TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
BỘ MÔN: NGUYÊN LÝ THỐNG KÊ KINH TẾ
TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI:
TÁC ĐỘNG CỦA QUÁ TRÌNH ÔN THI TỚI KẾT QUẢ HỌC
TẬP CỦA SINH VIÊN NGOẠI THƯƠNG
Nhóm sinh viên: MSV
1. Phan Thị Ánh 1001010077
2. Cao Cường An 1001010003
3. Vũ Hải Ninh
4. Trần Quang Hà 1001010245
5. Nguyễn Công Lực
6. Nguyễn Thị Nga 1001010658
7. Lê Hoàng Phúc
8. Trần Ngọc Chiến
9. Nguyễn An Tịnh 1001010997
10.Đỗ Trường Giang
11.Nguyễn Mạnh Tùng 1001011102
12.Đinh Thị Huyền Trang
13.Trần Thị Hoài Thanh
14.Nguyễn Đức Hoàng 1001010353
Giáo viên hướng dẫn: Đặng Thị Huyền Hương.
Hà Nội, ngày 12/05/2012
I. LỜI MỞ ĐẦU
1. Cơ sở hình thành nghiên cứu.
Ngày nay, thống kê là một công cụ quản lý vĩ mô cực kỳ quan trọng trong việc
đánh giá, dự báo tình hình, hoạch định chiến lược, chính sách, xây dựng kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội ngắn hạn và dài hạn. Đồng thời, các con số thống kê cũng
là những cơ sở đánh giá tình hình thực hiện các kế hoạch, chiến lược và các chính
sách đó. Thống kê học là một môn khoa học xã hội, đối với sinh viên các chuyên
ngành khối kinh tế, bộ môn Nguyên lý thống kê kinh tế đã trở thành môn học cơ sở
hỗ trợ cho sinh viên những kĩ năng cần thiết về nghiên cứu, khảo sát thị trường
cũng như nhiều lĩnh vực khác, giúp sinh viên tiếp cận nhiều hơn với thực tế và
những lĩnh vực cần thiết trong cuộc sống, đồng thời tạo ra cho xã hội lực lựơng
nghiên cứu thị trường, khảo sát các nhu cầu, sở thích của người tiêu dùng và xã hội
để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới.
Hiện nay ở nhiều trường đại học, vấn đề học và thi đối với các sinh viên đại
học, cao đẳng đang là một vấn đề gây ra nhiều tranh cãi đối với Bộ Giáo dục và
Đào tạo và các giảng viên bộ môn khi thái độ học tập và ôn thi của các sinh viên
vẫn là đối phó với điểm. Một thực tế quá rõ ràng đó là việc ôn thi tốt sẽ tạo nên một
nền tảng kiến thức vững chắc, giúp sinh viên dễ dàng hơn trong việc tiếp thu các
môn học sau thì một số sinh viên đã chưa thực sự tập trung cho việc ôn thi, có
những bạn thì đến lớp chỉ để ngủ hoặc nói chuyện, không lắng nghe bài giảng, bạn
thì vì mải tham gia các hoạt động ngoại khóa hoặc vì những lý do khác mà đến lớp
không đầy đủ nên không nắm được hệ thồng bài trên lớp, khiến cho quá trình ôn thi
gặp nhiều khó khăn, đồng thời không có sự phân bổ thời gian hợp lý và phương
pháp ôn thi chưa thích hợp nên kết quả học tập không cao.
Trước tình trạng này, chúng em đã thống nhất chọn đề tài nghiên cứu “Tác
động của thời gian ôn thi tới kết quả học tập của Sinh viên Ngoại Thương" với
mong muốn tìm hiểu về việc ôn thi của chính các bạn sinh viên trường Đại học
Ngoại Thương và tìm ra giải pháp giúp các bạn sinh viên sẽ cải thiện tình trạng
này, có được một cái nhìn nghiêm túc hơn trong việc học tập và ôn thi. Sắp xếp cân
đối lịch ôn bài sau mỗi buổi học, lịch ôn thi cũng như tìm cho mình những phương
pháp ôn thi thực sự thích hợp để có được mùa ôn thi tới thật hiệu quả, một kỳ học
qua đi đầy niềm vui và ý nghĩa.
Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng song do khả năng cũng như những hiểu biết
của tụi em còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Chúng
TL –NLTKKT 3
em luôn mong chờ nhận được sự góp ý từ phía cô giáo và các bạn để có một bài
làm hoàn thiện hơn, phục vụ tốt hơn cho các bài nghiên cứu sau này.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài.
Có được những kỹ năng cơ bản để thực hiện một bài nghiên cứu thống kê.
Đưa ra cái nhìn khách quan về và bài học kinh nghiệm cho các bạn sinh
viên về việc học tập và ôn thi hiệu quả.
3. Đối tượng, đơn vị và phạm vi khảo sát.
Đối tượng khảo sát: quá trình ôn thi cuối kỳ của sinh viên.
Đơn vị khảo sát: sinh viên K49 trường Đại học Ngoại thương.
Phạm vi khảo sát: khảo sát việc được thực hiện trong phạm vi trường Đại học
Ngoại thương.
Thời gian khảo sát: khảo sát này được thực hiện trong tháng 4 năm 2012.
