z
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
***************
TIỂU LUẬN
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CHỦ NGHĨA MAC-LENIN
ĐỀ TÀI
QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP
VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ
VẬN DỤNG VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Giáo viên hướng dẫn Trần Huy Quang
Sinh viên thực hiện Diêm Thùy Dung
Lớp A8-TC-Khối 2-K48
Khoa Tài Chính-Ngân Hàng
Hà Nội,ngày 15 tháng 11 năm 2014
MỤC LỤC
A. Mở đầu.
B. Nội dung.
I. Đặt vấn đề.
II. Giải quyết vấn đề.
1. Khái niệm về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
a) Khái niệm về lực lượng sản xuất.
b) Khái niệm về quan hệ sản xuất.
2. Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất.
a) Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
b) Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất mâu thuẫn hay phù hợp.
c) Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất.
3. Sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất vào sự nghiệp đổi mới của nước ta hiện
nay.
C. Kết luận.
A. MỞ ĐẦU
Từ khi khai sinh, tư duy và nhận thức của con người không ngừng được nâng cao và
ngày càng phát triển hoàn thiện hơn. Chính sự thay đổi đó đã kéo theo những sự thay đổi
về sự phát triển của lực lượng sản xuất cũng như quan hệ sản xuất.
Ba trường phái triết học trong lịch sử là: chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm và
trường phái nhị nguyên luận đều thống nhất rằng: sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ
sản xuất với lực lượng sản xuất cũng như sự thống nhất giữa hai mặt đối lập tạo nên
chỉnh thể của nền sản xuất xã hội. Tác động qua lại biện chứng giữa lực lượng sản xuất
với quan hệ sản xuất đã được Mac và Ăng- ghen nghiên cứu, lý luận không chỉ trên
phương diện triết học mà cả chính trị, kinh tế học và chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
một quy luật tất yếu cần có để phát triển một nền kinh tế. Vì vậy, nghiên cứu về quy luật
này sẽ giúp cho mỗi sinh viên chúng ta, đặc biệt là sinh viên khối Kinh tế, có thêm hiểu
biết sâu sắc hơn về quy luật vận động và phát triển của nền kinh tế, để từ đó góp phần
xây dựng đất nước giàu mạnh hơn. Đây cũng chính là lý do khiến cho một sinh viên học
về lĩnh vực Kinh tế như em chọn đề tài : “Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất và vận dụng vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta
hiện nay”
Do sự hiểu biết các vấn đề còn chưa sâu sắc nên chắc chắn tiểu luận của em còn có
nhiều sai sót. Bởi vậy em mong được sự chỉ bảo, giúp đỡ của thầy để có thể sửa chữa,
khắc phục những mặt kiến thức còn yếu của mình và để bài viết có thể hoàn thiện hơn.
B. NỘI DUNG
I. Đặt vấn đề:
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng
tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy
luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
quy luật cơ bản, phổ biến nhất của sự vận động phát triển của xã hội trong toàn tiến trình
lịch sử của nhân loại.
Sự vận động, phát triển cùa lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ
sản xuất cho phù hợp với nó. Ngược lại, quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương và
tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nó là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển. Ngược lại, khi quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc tiên tiến hơn một cách
giả tạo so với trình độ phát triển củ lực lượng sản xuất sẽ lại kìm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Do đó, việc giải quyết mâu thẫu giữa quan hệ sản xuất và lực lượng
sản xuất có ý nghĩa hết sức to lớn. Tuy nhiên, việc nắm bắt được quy luật này không phải
là đơn giản. Nhận biết được một quan hệ sản xuất có phù hộ với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất hay không hoàn toàn phải phụ thuộc vào thực tiễn và kinh nghiệm của
bản thân.
