Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở tỉnh bo ly khăm xay nước CHDCND lào thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.24 KB, 63 trang )

LỜI CẢM ƠN
Luận văn Đại học Chính trị, Chuyên ngành Tổ chức được hoàn thành
tại Khoa Nhà nước và Pháp luật, của Học viên Chính trị - Hành chính Khu
vực I. Em xin chân thành cảm ơn Khoa Nhà nước và Pháp luật và Khoa Xây
dựng Đảng, Học viện Chính trị - Hành chính Khu vực I đã tạo điều kiện
giúp đỡ em trong quá trình học tập và hoàn thành nghiên cứu.
Em xin bày tỏ biết ơn sâu sắc đối với sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy,
cô giáo của Học viện Chính trị - Hành chính đã giảng dạy và đóng góp ý
kiến rất quý báu trong luận văn của em, đặc biệt là cô giáo hướng dẫn
Th.S Vũ Ngọc Hà đã hết lòng tạo điều kiện cho em hoàn thành luận văn này.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự động viên, sự giúp đỡ về tinh
thần cũng như vật chất của gia đình, bạn bè trong suốt quá trình học tập
nghiên cứu và hoàn thiện Luận văn Đại học Chính trị, chuyên ngành tổ chức.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 6 năm 2011
Học viên
Mr. VAN XAY NGIACHANTHASONE
1
MỤC LỤC
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
- CHDCND : Công hoà Dân chủ Nhân dân
- HVCT - HC : Học viện Chính trị - Hành chính
- CHXHCN : Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình xây dựng phát triển đất nước giữ vững ổn định chính trị, an
ninh trật tự, an toàn xã hội, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi một đội ngũ cán bộ, công
chức có phẩm chất, năng lực, trí tuệ và tay nghề cao. Vì vậy, Đảng và Nhà
nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (CHDCND Lào) luôn coi trọng công
tác đào tạo, bồi duỡng cán bộ, công chức, nhằm xây dựng một đội ngũ cán


bộ, công chức đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ của tình hình mới, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Cán bộ, công chức có vai trò đặc biệt quan trọng
trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội đất nước nói chung và tỉnh Bo-
Ly-Khăm-Xay nói riêng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất
và năng lực là điều kiện để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của
Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp đổi mới phát triển đất nước. Mặt khác,
2
cán bộ, công chức cũng đóng vai trò quan trọng trong bảo đảm kỷ cương
phép nước, bảo vệ pháp luật và công lý.
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của cán bộ, công chức,
nhiều năm qua Đảng và Nhà nước CHDCND Lào nói chung và Tỉnh Bo-Ly-
khăm-Xay không ngừng đổi mới các chính sách và tổ chức các hoạt động
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, nhằm nâng cao trình độ chính trị, chuyên
môn cho cán bộ, công chức để phù hợp với yêu cầu thực tế khách quan.
Tuy nhiên, trên thực tế, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
trên địa bàn tỉnh Bo-Ly-khăm-Xay thời gian qua chưa đáp ứng được yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cơ sở đào tạo cấp
tỉnh còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu đào tạo, bồi bưỡng những kiến
thức cần thiết cho việc nâng cao trình độ chuyên môn và trình độ chính trị
cán bộ, công chức nhà nước. Công tác quản lý nhà nước vẫn theo tư duy cũ,
các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước đối với đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức còn chồng chéo, chưa sâu sát, chưa tạo ra hành lang pháp
lý thông thoáng cho công tác đào tạo, bồi dưỡng. Chương trình, nội dung đào
tạo, bồi dưỡng vẫn nặng hình thức cũ, chưa có tính sáng tạo. Kiến thức giảng
viên còn hạn chế, trình độ chuyên môn còn thấp, giảng viên chính thức còn
thiếu về số lượng và hạn chế về chất lượng, phần lớn giảng viên cấp tỉnh là
những người được mời từ các cơ quan, đơn vị trong tỉnh có thời gian làm
việc lâu dài với công việc mình đảm nhiệm, còn một số người thì chưa qua
chương trình đào tạo giáo viên, nên tình trạng chuyển giao kinh nghiệm còn
lúng túng chưa bảo đảm hiệu quả của công tác đào tạo, bồi dưỡng, chưa đáp

ứng được theo yêu cầu của công tác đào tạo, bồi dưỡng. Do vậy, một số cán
bộ, công chức nhà nước đã được đào tạo, bồi dưỡng vẫn không đáp ứng
được các yêu cầu về năng lực, trình độ, theo yêu cầu của công việc.
Để đáp ứng kịp thời các yêu cầu mới của nền công vụ thì việc đào tạo,
bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức là một đòi hỏi bức
3
thiết và là điều kiện tiên quyết cho việc đổi mới phương thức quản lý nhà
nước về lĩnh vực này.
Những yêu cầu cấp bách của thực tiễn quản lý nhà nước về đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức nói trên là lý do lựa chọn đề tài: “Đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức ở tỉnh Bo-Ly-Khăm-Xay nước CHDCND Lào -
Thực trạng và giải pháp” để làm luận văn tốt nghiệp đại học chính trị -
Chuyên ngành Tổ chức.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hoá các lý thuyết, làm rõ các khái niệm cơ bản sử
dụng trong nghiên cứu, đề tài tập trung làm rõ thực trạng công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức của tỉnh Bo-Ly-Khăm-Xay. Từ đó đề xuất một
số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức tỉnh Bo-Ly-Khăm-Xay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Về mặt lý luận: Đề tài có nhiệm vụ hệ thống hóa các khái niệm, vai
trò và các lý luận cơ bản về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
- Về mặt thực tiễn: Đề tài có nhiệm vụ phân tích, đánh giá làm rõ thực
trạng quản lý nhà nước đối với việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,
tìm các nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức tại tỉnh Bo-Ly-Khăm-Xay trong giai đoạn hiện nay.
- Về mặt giải pháp: Đề tài có nhiệm vụ đề xuất một số phương hướng
và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức
ở tỉnh Bo-Ly-Khăm-Xay.

