Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN Hướng dẫn học sinh lớp 12 soạn bài môn ngữ văn THPT BÁ THƯỚC 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.15 KB, 18 trang )

Trang
1
Sở giáo dục & đào tạo thanh hóa
Trờng THpt bá th ớc 3
Sáng kiến kinh nghiệm
Tên đề tài
HNG DN HC SINH LP 12 SON BI MễN VN
TRNG THPT B THC 3

Ngời thực hiện : Lê thị cúc
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trờng THPT Bá Thớc 3
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ Văn
Năm học 2011 - 2012
HƯỚNG DẪN HỌC SINH LỚP 12 SOẠN BÀI MÔN VĂN Ở
TRƯỜNG THPT BÁ THƯỚC 3
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Môn văn là một trong những môn học chính trong trường
THPT. §ặc biệt với khối lớp 12, môn học này có ảnh huơởng
nhiều đến việc học sinh đậu hoặc trượt trong thi tốt nghiệp hoặc
đại học.
Với mục đích nâng cao chất lượng học của học sinh ë bộ môn
này, có nhiều bài viết , nhiều kinh nghiệm đã được phổ biến giúp
cho giáo viên và học sinh trong quá trình dạy và học. Riêng tôi, từ
kinh nghiệm giảng dạy bộ môn, từ thực tế học văn của học sinh
trường miền núi, tôi nhận thấy khâu soạn, chuẩn bị bài là vấn đề
then chốt quyết định hiệu quả tiếp thu bài mới của học sinh.
Muốn cho việc dạy và học văn đạt kết quả , phải chú ý ngay từ
việc soạn bài của người học.Đó là lí do khiến tôi chọn đề tài này.
II GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Tìm hiểu thực trạng của vấn đề


Thực tế của việc dạy và học văn đang là vấn đề phải bàn từ
nhiều năm nay ở các trường THPT nhất là các trường ở miền núi.
Học sinh không hứng thú với học văn, học kém tập trung. Học
sinh cho rằng môn học này khó học, hoặc không cần đầu tư gì
nhiều, học văn chỉ là quá trình ghi chép bài rồi về nhà học
Trang
2
thuc c bit l tỡnh trng hc sinh khụng chun b bi, khụng
son bi trc khi n lp. Theo tụi õy l mt trong nhng
nguyờn nhõn quan trng khin cho cỏc gi hc vn cha t c
hiu qu nh mong mun, cht lng b mụn cũn thp.
2. Tỡm cỏc gii phỏp thay th.
Yờu cu ca phng phỏp i mi giỏo dc l phỏt huy tớnh
tớch cc, ch ng ca hc sinh. õy l yờu cu cn thit trong
ging dy v hc tp i vi tt c cỏc mụn hc. Theo nguyờn b
trng B Giỏo dc - o to Trn Hng Quõn thỡ "Phng phỏp
dy hc phi hng vo vic khi dy, rốn luyn v phỏt trin kh
nng ngh v lm vic mt cỏch linh ng, t ch v sỏng to ca
hc sinh ngay trong lao ng v hc tp nh trng. Ngi hc
gi vai trũ ch ng tớch cc trong quỏ ytỡnh hc tp, khụng th
ng". Qu ỳng nh vy: Mụn vn, b mụn cú ni dung tỏc
ng nhiu n t tng, tỡnh cm ca ngi hc thỡ vic ch
ng tớch cc, hỡnh thnh tõm th lnh hi ni dung tỏc phm,
nht l nhng tỏc phm vn hc ln s mang nhng rung cm
thm m cú th khớch l ngi hc, ngi c nhng khỏt khao
õm thm mun khỏm phỏ v hiu bit v v p tõm hn v ý
ngha cao c v s sng.Sự chủ động tích cực của học sinh sẽ đem
đến cho giờ học một không khí sôi nổi hứng thú. Khi đó giáo viên
đóng vai trò khơi gợi dẫn dắt,còn học sinh, các em tự mình phát
hiện, khám phá để xây dựng bài giúp các em nhớ và hiểu bai sâu

