dân làm
chủ thì dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế -
xã hội, vừa là cơ chế và phương thức để vận hành quyền lực của nhân dân
trong quản lý nhà nước và tổ chức đời sống xã hội.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc căn bản, là một yêu cầu tự nhiên và tất
yếu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
với tư cách là một chế độ chính trị. Tập trung dân chủ trong nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa là sự cần thiết hợp lý để cho nhân dân tránh được
những thói xấu tệ hại của thứ dân chủ bất chấp pháp luật, kỷ cương. Điểm quan
trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý nhà nước theo tinh thần
của nhà nước pháp quyền là đề cao tinh thần tôn trọng pháp luật, hoạt động hợp
hiến, hợp pháp thực hiện sự bình đẳng của mọi tổ chức và cá nhân trong pháp
luật xác định rành mạch quy chế, chức trách bổn phận công chức trước nhà
nước và xã hội. Đó là cơ chế để khẳng định rằng: “Sự kết hợp đúng đắn tập
trung dân chủ và dân chủ là yếu tố quyết định sức mạnh và hiệu lực của bộ máy
nhà nước ta”. Đảng ta coi đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của cách
mạng Việt Nam, là động lực của sự phát triển xã hội; coi phương châm “dân
biết, dân bàn, dân kiểm tra” là biểu hiện cụ thể về quyền làm chủ của nhân dân
trong đời sống cơ sở. Thực tế trong thời gian qua thực hiện chỉ thị của Bộ chính
trị về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và Nghị định
07/1999/NĐ-CP ngày 13/2/1999 của chính phủ ban hành về quy chế dân chủ
đã chứng minh được tính đúng đắn và sáng tạo của Đảng và Nhà nước ta.
Qua hơn hai mươi năm thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế
nước ta chuyển mạnh sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
1
hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế khu vực và thế giới; cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước là một giải pháp tất yếu đang được đẩy mạnh theo
lộ trình mà chính phủ đã định.


Nhà nước là công cụ chủ yếu nhất để thực hiện quyền lực của nhân
dân lao động. Nhà nước giữ vai trò trụ cột trong hệ thống chính trị nhằm
phát huy dân chủ, phát huy sức mạnh toàn dân tộc nhằm xây dựng thành
công và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong quá
trình thực hiện sự nghiệp đổi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn
của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà nước ta từ trung ương đến cơ sở đã ý
thức rõ vai trò, trọng trách của mình luôn tìm tòi, đổi mới từ hiến pháp,
pháp luật, cơ chế chính sách đến thực tiễn vận hành quá trình thực thi quản
lý đất nước, quản lý xã hội trên cơ sở không ngừng phát huy thực hiện dân
chủ ngày càng sâu rộng. Nhờ thế, sự nghiệp đổi mới đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn. Tuy nhiên trong quá trình quản lý, điều hành nhà nước ta
vẫn còn nhiều lúng túng, bất cập trong phát huy và thực hiện dân chủ. Tệ
nạn quan liêu, tham nhũng đang diễn ra nhức nhối, thủ tục hành chính
phiền hà, sách nhiễu đang diễn ra ở nhiều nơi; Một bộ phận không nhỏ
đảng viên, cán bộ công chức suy thoái, biến chất, sa ngã… Vì thế, tiếp tục
nghiên cứu và nâng cao vai trò của Nhà nước trong thực hiện dân chủ vẫn
luôn là vấn đề cấp thiết.
Từ những lý do đã nêu trên, tôi chọn đề tài: “Vai trò của nhà nước
trong thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay” để nghiên cứu làm luận văn
tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị - hành chính.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu.
*Mục tiêu: Nhận thức rõ một số vấn đề về dân chủ và vai trò của
Nhà nước trong thực hiện dân chủ để nhìn nhận đúng những mặt được,
chưa được và tìm giải pháp góp phần nâng cao thực hiện tốt hơn vai trò của
nhà nước trong thực hiện dân chủ ở nước ta.
2
*Nhiệm vụ: - Hệ thống được một số vấn đề lý luận về dân chủ, vai
trò của nhà nước trong thực hiện dân chủ và tất yếu phải thực hiện dân chủ
tốt hơn nữa.
- Xem xét khái quát thực trạng thành tựu và hạn chế về vai trò của

nhà nước ta trong thực thi thực hiện dân chủ.
- Đề ra được một số giải pháp để nâng cao vai trò và thực thi tốt hơn
vai trò của nhà nước trong thực hiện dân chủ thời gian tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
- Nghiên cứu về dân chủ, vai trò của nhà nước trong thực hiện dân
chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
- Thực trạng được xem xét trong thời kỳ đổi mới, chủ yếu từ 1998
đến nay; đề ra giải pháp cho giai đoạn từ nay đến 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp chung: Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Macxit.
- Phương pháp cụ thể: Tổng kết lý luận, thực tiễn; điều tra, khảo sát,
phân tích, tổng hợp.
5. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương.
Chương 1: Dân chủ, vai trò của nhà nước trong thực hiện dân chủ -
một số vấn đề lý luận
Chương 2: Thực trạng vai trò của nhà nước trong thực hiện dân chủ
và những vấn đề đặt ra.
Chương 3: Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của nhà
nước trong việc thực hiện dân chủ của nhà nước ta hiện nay.
3
CHƯƠNG I
DÂN CHỦ, VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG
THỰC HIỆN DÂN CHỦ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân chủ
Dân chủ là một khái niệm thuộc phạm trù chính trị có nguồn gốc từ
thời kỳ Hylạp cổ đại. Có nhiều định nghĩa về dân chủ, nhưng định nghĩa
được thừa nhận phổ biến nhất là quyền lực của nhân dân, chính quyền của