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây, chúng ta đã không có được sự
nhận thức đúng đắn về quy luật của sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất. Cơ chế quan liêu, bao cấp đã bóp méo các yếu tố của quan hệ sản xuất, kìm hãm lực
lượng sản xuất, kết quả của sự không phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất đã làm cho mâu thẫu giữa chúng trở nên gay gắt. Điều đó khiến cho nền kinh tế Việt
Nam phải ở trong tình trạng khủng hoảng, trì trệ một thời gian dài.
Chính vì vậy, việc đưa nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ, tác động qua lại
lẫn nhau giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có ý nghĩa vô cùng to lớn, đặc biệt
là trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay.
II. Giải quyết vấn đề:
1. Khái niệm về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:
a) Khái niệm về lực lượng sản xuất (LLSX):
Lực lượng sản xuất là một kết cấu vật chất, bao gồm người lao động với kỹ năng lao
động của họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, thể hiện trình độ chinh
phục tự nhiên của con người.
LLSX biểu hiện trình độ chinh phục của con người và quan hệ của con người với
thiên nhiên trong từng giai đoạn lịch sử, là sự thống nhất hữu cơ giữa lao động đã tích lũy
(tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ lao động) với lao động sống (những người sử
dụng tư liệu sản xuất) để sản xuất của cải nhằm đáp ứng những nhu cầu sinh sống và phát
triển của con người trong mọi xã hội. LLSX chủ yếu là người lao động, có thói quen và
kỹ năng lao động, có kinh nghiệm, tri thức và trình độ chuyên môn – kỹ thuật kết hợp với
những yếu tố vật chất của sản xuất như tư liệu sản xuất (tức công cụ lao động và đối
tượng lao động).
- Đối tượng lao động là những gì mà con người tác động đến trong khi sản xuất và để
tạo ra của cải vật chất (đất đai, sông, rừng, nguyên liệu, khoáng sản,…).
- Tư liệu lao động hay công cụ lao động là tổng hợp những vật thể mà con người làm
cho thích ứng và dùng làm vật dẫn tác động đến đối tượng lao động nhằm tạo ra sản
phẩm (gồm: dụng cụ, máy móc, những thiết bị phức hợp và cả những phương tiện phục
vụ sản xuất như hệ thống chứa đựng, chuyên chở, thông tin, đường sá, nhà cửa, công
trình và những cấu trúc hạ tầng khác).
Trong mọi thời đại, công cụ lao động luôn là yếu tố quan trọng nhất của LLSX. Bởi
vậy, khi công cụ lao động đã đạt đến trình độ tin học hóa, được tự động hóa như ngày nay
thì vai trò của nó lại càng được nâng cao. Chính vì thế, có thể nói rằng trình độ phát triển
của tư liệu lao động mà chủ yếu là công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự
nhiên của loài người, là cơ sở xác định trình độ phát triển của sản xuất, là tiêu chuẩn để
phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế. Tuy nhiên Lênin viết: “Lực lượng sản
xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, người lao động”, có thể coi yếu tố
quan trọng nhất trong LLSX chính là con người. Trong thời đại ngày nay, khoa học đã
phát triển tới mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản
xuất và đời sống. Nó đã trở thành LLSX trực tiếp. Nó vừa là ngành sản xuất riêng, vừa
thâm nhập vào các yếu tố cấu thành LLSX, đem lại thay đổi về chất cho LLSX.
Khoa học và công nghệ hiện đại chính là đặc điểm thời đại của sản xuất. Nó hoàn
toàn có thể coi là đặc trưng cho LLSX hiện đại.
b) Khái niệm về quan hệ sản xuất (QHSX):
Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế - xã hội giữa người với người, hình thành một
cách khách quan trong quá trình sản xuất và vận động của sản phẩm xã hội từ sản xuất
đến tiêu dùng. Về cơ bản, QHSX thể hiện ở mặt quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản
xuất. Bản chất của QHSX do chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định.
Với tính chất là những quan hệ kinh tế khách quan không phụ thuộc vào ý muốn của
con người, quan hệ sản xuất là những quan hệ mang tính vật chất của đời sống xã hội.