sắc hơn.Muốn đạt đợc không khí ấy, học sinh phải đọc và chuẩn
bị bài trớc ở nhà.
Trang
3
T kinh nghim v cht lng cao ca lp vn cỏc trng
chuyờn cho thy rừ hiu qu ca vic c v son bi trc khi
tip thu bi mi. Hc sinh tip thu mt cỏch ch ng . Hn th
hc sinh tham gia bn lun i thoi vi ngi dy v những vn
t ra trong tỏc phm khin cho gi hc sụi ni, to hng thu
cho c ngi dy v ngi hc. T ú khong cỏch gia giỏo viờn
v hc sinh, gia hc sinh v tỏc phm c rỳt ngn li, thụng
ip m nh vn mun truyền ti n vi hc sinh mt cỏch d
dng hn.
Tôi đã có dịp dự giờ văn ở trờng Đào Duy Từ và trờng
chuyên Lam Sơn thấy : Học sinh làm việc thật sự trong tiết học,
các em nghe giảng và sôi nổi xây dựng bài. Khi trao đổi rút kinh
nghiệm đợc biết học sinh của họ có đầy đủ các loại tài kiệu tham
khảo cho môn học, và cái chính là yêu cầu cao về sự chuẩn bị cho
bài mới
Nu nh khụng son bi, khụng cú s chun b bi cho bi
mi thỡ vic tip thu bi hon ton th ng, hc sinh mi nghe
tip xỳc ln u vi ni dung bi hc khi n lp, ch trong
khong thi gian ngn(40 45 phỳt) khụng hc sinh cú th
tip thu nhng kin thc ca bi hc.
Mt khỏc, trong chng trỡnh b mụn vn, cú nhng tit ging
vn vi nhng tỏc phm di, nu hc sinh khụng c v son
nh n lp phi c tỏc phm thỡ mt ht c thi gian ging
v phõn tớch tỏc phm. iu ỏng bun l tỡnh trng ny ang tn
ti cỏc trng min nỳi trong ú cú hc sinh trng THPT Bỏ
Trang

4
Thc 3. Học sinh đến lớp học đa số chỉ mang theo sách giáo
khoa và một cuốn vở mỏng để ghi, không có vở soạn cũng không
dọc trớc tác phẩm ở nhà. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân :
Một phần do hoàn cảnh sống của học sinh vùng sâu xa này còn
nhiều khó khăn, học sinh một buổi đi học, một buổi về nhà phụ
giúp bố mẹ, tối về đã mệt lại không có phong trào học nên dễ sinh
tâm lí chán nản buông xuôi. Khi đến lớp giáo viên không yêu cầu
cao, chỉ nhắc qua loa chiếu lệ, miễn sao tiết học qua đi một cách
trôi chảy. Nh vậy học sinh thấy không soạn
bài cũng không ảnh hởng gì nên không đầu t cho bài soạn
3. Xỏc nh vn nghiờn cu
a. Vic c bi, son bi cú thc s em li hiu qu
trong gi hc vn hay khụng
Theo tụi, vic c bi, son bi nh chun b cho tit hc
vn lp thc s l cn thit v mang li hiu qu.
Vi iu kin kinh t cũn khú khn nhiu gia ỡnh hc
sinh, cỏc ti liu tham kho hu nh khụng cú. phc v cho
mụn vn duy nht ch cú mt cun sỏch giỏo khoado nh trng
cho mn. mt s em cú thờm cun hc tt. Nu nh 2 cun
sỏch ny hc sinh cng ớt s dng c v chun b bi nh thỡ
vic hc hụm sau lp hon ton mi. Hc sinh coi nh tip cn
ln u tiờn vi bi hc, trong hon cnh gp rỳtv thi gian,
khụng cú iu kin suy ngh, phỏt hin thỡ hc sinh trong tit
hc ú s hon ton th ng, ch bit ghi m khụng thc s hiu
bi v nh vy thỡ bi v nh hc cng rt khú thuc .
Trang
5
Mặt khác, đặc thù của tác phẩm văn chương là tính hàm
súc, đa nghĩa. Để phát hiện được các lớp nghĩa của tác phẩm phải