nhân dân.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, dân chủ là một hiện tượng
lịch sử, ra đời trong một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài người:
đó là khi xã hội đã phân chia thành giai cấp. Qua các giai đoạn phát triển của
xã hội, dân chủ được biến đổi dưới nhiều hình thức khác nhau.
Với sự phát hiện ra quan niệm duy vật lịch sử, tiếp thu có phê phán
thành tựu lý luận của những người đi trước, khái quát lịch sử phát triển của
dân chủ Các Mác đã trình bày một cách khoa học về dân chủ. Lý luận về
dân chủ gắn liền với học thuyết với nhà nước của Các Mác và chủ nghĩa
Mác nói chung. Sự hình thành và phát triển lý luận dân chủ không tách rời
sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa Mác đặc biệt là học thuyết về nhà
nước. Vì vậy, nghiên cứu tư tưởng dân chủ của Các Mác phải đặt trong
quan hệ với học thuyết nhà nước. Ngược lại khi nghiên cứu về nhà nước
không thể không nói đến dân chủ.
Vấn đề trung tâm của lý luận dân chủ Mác xít là vấn đề con người, là tư
tưởng xây dựng một “vương quốc tự do” của con người. Các Mác là người kế
thừa, phát triển tư tưởng nhân đạo, tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã có từ trước.
Điểm khác căn bản là Các Mác đã đem lại cho tư tưởng đó một cơ sở khoa
học, giải thoát nó khỏi những ảo ảnh và những dự định viển vông.
4
Trong tác phẩm: “góp phần phê phán triết học pháp quyền Hêghen”
viết năm 11843. C. Mác đã nêu lên những quan niệm về bản chất của chế
độ dân chủ khi so sánh với chế độ quân chủ C.Mác viết:
Chế độ dân chủ là nội dung và hình thức. Chế độ quân chủ dường
như chỉ là hình thức, nhưng trong thực tế thì nó xuyên tạc nội dung. Dưới
chế độ quân chủ, tổng thể, tức nhân dân, bị đặt vào một trong những
phương thức tồn tại của họ, tức chế độ chính trị của họ. Còn trong chế độ
dân chủ thì bản thân chế độ nhà nước thể hiện ra là một trong những tính
quy định, cụ thể là sự tự quy định của nhân dân” và “trong chế độ quân
chủ, chúng ta có nhân dân của chế độ nhà nước; trong chế độ dân chủ,

chúng ta có chế độ nhà nước của nhân dân. Ở đây, chế độ nhà nước –
không chỉ tự nó, xét theo bản chất của nó, mà còn xét theo sự tồn tại của
nó, theo tính hiện thực của nó – ngày càng hướng tới cơ sở hiện thực của
nó, tới con người hiện thực, nhân dân hiện thực và được xác định là sự
nghiệp của bản thân nhân dân. Chế độ nhà nước ở đây xuất hiện đúng
chân tướng của nó, tức là xuất hiện với tính cách là sản phẩm tự do của
con người.
Cùng xuất phát từ con người, nhưng C.Mác khác những bậc tiền bối
của ông là phát hiện ra những quy luật vận động của đời sống xã hội, quan
điểm về giai cấp và đấu tranh giai cấp trong cuộc sống đấu tranh để cải tạo
xã hội. Đặc biệt là C.Mác đã phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô
sản trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Từ hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận, C.Mác ngày càng ý thức
rõ hơn về vị trí và tầm quan trọng của vấn đề dân chủ trong cuộc đấu tranh
của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản và toàn bộ chế độ tự bản.
C.Mác đã nhận thức rằng, giành lấy dân chủ là một mục tiêu, một nội dung
của giai đoạn thứ nhất của cuộc cách mạng vô sản. Việc giai cấp vô sản trở
thành giai cấp thống trị cũng có nghĩa là giai cấp vô sản giành lấy dân chủ.
5
Xây dựng nhà nước của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động cũng có
nghĩa là xây dựng nền dân chủ của giai cấp vô sản, nền dân chủ của nhân
dân lao động.
Lênin quan niệm: Dân chủ là một chế độ nhà nước nên dân chủ mang
tính giai cấp. Dân chủ tồn tại dưới hình thức cụ thể, biến đổi cùng với sự
thay đổi của các phương thức sản xuất và kết cấu giai cấp của xã hội. Vì
vậy nó phát triển cùng với sự thay thế qua các hình thái kinh tế - xã hội từ
thấp đến cao.
Khi chủ nghĩa tư bản ra đời và Nhà nước của giai cấp tư sản được tổ
chức theo hình thức chính thể cộng hoà thì nền dân chủ có một bước phát
triển vượt bậc trên phương diện tư tưởng cũng như trên thực tế. Về tư

tưởng, có những giá trị được đề cao như xã hội công dân, nhà nước pháp
quyền, quyền con người, quyền công dân, các tư tưởng đó được chế định
bằng pháp luật. Về thực tế, chủ nghĩa tư bản cũng đưa ra những thể chế
đảm bảo quyền dân chủ như luật bầu cử, luật dân sự.v.v Tuy nhiên nền
dân chủ tư sản bị hạn chế bởi tính giai cấp, bởi phân hoá giàu nghèo. Nền
dân chủ đó chỉ đảm bảo trong thực tế cho những người giàu có, cho giai
cấp tư sản và vì giai cấp tư sản- những người chiếm hữu toàn bộ tư liệu sản
xuất của xã hội. Mọi người dân, nhất là giai cấp công nhân và những người
lao động khác, tuy quyền dân chủ đã được hiến định, song nó không được
đảm bảo trong thực tế một cách hữu hiện bởi vì họ không có trong tay tư
liệu sản xuất, và bộ máy chính quyền. Quyền lực của nhà nước vẫn nằm
trong tay giai cấp tư sản. Trước yếu cầu phát triển ngày càng cao của xã hội
nền dân chủ tư sản ngày càng bộc lộ những khuyết tật buộc Nhà nước tư
sản phải có những thay đổi để thích nghi nhằm duy trì chế độ tư bản chủ
nghĩa. Song bản chất của Nhà nước tư sản vẫn không thay đổi, những mâu
thuẫn ngay trong lòng xã hội tư bản không những không được giải quyết
mà ngày càng gay gắt.
6
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Mác xít của giai cấp công nhân, cách
mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra xác lập một nền dân chủ mới “dân chủ gấp
triệu lần dân chủ tư sản” – nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cho đa số, cho những
người lao động. Nó tạo điều kiện để giải phóng con người, đảm bảo cho
con người phát triển toàn diện, đem lại cho họ quyền làm chủ xã hội chủ
nghĩa ra đời đã thay thế xã hội cũ với những bất công. Lênin tiếp thu và
phát triển tư tưởng dân chủ của Mác trong điều kiện lịch sử mới. Người
khẳng định: giai cấp vô sản phải xây dựng một chế độ dân chủ thực sự cho
mọi người lao động thì mới hoàn thành được sứ mạng lịch sử của mình.
Người đặc biệt nhấn mạnh quyền tham gia quản lý nhà nước của những
người lao động, coi sự tham gia của những người lao động vào quá trình

