Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Một số giải pháp xây dựng Nhà trường văn hoá ở trường THPT hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.17 KB, 27 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong đời sống xã hội, con người chịu ảnh hưởng bởi môi trường văn hóa
mà trong đó họ sống và hoạt động. Mỗi dân tộc có một nền văn hóa riêng, nó là
nhân tố quan trọng tạo nên sức mạnh và bản sắc của dân tộc đó. Tổ chức cũng
vậy, nó cũng có một truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa mà ta tạm gọi là
văn hóa tổ chức. Văn hóa tổ chức là một yếu tố rất quan trọng mà nhà quản lý
cần xây dựng và duy trì nhằm tạo động lực đưa đơn vị phát triển nhanh và bền
vững. Đối với trường học, nó được gọi là văn hóa nhà trường. Có thể hiểu văn
hoá nhà trường đó là những quan niệm, những chuẩn mực quy định cách thức xử
sự giao tiếp giữa người học với nhau, giữa trò với thầy và ngược lại. Văn hoá
nhà trường còn được thể hiện qua triết lí giáo dục của nhà trường, qua hành vi
giao tiếp, cách ứng xử của người học. Văn hóa nhà trường vô cùng quan trọng
trong việc rèn luyện nhân cách và giáo dục thế hệ trẻ trở thành những con người
sống có hoài bão, có lý tưởng tốt đẹp.
Có thể nói, những năm gần đây, văn hóa học đường có những biến đổi theo
nhiều chiều hướng khác nhau. Nền kinh tế, văn hóa, khoa học phát triển tạo điều
kiện cho học sinh được tiếp cận với nhiều kênh thông tin, nhiều mô hình học tập
tiên tiến, do đó các em có nhiều điều kiện để phấn đấu và đạt thành tích cao trong
học tập. Song bên cạnh những thành tựu đã đạt được chúng ta cũng thấy rằng thực
tế môi trường văn hoá hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập đáng lo ngại: sự gia
tăng nhanh chóng của tệ nạn xã hội; sự băng hoại đạo đức, lối sống của một lớp
người trong xã hội, đặc biệt là lớp thanh niên trẻ; sự tấn công, phá hoại nhiều mặt
của các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang làm xói mòn đạo đức, lối sống,
phá vỡ thuần phong mỹ tục, đảo lộn kỷ cương, phép nước… điều này đã ảnh hưởng
không nhỏ đến môi trường giáo dục ở các nhà trường.
Dù vậy, hiện nay nhiều cơ sở giáo dục - đào tạo và trường học chưa thực
sự coi trọng vấn đề xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh để giáo dục và đào
tạo con người phát triển toàn diện. Nhiều trường học mới chỉ quan tâm tới việc
truyền thụ kiến thức cho học sinh, chưa chú trọng đúng mức đến việc giáo dục
phẩm chất đạo đức, phát triển nhân cách con người. Mặt khác, một số hiện


tượng tiêu cực nảy sinh chưa được kịp thời uốn nắn dẫn đến nhiều tệ nạn và
những thói hư tật xấu đang tồn tại trong môi trường học đường như: học sinh,
sinh viên bỏ học nhiều, lang thang bụi đời, trộm cắp, cướp giật, ma tuý, mại
dâm… ; trật tự học đường chưa được đảm bảo; mối quan hệ giữa nhà trường -
1
gia đình- xã hội lỏng lẽo, tạo điều kiện cho các tệ nạn xã hội luồn lách, thâm
nhập vào nhà trường.
Đã đến lúc chúng ta cần thấy để giáo dục được học sinh, những chủ nhân
tương lai của đất nước thành con người phát triển toàn diện thì cần phải chú
trọng đến việc xây dựng văn hoá nhà trường. Và vấn đề xây dựng “Nhà trường
văn hoá”(NTVH) phải được coi là có tính sống còn đối với mỗi cơ sở giáo dục,
vì nếu trường học mà thiếu văn hoá thì không thể làm được chức năng chuyển
tải những giá trị tri thức và nhân văn cho thế hệ trẻ.