QHSX là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất và là cơ sở của đời sống xã hội.
QHSX gồm 3 mặt:
- Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, tức là quan hệ giữa người với tư liệu sản xuất.
Tính chất của QHSX trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất
– Biểu hiện thành chế độ sở hữu. Trong hệ thống các QHSX thì quan hệ sở hữu về tư liệu
sản xuất có vai trò quyết định đối với các quan hệ xã hội khác.
Trong các hình thái kinh tế xã hội mà loài người đã từng trải qua, lịch sử đã được
chứng kiến sự tồn tại của 2 loại hình sở hữu cơ bản đối với tư liệu sản xuất: sở hữu tư
nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu công cộng là loại hình mà trong đó tư liệu sản xuất
thuộc về mọi thành viên của cộng đồng. Do tư liệu sản xuất là tài sản chung của cả cộng
đồng nên các quan hệ xã hội trong sản xuất và trong đời sống xã hội nói chung trở thành
quan hệ hợp tác giúp đỡ nhau. Ngược lại, trong các chế độ tư hữu, do tư liệu sản xuất chỉ
nằm trong tay một số người nên của cải xã hội không thuộc về số đông mà thuộc về một
số ít người, do vậy gây nên sự bất bình đẳng.
- Quan hệ tổ chức và quản lý kinh doanh sản xuất: Tức là quan hệ giữa người với
người trong sản xuất và trong trao đổi vật chất của cải. Trong hệ thống các quan hệ sản
xuất, các quan hệ về mặt tổ chức quản lý sản xuất là các quan hệ có khả năng quyết định
một cách quy mô tốc độ hiệu quả và xu hướng mỗi nền sản xuất cụ thể, đi ngược lại các
quan hệ quản lý và tổ chức có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu, ảnh hưởng tiêu cực đến
kinh tế xã hội.
- Quan hệ phân phối sản xuất sản phẩm: tức là quan hệ chặt trẽ với nhau, cùng mục
tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu quả tư liệu sản xuất để làm cho chúng không
ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, nâng cao phúc lợi cho người lao
động. Bên cạnh các quan hệ về mặt tổ chức quản lý, trong hệ thống quan hệ sản xuất, các
quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao động cũng là những nhân tố có ý nghĩa hết sức to
lớn đối với sự vận động của toàn bộ nền kinh tế. Quan hệ phân phối có thể thúc đẩy tốc
độ và nhịp điệu của sản xuất nhưng ngược lại nó cũng có khả năng kìm hãm sản xuất,
kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Nếu xét riêng trong phạm vi một quan hệ sản xuất nhất đình thì tính chất sở hữu
quyết định tính chất của quản lý và phân phối. Mặt khác, trong mỗi hình thái kinh tế xã
hội nhất định, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chi phối các quan hệ
sản xuất khác, ít nhiều cải biến chúng để chẳng những chung không đối lập mà phục vụ
đắc lực cho sự tồn tại và phát triển của kinh tế xã hội.
Như vậy, QHSX gồm những quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu tư
liệu sản xuất, trong sự trao đổi hoạt động lẫn nhau, trong hình thức phân phối sản phẩm
và trong quá trình quản lý hoạt động kinh tế từ sản xuất, phân phối, lưu thông (trao đổi)
đến tiêu dùng.
Tất cả các mối quan hệ đó được hình thành về cơ bản phụ thuộc vào chế độ sở hữu.
Mỗi phương thức sản xuất nhất định trong lịch sử có một tổng thể các QHSX riêng của
nó, trong đó có một loại hình QHSX chủ đạo, có vai trò quyết định. Trong các hình thái
xã hội có đối kháng giai cấp, đã nảy sinh quan hệ thống trị và bị trị, sản xuất phục tùng
lợi ích của giai cấp bóc lột. QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là một quy luật.