bắt đầu từ việc tìm hiểu tác giả, hoàn cảnh sáng tác tác phẩm rồi
mới đến giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. Vì vậy học
sinh phải có thao tác “soạn bài” tức là phải nắm được một số
thông tin về tác giả, tác phẩm (với các bài giảng văn) phải chuẩn
bị bài tập, trả lời câu hỏi (với các tiết làm văn và tiếng việt) hoặc
ít nhất phải có ấn tượng nhất định về bài học của tiết hôm sau thì
việc tiếp thu, lĩnh hội tác phẩm mới mang tính tích cực, không
còn mới mẻ, bỡ ngỡ, không còn là “ vỡ vạc“ lần đầu. Như vậy lời
giảng của giáo viên mới có thể “thấm” vào các em dÔ hơn, các em
học sinh cũng sÏ phát hiện được các khía cạnh của tác phẩm, các
vấn đề cần khai thác để xây dựng bài ,tiết giảng sẽ đạt hiệu quả
cao hơn
b. Những biện pháp để thúc đẩy việc đọc và soạn bài ở nhà.
b1 Học sinh phải có đầy đủ sách vở: vở ghi, vở soan, sách
giáo khoa, sách “để học tốt” môn văn.
Đây là yêu cầu tối thiểu, cần phải có. Yêu cầu tương đối đơn
giản nhưng thực tế học sinh trường Bá Thước 3 vẫn không có đủ
loại sách vở trên nếu nhà trường không có sách cho mượn, không
có vở để cấp.
Vào đầu năn học, giáo viên bộ môn phải quán triệt học sinh
chuẩn bị các loại sách vở này. Giáo viên phải kiểm tra thường
xuyên, nhất là sách giáo khoa. Sách cho mượn nhưng các em
Trang
6
củng không mượn đủ, họăc là để mất, làm rách không có sách để
soạn bài.
b2. Giáo viên tuyên truyền, phân tích cho học sinh thấy râ
lợi ích, sự cần thiết của việc soạn bài trước khi đến lớp. Cho học
sinh hiểu được đây là yêu cầu bắt buộc đối với người học văn.
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên phải hướng dẫn học

sinh cách soạn bài
- Đọc trước tác phẩm:
Đây là khâu quan trọng nhất của quá trình soạn bài. Đọc
không phải chỉ là hành động nhận thức nội dung, ý tưởng từ văn
bản mà còn là hoạt động trực quan sinh động giàu cảm xúc, có
tính trực giác. Đọc còn là hành động mang tính chất tâm lý.
Với học sinh đọc tác phẩm văn chương là bước đầu phát
hiện các lớp cấu trúc tồn tại trong tác phẩm. Trước hết là cấu trúc
ngôn ngữ, tiếp đến là cấu trúc hình tượng thẩm mỹ, sau nữa là cấu
trúc ý nghĩa.
Trong cấu trúc ngôn ngưc học sinh được tìm hiểu để nắm
bắt các loại thông tin: Thông tin hiện thực đời sống và thông tin
thẩm mỹ.
Thông tin hiện thực là bức tranh đời sống vừa quen vừa lạ,
học sinh thấy quen để chia sẻ và thừa nhận, lạ để gợi trí tò mò,
muốn hiểu biết và khám phá của người học.
Thông tin thẩm mỹ trong cấu trúc ngôn ngữ bao gồm
những từ đắt, những lời hay, những biện pháp tu từ. Học sinh sẽ
Trang
7
bc u cú n tng v sau ú s khỏm phỏ th gii ngụn t y
sõu sc, k cng hn trong cỏc tit hc lp.
Theo tỏc gi Trn ỡnh Hu: c - hiu vn l nng lc
u tiờn ca quỏ trỡnh hc vn. c vn l cuc tỡm ý ngha tim
n ca vn bn. bc c nhp cu cho ngi c n vi tỏc
phm vn chng l mt cỏch c "Tụn trng ng cnh ca vn
bn, ng cnh ca tỏc gi v thi i".
Giỏo s Phan Trng Lun cng ó phõn tớch rừ tm quan
trng ca hot ng c: "c t ch u n ch cui, c cho
õm vang, c tri giỏc, cm giỏc c bng mt, bng tai t