4. Nội dung nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài, chúng em đã nghiên cứu dựa trên các nội dung đề cập
trong 150 phiếu điều tra, thông qua đó, thu thập thông tin, tổng hợp, xử lý và phân
tích số liệu để rút ra những đặc điểm chung của việc ôn thi cuối kỳ của sinh viên,
qua đó đưa ra kết luận về những tác động của quá trình này tới kết quả học tập.
5. Các phương pháp thống kê sử dụng để nghiên cứu.
Đề tài được thực hiện bằng 5 phương pháp thống kê, đó là:
Thiết kế phiếu điều tra
Thu thập thông tin
Tổng hợp thông tin
Bảng thống kê, biểu đồ
Tham số phân tích thống kê
TL –NLTKKT 4
6. Tổng quan tình hình khảo sát ( nêu các biến nghiên cứu)
Theo hiểu biết của chúng em thì hiện nay chưa có đề tài nào nghiên cứu:“Tác
động của thời gian ôn thi tới kết quả học tập của Sinh viên Ngoại Thương”.
Đề tài của chúng em được thực hiện dựa trên việc thu thập thông tin qua phiếu
điều tra, phỏng vấn từng đối tượng và phát bảng câu hỏi có chọn lọc trước.
Trong đề tài, có sử dụng các loại thang đo: Định danh, tỷ lệ và thang đo
khoảng.
STT Biến Thang đo
(P1).1 Thời gian để ôn bài sau mỗi buổi học Tỷ lệ
(P1).2 Số giờ ôn bài mỗi ngày Tỷ lệ
(P1).3 Số ngày ôn thi Tỷ lệ
(P1).4 Số giờ ôn thi một ngày Tỷ lệ
(P1).5 Thời điểm ôn thi trong ngày Định danh
(P2).1 Cách thức ôn thi Thứ bậc
(P2).2 Hình thức học nhóm Thứ bậc
(P2).3 Tài liệu ngoài giáo trình Định danh
TL –NLTKKT 5
(P2).4 Nguồn tài liệu Định danh
(P2).5 Phương pháp ôn thi Định danh
(P2).6 Phân bổ thời gian Định danh
(P2).7 Học tủ Định danh
(P2).8 Ôn bao nhiêu môn cùng lúc Tỷ lệ
(P2).9 Địa điểm ôn thi Định danh
(P3).1 Điểm trung bình Tỷ lệ
(P3).2 Điểm tích luỹ Lệ
(P3).3 Việc nhớ kiến thức sau khi thi Thứ bậc
II. NỘI DUNG
TL –NLTKKT 6
Phần 1: Về thời gian ôn thi
1. Thời gian ôn bài sau mỗi buổi học
Qua việc điều tra thời gian ôn thi và điểm trung bình tín chỉ ta có đồ thị
mối quan hệ giữa điểm trung bình tín chỉ với thời gian ôn thi:
Với thời gian ôn thi trung bình của sinh viên:
x
=39,73333 (Giờ). Và điểm
trung bình tín chỉ tích lũy trung bình của sinh viên: = 3,1932.
Tiếp theo, ta sẽ phân tích ảnh hưởng của thời gian ôn thi đến kết quả học tập
theo mô hình hồi quy đơn dựa trên tiêu thức nguyên nhân là thời gian và tiêu thức
kết quả là điểm trung bình tín chỉ tích luỹ và sử dụng phương pháp OLS, có dạng
chung:
y = a + b*x
Với y là điểm trung bình tích luỹ, x là thời gian ôn thi
số liệu ta có: = 711,6356
= 0.110482
Theo công thức tính
Từ đó
b= 0.0097
a= 2.8075
Phương trình hồi quy Điểm trung bình tích lũy theo Thời gian
ôn thi
y= 2.8075 + 0.0097x
Hệ số tương quan tuyến tính :
TL –NLTKKT 7
yx
yxxy
r
σσ
.
.−
=
=
y
x
br
σ
σ
.
=
= 0,77906
Phân tích kết quả thu được :
Hệ số tương quan tuyến tính dương, không những thế r=0,77906 ta có thể thấy
rằng mối quan hệ thời gian ôn thi và kết quả học tập có mối tương quan dương và
tương đối chặt chẽ. Nếu sinh viên ngoại thương chịu khó bỏ nhiều thời gian ôn thi
hơn cho các môn học thì kết quả đạt được theo đó sẽ tăng lên, điều này hoàn toàn
phù hợp với thực tế và với thì có thể thấy rằng thời gian bỏ ra của sinh viên ngoại
thương sẽ ảnh hưởng tới 60.69% kết quả học tập, một con số khá lớn. Điều đó cũng
đồng nghĩa rằng đồng thời với việc cải thiện phương pháp học, tài liệu học thì sinh
viên ngoại thương nên tăng cường đầu tư cho thời gian ôn thi, điều này ảnh hưởng
rất lớn đến kết quả học tập mà họ thu được.