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ cấu xã hội của một nước chưa thuần
nhất, các lực lượng sản xuất phát triển với quy mô và trình độ khác nhau, cho nên có sự
đa dạng các hình thức sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
phải thường xuyên hoàn thiện QHSX, duy trì sự thích ứng ổn định của nó với lực lượng
sản xuất đang phát triển, kịp thời phát hiện những mâu thuẫn giữa chúng, xem đó là tiền
đề tất yếu để thúc đẩy tiến bộ kinh tế - xã hội, từng bước đưa thành phần kinh tế xã hội
chủ nghĩa phát triển, tiến lên giữ vai trò chủ đạo.
2. Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất:
a) Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất:
LLSX là yếu tố có tác dụng quyết định đối với sự phát triển của phương thức sản
xuất. Trình độ của LLSX trong từng giai đoạn lịch sử loài người thể hiện trinh độ chinh
phục tự nhiên của loài người trong giai đoạn đó. Khái niệm trình độ của LLSX nói lên
khả năng của con người thông qua việc sử dụng công cụ lao động thực hiện quá trình cải
biến tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự sinh tồn và phát triển của mình. Trình độ LLSX thể
hiện ở: Trình độ công cụ lao động, trình độ quản lý xã hội, trình độ ứng dụng khoa học
kỹ thuật vào sản xuất, kinh nghiệm và kỹ năng của con người và trình độ phân công lao
động.
b) Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất mâu thuẫn hay phù hợp.
Như Mac đã nói: “Trong sự sản xuất xã hội, con người ta có những quan hệ nhất
định, tất yếu, không phụ thuộc vào ý muốn của họ, tức những quan hệ sản xuất, những
quy luật này phù hợp với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất của
họ…” Người ta thường coi tư tưởng này của Mac là tư tưởng về “quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”.
Các mối quan hệ trong sản xuất bao gồm nhiều dạng khác nhau mà nhìn một cách
tổng quát thì đó là những dạng QHSX và dạng những LLSX, từ đó hình thành những mối
quan hệ chủ yếu, cơ bản là mối liên hệ giữa tính chất và trình độ của LLSX. Nhưng mối
liên hệ giữa hai yếu tố cơ bản này là gì? Phù hợp hay không phù hợp? Trước hết cần xác
định khái niệm phù hợp với các ý nghĩa sau:
- Phù hợp là sự cân bằng, sự thống nhất giữa các mặt đối lập.
- Phù hợp còn là một xu hướng mà những dao động không cân bằng sẽ đạt tới.
Trong phép biên chứng, sự cân bằng chỉ là tạm thời và sự không cân bằng là tuyệt
đối. Chính đây là nguồn gốc tạo nên sự vận động và phát triển. Vì thế, có thể nói, thực
chất của quy luật về mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là quy luật mâu thuẫn, sự phù hợp
giữa chúng chỉ là yên tĩnh tạm thời, còn sự vận động, dao động, sự mâu thuẫn mới đủ khả
năng vạch ra động lực của sự phát triển, mới có thể cho ta hiểu được sự vận động của quy
luật kinh tế.
c) Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất:
QHSX và LLSX là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại tách rời nhau mà
tác động biện chứng lẫn nhau. Chính sự thống nhất và tác động giữa QHSX và LLSX đã
hình thành nên quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất.
LLSX là nhân tố thường xuyên biến đổi và phát triển. Ngược lại QHSX thường có
tính ổn định trong một thời gian dài.
Sự vận động, phát triển của LLSX quyết định và làm thay đổi QHSX cho phù hợp với
nó. Sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là một trạng thái mà trong
đó QHSX là “hình thức phát triển” của LLSX. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của
QHSX đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho LLSX phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều
kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do
đó LLSX có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.