ng, hỡnh nh, chi tit "
Quỏ trỡnh c chớnh l quỏ trỡnh tng bc thõm nhp tip
nhn tỏc phm.
Tỏc gi li vit "Trong khi c, nhng tớn hiu ngụn ng,
nhng hỡnh nh cuc sng trong tỏc phm hin lờn tun t, sỏng
t dn"
Vi hc sinh THPT, nht l hc sinh lp 12 phi tip cn
vi chng trỡnh nng hn, nhng tỏc phm vn hc di hn nờn
vi nhng bi ging vn, c trc tỏc phm l yờu cu bt buc.
Hc sinh phi nm c túm tt ct truyn (vi tỏc phm t s)
mch trữ tỡnh (vi tỏc phm th) mch lp lun (vi tỏc phm vn
ngh lun) lm nhng bi tp (vi cỏc tit luyn tp thc hnh)
Ví dụ cụ thể về một số bài dạy :
Dạy bài Tây Tiến học sinh phải hiểu đợc hồn thơ Quang
Dũng và hoàn cảnh đất nớc ta những ngày đầu chống Pháp, biết đ-
Trang
8
ợc địa hình miền núi Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở dữ dội và đặc
điểm đoàn quân Tây Tiến
Với tuỳ bút Ngời lái đò sông Đà học sinh phai hiểu dợc
phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: Tài hoa, uyên bác và lối
chơi ngông bằng văn chơng, phi ọc trớc tác phẩm nhiều lần thì
khi giáo viên phân tích học sinh mới có thể cảm nhận đợc nghệ
thuật miêu tả dòng sông và chân dung ngời lái đò của Nguyễn
Tuân
Cú nhng tỏc phm vn hc cú s trang di, s khụng
thi gian c lp, nu hc sinh khụng nm c tỏc phm
trc thỡ giỏo viờn cú c gng ging n õu tit ging cng kộm
hiu qu. Ví dụ khi dạy bài Số phận con ngời của Solokhop, học
sinh phải đọc trớc và tóm tắt đợc tác phẩm. Vào giờ học, giáo viên

yêu cầu học sinh trình bày phần tóm tắt tác phẩm, ngời dạy chỉ
cần bổ sung thêm cho hoàn chỉnh sau đó dành thời gian để khai
thác tác phẩm đợc sâu hơn
Sau khi c v nm c tinh thn chung ca tỏc phm,
hc sinh da vo phn "Hng dn hc bi" khai thỏc tỏc
phm v tr li ngn gn vo v son theo nhng cõu hi nh
hng.
Vớ d: Son bi Vit bc, hc sinh phi chun b nhng
thụng tin nh: Hon cnh sỏng tỏc? Sc thỏi tõm trng? Li i
ỏp ca nhõn vt ch tỡnh trong on trớch? V p ca cnh v
ngi Vit Bc hin lờn qua hoi nim ca nh th? Khung cnh
ca vit Bc trong chin u? Vai trũ ca Vit Bc trong cỏch
Trang
9
mạng và kháng chiến được Tố Hữu phác hoạ ra sao? Nhận xét về
hình thức nghệ thuật trong đoạn trích.
Soạn Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, học sinh chuẩn bị
những thông tin để trả lời vào vở soạn như: Bố cục đoạn trích?
Cảm nhận, lý giải về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm trong phần
một và phần hai đoạn thơ? Những đặc sắc nghệ thuật?
Dù mới chỉ hiểu vỡ vạc phần nào nhưng khi đã có tâm thế
chuẩn bị theo những định hướng đó thì khi đến lớp nghe giảng
học sinh sẽ nhanh chóng hoà nhập vào bài giảng và hiểu sâu sắc
tác phẩm hơn khi nghe giáo viên phân tích
b3.Giáo viên phải kiểm tra thường xuyên việc soạn bài của
học sinh ở các lớp dạy, hướng dẫn kịp thời. Làm sao để việc soạn
bài của học sinh vừa đạt hiệu quả, vừa không chiếm mất quá
nhiều thời gian để học các môn khác.Người dạy phải có biện pháp
khen, phạt kịp thời với những học sinh thực hiện tốt hoặc chưa
tốt. Việc làm này phải duy trì thường xuyên để trở thành nề nếp.