xây dựng và thực thi quyền lực nhà nước Xô Viết là mục đích và là động
lực để củng cố chính quyền Xô Viết. Người chỉ rõ: việc thu hút được mọi
người lao động tham gia quản lý là một trong những ưu thế quyết định của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa… Vì rằng một thiểu số người, tức là Đảng
không thể hiện được chủ nghĩa xã hội. Theo Lênin, chính quyền Xô Viết
không phải là cái gì xa rời mà đó là bộ máy gần gũi với nhân dân, nhân dân
bất kể ở cương vị nào, ngành nghề gì cũng có thể tham gia quản lý bộ máy
đó. Lênin cũng coi trọng sự công khai của chính quyền trong việc thực hiện
công việc quản lý. Người cho rằng: điều khác nhau căn bản giữa nhà nước
xã hội chủ nghĩa và các nước khác là ở chỗ chính quyền công khai với mọi
người, làm việc trước mặt quần chúng, quần chúng dễ dàng gần gũi, nó
trực tiếp sinh ra từ quần chúng, là tổ chức đại biểu cho quần chúng nhân
dân và ý chí của họ. Và trong thực tế nơi nào, lúc nào đó nếu gặp khó khăn,
có những khuyết điểm nếu báo cáo công khai trước quần chúng thì để được
quần chúng độ lượng thông cảm và cùng góp phần khắc phục, giải quyết.
7
V.Lênin – lãnh tụ của cuộc cách mạng XHCN đầu tiên, đã đặt biệt
nhấn mạnh tính giai cấp của nhà nước, của dân chủ, khi mà cuộc đấu tranh
giai cấp đang diễn ra quyết liệt và vấn đề giành chính quyền được đặt ra
một cách trực tiếp. Khi phân tích sâu sắc những hạn chế của dân chủ tư
sản, tính tất yếu khách quan của việc dùng bạo lực cách mạng đập tan nhà
nước tư sản giành lấy chính quyền, giành lấy dân chủ. V.Lênin cũng nhấn
mạnh tính lịch sử của dân chủ và phân tích sâu sắc thêm tư tưởng của chủ
nghĩa Mác về sự tiêu vong của nhà nước và chế độ dân chủ. V.Lênin khẳng
định rằng, không có dân chủ trừu tượng mà bao giờ dân chủ cũng có nội
dung cụ thể, dân chủ với giai cấp này, không dân chủ với giai cấp kia.
V.Lênin viết:
Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong những hình
thái của nhà nước. Cho nên, cũng như mọi nhà nước, chế độ dân chủ là
việc thi hành có tổ chức, có hệ thống sự cưỡng bức đối với người ta. Một

mặt thì như thế. Nhưng mặt khác, chế độ dân chủ có nghĩa là chính thức
thừa nhận quyền bình đẳng giữa những người công dân, thừa nhận cho mọi
người được quyền ngang nhau trong việc xác định cơ cấu nhà nước và quản
lý nhà nước.
Tuy không trực tiếp nói đến dân chủ cơ sở nhưng qua từng luận điểm
của Người chúng ta có thể hiểu rõ sự cần thiết của việc quần chúng nhân
dân tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội như là một nội dung căn
bản của dân chủ ở cơ sở. Trong thực tiễn ở Liên Xô cũng như các nước xã
hội chủ nghĩa trước đây trong đó có Việt Nam, nhờ quán triệt những quan
điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về việc nhân dân có vai trò quan trọng
trong việc xây dựng chính quyền, quản lý nhà nước, quản lý xã hội mà hệ
thống xã hội chủ nghĩa thời kỳ đầu được xây dựng, củng cố và phát triển.
Tuy nhiên, tình trạng quan liêu, xa dân, cửa quyền, tham nhũng, cùng với
những nguyên nhân khác từ bên trong và bên ngoài, đã làm cho chính
8
quyền của nhân dân, dân chủ của nhân dân, chế độ của nhân dân sụp đổ
một mảng lớn ở Liên Xô và Đông Âu. Đây là bài học đau xót và đắt giá
trong việc xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân thực hiện dân
chủ của nhân dân hay quyền làm chủ của nhân dân.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, yêu cầu nhà nước với
dân chủ.
Kế thừa tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với phát huy
truyền thống của dân tộc, sinh thời Hồ Chí Minh đã rất coi trọng xây dựng
một chế độ dân chủ và chỉ rõ vai trò, ý nghĩa của việc phát huy quyền làm
chủ của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ có nghĩa: “dân là chủ”,
“Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”

1
Người đã sớm nhận thức được sức mạnh của quần chúng nhân dân,
coi dân là gốc của nước. “Dân chúng đồng lòng việc gì cũng làm được.

Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”
2
. Muốn có dân chủ
thì phải chống quan liêu tham nhũng vì những cái đó đối lập với dân chủ.
Người còn nhận thấy vai trò, tầm quan trọng của việc thực hành dân chủ.
“Thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết mọi khó
khăn
3
. Có thực hành dân chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thì mới
đem lại hạnh phúc, ấm no, tự do bình đẳng cho mọi người dân lao động. Đó
cũng là mục tiêu phấn đấu của chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi
trọng thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân: dân chủ về kinh tế,
dân chủ về chính trị. Theo người: có dân chủ thì dân mới tin, mới dám nói,
mới có sự sáng tạo. Phải thực hiện một nền dân chủ chân chính, không hình
thức, không cực đoan. Không cho phép lợi dụng và lạm dụng dân chủ để
xâm phạm lợi ích của nhà nước, của nhân dân.
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, T10, tr.698
2 Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb CTQG, T10, tr 293.
3 Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb CTQG, T10, tr 249.
9
Về dân chủ trong lĩnh vực chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn
mạnh phải xây dựng một Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ. Đây là
tư tưởng nhất quán trong cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh. Nhà nước
Việt Nam kiểu mới thể hiện khối đại đoàn kết dân tộc trong liên minh công
nông và trí thức là gốc ngày càng có một vị trí quan trọng. Tất cả mọi
người Việt Nam, không phân biết gái, trai, giàu, nghèo, nòi giống, dân tộc,
tôn giáo đều là người chủ của nhà nước, có trách nhiệm xây dựng nhà
nước. Tính chất dân chủ nhân dân là đặc trưng nổi bật của chính quyền nhà
nước kiểu mới. Trong nước ta, nhân dân là người nắm giữ mọi quyền lực,
còn các cơ quan Nhà nước do nhân dân tổ chức ra, nhân viên Nhà nước và