- LLSX quyết định sự hình thành biến đổi của QHSX: LLSX là cái biến đổi đầu tiên
và luôn luôn biến đổi. Trong sản xuất, con người muốn giảm nhẹ lao động nặng nhọc, tạo
ra năng suất cao phải luôn tìm cách cải tiến công cụ lao động, chế tạo ra công cụ lao động
mới. Sự phát triển của LLSX đến một trình độ nhất định làm cho QHSX từ chỗ phù hợp
trở thành không phù hợp với sự phát triển của LLSX. Khi đó, QHSX trở thành “xiềng
xích” của LLSX, kìm hãm LLSX phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển LLSX
tất yếu dẫn đến thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới phù hợp với trình độ phát triển mới
của LLSX để thúc đẩy LLSX tiếp tục phát triển. Thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới
cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay
thế. C.Mác đã viết: "Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các LLSX vật chất
của xã hội mâu thuẫn với những QHSX hiện có trong đó từ trước đến nay các LLSX
vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của LLSX, những quan hệ ấy trở
thành những xiềng xích của các LLSX. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc Cách mạng xã
hội". Nhưng rồi QHSX mới này sẽ lại trở nên không còn phù hợp với LLSX đã phát triển
hơn nữa, sự thay thế phương thức sản xuất lại diễn ra.
- Sự tác động ngược lại của QHSX đối với LLSX: LLSX quyết định QHSX, nhưng
QHSX cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của LLSX. QHSX
quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản
xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và
công nghệ, và do đó tác động đến sự phát triển của LLSX. QHSX khi đã được xác lập
thì nó độc lập tương đối với LLSX và trở thành những cơ sở, những thể chế xã hội và nó
không thể biến đổi đồng thời đối với LLSX. QHSX nếu phù hợp với trình độ phát triển
của LLSX thì sẽ là động lực thúc đẩy LLSX phát triển. Ngược lại, QHSX lỗi thời, lạc hậu
hoặc "tiên tiến" hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của LLSX sẽ kìm hãm sự
phát triển của LLSX. Khi QHSX kìm hãm sự phát triển của LLSX, thì theo quy luật
chung, QHSX cũ sẽ được thay thế bằng QHSX mới phù hợp với trình độ phát triển của
LLSX để thúc đẩy LLSX phát triển. Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX với
QHSX không phải giản đơn. Nó phải thông qua nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội của
con người trong xã hội có giai cấp, phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách
mạng xã hội.
Chủ nghĩ duy vật lịch sử đã chứng minh vai trò quyết định của LLSX đối với QHSX,
song nó cũng chỉ rõ rằng QHSX bao giờ cũng thể hiện tính độc lập tương đối với LLSX.
QHSX tác động trở lại LLSX, nó là yếu tố quyết định, là tiền đề cho LLSX phát triển khi
nó phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Nó làm nhiệm vụ chỉ ra mục tiêu, bước đi
và tạo quy mô thích hợp cho LLSX hoạt động, cũng như đảm bảo lợi ích chính đáng cho
người lao động phát huy tính tích cực sáng tạo cho con người, là nhân tố quan trọng và
quyết định trong LLSX.
Sở dĩ QHSX có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với LLSX vì nó quyết định mục
đích sản xuất, quy định hệ thống quản lý sản xuất và quản lý xã hội, quy định phân phối
và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó tạo ra những điều
kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế sự phát triển của công cụ sản xuất áp dụng thành tựu
khoa học và sản xuất hợp tác phân công lao động.
Quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là quy luật phổ biến tác
động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân
loại từ chế độ công xã nguyên thủy, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế
độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các
quy luật xã hội, trong đó quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là quy
luật cơ bản nhất.
3. Sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất vào sự nghiệp đổi mới của nước ta hiện
nay:
Sự nghiệp đổi mới của Việt Nam được bắt đầu ngay từ giữa những năm 80 và được
triển khai mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực từ đó đến nay. Quá trình đổi mới đã đưa lại
nhiều thành tựu to lớn, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều lý luận quan trọng mà việc áp
dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX vào việc giải quyết chúng
một cách đúng đắn sẽ là cơ sở hết sức cần thiết cho việc tiếp tục hoạch định và đẩy nhanh
sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo xã hội, đẩy mạnh phát triển kinh tế, Đảng ta đang vận dụng
quy luật sao cho QHSX luôn luôn phù hợp với trình độ của LLSX. Trên thực tế, Đảng và
Nhà nước ta đang từng bước điều chỉnh QHSX cả tầm vĩ mô và vi mô, đồng thời coi
trọng việc đẩy mạnh phát triển LLSX.