3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước của tỉnh Bo-Ly-
Khăm-Xay từ 2006 đến nay.
4
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin (chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử) và quan điểm của Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào làm cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Đề tài sử dụng tổng hợp các phương
pháp nghiên cứu như phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương
pháp điều tra xã hội học, phương pháp so sánh, tổng hợp…
5. Đóng góp của luận văn
- Trên cơ sở làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức, luận văn sẽ góp phần làm phong phú thêm lý luận về vấn
đề này.
- Qua đánh giá thực trạng, phân tích các mặt mạnh, mặt hạn chế và đề
xuất các giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tại tỉnh Bo-Ly-
Khăm-Xay, đề tài sẽ có những đóng góp thiết thực vào việc nâng cao trình
độ cán bộ, công chức của tỉnh Bo-Ly-Khăm-Xay nói riêng và CHDCND Lào
nói chung.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung cơ bản của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức.
Chương 2: Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của
tỉnh Bo-Ly-Khăm-Xay, nước CHDCND Lào.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức tại tỉnh Bo-Ly-Khăm-Xay, nước CHDCND Lào

5
6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
1.1 Khái niệm cán bộ, công chức
Cán bộ, công chức là vấn đề cơ bản và quan trọng đối với mọi tổ chức
nhà nước; là yếu tố con người, quyết định năng lực và hiệu quả quản lý đất
nước. Bất cứ nhà nước nào cũng cần xây dựng một đội ngũ cán bộ, công
chức. Cán bộ, công chức bao gồm những người có trình độ, có năng lực quản
lý, có khả năng chuyên môn và phẩm chất đạo đức tốt, làm việc nghiêm túc
vì bổn phận của mình trước công vụ. Thiếu đội ngũ này, kỷ cương đất nước
sẽ bị buông lỏng, trật tự xã hội sẽ bị xâm hại, nhà nước khó thực hiện chức
năng quản lý của mình đối với xã hội.
Mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ lịch sử xã hội, quan niệm về cán bộ, công
chức, mang nội dung khác nhau. Do đó, trong thực tế rất khó có một khái
niệm chung về cán bộ, công chức cho tất cả các quốc gia, ở từng thời kỳ phát
triển khác nhau, vậy khái niệm cán bộ, công chức của mỗi nước phụ thuộc
vào tính đặc thù của mỗi quốc gia.
1.1.1. Quan niệm cán bộ, công chức của Việt Nam
Quan niệm cán bộ, công chức Việt Nam được hình thành qua các thời
kỳ lịch sử khác nhau.
- Trong Luật cán bộ, công chức được Quốc hội Việt Nam khoá XII, kỳ
họp thứ 4 thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008 có hiệu lực từ ngày
01/01/2010 đưa định nghĩa về cán bộ, công chức như sau:
1. Cán bộ, công chức Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm
giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng Sản
Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, ở cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là cấp tỉnh), ở huyện, quận,
7

thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên
chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị –xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan,
quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan đơn vị
thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sư nghiệp công lập của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước , tổ chức chính trị –xã hội (sau đây gọi
là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nứơc; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự
nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp
công lập theo quy định của pháp luật.
3. Cán bộ của xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là
công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường
trực Hội đông nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ,
người đứng đầu tổ chức chính trị – xã hội; công chức cấp xã là công dân
Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc
Uỷ ban nhân dân cấp xã, trong viên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước.
1.1.2. Quan niệm về cán bộ, công chức của CHDCND Lào
Quan niệm về cán bộ, công chức của Lào là dựa vào tính đặc thù của
nền công vụ của Lào, vì vậy quan niệm cán bộ, công chức được hiểu theo hai
nghĩa khác nhau:
- Theo thuật ngữ “cán bộ” xuất hiện nhiều trong các văn bản chính trị,
pháp luật và quản lý nhà nước. Tuy nhiên, do trải qua các thế kỷ khác nhau
nên quan niệm cán bộ cũng không hoàn toàn thống nhất.
8
Vào những năm 50 – 70 của thế kỷ XX, quan niệm cán bộ xuất phát

trong đời sống xã hội của Lào để chỉ một lớp người, những chiến sỹ cách
mạng chịu hy sinh, gian khổ, đấu tranh giành độc lập dân tộc. Trong thời kỳ
kháng chiến chống Pháp, thuật ngữ này được dùng phổ biến chỉ tất cả những
người thoát ly tham gia hoạt động kháng chiến, để phân biệt với nhân dân.
Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, thuật ngữ cán bộ được hiểu là:
Thứ nhất, Cán bộ là những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ
huy từ cơ sở đến Trung ương (cán bộ lãnh đạo) phân biệt với đảng viên
thường, đoàn viên, hội viên hoặc “cán bộ” là những người làm công tác
chuyên trách hưởng lương trong các tổ chức đảng, đoàn thể.
Thứ hai, cán bộ là những người giữ cương vị chỉ huy từ tiểu đội
trưởng trở lên (cán bộ tiểu đội, đại đội, cán bộ tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn
v.v ) hoặc là sĩ quan từ cấp uý trở lên trong quân đội nhân dân Lào.
Trong hệ thống bộ máy nhà nước, quan niệm cán bộ được hiểu với
nghĩa trùng với khái niệm công chức, bao gồm những người làm việc trong
cơ quan hành chính nhà nước. Đồng thời, cán bộ cũng được hiểu là những
người có chức vụ chỉ huy, phụ trách, lãnh đạo. Tuy cách dùng, cách thức
biểu đạt khái niệm cán bộ có khác nhau nhưng về cơ bản thuật ngữ cán bộ
bao hàm nghĩa chính của nó là những nguồn thuộc bộ khung, là nòng cốt, là
lãnh đạo, là chỉ huy.
Hiện nay, thuật ngữ “cán bộ” được dùng rất phổ biến, cụ thể là những
người làm việc ở các cơ quan nhà nước, tổ chức Đảng, đoàn thể quần chúng
từ Trung ương đến địa phương (trừ những người làm việc trong lực lượng vũ
trang nhân dân: công an, bộ đội) thường được gọi là cán bộ.
Ngoài ra, thuật ngữ “cán bộ” còn được dùng cho cả những người làm
việc ở các doanh nghiệp nhà nước, tư nhân, các công ty, tổ chức quốc tế,
v.v nhằm mục đích phân biệt với thuật ngữ “công nhân, nông dân, nhân
dân ” theo người dân thường dùng phổ biến ở Lào. Thuật ngữ này thường
được dùng phổ biến ở các tài liệu của các cơ quan Đảng – công tác Đảng,
9
Nhà nước về công tác cán bộ, đoàn thể và những lời phát biểu, vận động nhân