Qua trải nghiêm tôi thấy biện pháp này rất hiệu quả, chỉ cần một
câu biểu dương các em trước lớp, một con điểm tốt động viên
đúng lúc sẽ là động lực cho các em thực hiện những yêu cầu soạn
bài mà giáo viên đề ra
b4. Giáo viên bộ môn cần phối hợp chặt chẽ với giáo viên
chủ nhiệm để nắm sát hơn tình hình của lớp, cùng với giáo viên
chủ nhiệm bàn về biện pháp xử lí đối với những học sinh vi phạm
trong việc soạn bài. Sự phối kết hợp này là rất cần thiết. Sau mỗi
buổi dạy những biểu hiện đáng khen, những biểu hiện vi phạm
Trang
10
của học sinh, người dạy cần trao đổi kịp thời với giáo viên chủ
nhiệm để có hướng giải quyết tốt nhất. Bởi vì GVCN thường là
người có uy tín nhất đối với lớp. Trong thực tế giảng dạy tôi thấy
có một số học sinh không soạn bài , khi bị kiểm tra đột xuất
thường tỏ ra rất sợ nếu giáo viên chủ nhiệm biết lỗi của các em
b5. Giáo viên dạy cần có thái độ thân thiện với học sinh.
Đặc thù của học sinh miền núi vùng sâu xa, có những em tư duy
còn chậm, lại dể tự ái, dể bị tổn thương. Nếu giáo viên trong quá
trình giảng dạy gặp phải tình huống khó chịu; học sinh không
soạn bài, học sinh không chịu phát biểu hoặc không thuộc bài.
Giáo viên cần bình tĩnh, tìm hiểu nguyên nhân, vừa nghiêm khắc
nhưng củng vừa phải nhẹ nhàng, tình cảm động viên để học sinh
có thể hiểu và thông cảm hơn. Bản thân tôi dạy ở thị trấn nhiều
năm, khi mới chuyển vào trường vùng sâu, xa này, dù đã chuẩn bị
tâm lý tôi vẫn còn bị lúng túng trước đối tượng học sinh: 100%
học sinh là con em dân tộc. Các em cần sự nhẹ nhàng, tâm lý.
Trong giảng dạy giáo viên cố gắng đơn giản và cụ thể hoá kiến
thức, chọn cách truyền đạt dễ hiểu nhất. Trong cuộc sống sinh
hoạt cần tế nhị và tôn trọng các em. Tôi nghĩ chất lượng của giờ

dạy còng như lời khuyên của giáo viên sẻ đạt hiệu quả cao hơn
nếu tạo được sự cảm thông, độ tin tưởng của học sinh.
b6. Một năng lực cần có nữa của người dạy là: phải làm chủ
được kiến thức của bài, làm chủ được tiết dạy. Xác định được
kiến thức trọng tâm cần truyền tải, cố gắng chọn được cách diễn
đạt đơn giản, dÔ hiểu nhất. Trong thực tế giảng dạy và qua những
Trang
11
thông tin phản hồi từ học sinh: Có những tiết thầy cô giảng trôi
chảy gợi cảm nhưng tiết học qua đi mà lượng kiến thức đọng lại ở
học sinh rất ít. Chính vì vậy giáo viên cần định hướng trọng tâm
của bài ngay từđầu tiết dạy. Quá trình dạy phải bám vào định
hướng của bài qua những câu hỏi trong phần hướng dẫn học bài.
đó chính là phần kiến thức học sinh đã có sự chuẩn bị từ nhà và
đượpc thể hiện trong vở soạn. Đặc biệt phải biết cách khơi gợi để
kích thích tính tự giác, chủ động của học sinh, tạo được hứng thú
để học sinh tham gia xây dựng bài. Có như vậy học sinh mới thấy
được lợi ích của việc soạn bài và giờ dạy có hiệu quả hơn rất
nhiều.
4. Bảng so sánh chất lượng bộ môn trước và sau khi áp dụng
các phương pháp hướng dẫn học sinh đọc và soạn bài ở nhà.
a. Chất lượng học sinh các lớp dạy trước khi hướng dẫn học
sinh soạn bài
Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung
bình
Yếu
SL % SL % SL % SL %
12a1 43 0 0 10 24 25 57 8 19
12a2 43 0 0 9 21 24 55 10 24
12a4 40 0 0 3 8 19 62 12 30