2. Số ngày ôn thi.
Số ngày ôn thi Số sinh viên Tần suất (%)
0-7 46 30
7-14 63 42
14.30 34 23
30 7 5
Tổng 150 100
Đồ thị biểu diễn:
TL –NLTKKT 8
Từ kết quả điều tra, phân tích ở trên, ta có thể thấy sinh viên ngoại thương tập
trung vào 7-14 ngày với tỉ lệ là khoảng 42% sinh viên, nhìn vào con số này ta thấy
một tín hiệu khá đáng mừng là sinh viên đã biết cân đối thời gian, với lượng thời
gian ôn thi là từ 7-14 ngày sinh viên có thể tự tổng hợp lại được toàn bộ kiến thức
mình đã học trong năm một cách toàn diện và chính xác mà không bị quá sa đà vào
1 môn ôn thi hay quá chểnh mảng với môn đó. Tuy nhiên với con số 30% sinh viên
ôn thi dưới 7 ngày thì cũng là một con số khá đáng báo động, lượng sinh viên còn
chưa chú tâm vào ôn thi trước kì thi khá nhiều, tuy nhiên cũng có thể nhìn dưới một
góc độ khác là trong quá trình học thì sinh viên ngoại thương đã tự giác học nên
quá trình ôn thi cũng có thể diễn ra trong một thời gian ngắn mà kết quả thu được
cũng rất khả quan. Tổng thể nhìn lại với số ngày ôn thi trung bình của sinh viên
ngoại thương là 10.12 ngày thì đó thực sự là một con số thống kê lí tưởng cho quá
trình ôn thi này
3. Số giờ ôn bài mỗi ngày
BIỂU ĐỒ
Ta có thể thấy lượng sinh viên ôn lại bài sau mỗi buổi học là 64% và số sinh
viên không ôn lại bài là 36%, lượng sinh viên ôn lại bài chiếm gần 2/3, với môi
trường học trong đại học mà đòi hỏi tinh thần tự giác ôn bài mà thầy cô không ép
buộc như cấp III bằng hình thức kiểm tra bài cũ thì số lượng 64% sinh viên vẫn ôn
bài sau mỗi buổi học là con số khá đáng mừng, từ con số 64% này ta cũng có thể
đối chiếu lại câu 2 và câu 1 để thấy rằng trong quá trình học tập, sinh viên ngoại
thương đã chịu khó ôn bài, chính vì vậy mà đến trước kì thi thì thời gian ôn thi của
sinh viên ngoại thương không quá lớn cũng là điều dễ hiệu, với hình thức học này
vừa đem lại hiệu quả trong quá trình học và vừa giảm bớt áp lực trong quá trình ôn
thi nên sinh viên thực sự nên tiếp tục phát huy hình thức ôn bài sau mỗi buổi học
này.
Phân tích trong 64% sinh viên ôn bài sau mỗi buổi học thì nhóm chúng em
tiếp tục thu được bảng thống kê và đồ thị sau đây:
BẢNG SỐ LIỆU
Thời gian (Giờ) Số sinh viên Tần suất (%)
0-1 59 61.15
TL –NLTKKT 9
1-2 22 22.92
2-3 11 11.46
>3 4 4.17
Tổng 96 100
BIỂU ĐỒ
Thời gian ôn thi trung bình= 1.08
Với thời gian ôn thi trung bình = 1.08 ta có thể thấy rằng nhiều sinh viên đã bỏ
thời gian ra để ôn bài tuy nhiên thời gian ôn lại bài cũng còn khá khiêm tốn, tuy
rằng việc ôn lại bài là khá cần thiết và mất nhiều thời gian nhưng 61% sinh viên chỉ
bỏ ra dưới 1 tiếng để ôn lại bài, việc ôn lại với thời gian khá thấp này đem lại hiểu
quả trong quá trình ôn lại bài học trên lớp cũng không quá cao tuy nhiên có thể
nhìn dưới góc độ khác là sinh viên ngoại thương khả năng tiếp thu bài trên lớp đã
khá cao và việc ôn lại bài cũng không quá phức tạp và khó khăn nên thời gian ôn
bài khi đã về nhà cũng không cần nhiều. Với 23% sinh viên ôn bài từ 1-2 tiếng, đây
chính là con số lí tưởng để ôn bài, tuy nhiên tỉ lệ trong phần này lại khá thấp, đây
cũng là một thực tế cũng đáng buồn. Tiếp tục với 12% sinh viên ôn bài từ 2 tiếng
đến 3 tiếng và 4% sinh viên ôn thi từ 3 tiếng trờ lên, đây là những sinh viên đã quá
quan trọng hoá quá trình học tập trên lớp mà chưa biết cân đối thời gian học tập và
các hoạt động ngoại khoá khác cần thiết cho sinh viên, đó cũng là những con số khá
đáng báo động với tình trạng sinh viên bằng giỏi nhưng kỹ năng thực tế không có
gì trong các trường đại học cũng như Ngoại Thương hiện nay!
4. Số giờ ôn thi một ngày
Số h ôn thi Trị số giữa Số sinh viên Nhân trị số giữa với Phần trăm
TL –NLTKKT 10
(h) (xi) quyền số xifi
0h-3h 1,5 44 66 29
3h-6h 4,5 71 319.5 47
6h-9h 7,5 26 195 17
9h-12h 10,5 9 94.5 6
Tổng 150 675 100
Trung bình :
Mốt sẽ nằm ở tổ thứ 2 vì mật độ phân bố lớn nhất. Vậy mốt đươc tính bằng :
M
0
=
4,125
Trung vị sẽ nằm ở tổ thứ 2. Trung vị được tính gần bằng với công thức:
TL –NLTKKT 11
Me = =
Trên cơ sở phân tích bảng số liệu nêu trên, có thể thấy sự đa dạng về số giờ ôn
thi trong một ngày của các sinh viên, cùng với đó là sự chênh lệch, không đồng đều
về số lượng các sinh viên thuộc mỗi nhóm trong tổng số 4 nhóm thời gian đã điều
tra.