dân và người dân hay dùng gọi đối với những người của Đảng và Nhà nước
xuống làm việc với người dân địa phương, như: cán bộ huyện, cán bộ tỉnh
Theo Nghị định số 82/2003/NĐ-TTg ngày 19/5/2003 của Thủ tướng
Chính phủ nước CHDCND Lào về quy chế công chức CHDCND Lào, Điều
2 đã quy định: “công chức của CHDCND Lào là công dân Lào được sắp
xếp vào biên chế và được tuyển dụng làm việc thường xuyên ở các tổ chức
Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể quần chúng từ Trung ương đến địa
phương và ở các cơ quan đại diện nước CHDCND Lào ở nước ngoài, được
hưởng lương và tiền trợ cấp từ ngân sách nhà nước”; Điều 3 quy định:
“Những đối tượng như: cán bộ lãnh đạo cao cấp (từ cấp thứ trưởng và
tương đương trở lên); bộ đội; công an; cán bộ thuộc doanh nghiệm nhà
nước; cán bộ theo hợp đồng, thì Chính phủ có quy định điều chỉnh riêng”
[30;1].
Như vậy, có thể thấy khái niệm về công chức của Nghị định này là có
phạm vi điều chỉnh rất rộng, đối tượng điều chỉnh ở đây không chỉ là những
người làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương đến
địa phương mà còn bao hàm cả những người làm việc ở các cơ quan Đảng,
Đoàn thể khác (bao gồm tất cả những người làm việc trong hệ thống chính
trị, trừ trường hợp những đối tượng được quy định tại Điều 3 như nói trên.
Tuy nhiên, trong thời gian qua quan niệm cán bộ và khái niệm công
chức được được hiểu theo hai nghĩa khác nhau; cán bộ là những người được
bổ nhiệm vào ngạch công vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng và Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương và địa phương; còn công chức
là những người được tuyển dụng làm việc thường xuyên ở tổ chức Đảng,
Nhà nước và các tổ chức đoàn thể quần chúng từ Trung ương đến địa
phương. Nhưng quan niệm cán bộ, công chức vẫn có những điểm chung đó
là cả cán bộ, công chức đều là những người được làm việc ở cơ quan của
10
Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và được hưởng lương từ ngân
sách nhà nước.

Tóm lại, cán bộ, công chức là những người được tuyển dụng, bổ nhiệm
vào ngạch chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội ở Trung ương, tỉnh và huyện và được hưởng lương từ ngân
sách nhà nước.
1.2. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
1.2.1. Khái niệm đào tạo
Đào tạo là quá trình học tập, rèn luyện để trở thành người có năng
lực theo những tiêu chuẩn nhất định, đáp ứng theo những yêu cầu nhất định.
Theo từ điển tiếng Việt “Đào tạo đề cập đến việc dậy các kỹ năng
thực hành nghề nghiệp hay kiến thức liên quan đến một lĩnh vực cụ thể, để
người học nắm vững những trí thức kỹ năng, nghề nghiệp một cách có hệ
thống để chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng đảm
nhận được một công việc nhất định.
Đào tạo là một khâu quan trọng của công tác cán bộ, gắn liền với quy
hoạch cán bộ, bố trí sử dụng cán bộ.
Đào tạo là quá trình tác động đến con người là quá trình truyền thụ
những kiến thức mới nhằm làm cho người đó nắm được những kiến thức, kỹ
năng cần thiết cho người học một cách có hệ thống, để người học nâng cao
trình độ hơn trước khi đào tạo, giúp họ làm được những công việc một cách
có hiệu quả năng suất và góp phần hoàn thiện nhân cách cá nhân.
Đào tạo là một quá trình truyền thụ kiến thức mới để người cán bộ,
công chức có sự biến đổi về trình độ, về kỹ năng và qua đó năng lực làm
việc được nâng lên. Thông thường, đào tạo là quá trình trang bị kiến thức cơ
bản mới hay trang bị kiến thức ở trình độ cao hơn, do đó thời gian đào tạo
thường dài hơn thời gian bồi dưỡng, một khóa học đào tạo được bố trí
chương trình, nội dung cụ thể.
1.2.2. Khái niệm bồi dưỡng
11
Bồi dưỡng là làm thêm năng lực hoặc phẩm chất, đó là quá trình hoạt
động làm tăng thêm những kiến thức mới, đòi hỏi và bổ sung những kỹ năng