cán bộ là do nhân dân uỷ quyền thực hiện ý chí, nguyện vọng của nhân
dân, trở thành công bộc của nhân dân.
Nhà nước của dân, do dân cho nên nhà nước phải phục vụ quyền lợi
của nhân dân. Đây là sự khác nhau căn bản của Nhà nước dân chủ nhân dân
so với các loại hình Nhà nước trước đó. Bác nói: “Chúng ta phải hiểu rằng:
Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc
của nhân dân nghĩa là gánh việc chung cho dân chứ không phải đè đầu dân
như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật.
“Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm
Việc gì có hại đến dân ta phải hết sức tránh”
4
Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn cán bộ phải quan tâm đến những
kiến nghị, đề đạt của nhân dân. “Phải chú ý giải quyết hết các vấn đề dầu
khó đến đâu mặc lòng, những vấn đề quan hệ đến đời sống của dân. Phải
chấp đơn, phải xử kiện cho dân mỗi khi người ta đem tới. Phải chăm lo
việc cứu tế nạn nhân cho chu đáo, phải chú ý trừ nạn mù chữ cho dân. Nói
4 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, T10. Tr 56-57
10
tóm lại, hết thảy những việc có thể nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của dân phải được ta đặc biệt chú ý”
5
.
Về làm chủ kinh tế - xã hội, theo Hồ Chí Minh: “Chúng ta giành
được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng
không làm gì. Dân chỉ biết được giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân
được ăn no, mặc dù. Chúng ta phải thực hiện ngay:
1. Làm cho dân có ăn.
2.Làm cho dân có mặc
3.Làm cho dân có chỗ ở
4. làm cho dân có học hành”

6
.
Theo Hồ Chí Minh việc đáp ứng và thoả mãn nhu cầu, lợi ích của
nhân dân là tiêu chí số một để đánh giá hiệu quả, năng lực hoạt động của
Nhà nước, của đội ngũ cán bộ. Bác cho rằng cần phải chống đặc quyền, đặc
lợi, khắc phục những tiêu cực trong bộ máy nhà nước là nhu cầu và việc
làm thường xuyên, đảm bảo cho Nhà nước thật sự là công bộc của dân. Nếu
thấu hiểu và làm đúng tư cách đó thì mỗi cán bộ, công chức có thể phòng,
tránh, ngăn ngừa không phạm phải những lỗi lầm kể trên. Còn nếu: “Ai đã
phạm những lầm lỗi trên đây là phải hết sức sửa chữa, nếu không tự sửa
chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung”
7
Nói tóm lại toàn bộ tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề dân chủ là
làm sao xây dựng một chế độ do dân, mục đích đem lại đời sống tinh thần
và vật chất cho nhân dân ngày càng tốt hơn. Đây là ham muốn, ham muốn
tột bậc của Người.
5 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, T10. Tr 47-48
6 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, T10, tr.152.
7Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, T10, Tr. 58
11
Nói về vai trò của nhà nước trong việc thực hiện dân chủ, Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định dân chủ cho nhân dân lao động được thực hiện
bằng nhà nước. Với quan điểm đó, sau cách mạng tháng Tám năm 1945,
ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, mặc dù còn bề bộn
công việc chống giặc đói, giặc dốt, Người đã đưa ra chủ trương nhanh
chóng tổ chức tổng tuyển cử, thành lập Quốc hội để quản lý mọi hoạt động
xã hội; đồng thời công tác soạn thảo và ban hành Hiến pháp đã được Người
đưa vào chương trình nghị sự. Việc thể hiện rõ tinh thần dân chủ của chế độ
ta và trở thành “dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có
tài, có đức, để gánh vác công việc nước nhà”. Trong cuộc tổng tuyển cử đó,

“những người muốn lo việc nước… đều có quyền ra ứng cử.
Nhân dân trong quan niệm của Hồ Chí Minh không hề mâu thuẫn với
lý luận giai cấp kinh điển, nhưng cũng không phải là cách hiểu cứng nhắc
về liên minh giai cấp. Theo Người, “Nhân dân là bốn giai cấp: công, nông,
tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và
của Đảng, các giai cấp này đoàn kết lại, bầu ra chính phủ của mình”. Nhân
dân không những là người bầu ra, mà còn người kiểm soát nhà nước, xem
đó là một điều kiện để nhà nước làm tròn nhiệm vụ của mình.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói “làm sao cho nhân dân
biết hưởng quyền dân chủ” của mình. Điều ấy cho thấy Người rất trăn trở
với vấn đề quan hệ giữa chính quyền nhà nước và nhân dân. Ngay sau khi
giành được chính quyền, Người đã nhắc nhở các nhân viên chính quyền
nhà nước: “chúng ta phải hiểu rằng các cơ quan của Chính phủ từ toàn
quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc
chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân”. Người còn nói: “nước ta là
nước dân chủ”, địa vị cao nhất là dân “quyền hành lực lượng đều ở nơi
dân”, “chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương do dân bầu cử ra, toàn
thể từ trung ương đến địa phương xã do dân tổ chức nên”.
12
Thực hiện quyền dân chủ của nhân dân sẽ phát động được sức mạnh
vô tận của khối quần chúng đông đảo để đưa sự nghiệp cách mạng tới
thành công, dù khó khăn gian khổ tới đâu: “có phát huy dân chủ đến cao độ
thì mới động viên được tất cả lực lượng nhân dân đưa cách mạng tiến lên”.
Người còn nhấn mạnh “thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể
giải quyết được mọi khó khăn”
Chủ tịch Hồ Chí minh chủ trương thông qua thực tiễn thực hiện dân
chủ để nâng cao ý thức dân chủ của nhân dân và Người nhấn mạnh: “Nhà
nước phải phát triển dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, để phát
huy tích cực và sức sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người công dân
Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc nhà nước”. Chủ tịch Hồ Chí