Là người làm công tác quản lý ở trường Trung học phổ thông (THPT) tôi
nhận thấy để hòan thành tốt nhiệm vụ dạy học và giáo dục học sinh thì nhà
trường phải là Nhà trường văn hoá. Đó là lý do tôi chọn đề tài: “Một số giải
pháp xây dựng Nhà trường văn hoá ở trường THPT hiện nay” để nghiên cứu.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Qua việc nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng văn hoá nhà trường ở
trường THPT đề xuất một số giải pháp xây dựng NTVH ở các trường THPT hiện
nay.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Nhà trường văn hoá và giải pháp xây dựng Nhà trường văn hoá ở trường
THPT hiện nay.
IV. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu các giải pháp đề xuất được áp dụng thì sẽ xây dựng được Nhà trường
văn hoá, tạo lập được môi trường học đường lành mạnh góp phần nâng cao chất
lượng dạy học và giáo dục ở các trường THPT trong giai đoạn hiện nay.
V. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Nghiên cứu cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của việc xây dựng NTVH

2. Đánh giá thực trạng của việc xây dựng NTVH ở trường THPT
3. Đề xuất một số giải pháp xây dựng NTVH ở trường THPT hiện nay
VII. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
3. Phương pháp điều tra, khảo sát, phân tích, tổng kết kinh nghiệm
2
PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận
1.1.Văn hoá và văn hoá nhà trường
1.1.1. Văn hoá
Hiểu theo nghĩa rộng: “Văn hoá là tổ hợp các tri thức, niềm tin, nghệ thuật,
đạo đức, luật pháp, phong tục, và các năng lực, thói quen khác mà con người với
tư cách là thành viên của xã hội tiếp thu được”. Đây là định nghĩa của Taylo
(1832-1917) người Anh trong tác phẩm nổi tiếng “ Văn hoá nguyên thuỷ”, 1871.
Theo hai tác giả Kotter và Heskett, 1992; “Văn hoá tượng trưng cho một hệ
thống độc lập bao gồm các giá trị và cách ứng xử chung trong một cộng đồng và
có khuynh hướng được duy trì trong một thời gian dài”.
Kent D. Peterson and Terrence E. Deal, 2006, lại cho rằng: “Văn hoá đó là
dòng chảy của các chuẩn mực, các giá trị, niềm tin, các truyền thống, các nghi
lễ… chúng được hình thành qua thời gian khi mọi người cùng làm việc, cùng
giải quyết các vấn đề, cùng đương đầu với các thách thức”.
Tác giả Nguyễn Ái Quốc định nghĩa: “văn hoá là tổng hợp của mọi phương
thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm
thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” (Hồ Chí Minh,
Toàn tập, t.3, Nxb CTQG, H, 1995, tr.431).
Và định nghĩa của UNESCO: “Văn hoá hiểu theo nghĩa rộng là một phức thể,
tổng thể các đặc trưng diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức, tình cảm khắc hoạ
lên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, xã hội v.v ”. Văn hoá không

chỉ bao gồm nghệ thuật văn chương mà cả những lối sống, những quyền cơ bản của
con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống tín ngưỡng.
Còn hiểu theo nghĩa hẹp: “Văn hoá là một tổng thể những hệ thống biểu
trưng (kí hiệu) chi phối cách ứng xử và sự giao tiếp trong một cộng đồng khiến
cộng đồng ấy có đặc thù riêng Văn hoá bao gồm hệ thống những giá trị để
đánh giá một sự việc, một hiện tượng (đẹp hay xấu, có đạo đức hay vô đạo đức,
phải hay trái, đúng hay sai v.v ) theo cộng đồng ấy”.
Từ các định nghĩa trên cho thấy văn hóa vốn rất đa dạng và phức tạp, khi
có những tiếp cận nghiên cứu khác nhau sẽ dẫn đến quan niệm về văn hóa khác
nhau, nhưng tựu chung lại nó có một nghĩa chung căn bản: “Văn hoá là cái đẹp,
3
văn hóa là một hệ thống các chuẩn mực, giá trị ứng xử được mọi người chấp
nhận, văn hoá là sự giáo hóa, vun trồng nhân cách con người, làm cho con người
và cuộc sống con người trở nên tốt đẹp hơn”.