hoạt động đối với những cán bộ, công chức đang giữ một chức danh, một
ngạch công chức, viên chức nhất định.
Mục đích chủ yếu của bồi dưỡng là bổ sung kiến thức, kỹ năng; cũng có
thể trang bị kiến thức mới nhưng chỉ một nhóm kiến thức trên một lĩnh vực
nhất định hay là bồi dưỡng chuyên sâu, cập nhật những nội dung công tác,
năng lực quản lý hay chuyên môn liên quan với chức danh công tác, ngạch
công chức đang đảm trách. Do vậy, thời gian của khoá bồi dưỡng thường là
gắn hơn so với đào tạo, có thể thời gian một khoá bồi dưỡng là 1 đến 3
tháng, có khi cũng chỉ là 1 hoặc hai tuần, có khi cũng chỉ là vài ngày; hoàn
thành khoá bồi dưỡng người học nhận lấy chứng nhận ghi nhận kết quả học
tập; cũng có thể là chứng chỉ tương đương một môn học.
Bồi dưỡng để nâng cao kỹ năng và năng lực liên quan đến công vụ đang
làm; đó cũng là cách nhằm làm cho người lao động làm chủ được công vụ.
Bồi dưỡng là một quá trình nhằm hoàn thiện kỹ năng, năng lực của
người lao động nhằm đáp ứng mục tiêu của tổ chức; đó là cơ hội mà người
quản lý tạo ra cho người lao động nhằm hoàn thiện kỹ năng, kiến thức
chuyên môn có liên quan đến công vụ hiện tại.
Tóm lại: Khái niệm đào tạo và bồi dưỡng trên cho thấy công tác đào tạo
và bồi dưỡng có sự gắn kết với nhau vì mục đích chung là nhằm nâng cao
kiến thức, năng lực của con người cả về trình độ chính trị, hành chính và
trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Đào tạo và bồi dưỡng có chức năng, chương
trình và thời gian quy định khác nhau; đào tạo có nghĩa là trang bị những
kiến thức, chuyên môn nào đó từ ban đầu để có được một chuyên môn nhất
định trong thời gian dài hạn từ 1 năm trở lên, ngược lại bồi dưỡng chỉ trong
thời gian ngắn có nghĩa là bồi dưỡng lại những kiến thức vốn có của mình
trong thời gian qua.
1.2.3. Những đặc điểm đặc thù cuả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
12
Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức và kỹ năng của cán
bộ, công chức nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý của nhà

nước. Muốn nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước thì nhà nước phải
quan tâm đến công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, công chức. Trong quá
trình cải cách hành chính, xây dựng nhà nước pháp quyền, công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức có những đặc điểm mang tính
đặc thù về đối tượng người học, cách học và đặc biệt là về mục tiêu đào tạo,
bồi dưỡng.
Một là, học viên là cán bộ, công chức là những người đang làm việc ở
các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức đoàn
thể quần chúng từ Trung ương đến địa phương và ở các cơ quan đại diện ở
nước ngoài được hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Các học viên là công
chức có kinh nghiệm thực tiễn đời sống và công tác nên trong học tập đòi hỏi
cao về nội dung kiến thức và thông tin khoa học
Hai là, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là để phục vụ công việc
được giao. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải sát với yêu cầu của
công việc nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Ba là, Các học viên công chức là những người đã có vị thế xã hội, nên
xác định vị trí người đi học chỉ là thứ yếu. Công việc ở cơ quan công tác
nhiều khi cuốn hút thời gian của họ. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cần giảm bớt phần lý thuyết nhằm tập trung vào việc rèn luyện kỹ năng quản lý
cho đội ngũ cán bộ, công chức trong các chức vụ quản lý ngành nghề khác nhau.
Bốn là, nội dung, chương trình của các cơ sở đào tạo phải đào tạo
chuyên sâu về các ngành nghề, không nên đào tạo chung chung không xác
định rõ các đối tượng cần đào tạo.
Do đó đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải thích ứng với từng
đối tượng.
13
- Đào tạo cán bộ, công chức không hoàn toàn giống với hệ thống giáo
dục quốc dân, bởi vì hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm giáo dục chính
quy và giáo dục thường xuyên với các cấp học: mầm non, phổ thông, giáo

dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học.
Hoạt động đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân nó cung cấp nguồn
nhân lực cho toàn xã hội, trong đó bao gồm cả nguồn nhân lực là cán bộ,
công chức nhà nước.
Hoạt động đào tạo cán bộ, công chức phải căn cứ vào quy chế pháp lý
về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Phạm vi đào tạo cán bộ, công chức
trong phạm vi nguồn nhân lực của nhà nước, phục vụ cho hoạt động quản lý
nhà nước và đối tượng áp dụng là cán bộ, công chức nhà nước.
Trong thực tế giữa giáo dục đào tạo của hệ thống quốc dân và hoạt
động đào tạo cán bộ, công chức có mối quan hệ tương tác. Bởi vì, để trở
thành cán bộ, công chức thì phải qua đào tạo của hệ thống giáo dục quốc
dân. Khái quát có thể nói đào tạo cán bộ, công chức là khâu tiếp nối của đào
tạo hệ thống giáo dục quốc dân, để sử dụng một bộ phận nguồn nhân lực của
xã hội thành nguồn lực đáp ứng yêu cầu hoạt động quản lý nhà nước.
- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là một nhiệm vụ công tác
quan trọng nhằm nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, góp
phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của đất nước. Đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức là một lĩnh vực hoạt động của các cơ quan thuộc hệ
thống chính trị, đặc biệt là cơ quan nhà nước đã được pháp lệnh, pháp luật
quy định như sau:
1.3 Nội dung và hình thức đào tạo cán bộ, công chức
1.3.1 Nội dung
Căn cứ vào nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức như
hiện nay, căn cứ vào đặc điểm học tập của đối tượng là cán bộ, công chức
chúng ta xác định nội dung trong công tác đào tạo:
14
- Đào tạo, bồi dưỡng về hành chính nhà nước (hay còn gọi là hành
chính công), đây là yêu cầu cơ bản và bắt buộc đối với mọi công chức hành
chính nhà nước, nhằm tạo ra một hệ thống công vụ thích hợp, làm cơ sở cho
việc công chức hành chính tăng nhanh khả năng thích ứng đối với cơ chế