12a5 38 0 0 2 5 22 61 14 34
5. Chất lượng học sinh các lớp dạy sau hướng dẫn học sinh
soạn bài
Trang
12
Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung
bình
Yếu
SL % SL % SL % SL %
12a1 43 3 8 32 66 10 26 0 0
12a2 43 2 5 18 43 25 52 0 0
12a4 40 0 0 14 35 24 60 2 5
12a5 38 0 0 15 40 21 55 2 5
5. Lựa chọn thiết kế (Áp dụng cụ thể ở từng lớp dạy)
Thiết kế 1: Chọn lớp 12A5 ( gồm 38 học sinh )
những ngày đầu được phân công dạy văn ở lớp này, tôi đã tìm
hiểu và phân loại đựơc: có khoảng 20 em có ý thức soạn bài. Qua
một số tiết, thấy rõ các em này hay phát biểu xây dựng bài, chất
lượng bài kiểm tra cũng cao hơn số em còn lại ( không có điểm
dưới 5 )
Số còn lại của lớp là ( 18 em ) thường xuyên không soạn
bài hoặc soạn qua loa, mượn vở của bạn để chép mấy dòng đối
phó. Số học sinh này hầu như nghe giảng thụ động, bài nắm
không chắc, kiểm tra miệng thường là điểm xấu vì không thuộc
bài, khi bị chỉ định trả lời thường lúng túng, nhầm tên tác giả,
nhầm thể loại tác phẩm…
Quá trình giảng dạy một năm ở lớp này, tôi đã kiên trì động
viên, phân tích hướng dẫn cho các em cách soạn bài, làm sao để
số em này tự tin, việc soạn bài không quá nặng nề và có ích thật
sự. Kết quả là chỉ hai tháng sau các em dần dần tiến bộ hơn hẳn

Trang
13
so với đầu năm. Không còn trạng thái thờ ơ thụ động trong giờ
học văn nữa. Điển hình trong số này như em Hà Văn Hùng, Ngân
Văn Tuyến, Bùi Văn Luyện…
Thiết kế 2:chọn lớp 12A1 ( có 43 học sinh )
Ở lớp này phong trào học có vẻ đều hơn ở các lớp khác.
Tuy nhiên việc soạn bài vẩn mang tính chất đối phó, soạn chiếu
lệ. Các tiết học văn thường lớp này rất trầm, ít phát biểu ý kiến
xây dựng bài. Tôi đã trao đổi tình hình này với GVCN lớp này,
nhờ GVCN tác động. Còn với lớp tôi phân tích cho các em hiểu
mức độ yêu cầu của chương trình môn văn khối 12, nặng hơn rất
nhiều so với mức độ yêu cầu môn văn khối 10 và khối 11. Tôi
quy định cho 2 tuần các em chuẩn bị đầy đủ các điều kiện như
SGK, sách tham khảo vở ghi, vở soạn. Sau 2 tuần kiểm tra đầy
đủ các loại trên tôi hướng dẫn các em cách soạn, cách tóm tắt tác
phẩm. Những tiết sau tôi thường xuyên kiểm tra vở soạn, , yêu
cầu các em nêu những nét chính về tác giả, tác phẩm hoặc tóm tắt
tác phẩm, em nào trả lời tốt khuyến khích bằng điểm tốt ngay. Cứ
như vậy, các giờ học sôi nổi hơn, việc chuẩn bị bài trở thành nề
nếp thường xuyên. Chất lượng các giờ học được nâng cao hẳn lên.
Có những phần học sinh tự học trong SGK ( ví dụ phần giới thiệu
tác giả, tác phẩm) giáo viên có điều kiện thời gian đi sâu phân tích
kỹ hơn phần kiến thức trọng tâm của bài và có thời gian để ôn tập
luyện đề nhiều hơn.
Thiết kế 3: chọn lớp 12A2
Trang
14
L mt trong nhng lp cú n np. Ngay t u nm tụi ó
yờu cu i vi lp: son bi trc khi n lp ,em no khụng