1.1.2. Văn hoá nhà trường
Cũng như sự tồn tại của giáo dục, văn hoá xuất hiện từ khi có loài người,
có xã hội. Văn hoá tồn tại khách quan và tác động vào con người sống trong nó.
Nếu môi trường tự nhiên là cái nôi đầu tiên nuôi sống con người, để loài người
hình thành và sinh tồn thì văn hóa là cái nôi thứ hai giúp con người trở thành
“người” theo đúng nghĩa, hoàn thiện con người, hướng con người khát vọng
vươn tới chân - thiện - mỹ.
Trong một tổ chức nói chung cũng như một Nhà trường, văn hóa luôn tồn
tại trong mọi hoạt động tổ chức đó. Vấn đề là con người có ý thức được sự tồn
tại của nó để quản lý và sử dụng sức mạnh của nó hay không. Với cách tiếp cận
cơ bản như vậy có thể hiểu: “Văn hoá nhà trường là một tập hợp các giá trị,
niềm tin, hiểu biết, các chuẩn mực cơ bản được các thành viên trong Nhà
trường cùng chia sẻ và tạo nên bản sắc của Nhà trường đó”.
Căn cứ theo hình thức biểu hiện thì văn hóa nhà trường gồm “phần nổi” có
thể nhìn thấy như: không gian cảnh quan nhà trường, lôgô, khẩu hiệu, hành vi giao
tiếp và “phần chìm” không quan sát được như: niềm tin, cảm xúc, thái độ

Về góc độ tổ chức, VHNT được coi như một mẫu thức cơ bản, tạo ra một
môi trường quản lý ổn định, giúp cho Nhà trường thích nghi với môi trường bên
ngoài, tạo ra sự hoà hợp môi trường bên trong. Một tổ chức có nền văn hóa mạnh
sẽ hội tụ được cái tốt, cái đẹp cho xã hội. VHNT sẽ giúp cho Nhà trường thực sự
trở thành một trung tâm văn hóa giáo dục, là nơi hội tụ sức mạnh của trí tuệ và lòng
nhân ái trong xã hội, góp phần quan trọng tạo nên sản phẩm giáo dục toàn diện.
1.2. Vai trò, tầm quan trọng của văn hoá nhà trường
1.2.1. Vai trò của văn hoá nhà trường
Nhà nghiên cứu GS. Peter Smith (ĐH Sunderlans) đã khẳng định: VHNT
có ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với chất lượng cuộc sống và hiệu quả hoạt
động của nhà trường.
- Sự phát triển của trẻ em chịu ảnh hưởng rất lớn của môi trường văn hoá
xã hội nơi các em lớn lên. Môi trường văn hoá trường học thuận lợi sẽ giúp trẻ
có nhiều cơ hội để phát triển; và ngược lại môi trường này không thuận lợi (thù
nghịch) sẽ làm thui chột sự phát triển của trẻ;
4
- Văn hoá nhà trường lành mạnh giúp giảm bớt sự không hài lòng của
giáo viên và giúp giảm thiểu hành vi cử chỉ không lịch sự của học sinh;
- Văn hoá nhà trường tạo ra môi trường thuận lợi hỗ trợ việc dạy và học,
khuyến khích giáo viên (GV), học sinh (HS) nỗ lực rèn luyện, phấn đấu học tập
và đạt thành tích mong đợi;
1.2.2.Tầm quan trọng của văn hoá nhà trường
Văn hoá là thứ tài sản lớn của bất kỳ một tổ chức nào. Nó càng có ý nghĩa
và tầm quan trọng đặc biệt đối với nhà trường, bởi lẽ: nhà trường là nơi bảo tồn
và lưu truyền các giá trị văn hoá nhân loại; nhà trường là nơi đào luyện những
lớp người mới, chủ nhân gìn giữ và sáng tạo văn hoá cho tương lai; nhà trường
là nơi con người với con người (người dạy với người học) cùng hoạt động để
chiếm lĩnh các mục tiêu văn hoá.