mới.
- Đào tạo, bồi dưỡng những kiến thức về một nền kinh tế chuyển
đổi, cung cấp kiến thức, kỹ năng cơ bản về kinh tế thị trường và vai trò
nhà nước trong nền kinh tế thị trường cho cán bộ, công chức hành chính
nói riêng để họ làm việc trong môi trường nền kinh tế nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và có sự
quản lý của Nhà nước.
- Đào tạo, bồi dưỡng cho mục tiêu phát triển, đây là lĩnh vực có yêu
cầu cao hơn để xây dựng một đội ngũ chuyên gia giỏi, chuyên gia đầu
ngành có trình độ chuyên môn cao và sâu nhằm tăng cường khả năng thiết kế
các hệ thống, phải thành thạo và linh hoạt nhiều hơn chỉ là chuyên môn hoá
ở một lĩnh vực cụ thể. Đào tạo hoạt động theo nhóm, nội dung đào tạo tập
trung cho học viên làm thế nào để việc theo nhóm có hiệu quả nhất, bao gồm
đào tạo các kỹ năng thông tin, tăng cường sự phụ thuộc giữa các thành viên
trong nhóm, đảm bảo sự hoà hợp giữa các mục tiêu cá nhân.
1.3.2 Hình thức
Để đổi mới nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức trước hết phải coi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức là nhiệm vụ, biện pháp cơ bản và thường xuyên nhằm tiêu chuẩn hoá và
nâng cao năng lực trình độ của cán bộ, công chức, xây dựng kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng trên cơ sở chiến lược và quy hoạch tổng thể. Từ kế hoạch
này, từng khu vực, từng cấp, từng ngành xây dựng kế hoạch cụ thể phải gắn
với nhu cầu thực tiễn của nhiệm vụ cách mạng với quy hoạch sử dụng cán
bộ, công chức, đồng thời cần đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình,
phương pháp đào tạo bồi dưỡng theo hướng thiết thực đáp ứng yêu cầu. Đào
15
tạo theo sát tiêu chuẩn chức danh, ngạch bậc song cũng cần có trọng tâm,
trọng điểm tuỳ theo yêu cầu và đặc điểm của từng khối, từng ngành, từng bộ
phận, từng cấp để có chương trình, nội dung hình thức hợp lý.
Hình thức đào tạo, bồi dưỡng xuất phát từ đặc điểm của cán bộ, công

chức hiện nay và các cơ sở lựa chọn hình thức thích hợp đối với từng loại
cán bộ. Hiện nay các loại hình đào tạo tổng hợp đang được áp dụng phổ
biến, bao gồm các chương trình đào tạo chuyên viên, chuyên viên chính,
chuyên viên cao cấp. Đây là hình thức đào tạo mà nội dung được cụ thể hoá
theo từng lĩnh vực, từng vấn đề kinh tế, xã hội, nhằm chuẩn bị cho đội ngũ
kế cận, cốt cán của tương lai, cùng với nó có thể nghiên cứu duy trì tổ chức
các lố chuyên sâu, ít người hơn và thời gian đào tạo ngắn hơn, các lớp
chuyên ở đây được hiểu là các lớp chuyên về chức nghiệp giành cho những
người có chức danh, công chức như nhau hoặc gần nhau. Các lớp chuyên
như lớp chuyên ngành Quản lý Nhà nước về kinh tế cho các cán bộ thuộc
lĩnh vực quản lý, lớp chuyên ngành quản lý hành chính nhà nước cho cán bộ,
công chức chính quyền các cấp…Chuyên về nội dung và trú trọng vào yêu
cầu về kiến thức, kỹ năng mang tính đặc trưng cụ thể, tránh tình trạng đại trà
chung chung. Ở các lớp chuyên sâu về nội dung sẽ có điều kiện nâng cao
kiến thức và kỹ năng chuyên môn mà thực tế công việc của học viên đòi hỏi
nhấn mạnh vào tính thực tiễn và kỹ năng thực thi công vụ đồng thời có thể
giám bớt thời lượng bài giảng những kiến thức chưa thật cần thiết.
Các hình thức đào tạo phổ biến là đào tạo tại chỗ và đào tạo bên ngoài,
đào tạo tại chỗ bao gồm thuyên chuyển công chức qua nhiều công việc khác
nhau, thường áp dụng với các công chức lãnh đạo, nhằm mở rộng kiến thức,
họ sẽ tìm hiểu nhưng chức năng khác nhau; Bố trí làm việc “trợ lý”, các vị trí
nay thường được đào tạo để mở rộng tầm nhìn của người học qua việc cho
phép họ làm việc với những người có kinh nghiệm, hình thức này có hiệu
quả khi người quản lý cấp trên có trình độ để dẫn dắt và phát triển người học
cho đến khi họ gánh vác được toàn bộ trách nhiệm; Đề bạt tạm thời với cán
16
bộ quản lý hoặc tham gia vào các uỷ ban, hội đồng để họ có cơ hội tiếp cận
với những người có kinh nghiệm và họ làm quen với nhiều vấn đề khác
nhau, họ học hỏi được nhiều kinh nghiệm.
Huấn luyện, đào tạo tại chỗ là công việc luôn được tiến hành nhằm