Cụ thể, trong tổng số 150 sinh viên được điều tra thì xếp thứ bậc cao nhất là
nhóm có 71 sinh viên - thường ôn thi từ 3 đến 6 giờ mỗi ngày; trong khi đó, chiếm
số lượng thấp hơn rất nhiều, đó là nhóm có thời gian ôn thi từ 9 đến 12 giờ mỗi
ngày chỉ có vẻn vẹn 6 sinh viên; với lượng thời gian ôn thi hơi nhiều - khoảng 6
đến 9 giờ thì số lượng này là 26 sinh viên, xếp thứ 3; và cuối cùng là nhóm có
lượng thời gian ôn thi trong một ngày là ít ỏi, khiêm tốn nhất, từ 0 đến 3 giờ mỗi
ngày, có tới 44/150 sinh viên.
Và đây là biểu đồ thể hiện số giờ ôn thi trong một ngày của sinh viên:
Qua biểu đồ trên cho thấy gần một nửa số sinh viên ĐH Ngoại Thương HN –
47%, đã có sự cân đối thời gian giữa học tập và hoạt động ngoài giờ học, bằng cách
lựa chọn số lượng giờ ôn thi trong một ngày không quá ít, không quá nhiều, mà ở
mức tương đối vừa phải.
TL –NLTKKT 12
Tuy nhiên, số lượng sinh viên có lượng thời gian ôn thi trong 1 ngày tương đối
ít, từ 0 đến 3 giờ, đang chiếm một tỷ lệ khá cao như vậy là một điều không tốt, cho
thấy gần 30% số sinh viên đang lơ là nhiệm vụ chính của mình là học tập, nghiên
cứu, và dành đại đa số thời gian cho các việc cá nhân khác, hoặc là họ đang lãng
phí thời gian của chính mình.
Với 17% số sinh viên đầu tư lượng thời gian tương đối nhiều cho việc ôn thi là
con số chấp nhận được, và ta hoàn toàn có thể nhận định rằng số sinh viên này có
động lực và mục tiêu phấn đấu khá rõ ràng, đồng thời họ cũng không quên giành
thời gian để tham gia các hoạt động khác để thư thái sau thời gian dài ôn thi căng
thẳng.
Và cuối cùng, đáng chú ý nhất là nhóm sinh viên có lượng thời gian ôn thi
trong một ngày là lớn nhất 9 đến 12 giờ, tương đương với nửa ngày, số sinh viên
này rất đáng được biểu dương và khích lệ vì học tập, nghiên cứu với họ là đam mê,
là sở thích. Và chắc chắn rằng, kết quả học tập của họ sẽ rất tốt, tuy nhiên, nếu có
một vài bạn đạt kết quả chưa cao thì thực sự nên có sự điều chỉnh lại, không nên
quá gò ép mà nên tìm cho mình một phương pháp làm việc có hiệu quả và tương
xứng với lượng thời gian đã bỏ ra.
5. Thời điểm ôn thi trong ngày
Thời điểm học bài trong
ngày
Số sinh viên Phần trăm
Sáng 11 7.33
Chiều 12 8
Tối 37 24.67
TL –NLTKKT 13
Đêm 25 16,67
Nhiều hơn 2 buổi 65 43.33
Tổng 150 100
Từ bảng số liệu trên, ta có biểu đồ minh họa thời điểm ôn thi trong ngày của
sinh viên như sau:
Kết hợp bảng số liệu và biểu đồ đã nêu trên, có thể nhận định một cách tương
đối rằng số lượng sinh viên trong 5 nhóm thời điểm ôn thi là tăng dần đều từ
sáng, đêm và cho tới “học nhiều hơn 2 buổi”.
Dẫn đầu là nhóm “học nhiều hơn 2 buổi” với 65 sinh viên, tiếp đó là nhóm
“học tối”, “học đêm”, “học chiều” và “học sáng”, theo thứ tự tương ứng là 37, 25,
12, và 11 sinh viên.
Việc ôn thi thường rất căng thẳng và đòi hỏi sự kiên trì rất cao nên hiếm có
sinh viên nào có thể ngồi ôn bài liền một mạch trong 1 thời điểm nhất định nào
trong ngày; hơn thế nữa, để nhớ được nhiều thì nhất định cần phải có quá trình và
sự lặp lại thường xuyên, đều đặn; thêm vào đó là những yếu tố khách quan ít nhiều
cũng có tác động tới quá trình ôn thi của các sinh viên; chính vì vậy, tỷ lệ cao
43,33% số sinh viên học ôn trên 2 buổi/ngày là con số hợp lý, có xu hướng ổn định
cao, và đây cũng là cách chọn thời điểm ôn thi đúng đắn và hiệu quả nhất.