Hiện nay, Đảng ta đang lãnh đạo đất nước thực hiện công cuộc công nghiệp hóa - hiện
đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Muốn làm tốt trọng trách này, thì phải tạo
điều kiện cho bản thân nền kinh tế, trong đó thành phần kinh tế tư nhân là một thành phần
rất năng động, hiệu quả. Có điều kiện này thì Đảng mới có thể có thêm kiến thức và kỹ
năng nghiệp vụ cụ thể để lãnh đạo thành công mục tiêu tăng trưởng kinh tế đó chính là
làm cho lực lượng sản xuất phát triển
Trong tiến trình lãnh đạo và quản lý đất nước của Đảng và Nhà nước ta, trong suốt
mấy chục năm qua thực tiễn đã cho thấy những mặt được cũng như những những mặt còn
hạn chế trong quá trình nắm bắt và vận dụng các quy luật kinh tế cũng như quy luật quan
hệ sản xuất - lực lượng sản xuất vào thực tiễn ở nước ta với đặc điểm của nước ta là Nước
nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, LLSX thấp kém, trình độ quản lý thấp cùng với nền sản
xuất nhỏ tự cấp, tự túc là chủ yếu. Mặt khác Nước ta là nước thuộc địa nửa phong kiến lại
phải trải qua hai cuộc chiến tranh, nhiều năm bị đế quốc Mỹ bao vây cấm vận nhiều mặt,
nhất là về kinh tế. Do vậy LLSX chưa có điều kiện phát triển.
Sau khi giành được chính quyền, trước yêu cầu xây dựng CNXH trong điều kiện nền
kinh tế kém phát triển, Nhà nước ta đã dùng sức mạnh chí trị tư tưởng để xóa bỏ nhanh
chế độ tư hữu, chuyển sang chế độ công hữu với hai hình thức toàn dân và tập thể, lúc đó
được coi là điều kiện chủ yếu, quyết định trình độ xã hội hoá sản xuất cũng như sự thắng
lợi của CNXH ở nước ta. Song trong thực tế, cách làm này đã không mang lại kết quả
như mong muốn, vì nó trái quy luật QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ của
LLSX, đã để lại hậu quả là:
- Thứ nhất: Đối với những người sản xuất nhỏ (nông dân, thợ thủ công, buôn bán
nhỏ ) thì tư hữu về TLSX là phương thức kết hợp tốt nhất giữa sức lao động và TLSX.
Việc tiến hành tập thể nhanh chóng TLSX dưới hình thức cá nhân bị tập trung dưới hình
thức sở hữu công cộng, người lao động bị tách khỏi TLSX, không làm chủ được qúa trình
sản xuất, phụ thuộc vào lãnh đạo hợp tác xã, họ cũng không phải là chủ thể sở hữu thực
sự dấn đến TLSX trở thành vô chủ, gây thiệt hại cho tập thể.
- Thư hai: Kinh tế quốc doanh thiết lập tràn lan trong tất cả các ngành. Về pháp lý
TLSX cũng thuộc sở hữu toàn dân, người lao động là chủ sở hữu có quyền sở hữu chi
phối, định đoạt TLSX & sản phẩm làm ra nhưng thực tế thì người lao động chỉ là người
làm công ăn lương, chế độ lương lại không hợp lý không phản ánh đúng số lượng & chất
lượng lao động của từng cá nhân đã đóng góp. Do đó chế độ công hữu về TLSX cùng với
ông chủ của nó trở thành hình thức, vô chủ, chính quyền (bộ, ngành chủ quản) là đại diện
của chủ sở hữu là người có quyền chi phối, đơn vị kinh tế mất dần tính chủ động, sáng
tạo, mất động lực lợi ích, sản xuất kinh doanh kém hiệu quả nhưng lại không ai chịu trách
nhiệm, không có cơ chế giàng buộc trách nhiệm, nên người lao động thờ ơ với kết quả
hoạt động của mình.