thường xuyên nâng cao trình độ của cán bộ, công chức đáp ứng nhu cầu thay
đổi công việc và cập nhật những thay đổi hàng ngày, hàng giờ của hệ thống
thông tin và kiến thức khoa học.
Đào tạo không gắn với thực hành là phương pháp đào tạo theo chương
trình, được đào tạo từ bên trong hoặc bên ngoài tổ chức, từ các tổ chức giáo
dục, đào tạo hay các hiệp hội nghề nghiệp. Hình thức này đảm bảo tính hệ
thống, tính khoa học, có bài bản, có kế hoạch. Tuy nhiên nó không hoặc ít
gắn với thực tế công việc do đó hiệu quả đào tạo không cao.
Để công tác đào tạo, bồi dưỡng đạt hiệu quả cao cần lưu ý
+ Huấn luyện cốt thiết thực, làm hiểu thấu vấn đề, đây là cách đào tạo
phù hợp trong điều kiện hạn chế về thời gian và trình độ người học.
+ Huấn luyện từ dưới lên, không ôm đồn, mà chu đáo.
1.4. Chủ thể quản lý và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở
địa phương
Theo quy định tại Điều 19, Quyết định 132/2004/QĐ-TTg về việc ban
hành Quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức do Thủ tướng Chính ban
hành thì trong công tác quản lý nhà nước theo lĩnh vực được phân công,
phân cấp tại địa phương, Uỷ ban Tổ chức (tỉnh) là cơ quan tham mưu cho
chính quyền cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về chuyên ngành với các
chức năng nhiệm vụ quyền hạn sau:
- Nắm và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức cấp tỉnh phối hợp với Ban
tổ chức tỉnh uỷ nắm số lượng cán bộ thuộc diện tỉnh uỷ, chính quyền tỉnh
quản lý đang công tác ở khu vực nhà nước. Thống kê, phân tích và tổng hợp
17
số liệu về đội ngũ cán bộ, công chức của tỉnh phục vụ công tác quy hoạch, kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng.
- Xây dựng hồ sơ, thẩm tra, đề xuất, các thủ tục cần thiết về nhân sự
(cán bộ Nhà nước thuộc diện tỉnh uỷ – chính quyền tỉnh quản lý) như: bổ
nhiệm, đề bạt, nâng lương, điều động, về hưu, nghỉ việc, kỷ luật.
- Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức. Phối hợp Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia,
Trường Chính trị và Hành chính tỉnh, các trường, các cơ quan có liên quan
khác tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức quản lý nhà nước, quản
lý kinh tế, kiến thức đối ngoại, ngoại ngữ, tin học cho cán bộ, công chức.
- Xem xét, đề xuất phân bổ chi tiêu và trình Chính quyền tỉnh quyết
định về việc cử cán bộ các cấp, các ngành đi học chuyên môn nghiệp vụ
trong và ngoài nước theo chi tiêu của các Bộ, ngành Trung ương và chỉ đạo
của Thành phố.
- Phối hợp đề xuất kế hoạch, biện pháp, hướng dẫn và kiểm tra thực
hiện các chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức nhà nước, việc xếp
lương, nâng lương, nâng ngạch hoặc chuyển ngạch công chức, viên chức
trình Chính quyền cấp tỉnh văn bản đề nghị Tổng cục Hành chính và Quản lý
công chức nâng bậc lương đó với cán bộ, công chức, viên chức ngạch cao
cấp.
- Xây dựng chỉ tiêu ngân sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
hàng năm, trung hạn và dài hạn trình cơ quan có thẩm quyền phê diệt, xây
dựng định mức và phân bổ chỉ tiêu đào tạo, bồi dưỡng cho các ngành địa
phương.
- Nghiên cứu hướng dẫn, phối hợp với các sở, ngành hữu quan tổ chức
thực hiện việc thi tuyển, thi nâng ngạch công chức, tuyển dụng, bổ nhiệm
ngạch công chức cho số thí sinh trúng tuyển.
- Thanh tra, kiểm tra hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
- Tổ chức các hoạt động thi đua khen thưởng kỷ luật.
18
- Quy định tiêu chuẩn cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, cơ
sở vật chất kỹ thuật, quy định tiêu chuẩn giảng viên.
Trên cơ sở pháp luật và chính sách về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, hệ thống các cơ sở đào tạo có đủ điều kiện sẽ tiến hành tổ chức thực
hiện việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Cán bộ, công chức có thể
được đào tạo tại Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia, Trường Chính trị

của tỉnh, huyện hoặc một số cơ sở đào tạo của các bộ, ngành… Mỗi cơ sở
đào tạo có chức năng, thẩm quyền nhất định trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức.
19
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
CÁN BÔ, CÔNG CHỨC TẠI TỈNH BO-LY-KHĂM-XAY
NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN LÀO
2.1 Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của Tỉnh Bo-Ly-
Khăm-Xay CHDCND Lào
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý
Tỉnh Bo-Ly-Khăm-Xay là một tỉnh nằm trong 5 tỉnh miền Trung của
nước CHDCND Lào, có biên giới cùng với hai nưới Phía Tây và Phía Đồng.
Phía Bắc giáp Thủ đô Viêng Chăn với chiều dài 49,23 km, phía Nam giáp
tỉnh Khăm Muồn với chiều dài 184,87 km, Phía Đông Bắc giáp với tỉnh
Xiêng Khoảng với chiều dài 141,76 km, phía Đông giáp tỉnh Nghệ An, Thừa
Thiên Hà Tĩnh (nước CHXHCN Việt Nam) chiều dài khoảng 215,82 km,
phía Tây giáp với tỉnh Nong Khai - Nạ Khon Pha Nôm ( Vương Quốc Thái
Lan) với chiều dài 192,82 km và có sông Mê Kông làm biên giới.
Diện tích
Tỉnh Bo-Ly-Khăm-Xay được thành lập vào tháng 11/3/ 1984, theo
quyết định của Trung ương Đảng số 03 ngày 4/3/1984 và Sắc lệnh số 027
Hội đồng bộ trưởng. Tỉnh Bo-Ly-Khăm-Xay có diện tích 15.977,71 km
2
,
Trước năm 2008 chỉ có 6 Huyện đến năm 2010 thêm 1 huyện. Huyện nay cả
tỉnh có 7 huyện như: Pác Xăn, Bo ly khăn, Tha pa bạt, Pác ka Đinh, Viêng
thong, Khăm kợt, Xay chăm phon, toàn tỉnh gồm có 322 bản, hơn 43.690 hộ
gia đình đang sinh sống, cách thủ đô Viêng Chăn khoảng 145 km, có quốc lộ