Văn hoá nhà trường tạo động lực làm việc; Văn hoá nhà trường hỗ trợ
điều phối và kiểm soát; Văn hóa nhà trường hạn chế tiêu cực và xung đột; Nâng

cao chất lượng các hoạt động của nhà trường.
1.2.2. Ảnh hưởng của văn hoá nhà trường
* Ảnh hưởng của văn hoá nhà trường đến đội ngũ cán bộ, giáo viên:
Đối với đội ngũ CBGV NV nhà trường, VHNT thúc đẩy sự sáng tạo cá
nhân, tạo nên tình thương yêu chân thành giữa các thành viên và đảm bảo cho sự
hợp tác vì mục tiêu chung.
Khuyến khích mối quan hệ hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau
giữa các giáo viên: giáo viên cảm thấy thoải mái dễ dàng thảo luận về những
vấn đề hay những khó khăn mà họ đang gặp phải; giáo viên sẵn sàng chia sẻ
kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn; giáo viên tích cực trao đổi phương pháp
và kỹ năng giảng dạy; giáo viên quan tâm đến công việc của nhau; cùng hợp tác
với lãnh đạo nhà trường để thực hiện mục tiêu giáo dục đã đề ra.
Tạo bầu không khí tin cậy thúc đẩy giáo viên quan tâm đến chất lượng và
hiệu quả giảng dạy, học tập: bầu không khí cởi mở, tin cậy, tôn trọng lẫn nhau
tạo động lực để giáo viên quan tâm cải tiến nâng cao chất lượng dạy và học; cải
thiện thành tích giảng dạy và học tập của trường.
* Ảnh hưởng của văn hoá nhà trường đến học sinh:
Đối với HS, văn hóa nhà trường tạo nên giá trị đạo đức và có vai trò điều
chỉnh hành vi. Khi được giáo dục trong một môi trường văn hóa và thấm nhuần
5
hệ giá trị văn hóa, học trò không những hình thành được những hành vi chuẩn
mực mà quan trọng hơn là ẩn chứa trong tiềm thức các em là niềm tin sâu sắc
vào những điều tốt đẹp, từ đó, khát khao cuộc sống hướng thiện và sống có lý
tưởng. Đồng thời, văn hóa nhà trường còn giúp các em về khả năng thích nghi
với xã hội. Một con người có văn hóa thì trong con người đó luôn hội tụ đầy đủ
những giá trị đạo đức căn bản, đó là đức tính khiêm tốn, lễ độ, thương yêu con
người, sống có trách nhiệm với bản thân và xã hội Do vậy, khi gặp những tình
huống xã hội phát sinh, dù là những tình huống mà các em chưa từng trải nhưng
nhờ vận dụng năng lực văn hóa để điều tiết hành vi một cách hài hòa, các em có
thể tự điều chỉnh mình phù hợp với hoàn cảnh, ứng xử hợp lẽ, hợp với lòng

người và cuộc sống xung quanh.
Tạo ra một môi trường học tập có lợi nhất cho học sinh: học sinh cảm
thấy thoải mái, vui vẻ, ham học; học sinh được tôn trọng, được thừa nhận, và
cảm thấy mình có giá trị; học sinh thấy rõ trách nhiệm của mình; học sinh tích
cực khám phá, liên tục trải nghiệm và tích cực tương tác với giáo viên, nhóm
bạn; học sinh nỗ lực đạt thành tích học tập tốt nhất.
Tạo ra môi trường thân thiện cho học sinh: an toàn; cởi mở và chấp nhận
các nhu cầu và hoàn cảnh khác nhau của học sinh; khuyến khích học sinh phát
biểu, bày tỏ quan điểm cá nhân; xây dựng mối quan hệ ứng xử tôn trọng, hiểu
biết lẫn nhau, học hỏi lẫn nhau giữa thầy và trò.