son bi thỡ khụng hc gi vn! lp ny son bi, hc bi tng
i u, v cng l lp cú tinh thn xõy dng bi rt sụi ni.
Thng thỡ c hc tit trc, tụi dn son bi tit sau. Cú mt
hụm dy thay mụn vn vo tit ca mụn GDCD do cụ giỏo m,
ú l bi cỏc em cha c dn son, tit hc hụm ú hiu qu
kộm hn, do n lp mi tip xỳc vi bi mi, hc sinh cú phn
lỳng tỳng, giỏo viờn dy phi dnh thi gian i tun t cỏc phn,
tin ging chm li, trng tõm ca bi khụng c i sõu nh
mong mun. ú l ln kim chng hc sinh thy nú li ớch tm
quan trng ca vic son bi v hu qu ca vic khụng son bi.
Thiết kế 4: Chọn lớp 12A4
Là một trong những lớp học yếu của khối 12. ở lớp này
trong các giờ văn chỉ có 3 4 em có ý thức chuẩn bị bài nh em
Hà Thị Phợng A, em Lê Thu Hằng, em Lơng Thị Mai . . .Còn lại
số đông học sinh, các em đều ngoan nhng học rất trầm, nghe
giảng rất nghiêm túc và chú ý nhng khi nghe giáo viên nêu câu
hỏi thì hầu nh đều cúi mặt không dám trả lời. Hoặc không biết
hoặc sợ sai. Có hiện tợng đó chỉ vì các em thiếu tự tin, vì ở nhà
mới chỉ lo học bài cũ mà cha chú ý đến việc chuẩn bị cho bài hôm
sau. Ngay sau đó, trong từng tiết học, tôi đã dành một phần thời
gian để phân tích cho các em tác dụng của việc soạn bài, hớng dẫn
cách soạn ở từng bài. Những tiết sau tôt kiểm tra lại bằng những
câu hỏi dễ nh : nêu hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm, những nét
chính về tác giả, hoặc tóm tắt tác phẩm. Một số em đã mạnh dạn
Trang
15
trả lời, tiết học sôi nổi hẳn lên. Dần dần đến những câu hỏi khó,
tôi cứ khơi gợi dần để các em trả lời, em nào trả lời đúng đều đợc
động viên bằng lời khen hoặc điểm tốt, các em phấn khởi tự tin
hăn lên. Dờng nh em nào cũng thấy đợc lợi ích của việc soạn bài

và chỉ 2 tháng sau việc soạn bài đã trở thành nề nếp ở lớp này
Kiểm nghiệm ở 4 lớp 12 đợc phân công giảng dạy tôi thấy
rõ sự chuyển biến về chất lợng của môn Văn: Từ chỗ không soạn
bài, soạn qua loa, ít thuộc bài đến nề nếp soạn bài nghiêm túc, đầy
đủ. Thực ra đây không phải là phơng pháp mới mà nó là yêu cầu,
là nguyên tắc của việc học Văn, có điều học sinh thờng không chú
ý, thờng coi nhẹ việc soạn bài, còn ngời dạy nếu không kiên trì
không kiểm tra thờng xuyên và động viên khích lệ thì việc soạn
bài của học sinh chỉ mang tính đối phó chiếu lệ
III. Kt thỳc vn
Qua nhiu nm ging dy trng THPT Bỏ Thc v 2
nm dy ti Trng THPT Bỏ Thc 3. Tụi nhn thy vic cho
hc sinh c son bi trc nh l vic lm cn thit v hiu
qu tht s i vi b mụn vn. Mun duy trỡ c n np ny,
giỏo viờn phi kiờn trỡ v cng quyt. mt khỏc phi thõn thin
v sỏt sao, gn gi hc sinh. Tụi tin rng duy trỡ c n np ny,
cng vi nhit tỡnh ging dy ca ngi thy cht lng b mụn
vn ngy c ci thin hn trng ta.
Để duy trì và thúc đẩy nề nếp soạn bài của học sinh, để
nâng cao chất lợng của bộ môn, về phía nhà trờng cần có yêu cầu
cao đối với tổ bộ môn và tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh để
có thể mợn đầy đủ sách giáo khoa và các loại sách vở cần thiết.
Trang
16
Về phía tổ chuyên môn, cần tổ chức hội thảo rút kinh nghiệm để
thực hiện đồng bộ nề nếp soạn và chuẩn bị bài ở tất cả các khối
lớp
Trờn õy l vi suy ngh v kim nghim v mt trong
nhng iu kin hc sinh hc tt mụn vn.chc chn cũn nhiu
thiu sút, rt mong cỏc bn ng nghip gúp ý xõy dng.


I, Đặt vấn đề
II. Giải quyết vấn đề
1.Tìm hiểu thực trạng vấn đề
2. Tìm các giải pháp thay thế
3. Xác định vấn đề nghiên cứu
4. Lựa chon thiết kế
- Thiết kế 1
- Thiết kế 2
- Thiết kế 3
- Thiết kế 4
III. Kết thúc vấn đề
Trang
17
Trang
18

×