13 với chiều dài khoảng 165 km và đường quốc độ 8B qua tỉnh sang ( nước
CHXHCN Việt Nam).
Dân số
- Dân số : 252.838 người, trong đó
20
- Số nam : 127.440 người
- Số nữ : 125.398 người
Tỉnh Bo-Ly-Khăm-Xay có 35 bộ tộc – bộ lạc cùng sinh sống, dân tộc
chiếm đa số là Lào lùm, Mông, Kưm Mụ Năm 2011 ước tính cả tỉnh có
khoảng 252.838 người, dân số tăng khoảng 1,73% với mật độ dân số trung
bình là 15 người/km
2
. Đời sống của nhân dân chủ yếu dựa vào ngành nông –
lâm nghiệp và phần lớn có phong tục tập quán theo đạo Phật.
2.1.2. Tình hình kinh tế – xã hội
Hơn hai mươi năm thành lập và phát triển, Đảng ủy và chính quyền
đặc biệt quan tâm đến sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh và thức hiện
nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng nhân dân cách mạng Lào và Đại
hội lần thứ IV của Đảng ủy tỉnh cùng với sự nỗ lực cố gắng của Đảng bộ,
chính quyền và nhân dân các dân tộc hiện nay kinh tế của tỉnh phát triển khá
nhanh, Theo số liệu thống kê của Sở kế hoạch và Đầu tư đối với việc tổ chức
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Bo-Ly-Khăm-Xay
năm 2006 – 2010, trong quá trình thực hiện chiến lược 5 năm vừa qua cho
thấy tình hình kinh tế của tỉnh vẫn tiếp tục tăng, số liệu bình quân là 9,57%
nhưng chiến lựơc đề ra 5 năm là 7 - 8,5 vượt chỉ tiêu là 1,07%, riêng giá trị
sản phẩm trong năm 2009 – 2010 đạt được 1.992,99 tỷ kíp. Trong đó
- Lĩnh vực lâm nghiệp chiếm tỷ lệ là 34,55%
- Lĩnh vực công nghiệp chiếm 29,19%
- Lĩnh vực dịch vụ chiếm 36.26%
Hiện nay thu nhập bình quan đầu người (GDP) của tỉnh Bo-Ly-Khăm-

Xay là 9,8 triệu kíp( tương đương 972 USD/người), tăng 23 % so với năm
trước.
Về giáo dục đào tạo:
Tỉnh Bo-Ly-Khăm-Xay đang có xu hướng phát triển trường học các
cấp ở các vùng sâu, vùng xa nhằm giáo dục kiến thức cho trẻ em ở vùng sâu,
vùng xa để xoá bỏ 100% tình trạng trẻ em mù chữ. Toàn tỉnh đến năm 2010,
21
tổng số giáo viên toàn tỉnh là 2.443 người, với 642 đơn vị trường học (tăng
25 đơn vị so với năm trước). Trường tiểu học 28 trường có 38 lớp học với số
sinh viên đi học toàn tỉnh là 2.463 người, nữ 1.227 người (tăng 279 người so
với năm 2008 - 2009), trường trung học cơ sở là 580 trường, có 1.571 lớp
học với số học sinh là 58.382 người, nữ 26.916 người (tăng 10.63 % so với
năm trước), và trung học phổ thông toàn tỉnh có 45 trường học, có 344 lớp
học với tổng số học sinh là 14.877 người, nữ 6.300 người.
Năm 2009- 2010, chất lượng học sinh có chuyển biến tích cực. Tỷ lệ
học sinh được công nhận hoàn thành công trình tiểu học đạt 95% (tăng
0,20%); tốt nghiệp trung học cơ sở đạt được 81% (theo kế hoạch đầu năm).
Các kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông và bổ túc trung học được tổ chức
an toàn, nghiêm túc với tỷ lệ đậu tốt nghiệp tương ứng là 93,6% (tăng 2,5%
so với năm trước là 91,5%). Ngoài ra tỉnh Bo-Ly-Khăm-Xay còn có trường
giáo dục dân tộc tiểu số, nhằm giáo dục trẻ em ở vùng sâu, vùng xa có 3 đơn
vị với 9 lớp học, học sinh đi học là 206 người, nữ 58 người, tình trạng học
sinh đi học trong năm giảm 50% so với năm trước.
Tình trạng giáo dục cao đẳng, đại học, chuyên nghiệp ngày càng tăng.
Trên địa bàn tỉnh có một trường đại học, hai trường cao đẳng, 2 trường
trung cấp và một cơ sở dạy nghề để phục vụ cho một phần nhu cầu học tập
và nâng cao trình độ chuyên môn của người dân tại địa phương.
Về y tế
Tỉnh Bo-Ly-Khăm-Xay là một tỉnh đã quan tâm và coi việc chăm sóc
sức khoẻ là một việc quan trọng, hiện nay tỉnh đang có xu hướng phát triển