2. Cơ sở thực tiễn
Quá trình xây dựng và phát triển đất nước theo cơ chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế nhất là từ khi Việt Nam gia
nhập tổ chức WTO, chúng ta đã nỗ lực tìm kiếm nhiều cơ hội, đạt được những
thành tựu to lớn về kinh tế, khoa học, kỹ thuật và công nghệ… thúc đẩy sự phát
triển của đời sống văn hoá xã hội. Đồng thời mặt trái của cơ chế kinh tế thị
trường cũng đã và đang tác động không nhỏ đến đời sống xã hội nói chung và
giáo dục nói riêng. Nó làm cho bộ mặt văn hóa xã hội dần thay đổi, thậm chí đã
có những biểu hiện xuống cấp, tha hóa. Sự du nhập lối sống và sản phẩm công
nghệ hiện đại từ các nước phát triển đã làm không ít học sinh xa rời các giá trị
đạo đức truyền thống, hình thành tư tưởng hưởng thụ, ăn chơi, đua đòi và chịu
tác động của tệ nạn xã hội. Những biểu hiện văn hoá lệch lạc, lối sống thiếu lành
mạnh, những hiện tượng tha hoá, những sai lệch chức năng, chuẩn mực giá trị,
đạo đức, xa rời thuần phong mỹ tục của dân tộc… đang xuất hiện ngày càng
nhiều trong đời sống văn hoá của học sinh.
6
Sự phát triển và lan rộng của hệ thống Internet bên cạnh mặt tích cực giúp
phát triển tri thức, cập nhật thông tin, mở rộng hiểu biết và tăng cường các mối
quan hệ thì nó cũng đã có những tác động tiêu cực đến đời sống như: học sinh sử
dụng Internet làm công cụ giải trí để tiêu phí thời gian, sức lực và tiền bạc vào

game online; sử dụng tiện ích chát, truy cập trang web đen như một thú tiêu khiển,
sinh ra thói bịp bợm, lừa lọc (mua bán đồ vật ảo bằng tiền thật)…; nhiều học sinh
lên Internet giao tiếp ảo, lợi dụng Internet để ảo hoá những thông tin cá nhân (tên,
tuổi, giới tính, địa phương cư trú, hình dáng…) và đi đến cung cấp thông tin giả.
Trong những năm gần đây, vấn đề người chưa thành niên phạm tội đã
gióng lên những hồi chuông cảnh tỉnh đáng báo động. Theo số liệu thống kê
chưa đầy đủ của Bộ Công an trung bình hàng năm xảy ra trên 10.000 vụ vi
phạm pháp luật với trên 13.000 đối tượng phạm tội là thanh thiếu niên, tăng
nhiều lần so với những năm trước cả về số lượng phạm tội lẫn các vụ trọng án.
Về độ tuổi, theo thống kê của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội thì
tình hình tội phạm do người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thực
hiện có chiều hướng gia tăng và chiếm tỷ lệ cao nhất, khoảng 67,1%; từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi chiếm khoảng 25,5% và dưới 14 tuổi chiếm khoảng 7,4%
trong tổng số các vụ phạm tội do người chưa thành niên và trẻ em thực hiện. Về
cơ cấu tội phạm, theo thống kê mới nhất của Viện kiểm sát Nhân dân tối cao và
Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội, thì hành vi vi phạm pháp luật
hình sự của người chưa thành niên tập trung nhiều nhất vào các nhóm tội xâm
phạm sở hữu; xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm và danh dự con người,
một số tội xâm phạm an toàn trật tự công cộng. Trong đó, tội danh trộm cắp tài
sản chiếm 38%, cố ý gây thương tích chiếm 11%, đặc biệt là giết người chiếm
1,4% trong tổng số tội phạm do người chưa thành niên thực hiện.