TL –NLTKKT 14
Lượng sinh viên chọn ôn thi vào tối - 24,67%, và vào đêm – 16,67% là một tỷ
lệ khá cao, vì trong thực tế 2 thời điểm này rất yên tĩnh và là thời điểm mọi sinh
viên thoát dần ra các hoạt động, các mối quan hệ vốn vẫn diễn ra mỗi ngày để trở
về với cuộc sống riêng của cá nhân mình; chính nhờ đó, mà họ có được sự tĩnh tâm
và tập trung cao độ vô cùng quý giá cho việc ôn tập lại và ghi nhớ. Tuy nhiên, cũng
nên phân bổ thời gian cho hợp lý để đảm bảo giấc ngủ và sức khỏe cho cả kỳ thi
dài với nhiều môn thi gần nhau.
Và tất nhiên, đối lập lại là thời điểm sáng và chiều, chính sự hấp dẫn của cuộc
sống thường nhật và những công việc, hoạt động khác đã chiếm lấy tâm trí và thời
gian của sinh viên, khiến họ không hứng thú, hoặc đơn giản là không có thời gian
cho việc ôn thi nữa. Từ đó, có thể nhận định rằng tỷ lệ 8% và 7,33% ứng với hai
thời điểm trên là có cơ sở thực tế và tính ổn định cũng là tương đối cao. Tuy nhiên,
nên tăng tỷ lệ ôn thi vào buổi sáng cao hơn nữa, vì thức dạy sớm rất có lợi cho sức
khỏe và là một thói quen tốt, nhất là thời điểm đó chúng ta có khả năng tiếp thu rất
cao, đồng nghĩa với hiệu quả ôn thi và khả năng ghi nhớ sẽ được cải thiện đáng kể.
Phần 2: Về phương pháp ôn thi
1. Cách thức ôn thi
BẢNG SỐ LIỆU
Cách ôn thi Số sinh viên Phần trăm
Một mình 76 50,67
Theo nhóm 6 4
Kết hợp học một mình và học nhóm 65 43.33
Khác 3 2
Với bảng số liệu nêu trên, có thể thấy có sự phân hóa rõ nét trong tổng số 150
sinh viên được điều tra, theo hai chiều hướng:
TL –NLTKKT 15
Một bên gồm 2 nhóm có số sinh viên rất đông, sấp sỉ gần tương đương nhau là
nhóm “ôn thi một mình” – 76 sinh viên và “kết hợp học một mình và học nhóm” –
65 sinh viên; bên còn lại đối lập hoàn toàn, có số sinh viên rất ít, đó là nhóm “ôn thi
theo nhóm” – 6 sinh viên, và “Cách thức khác” - 3 sinh viên.
BIỂU ĐỒ
Từ bảng số liệu và biểu đồ nêu trên, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra rằng,
phong cách mang đậm truyền thống đại học Ngoại Thương vẫn được duy trì và
phát huy tương đối tốt, đó là sự thông minh, tự tin, năng động, tự lập cao gắn liền
với hợp tác tích cực trong học tập cũng như các hoạt động thanh niên ngoài giờ
học. Điều này được thể hiện qua số lượng sinh viên học theo phương thức “một
mình” và “ kết hợp giữa tự học và học nhóm” chiếm tỷ lệ rất cao, lần lượt theo thứ
tự là 50,67% và 43,33%. Lý do nhiều sinh viên chọn hình thức tự học đó là sự tập
trung, nhập tâm suy nghĩ , nhớ lâu hơn và đạt hiệu suất cao hơn khi họ làm việc
một mình; tuy nhiên, trong quá trình tự học không thể tránh khỏi những vướng
mắc, khó để tự tìm ra lời giải đáp nên hệ quả kéo theo đó là nhu cầu thắc mắc và
được giải đáp thắc mắc, chính vì vậy, 43,33% số sinh viên đã chọn cách học là “kết
TL –NLTKKT 16
hợp tự học và học nhóm” lại với nhau để thu được lợi ích tối ưu và hiệu quả tốt
nhất cho việc học; và đây có thể nói là một lựa chọn thông minh, khá hợp lý, rất
đáng được quan tâm, và khuyến khích vận dụng trong cộng đồng sinh viên.
Với 4%, hình thức học theo nhóm không được nhiều sinh viên lựa chọn vì nó
đòi hỏi giữa các thành viên phải có một mối quan hệ tương đối tốt ràng buộc, một
lịch làm việc, một nơi học tập chung đảm bảo thời gian, không gian hợp lý cho tất
cả thành viên trong nhóm, điều này gây ra không ít thay đổi, khó khăn trong thời
gian biểu cá nhân của mỗi thành viên; thêm vào đó, học theo nhóm có thể gây ra
hiệu ứng mải chuyện, ham vui đùa, ăn uống gây tốn kém tài chính, lãng phí thời
gian và ảnh hưởng xấu tới tiến độ học ôn của tất cả thành viên trong nhóm. Có thể
thấy tỷ lệ này thấp như vậy là một dấu hiệu tốt, và nên duy trì ở mức độ tương
đương, hoặc cao hơn nhưng với hiệu quả hơn.