minh thường xuyên chủ trương: “đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận
và tìm cách giải quyết”.
Theo Hồ Chí Minh giá trị và ý nghĩa của dân chủ chỉ có được khi và
chỉ khi nhân dân lao động thực hiện được quyền lợi thiết thực. Một nhà
nước dân chủ là một nhà nước thể hiện ý chí và quyền lực của dân, mưu
cầu hạnh phúc cho dân, phụng sự lợi ích của dân, thoả mãn những nhu cầu
hợp lý của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Những nhu cầu lợi ích đó
phải được thực hiện một cách công bằng, chính đáng, bảo đảm sự phát triển
hài hoà của các cá nhân và mục tiêu phát triển chung của xã hội. Nhà nước
sẽ không làm tròn chức năng của mình nếu rơi vào chủ nghĩa quan liêu. Nó
chỉ thực hiện tốt chức năng của mình khi phát huy được mọi khả năng của
quần chúng, phải đảm bảo cho dân có quyền thực sự tham gia quản lý nhà
nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nhà nước là nhà nước của dân, do
dân, vì dân đó là nhà nước dân chủ tiến bộ, nhưng nhà nước đó sẽ quan
liêu, mất dân chủ khi đội ngũ cán bộ của nó xa dân, không gần dân, học
dân, không chú ý lắng nghe ý kiến và nguyện vọng của dân. Người từng
viết: “Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê
13
bình để làm tròn nhiệm vụ của mình là người đầy tớ trung thành, tận tuỵ
của nhân dân ta”. Không dừng lại ở đó, theo Hồ Chí minh, nhân dân còn là
người có quyền bãi miễn không chỉ quan chức các cấp, mà còn có cả quyền
bãi toàn thể chính phủ khi khẳng định rằng: “Nếu Chính phủ làm hại dân
thì dân có quyền đuổi Chính phủ”.
Hoàn chỉnh Hiến pháp và pháp luật phải đi đôi với hoàn chỉnh về tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước làm cho hệ thống lập pháp, hành
pháp và tư pháp thực sự trở thành một bộ máy hoạt động thống nhất vì lợi
ích của nhân dân. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh rất chú trọng khắc phục
những khuyết tật trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Tình
trạng những người có chức có quyền xa dân, gây phiền hà, sách nhiễu, ức
hiếp nhân dân, vi phạm quyền dân chủ của người dân, vi phạm kỷ cương,

phép nước… đều được coi là những căn bệnh phản dân chủ cần phải kiên
quyết loại bỏ.
1.3. Đường lối nghị quyết của Đảng và văn bản pháp luật của
Nhà nước Việt Nam về dân chủ
Trải qua trên 80 năm lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập dân
tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta bao giờ cũng coi dân chủ là một
nội dung quan trọng trong đường lối cách mạng của mình. Mở rộng dân
chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân vừa là mục
tiêu, vừa là động lực để nhân dân ta vượt qua khó khăn, thực hiện thắng lợi
mọi nhiệm vụ chiến lược lại vừa là bản chất, là đặc trưng của chế độ mới.
Những yếu tố dân chủ, tinh thần dân chủ, “lấy dân làm gốc” , “coi dân là
trọng” vốn đã hình thành trong lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân
dân ta từ mấy nghìn năm nay đã được Đảng ta kế thừa và phát huy trong
điều kiện mới.
14
Trong bản Tuyên ngôn Độc lập Bác Hồ đọc tại Quảng Trường Ba
Đình lịch sử ngày 02/9/1945 thì cụm từ dân chủ đã gắn liền với tên nước
(nước Việt Nam dân chủ cộng hoà).
Bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam được Quốc hội nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà thông qua ngày 09/11/1946 tại điều 1 ghi rõ: “Nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà là một nước dân chủ cộng hoà”. Tiếp đến hiến
pháp năm 1959, được Quốc hội thông qua ngày 31/12/1959 tại điều 4 hiến
pháp khẳng định: “tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
đều thuộc về nhân dân”. Điều 6 Hiến pháp năm 1980 Quốc hội thông qua
ngày 18/12/1989 tiếp tục khẳng định: “Ở nước cộng hoà XHCN Việt Nam,
tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”. Điều 2 Hiến pháp 1992 ngày
15/4/1992 khẳng định: “Nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam là nhà nước
của nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”.
Thể chế hoá cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ xây dựng
CNXH, kế thừa Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm

1980 và Hiến pháp năm 1992, ngày 28/11/2013 Hiến pháp nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi Hiến pháp 1992) được Quốc hội khoá
XIII kỳ họp thứ VI thông qua ngày 28/11/2013: Trong chương I “Chế độ
chính trị” khẳng định: Điều 1. Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Nước CNXH Việt Nam do nhân dân làm chủ; Tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Điều 2. Nhà
nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục
15
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta đã đẩy mạnh việc thực hiện dân
chủ trên các lĩnh vực tư tưởng, chính trị và đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế.
Vấn đề dân chủ từng bước được thể chế hoá, trước hết là ở lĩnh vực kinh tế,
thể hiện cách nhìn mới, cách tiếp cận mới, thực tiễn hơn, biện chứng hơn
về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu do đổi mới mang lại đã
góp phần làm thay đổi đời sống kinh tế, trên cơ sở đó Đảng và Nhà nước
ta, nhân dân ta có điều kiện để nhìn nhận sâu sắc hơn về các vấn đề dân
chủ trong chính trị, trong quản lý nhà nước. Chính vì thế mà các nhiệm kỳ
Đại hội VII, Đại hội VIII đã dành sự chú ý thích đảng đến dân chủ trong
chính trị, đã đặt ra một cách dứt khoát mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách nền hành chính vốn nặng nề và trì trệ của
chế độ tập trung quan liêu bao cấp trước đây.
Trong bối cảnh đó Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VIII) của Đảng đã
ra đời và nhấn mạnh về vấn đề phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Bộ
Chính trị đã ra Chỉ thị số 30/CT-TW ngày 18/2/1988 về việc xây dựng và

thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Chỉ thị nhấn mạnh “Để giữ vững và
phát huy được bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta phái phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, thu hút nhân dân quản lý nhà nước tham gia kiểm kê,
kiểm soát nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ
vì nạn tham nhũng. Khâu quan trọng và trước mắt là phát huy quyền làm
chủ của nhân dân ở cơ sở, nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi thực hiện quyền dân chủ của
nhân dân”.
Chỉ thị yêu cầu Nhà nước cần ban hành Quy chế dân chủ ở cơ sở có
tính pháp lý, yêu cầu mọi người, mọi tổ chức ở cơ sở đều phải nghiêm
chỉnh thực hiện. Quy chế dân chủ cần được xây dựng cho từng loại cơ sở
16
xã, phương, doanh nghiệp, bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu, cơ quan
hành chính… phù hợp với đặc điểm của từng loại cơ sở.
Nghị quyết số 45/1998/NQ-UBTVQH khoá X ngày 26/2/1998 để
phát huy vai trò làm chủ của nhân dân ở cơ sở thực hiện phương châm “dân
biết, dân bàn, dân kiểm tra” thể hiện bản chất Nhà nước cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân đã giao cho
chính phủ ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Nghị quyết số 55/1998/NQ-UBTVQH ngày 30/7/1998 để phát huy
vai trò làm chủ của cán bộ công chức trong cơ quan nhà nước thực hiện
phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Giao cho Chính phủ
ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của các cơ quan hành
chính nhà nước.
Nghị quyết số 60/1998/NQ-UBTVQH ngày 20/8/1998 để phát huy
vai trò làm chủ của công nhân viên chức trong doanh nghiệp nhà nước góp
phần tạo dựng và phát triển sản xuất bảo đảm hài hoà lợi ích của nhà nước,
của doanh nghiệp và của công nhân viên chức, người lao động; giao cho
Chính phủ ban hành thực hiện quy chế dân chủ ở doanh nghiệp Nhà nước.
Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị và các Nghị quyết của Uỷ ban

Thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã ban hành nghị số 29/1998/NĐ-CP ngày
11/5/1998 về thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Nghị định
số 71/1998/NĐCP ngày 08/9/1998 về thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt
động của cơ quan nhà nước và Nghị định số 07/1999/NĐCP ngày
13/2/1999 về thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động của các doanh
nghiệp nhà nước.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX được coi là đại hội của trí tuệ, dân
chủ đoàn kết, đổi mới khẳng định lại mục tiêu xây dựng một chế độ dân
chủ thông qua Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách các thể chế
và phương thức hoạt động của Nhà nước, mở rộng và đa dạng hoá các hình
17
thức tập hợp nhân dân. Coi đoàn kết dân tộc là động lực của phát triển xã
hội. Đại hội đã đưa “dân chủ” thành một trong năm mục tiêu quan trọng
của cách mạng nước ta trong thời kỳ mới: dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X là đại hội “trí tuệ, đổi mới, đoàn
kết và phát triển bền vững” với chủ đề là: Nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn
diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.
Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tiếp tục nhấn mạnh và khẳng
định: dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển; Đảng
CSVN gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát
của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của
mình.
Những quan điểm trên đã được luật hoá thành những nguyên tắc
Hiến định trong các bản Hiến pháp của nước ta từ khi Nhà nước dân chủ ra
đời đến nay. Các bản Hiến pháp đều ghi rõ: ở nước ta tất cả các quyền lực
trong nước đều thuộc về nhân dân, thể chế qua các nguyên tác:

Thứ nhất, đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, trai gái, giai
cấp, tôn giáo (đây là lực lượng của dân chủ).
Thứ hai, bảo đảm các quyền tự do dân chủ (nội dung của dân chủ).
Thứ ba, thực hiện một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân
dân (đây là phương thức thực thi dân chủ).
Ba nguyên tắc chung trên đây đã phản ánh đầy đủ những yêu cầu nội
dung của dân chủ mà ngày nay chúng ta đang phấn đấu thực hiện.
Trong suốt quá trình xây dựng một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, Đảng và Nhà nước ta đã có những nỗ lực không ngừng để xây
18
dựng những nguyên tắc vận hành, thể chế hoá mục tiêu, đưa ra những
phương châm hoạt động cho nền dân chủ. Đó là cơ chế: Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ với mục tiêu: Nhà nước của dân, do
dân, vì dân và phương châm: dân biết, dân bàn, dân kiểm tra. Nhờ vậy dưới
sự lãnh đạo của Đảng trong đời sống xã hội ở nước ta, dân chủ đã đạt được
những thành tựu nhất định. Các thể chế của nền dân chủ đang từng bước
được mở rộng và hoàn thiện.
1.4. Vai trò của Nhà nước Việt Nam với thực hiện dân chủ.
Để nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam hoàn thành được vai trò là
công cụ chủ yếu thực hiện quyền dân chủ của công dân, nó cần được tổ
chức theo nguyên tắc nhà nước của dân, do dân, vì dân với một số đặc
trưng cơ bản sau:
Một là, Nhà nước phải tôn trọng tính tối cao của pháp luật và đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc tôn trọng tính tối cao
của pháp luật với việc đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng đối nhà nước
không loại trừ mà thống nhất với nhau. Đó là vì, mọi đường lối chủ trương
đúng đắn của Đảng đều là sự kết tinh ý lợi ích chính đáng của nhân dân.
Đường lối đó được thể chế thành Hiến pháp, pháp luật. Rút cuộc, pháp luật
XHCN thực chất là thể chế hoá quyền dân chủ của nhân dân; đề cao Hiến
pháp, pháp luật chính là đề cao quyền lực của nhân dân.