Đây là căn nguyên nảy sinh tiêu cực trong phân phối, chỉ có một số người có quyền
định đoạt phân phối vật tư, vật phẩm, đặc quyền đặc lợi.
Ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, phát triển kinh tế tập trung ở hai lực lượng chính:
LLSX của doanh nghiệp nhà nước (thường gọi là quốc doanh, thuộc thành phần kinh tế
nhà nước); LLSX ngoài quốc doanh (thường gọi là dân doanh, thuộc kinh tế tư nhân).
Trong tác phẩm “Chính sách kinh tế mới và những nhiệm vụ của các Ban giáo dục chính
trị”, Lênin đã viết: “Hoặc là tất cả những thành tựu về mặt chính trị của chính quyền Xô
viết sẽ tiêu tan, hoặc là phải làm cho những thành tựu ấy đứng vững trên một cơ sở kinh
tế. Cơ sở này hiện nay chưa có. Đấy chính là công việc mà chúng ta cần bắt tay vào làm”
đúng theo quy luật QHSX phải phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
Con người không thể tự ý lựa chọn QHSX nói chung và quan hệ sở hữu nói riêng một
cách chủ quan duy ý chí. Sở hữu vừa là kết quả vừa là điều kiện cho sự phát triển của
LLSX, là hình thức xã hội có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm LLSX. Chính vì vậy, mỗi
loại hình, hình thức sở hữu chưa thể mất đi khi chúng còn phù hợp với trình độ phát triển
của LLSX, và cũng không thể tùy tiện dựng lên, hay thủ tiêu chúng khi LLSX không đòi
hỏi. Do vậy, khi quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải tính đến sự biến đổi phức tạp từ QHSX,
trong đó trực tiếp là chế độ sở hữu.
Chúng ta đều biết, khi nghiên cứu xã hội tư bản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát hiện
ra mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá của sản
xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn đó là cơ sở sâu xa làm
nảy sinh các mâu thuẫn khác và quy định sự vận động phát triển của xã hội tư bản. Từ đó,
các ông đi đến dự báo về sự thay thế chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bằng
chế độ công hữu. Việc thay thế chế độ tư hữu bằng chế độ công hữu, theo quan điểm của
các ông, không thể tiến hành ngay một lúc, mà phải là một quá trình lâu dài. Tuy nhiên,
vào giai đoạn lịch sứ đó, các ông chưa chỉ ra mô hình cụ thể về chế độ công hữu.
Kiểu QHSX - quan hệ sở hữu này hay kiểu QHSX - quan hệ sở hữu khác tuỳ thuộc vào
trình độ LLSX. Ở nước ta hiện nay trình độ LLSX còn thấp, lại không đồng đều giữa các
ngành, các vùng. Có những vùng, miền mà người dân vẫn dùng cái cuốc, con trâu để lao
động nhưng cũng có nơi lao động trong phòng thí nghiệm, trong khu công nghệ cao.
Do vậy, tất yếu phải tồn tại nhiều hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất, nên chưa thể đặt vấn đề xoá ngay mọi hình thức bóc lột. Chỉ đến khi trình
độ xã hội hóa sản xuất phát triển cao mâu thuẫn với chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất, thì khi ấy mới có điều kiện chín muồi thực hiện cuộc cách mạng xây dựng xã hội
không còn bóc lột. Chúng ta không thể thủ tiêu chế độ sở hữu ngay lập tức được mà chỉ
có thể thực hiện dần dần, và chỉ khi nào đã tạo được một LLSX hiện đại, xã hội hóa cao
độ với năng suất lao động rất cao thì khi đó mới xoá bỏ được chế độ tư hữu.