Cuối cùng, chiếm tỷ lệ nhỏ nhất – 2%, là hình thức ôn thi khác, đây là hình
thức mang tính mở cao, dành cho các bạn có cách thức ôn thi đặc biệt hoặc phức
tạp hơn cách mà đại đa số sinh viên vẫn thường áp dụng. Tỷ lệ này thấp nhưng
không phải là bằng không, cũng có thể coi là một dấu hiệu tốt, cho thấy trong cộng
sinh viên ĐH Ngoại Thương HN luôn tồn tại một số thành viên có khả năng gây
đột biến và rất có thể là một điểm sáng trong cách thức học tập mới, đầy sáng tạo
và hiệu quả.
2. Hình thức học nhóm
BẢNG SỐ LIỆU
Cách học nhóm Số sinh viên Phần trăm
Tự đọc và nghiên cứu trước khi
học nhóm
82 82
Không xem bài trước 16 16
Khác 2 2
Tổng 100 100
TL –NLTKKT 17
Dựa vào bảng số liệu trên với 100 sinh viên được điều tra, có thể thấy số
lượng áp đảo thuộc về nhóm sinh viên “tự đọc và nghiên cứu trước khi học nhóm”-
82 sinh viên; xếp theo sau, nhưng với khoảng cách khá lớn là nhóm “không xem
bài trước” – 16 sinh viên, và đứng vị trí cuối cùng là nhóm sinh viên với cách học
nhóm “khác” – 2 sinh viên. Tương ứng với số lượng trên là tỷ lệ phần trăm của 3
nhóm sinh viên với 3 hình thức học nhóm tương ứng.
Hiện tượng này, xét trên tổng thể lớn có thể coi là tốt và chấp nhận được, con
số 82% số sinh viên thường “đọc và nghiên cứu trước khi học nhóm” cho thấy rõ
nét nhất điều này, đồng thời khảng định nhận thức tốt và đúng đắn về cách học
nhóm của sinh viên ĐH Ngoại Thương, vì trong thực tế, nếu không có sự có sự
tranh luận, cùng xem xét, cùng giải quyết thì học nhóm bị sẽ phản tác dụng, mà tất
cả những điều này chỉ có thể có khi các thành viên trong nhóm đưa ra chính kiến
của mình từ việc họ đã tự đọc và nghiên cứu trước đó.
Đối nghịch với sự tích cực của 82% số sinh viên nêu trên là 16% số sinh viên
“không xem bài trước khi học nhóm”, tỷ lệ này nên giảm thiểu hơn nữa, xuống
mức càng nhỏ thì càng tốt, vì một khi chưa có cái nhìn tối thiểu và sơ lược về vấn
đề cần giải quyết, thì học nhóm chỉ giống như một bữa tiệc đầy ngẫu hứng, không
lý do, không tiến trình, và cuối cùng là hậu quả: tiêu tốn thời gian vô ích, hiệu quả
mang lại không cao.
Và thiểu số 2% còn lại, không thuộc nhóm nào trong hai nhóm thường gặp
trong thực tế kia, có thể coi đây là yếu tố ngẫu nhiên, mặc định trong thống kê, vì
số sinh viên này có thể là đang vận dụng một phương thức đặc biệt nào đó, hoặc
đơn giản là học nhóm nhằm một mục đích cá nhân khác. Nếu có thể, nên chuyển
dịch số lượng này, cũng như lượng “ không xem bài trước khi học nhóm” vào
nhóm “đọc và nghiên cứu bài trước khi học nhóm”.
BIỂU ĐỒ
TL –NLTKKT 18
3. Tài liệu ngoài giáo trình
Nguồn tài liệu ôn thi Số Sinh viên Tỉ lệ trong mẫu (%)
Chỉ riêng giáo trình 12 8
Giáo trình + Tài liệu ngoài 138 92
Tổng 150 100
Dựa vào số liệu ta có biểu đồ sau:
Trong số 150 sinh viên được hỏi , có 12 sinh viên chỉ đọc giáo trình ( 8%),
138 sinh viên còn tìm đọc thêm tài liệu khác (92%). Điều này cho thấy hầu hết sinh
viên đều có ý thức tìm đọc nguồn tài liệu ngoài giáo trình. Đây là một dấu hiệu rất
tốt trong tư duy của sinh viên FTU. Rõ ràng với mỗi bộ môn những kiến thức trong
giáo trình chưa thể giúp sinh viên nắm bắt hết kiến thức và đạt kết quả cao được.