mạng lưới y tế chăm sóc sức khoẻ xuống các địa phương toàn tỉnh có hệ
thống bệnh viện 1 bệnh viện tỉnh và 6 bệnh viện hiện, trạm xã ở các vùng
miền gồm có 39 trạm xã. Ngoài ra sở y tế cũng rất quan tâm đến việc đào
tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn cho cán bộ, công chức nhằm đáp ứng
yêu cầu của máy móc thiết bị hiện đại của bệnh viện. Từ năm 2005 đến nay
22
sở y tế đã cử công chức đi đào tạo trong nước và ngoài nước được 259
người, nữ 120 người, trong đó cử đi đào tạo ở nước ngoài 26 người.
Các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế được tổ chức thực hiện
đảm bảo tiến độ và đạt hiệu quả, trẻ em suy dinh dưỡng là 17,82% (kế hoạch
là 18%), trẻ em dưới 1truổi được tiêm, uống vặc xin phòng bệnh đạt kế
hoạch và giảm được tỷ lệ chết của trẻ em dưới năm tuổi là 42/1000 người,
giảm xuống rất nhiều so với mấy năm trước và tỷ lệ chết của trẻ em dưới 1
tuổi cũng giảm xuống đến 32/1000 người.
Tình hình dịch bệnh được kiểm soát như; bệnh sốt xuốt huyết và bệnh
cúm 2009 diễn biễn phức tạp (số tử vong của sốt xuất huyết năm 2009 là 9
người), chính quyền tỉnh đã chỉ đạo tập trung, tăng cường phòng chống,
kiểm chế không để lây lan thành dịch.
Mục tiêu kinh tế – xã hội của tỉnh Bo-Ly-Khăm-Xay thời kỳ 20011- 2015
Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Bo-Ly-Khăm-Xay lần thứ V năm 2011
đã nêu mục tiêu phấn đấu thời kỳ 2011- 2015 về kinh tế – xã hội của tỉnh
như sau: Đảm bảo nhịp phát triển của sản phẩm trong tỉnh bình quan hàng
năm tăng 8,5/năm đến năm 2015 phải đạt được 1.600 USD/ người, trong đó
lĩnh vực lâm nghiệp tăng 27,31%, lĩnh vực công nghiệp tăng 36,04% , lĩnh
vực dịch vụ tăng 36,65% tổng sản phẩm trong tỉnh, theo định hướng đến
năm 2015 tổng sản phẩm trong nước bình quan là 1.100 USD.
Chuyển hoá cơ cấu kinh tế của tỉnh ngày càng phát triển mạnh trong
mọi mặt, xây dựng cơ sở hạ tầng chuyển sáng công nghiệp hoá - hiện đại
hoá, chuyển hoá cơ cấu lâm nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ ngày càng
nhiều.

Phấn đấu tìm thu nhập vào ngân sách của tỉnh trong 5 năm đạt được
8% của GDP, tăng bình quan hàng năm chiếm 1,9% của GDP, Về phần chi
tiêu khoảng 17,84% của GDP, tăng hàng năm khoảng 6,6% GDP. Nhằm
đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế toàn tỉnh từ năm 2011đến năm 2015 đạt
được 8,5% trở lên, thì tỉnh cần tổng số vốn là 712,91 tỷ kịp hoặc khoảng
23
18,32% GDP. Trong đó có sự phân chia nhu cầu vốn từ các tổ chức liên quan
như sau:
- Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước chiếm khoảng 16,02% tổng vốn
đầu tư hoặc khoảng 362,68 tỷ kịp.
- Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vì sự phát triển (ODA) chiếm
khoảng 14,52% tổng vốn đầu tư hoặc khoảng 470,55 tỷ kịp.
- Vốn tư nhân trong và ngoài nước (FDI) chiếm khoảng 38,28% tổng
vốn đầu tư hoặc khoảng 1.529,35 tỷ kịp.
- Vốn từ tín dụng của ngân hàng chiếm khoảng 3,87% tổng vốn đầu tư
hoặc khoảng 155,96 tỷ kịp.
- Vốn của từ cộng đồng chiếm khoảng 1.96% tổng vốn đầu tư hoặc
khoảng 71,12 tỷ kịp.
Theo các số liệu của mục tiêu phấn đấu phát triển kinh tế – xã hội của
tỉnh nhiệm kỳ 2011- 2015 cho thấy tình trạng phát triển trong 3 lĩnh vực thì
mục tiêu phát triển kinh tế ở lĩnh vực dịch vụ và công nghiệp chiếm tỷ lệ cao
nhất và đang có định hướng kế hoạch hoá thành công nghiệp hoá - hiện đại
hoá.
(Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội nhiệm kỳ 2006 -2010, phương hướng,
nhiệm vụ nhiệp kỳ 2011-2015).
Từ những thuận lợi về điều kiện tự nhiên và kinh tế – xã hội đã tạo
điều kiện không ít cho nhân dân yên tâm và hăng hái làm việc mà còn đảm
bảo những nhu cầu cần thiết cho cán bộ, công chức công tác, vui chơi, giải
trí
2.2 Hệ thống các cơ quan quản lý và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức Lào
Hệ thống các cơ quan quản lý chính về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức được tổ chức xuyên suất từ Trung ương đến địa phương, bao
gồm các cơ quan sau:
* Tổng cục Hành chính
24
- Thống nhất quản lý nội dung chương trình, giáo trình, tài liệu đào
tạo, bồi dưỡng cấp Trung ương, tỉnh hoặc cấp huyện, tổ chức biên soạn,
thẩm định, ban hành và kiểm tra việc thực hiện chương trình đào tạo, bồi
dưỡng.
- Xây dựng kế hoạch và chỉ đạo tổ chức thực hiện đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức theo các nội dung đã được phê duyệt theo quy
định hiện hành.
- Chủ trì phối hợp với Bộ tài chính, Bộ kế hoạch đầu tư xây dựng kế
hoạch, chỉ tiêu kinh phí tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hàng
năm theo kế hoạch, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Hướng dẫn, kiểm tra chính quyền tỉnh, huyện trực thuộc Trung ương
xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
- Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiên cứu quy chế đào tạo,
chế độ khen thưởng, kỷ lụât, hành chính và các quy định cho đội ngũ cán
bộ, công chức.
- Phối hợp với Bộ, ngành có liên quan dẫn quy chế đào tạo, khen
thưởng, kỷ luật các quy định sử dụng chính sách.
* Bộ kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Tổng cục hành chính, Bộ tài
chính tổng hợp và cân đối kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
hàng năm, trong đó chỉ tiêu, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ,
công chức, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
* Bộ Giáo dục và Đào tạo là một tổ chức có liên quan trực tiếp đến
việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và có nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Nghiên cứu, chuyển hoá đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước

thành các kế hoạch, dự án, chương trình và các luật lệ về phát triển giáo dục
và đề nghị cho Chính phủ xem xét, đồng thời chỉ đạo và kiểm tra việc tổ
chức thực hiện kế hoạch, dự án, chương trình và luật lệ nhằm đáp ứng mục
tiêu đã xác định.
25

×