Hai là, trong tổ chức và hoạt động của mình, quyền lực nhà nước là
thống nhất, không phân chia nhưng có sự phân công và phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp.
Quyền lực nhà nước là thống nhất. Điều đó xuất phát từ quan điểm:
trong chủ nghĩa xã hội “tất cả quyền lực thuộc về nhân dân” nhân dân là
chủ thể của quyền lực nhà nước. Trong cơ chế tập trung thống nhất đo,
trong mỗi cơ quan nhà nước khác nhau (cơ quan lập pháp, cơ quan hành
19
pháp cơ quan tư pháp) có chức năng và vị trí không như nhau trong việc
thực hiện các quyền lực trên, nhưng không có bất kỳ cơ quan nhà nước nào
trong số đó đứng biệt lập ra lại có thể thực hiện đầy đủ chức năng của
mình. Do vậy sự phố hợp giữa các cơ quan đó là điều kiện cần thiết.
Ba là, trong tổ chức và hoạt động của mình, nhà nước pháp quyền
XHCN quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ. Chỉ khi đó mới bảo đảm sự
thống nhất tổ chức và hành động, phát huy đồng bộ và kết hợp chặt chẽ sức
mạnh của cả cộng đồng và từng cá nhân, của cả nước và từng địa phương,
của cả hệ thống bộ máy và từng tổ chức cấu thành nó. Tập trung dân chủ
đối lập với tập trung quan liêu cũng như phân tán cục bộ.
Bốn là, Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội theo pháp luật và
bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục nâng cao đạo đức XHCN cho
nhân dân.
Pháp luật phải trở thành công cụ điều tiết chủ yếu các quan hệ xã hội
nhất là trong xã hội dân chủ, như C.mác đã khẳng định: Dưới chế độ dân
chủ, không phải con người tồn tại vì luật pháp, mà luật pháp tồn tại vì con
người… chỉ có chế độ dân chủ mới là sự thống nhất chân chính giữa cái
phổ biến và cái đặc thù. Nhà nước được tổ chức, hoạt động phù hợp với
pháp luật, pháp luật phải được chấp hành nghiêm minh và thống nhất đối
với mọi cá nhân và tổ chức. Bảo vệ pháp luật, giữ vững kỷ cương xã hội có
ý nghĩa to lớn trong việc thực hiện dân chủ của nhân dân. Muốn vậy, nhà

nước phải bảo đảm tính tối ca của pháp luật mà đi vào cuộc sống. Pháp luật
là cơ sở để thực hiện dân chủ, là nhân tố đảm bảo quyền tự do của cá nhân
và cộng đồng. Nhà nước cần hoàn thiện lại hệ thống pháp luật về sản xuất
kinh doanh, về quyền sở hữu và quyền tự do trên lĩnh vực dân sự, sau đó là
các quyền an ninh chính trị và các quyền tự do của tập thể, của xã hội;
trong đó vai trò của nhà nước và pháp luật là cơ sở, là thước đo của tự do,
nhân đạo, công bằng và bình đẳng.
20
Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là chủ sở hữu đối với những tư
liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, có trong tay phần lớn cơ sở vật chất kỹ
thuật của đất nước; nhà nước là tác nhân hàng đầu trong quá trình tăng
trưởng kinh tế và phát triển mọi mặt của đời sống xã hội. Do có năng lực
tác động nhiều mặt và đồng bộ đối với đời sống của quốc gia nên nhà nước
đóng vai trò là cơ sở vững chắc để bảo vệ và đảm bảo thực hiện quyền lực
của nhân dân.
Nhà nước là tổ chức duy nhất trong hệ thống chính trị có quyền ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật thể hiện ý chí và thực hiện quyền lực
của nhân dân lao động, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, không
ngừng tăng cường pháp chế XHCN.
Vai trò của nhà nước XHCN là bảo đảm công dân có được sự an toàn
pháp lý, được hưởng các chế độ tự do căn bản, bảo hộ họ trong trường hợp
các quyền tự do cơ bản đó bị vi phạm kể cả từ phía các cơ quan nhà nước
và những người có chức vụ. Xây dựng một xã hội đồng trách nhiệm giữa
công dân với nhà nước, công dân có trách nhiệm với nhà nước như thế nào
thì nhà nước có trách nhiệm với công dân như vậy.
Trong khi xem trọng công cụ pháp luật, việc giáo dục đạo đức
XHCN không những góp phần nâng cao tính tích cực, tự giác của mọi
người, mọi tổ chức trong việc thực hiện hiến pháp, pháp luật mà nó còn có
vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh một số mối quan hệ xã hội và pháp
luật không thể bao quát hết được.

Năm là, Nhà nước thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân dựa
trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
tầng lớp trí thức đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp
công nhân và giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
21
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhà nước là công cụ
chuyên chính của giai cấp thống trị về chính trị. Nguyên lý này đúng với
mọi nhà nước nói chung, nhưng với nhà nước ta do những đặc điểm về bản
chất giai cấp, nó lại là sự thể hiện của nền dân chủ cao nhất, do đó nó có
vai trò sáng tạo lớn nhất trong việc xây dựng xã hội mới xã hội XHCN, mà
đặc điểm cơ bản là:
- Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước ta trong thời kỳ quá
độ lên CNXH đã được Đảng ta chỉ rõ Nhà nước ta: “Là tổ chức thể hiện và
thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân”.
Nguyên tắc tối cao của nhà nước ta là “Tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân”. Nhân dân là một cộng đồng gồm nhiều dân tộc, có các
giai cấp và tầng lớp khác nhau sống trên cùng một lãnh thổ quốc gia, có
những lợi ích căn bản thống nhất và có mục đích chung là đi lên XHCN;
nhưng cũng có những mâu thuẫn nhất định mà nhà nước phải quản lý thống
nhất và điều chỉnh bằng pháp luật.
Cộng đồng nhân dân Việt Nam, trong đó từng cá nhân, từng công dân
không những không mất địa vị làm chủ của mình, mà còn được nhà nước
bảo đảm bằng luật pháp về quyền con người và các quyền công dân. Nhân
dân thực hiện quyền lực nhà nước và quyền làm chủ xã hội không phải với tư
cách từng người riêng rẽ, có lợi ích cá nhân tách rời và trái ngược với lợi ích
của cộng đồng. Thực hiện quyền lực nhà nước và quyền làm chủ xã hội không
những không thủ tiêu mà còn khẳng định sự tồn tại và tôn trọng, bảo vệ địa vị