4. Nguồn tài liệu
BẢNG SỐ LIỆU
TL –NLTKKT 19
Nguồn tài liệu ngoài Số sinh viên Tỉ lệ trong mẫu
Trên mạng 34 24,6
Quán photo 12 8,7
Thầy cô, bạn bè 5 3,6
Kết hợp từ 2 cách trở lên 87 63,1
Tổng 138 100
BIỂU ĐỒ
Có thể rút ra nhận xét: Phần lớn các sinh viên đều sử dụng kết hợp các nguồn
tài liệu ngoài ( 63,1%) , và nguồn tài liệu từ internet được sử dụng nhiều nhất. Điều
này là hợp lý vì một sinh viên muốn có kết quả tốt cần vận dụng tối đa các nguồn
tài liệu có thể có. Và internet hiện nay là phương tiện hỗ trợ không thể thiếu với
việc học tập của sinh viên. Đây là nguồn tài liệu vô cùng phong phú, rộng lớn, chỉ
cần ngồi ở nhà với một chiếc máy tính và mạng internet là đã có thể tìm được tài
liệu vô cùng nhanh chóng. Tuy nhiên, có thể thấy rằng một bộ phận ( 12,4 %) sinh
viên đã bỏ qua nguồn tài rất hiệu quả này. Vậy đối với những bạn chưa trang bị
mạng internet cho mình thì cần nhanh chóng lắp đặt vì đây là công cụ không thể
thiếu đối với sinh viên, nhất lại là sinh viên kinh tế. Có 8,7 % sinh viên chỉ học ở
giáo trình và tìm tài liệu ở quán photo copy. Đây là nguồn tài liệu phổ biến, sát với
môn học, chẳng hạn như tuyển tập đề thi, các sách bán chạy,… Tuy nhiên phạm vi
lại hẹp và chưa cập nhật bằng internet. Có 3,6 % sinh viên chỉ học giáo trình kết
hợp với tài liệu từ thầy cô bạn bè. Trên thực tế tài liệu từ nguồn này rất có ích, sát
với chương trình hơn so với tự mày mò qua internet. Tuy nhiên,sinh viên lại lâm
vào tình trạng bị động, nếu có được tài liệu thì học, còn không thì bỏ qua.
Như vậy mỗi nguồn tài liệu đều có ưu điểm và nhược điểm, cách học thông
minh nhất là kết hợp tất cả các nguồn tài liệu. Mới chỉ có khoảng 2/3 số sinh viên
TL –NLTKKT 20
( chưa kể số chỉ học qua giáo trình) làm được điều này. Vậy những bạn còn lại nên
thay đổi phương pháp, nhất là khi bước sang năm thứ ba và thứ tư. Không những là
tài liệu phục vụ cho kì thi, những kiến thức thực tế rất quan trọng với các bạn trong
giai đoạn này, nó sẽ hỗ trợ vô cùng lớn cho các bạn khi ra trường. Hãy tận dụng
internet, nguồn tài liệu vô cùng hữu ích, bên cạnh đó tham khảo thầy cô cũng là
một cách hay để các bạn nắm vững môn học.
5. Phương pháp ôn thi
BẢNG SỐ LIỆU
Phương pháp ôn thi Số sinh viên Tỉ lệtrongmẫu Điểm tích lũy trung
bình
Học thuộc lòng 16 10,7 3.17
Đọc hiểu 34 22,7 3.19
Sơ đồ tư duy 8 5,3 3.20
Kết hợp từ 2 cách trở
lên
92 61,3 3.23
Tổng 150 100
BIỂU ĐỒ
Có thể thấy rằng phần lớn các bạn sinh viên đều kết hợp từ hai phương pháp
ôn thi trở lên (63,1% ). Trong số các bạn chỉ sử dụng một phương pháp ôn thi thì
đọc hiểu là phương pháp được sử dụng nhiều nhất ( 22,3 % ) và chỉ có 5, 3% số
sinh viên biêt đến phương pháp sơ đồ tư duy. Thực sự các bạn đã bỏ qua một
phương pháp vô cùng hiệu quả để hệ thống hóa và ghi nhớ thong tin. Phương pháp
sơ đồ tư duy là phương pháp hiện đại qua thử nghiệm đã chứng tỏ được hiệu quả
vượt trội so với các phương pháp truyền thống, giúp các bạn học tập hứng thú hơn ,
TL –NLTKKT 21
tự do hơn, ghi chép theo ý muốn và hệ thống cực kì dễ dàng nhờ vận dụng được
các quy luật của não bộ. Điểm trung bình tín chỉ của các bạn sr dụng phương pháp
này (3.2 ) cao hơn so với các bạn chỉ sử dụng phương pháp đọc hiểu (3.19)hoặc
học thuộc lòng (3.17 ). Vậy các bạn nên tìm hiểu và ứng dụng ngay phương pháp
này.
Tuy nhiên, cách ôn thi tốt nhất có thể thấy là kết hợp hiều phương pháp. Kết
quả điểm tích lũy trung bình của các bạn kết hợp nhiều phương pháp (3.23 ) lại cao
hơn hẳn so với các bạn chỉ sử dụng một. Học thuộc long rất hữu ích đối với một số
môn viết như Đường lối cách mạng,, Tư tưởng Hồ Chí Minh,…Tuy nhiên chỉ học
thuộc thì sẽ không thực sự nắm rõ kiến thức, các bạn cần phải hiểu được nội dung
bài học. Bên cạnh đó, đọc hiểu sẽ tốt ở phương diện bạn có thể nắm được vấn đề,
tuy nhiên lại khó hệ thống và ghi nhớ. Phương pháp sơ đồ tư duy giúp bạn hệ
thống được kiến thức và ghi nhớ được, tuy nhiên ngoài nghe giảng, bạn cũng phải
ôn giáo trình để hiểu được kiến thức vì phương pháp này ghi chép hơi ngắn gọn,
không được chi tiết như giáo trình.
Tóm lại mỗi phương pháp đều có ưu và nhược điểm, cách thông minh nhất là
kết hợp tất cả các phương pháp ôn thi.