Điểm nổi lên là kinh tế của chúng ta còn quá nghèo nàn, lạc hậu … vì vậy khâu trọng
yếu mà chúng ta phải xây dựng đó là phát triển LLSX, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Đồng thời phải xây dựng
nền kinh tế nhiều thành phần (nhiều hình thức sở hữu đan xen nhau) là phù hợp với yêu
cầu phát triển mạnh mẽ LLSX của nước ta hiện nay. Hơn thế nữa, chúng ta phải không
ngừng đổi mới chính trị, củng cố tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Xây dựng đời sống văn hóa, nâng cao đời sống tinh
thần cho nhân dân, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Thực hiện mục tiêu “ dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” .
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
(xây dựng lực lượng sản xuất):
- Đây là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ.
- Phải đạt được trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt công nghệ thông tin và công nghệ
sinh học.
- Từng bước phát triển nền kinh tế tri thức.
- Coi giáo dục đào tạo là nhiệm vụ hàng đầu.
. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống xã
hội (củng cố đổi mới kiến trúc thượng tầng):
- Đổi mới hệ thống chính trị.
- Nâng cao sức chiến đấu của Đảng.
- Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
Trước khi đi vào công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và muốn đat được thành
công thì nhất thiết phải có tiềm lực kinh tế và con người, trong đó lực lượng lao động là
một yếu tố quan trọng. Ngoài ra còn phải có sự phù hợp giữa QHSX với trình độ phát
triển của LLSX, đây chính là nhân tố cơ bản nhất.
Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa với tiềm năng lao
động lớn, cần cù, thông minh, sáng tạo và có kinh nghiệm lao động nhưng công cụ lao
động của chúng ta còn thô sơ. Nguy cơ tụt hậu của đất nước ngày càng được khắc phục.
Đảng ta đang triển khai mạnh mẽ một số vấn đề của đất nước về công nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước trước hết trên cơ sở một cơ cấu sở hữu hợp quy luật, gắn liền với một cơ
cấu các thành phần kinh tế hợp quy luật, cũng như cơ cấu một xã hội hợp giai cấp cùng
với thời cơ lớn thì cũng có rất nhiều thách thức phải vượt qua để hoàn thành sự nghiệp
công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, vì dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn
minh. Nhưng điều đó còn ở phía trước mà nội dung cơ bản trong việc thực hiện là phải
nhận thức đúng đắn về quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong
giai đoạn hiện nay của nước ta.
C. KẾT LUẬN
Quy luật của QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là quy luật hết sức phổ
biến. Tuy nhiên không phải bất cứ lúc nào cũng có sự phù hợp đó. Do vậy phải nắm bắt
tốt quy luật này để chúng ta có thể áp dụng vào từng trường hợp cụ thể. Quy luật QHSX
phù hợp với trình độ phát triển của LLSX còn là quy luật phổ biến trong toàn bộ tiến
trình lịch sử của nhân loại. Sự thay thế và phát triển đi lên của lịch sử loài người từ chế
độ công xã nguyên thủy qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản
chủ nghĩa đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã
hội, trong đó quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là quy luật cơ bản
nhất. LLSX là nhân tố thường xuyên biến đổi, ngược lại QHSX lại thường có tính ổn
định song sự ổn định đó chỉ là tạm thời và cũng cần có sự thay đổi cho phù hợp. Nếu
QHSX không có những sự thay đổi cho phù hợp thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của sản
xuất.
Như vậy, trong việc xác lập hoàn thiện, thay đổi QHSX cần phải căn cứ vào thực
trạng của các LLSX hiện có về mặt trình độ của chúng (đây là cơ sở lý luận trực tiếp của
việc xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay của quá trình cải cách
của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam.
2. Lênin toàn tập, tập 38, NXB Tiến bộ Matxcơva, 1977.
3. Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NXB chính trị quốc gia.