làm chủ của từng cá nhân hoà hợp với cộng đồng.
Nhận thức khái niệm nhân dân như vậy mới xác định được: “Tất cả
quyền lực thuộc về nhân dân”. Quyền lực ấy nằm trong tay nhân dân có tổ
chức, không phải từng nhóm người hay cá nhân rời rạc mà là tổ chức cao
nhất là nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam.
22
Nhà nước Việt Nam do giai cấp công nhân liên minh với giai cấp
nông dân và đội ngũ tri thức; liên minh với tất cả các tầng lớp nhân dân lao
động khác và hơn nữa thu hút cả thành phần tư sản đang tồn tại và phát
triển một cách hợp pháp. Đó là nhà nước bảo đảm xây dựng xã hội đi theo
con đường XHCN, theo lý tưởng của giai cấp công nhân, mà cũng là
nguyện vọng của nhân dân lao động, của dân tộc. Cho nên Nhà nước ta
không chỉ riêng giai cấp công nhân, mà là một nhà nước “của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân”, một nhà nước mang đậm tính nhân dân và tính dân tộc.
- Nhà nước ta là nhà nước của chế độ nhân dân lao động làm chủ xã
hội, làm chủ quyền lực chính trị thông qua nhà nước của mình. Do vậy nền
dân chủ XHCN là hình thức tổ chức của nhà nước. Một mặt nhà nước thực
hiện dân chủ với đại đa số nhân dân, chuyên chính với kẻ thù của CNXH;
mặt khác quan trọng hơn và khó khăn hơn là tổ chức, xây dựng lên một xã
hội mới – xã hội XHCN và quản lý mọi mặt của đời sống xã hội ấy không
ngừng phát triển.
23
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG THỰC HIỆN
DÂN CHỦ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
2.1. Những thành tựu đã đạt được
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã
đạt những thành tựu lớn trong việc thực hiện mục tiêu dân chủ ở nước ta.
Tổ chức và hoạt động của nhà nước đã có nhiều tiến bộ trên các lĩnh vực
lập pháp, hành pháp và tư pháp, từ cơ cấu tổ chức đến cơ chế hoạt động;

hiệu quả và chất lượng bộ máy nhà nước được nâng cao. Dân chủ tiếp tục
được phát huy trên nhiều lĩnh vực. Dân chủ về kinh tế ngày càng được mở
rộng đã tác động tích cực đến việc giải phóng sức sản xuất, tốc độ tăng
trưởng GDP năm sau cao hơn năm trước. Kinh tế vĩ mô tương đối ổn định,
các mối quan hệ và cân đối chủ yếu trong nền kinh tế được cải thiện đáng
kể. Nhìn chung đời sống của nhân dân đã được nâng lên. Dân chủ về chính
trị có bước tiến quan trọng trong việc xây dựng hiến pháp và các bộ luật, ở
việc bầu cử dân chủ các cơ quan dân cử, ở chất lượng các kỳ họp Quốc hội,
Hội đồng nhân dân các cấp, hoạt động điều hành của Chính phủ, hoạt động
của Viện kiểm sát và Tòa án các cấp, cũng như tại các cuộc thảo luận của
nhân dân tham gia ý kiến xây dựng các dự án luật , trên tinh thần dân chủ
cùng thảo luận và biểu quyết công khai thật sự trên mọi diễn đàn và hoạt
động của các cơ quan Quốc hội và Chính phủ. Đồng thời, hệ thống hành
chính nhà nước các cấp đang được đổi mới từng bước cả trong thể chế,
chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức , chuyển dần sang phương thức
quản lý xã hội chủ yếu bằng pháp luật, phân biệt chức năng quản lý vĩ mô
của nhà nước với quyền tự do kinh doanh của các đơn vị kinh tế.
24
- Quốc hội đã có nhiều đổi mới về nội dung và phương thức hoạt
động, các buổi họp đã được truyền hình trực tiếp, các cuộc tranh luận chất
vấn giữa đại biểu Quốc hội và các thành viên Chính phủ đã được công
khai, hình thành cơ chế giải quyết kiến nghị của dân thông qua việc tiếp
xúc giữa đại biểu Quốc hội với cử tri. Lòng tin và sự tín nhiệm của dân đối
với Quốc hội được nâng lên. Trong việc bầu các cơ quan dân cử đã thực
hiện tốt hơn quyền đề cử, ứng cử, lựa chọn các đại biểu có chất lượng cao
hơn vào các cơ quan quyền lực nhà nước. Quốc hội khoá XI đã được cơ
cấu 25% đại biểu chuyên trách sẽ tạo cơ sở, nền tảng cho mọi hoạt động
của Quốc hội có chất lượng và hiệu quả hơn.
Về hoạt động lập pháp, Quốc hội đã ban hành nhiều Bộ luật, luật,
pháp lệnh, thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, cụ thể hóa các quy

định của Hiến pháp nhằm tăng cường pháp chế XHCN, bảo vệ phát huy
quyền dân chủ của nhân dân. Dân chủ trực tiếp ngày càng được mở rộng và
thực chất, dân chủ đại diện việc tổ chức lấy ý kiến của nhân dân về các dự
án luật quan trọng ngày càng được đề cao, đã trở thành các cuộc sinh hoạt
chính trị sôi nổi, rộng khắp trong cả nước. Đặc biệt năm 2013, chúng ta đã
tiến hành đợt sinh hoạt chính trị dân chủ, sâu rộng để tranh thủ trí tuệ, ý chí
của toàn dân trong việc sửa đổi xây dựng hiến pháp. Hiến pháp nước cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28 tháng 11
năm 2013. Hiến pháp sửa đổi năm 2013 được thông qua đã mở ra một
không gian hiến định để hoàn thiện thể chế tốt hơn phát huy quyền làm chủ
của nhân dân. Về hoạt động giám sát, Quốc hội đã quan tâm giám sát việc
thực hiện các giải pháp chống tham nhũng, buôn lậu, chống tệ nạn xã hội,
lập lại kỷ cương trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, đất đai, xuất nhập
khẩu và hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Hoạt động giám sát
của Quốc hội đã góp phàn bảo đảm cho bộ máy nhà nước hoạt động đúng
25

×