6. Phân bổ thời gian
BẢNG SỐ LIỆU
Sắp xếp thời gian cụ thể
cho từng môn
Số sinh viên Tỉ lệ trong mẫu Điểm tích lũy trung bình
nhóm
Có 32 21,3% 3.22
Không 118 78,7% 3.18
Tổng 150 100
TL –NLTKKT 22
BIỂU ĐỒ
Có thể thấy rằng phần lớn các bạn đều sắp xếp thời gian ôn thi cho từng môn
(78.7%) . Con số này có thể coi là tốt và châp nhận được, phần lớn sinh viên FTU
có nhận thức tốt và đúng đắn về việc sắp xếp thời gian ôn thi cho từng môn. Bởi lẽ
sắp xếp cụ thể thời gian ôn thi sẽ giúp tiết kiệm thời gian, chủ động nắm bắt được
lượng kiến thức cần nắm bắt, tránh việc bị động, không biết lựa chọn lúc nào ôn gì,
dễ làm cho việc ôn thi trở nên áp lực, hiệu quả giảm sút. Và kết quả trung bình cho
thấy điều đó, điểm trung bình tích lũy của các bạn có ý thức về sắp xếp thời gian ôn
thi là 3.22, cao hơn so với nhóm còn lại là 3.18.
Với 21.3 % sinh viên không biết cách sắp xếp thời gian ôn thi, thật sự, đã là
sinh viên năm 2 nhưng chưa làm được điều này là điều đáng trách . Nhất lại là
trong cộng đồng sinh viên FTU rất năng động thì việc biết quản lý thời gian tốt là
một điều đặc trưng. Học kĩ năng quản lý thời gian là một việc rất quan trọng ở đại
học. Hi vọng rằng trong năm tới các bạn sẽ khắc phục được điều này để không chỉ
nâng cao kết quả học tập mà còn giúp các bạn làm việc, sinh hoạt hiệu quả.
7. Học tủ
BẢNG SỐ LIỆU
Học tủ Số sinh viên Tỉ lệ trong mẫu
Có 91 60,7
Không 59 39,3
Tổng 150 100
TL –NLTKKT 23
BIỂU ĐỒ
Học tủ là cách học không được khuyến khích bởi lẽ cách học này chỉ hướng
đến mục đích điểm số mà không hướng đến hiệu quả môn học. Cũng không là điều
quá khó hiểu khi đa số sinh viên (60.7%) , tức là phần lớn sinh viên FTU có học tủ
bởi có một số môn thi viết, nếu như học toàn bộ thì sẽ không thể nắm được hết kiến
thức. Vì vậy phần đông sinh viên đã chọn phương pháp “ chấp nhận rủi ro” . Tuy
nhiên, đó cũng chỉ là một cách ngụy biện. Có thể các bạn cho rằng phần lớn kiến
thức học ở đại học sẽ không được áp dụng thực tế sau này khi các bạn ra đời, và
việc học để thu lượm kiến thức ở nhiều môn là vô ích nên không cần phải “ học
thật”. Tuy nhiên cách nghĩ này hoàn toàn sai lầm. “ Học thật” ở đại học là vô cùng
quan trọng. Đúng , với sinh viên kinh tế như sinh viên FTU thì kĩ năng va kiến thức
thực tế mới thực sự hữu ích. Nhưng bất kì môn học nào cũng tác động nến cách
thức hoạt động não bộ của bạn. “ Học thật “ chính là cách để rèn luyện não bộ. Và
điều đó thực sự có ích khi bạn ra đời. Nếu bạn để cho nó thường xuyên nghỉ ngơi
bằng những lý do ngụy biện thì nó sẽ hoạt động kém dần, thêm nữa khả năng ứng
phó với khó khăn của bạn cũng sẽ giảm xuống. Vì vậy, học tủ cũng như học đối
phó là hoàn toàn không nên, cần có một sự thay đổi mạnh mẽ trong lối suy nghĩ của
sinh viên FTU hiện nay, hãy chăm chỉ học từ đầu chứ đừng để đên khi sắp thi mới
bắt đầu học tủ!
8. Số môn ôn cùng một lúc
BẢNG SỐ LIỆU
Số môn ôn thi cùng 1 lúc Số sinh viên Tỉ lệ trong mẫu
1 môn 69 46
Nhiều môn 45 30
Tất cả 12 8
Tùy hứng 24 16
TL –NLTKKT 24
Tổng 150 100
Dựa vào bảng số liệu ta có thể thấy có 46% số sinh viên được hỏi chỉ ôn thi 1
môn trong 1 khoảng thời gian, 35% số sinh viên được hỏi ôn thi nhiều môn trong 1
khoảng thời gian, 8% số sinh viên được hỏi ôn thi tất cả các môn trong 1 khoảng
thời gian và 16% sinh viên còn lại thì ôn thi tùy hứng.
BIỂU ĐỒ
9. Địa điểm ôn thi
BẢNG SỐ LIỆU
Địa điểm ôn thi Số sinh viên Tỉ lệ trong mẫu
Nhà 117 78
Thư viện 18 12
Trường 7 4,7
Nơi khác 8 5,3
Tổng 150 100
Dựa vào bảng số liệu ta thấy có 117 sinh viên chọn ôn thi tại, 18 sinh viên
chọn ôn thi ở thư viện, 7 sinh viên chọn ôn thi tại trường, và 8 sinh viên chọn ôn thi
tại nơi khác.
TL –NLTKKT 25