Hiện tượng một bộ phận học sinh rơi vào các tệ nạn xã hội là vấn đề khiến
gia đình, nhà trường và toàn xã hội không khỏi lo lắng. Theo thông kê của Cục
thông kê tội phạm, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hiện nay học sinh dễ phạm
phải những tội như: cướp của, giết người, vận chuyển ma tuý…Năm 2012 và 3
tháng đầu năm 2013, riêng trẻ em dưới 16 tuổi có 943 đối tượng vụ vi phạm,
chiếm đến 7,0 % tội phạm vị thành niên dưới 18 tuổi. Công an các địa phương
đã khởi tố điều tra 8589 vụ với 13.600 đối tượng ở tất cả các tôi danh này. Xử lý
hành chính lên tới 5171 vụ với 8975 đối tượng; trong đó gi cho gia đình giáo
dục 2366 đối tượng, xã phường quản lý, giáo dục 1123 đối tượng, lập hồ sơ đua

đi trường giáo dưỡng 1033 đối tượng, áp dụng các biện pháp khác 4453 đối
tượng. Trong hàng loạt các vụ cướp, đâm, chém… vừa qua, hầu hết hung thủ
7
đều trong độ tuổi rất trẻ, thậm chí dưới 16-17 tuổi. Điều đó đã làm ảnh hưởng
nghiêm trọng tới bộ mặt văn hóa xã hội, để lại những hậu quả khôn lường cho
giáo dục nước nhà.
Mặt khác, lâu nay giáo dục chúng ta coi trọng dạy chữ mà lơ là việc dạy
người; coi trọng số lượng hơn là chất lượng. Đã đến lúc chúng ta cần phải chấn
hưng giáo dục nước nhà. Thực tế, cũng đã có rất nhiều giải pháp của các nhà
nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Dưới góc độ của cấp quản lý cơ
sở thực tiễn, thiết nghĩ, việc xây dựng nhà trường văn hóa trong giai đoạn hiện
nay là vô cùng quan trọng, bởi nhà trường là cơ sở nền tảng, là tế bào của hệ
thống giáo dục. Cũng như cơ thể người, chỉ khi có được những tế bào lành mạnh
thì cơ thể mới phát triển bình thường. Khi các nhà trường đạt tới môi trường văn
hoá lành mạnh thì chất lượng giáo dục mới được nâng lên và đảm bảo.
II. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NHÀ TRƯỜNG VĂN HOÁ Ở TRƯỜNG
THPT HIỆN NAY
1. Nhà trường THPT và học sinh THPT
1.1. Nhà trường Trung học phổ thông
"Trường trung học phổ thông là cơ sở giáo dục phổ thông tiếp nối cấp trung
học cơ sở và kết thúc bậc trung học, gồm 3 lớp 10, 11, 12. Trường trung học phổ
thông được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Giáo dục và Điều lệ nhà
trường. Trường trung học phổ thông do chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết
định thành lập, sáp nhập, chia, tách, giải thể. Học sinh học hết chương trình trung
học phổ thông thi tốt nghiệp đạt yêu cầu thì được Giám đốc Sở Giáo dục và Đào
tạo cấp bằng tốt nghiệp trung học phổ thông" - Từ điển Giáo dục học.
Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường trung
học có nhiều cấp học do Bộ GD&ĐT ban hành ngày 02/4/2007 ghi rõ: Trường
THPT là cơ sở giáo dục phổ thông của hệ thống giáo dục quốc dân. Trường có tư
cách pháp nhân và có con dấu riêng. Trường THPT được đặt dưới sự quản lý của

Sở GD&ĐT.
Gắn với khái niệm trường trung học phổ thông là những qui định về kiến
thức, kĩ năng của bậc học này. Trình độ bậc THPT là "trình độ học vấn phổ thông
thuộc bậc giáo dục trung học cấp cuối cùng được thực hiện trong ba năm học, từ lớp
10 đến lớp 12, đối với học sinh có tuổi từ 15 trở lên. Học vấn của THPT gồm có
những kiến thức phổ thông, cơ bản, toàn diện và được nâng cao ở một số môn học
cần năng khiếu, đồng thời có những hiểu biết về hướng nghiệp. Người thi đạt trình
độ trung học phổ thông được cấp bằng tốt nghiệp trung học phổ thông".
8
1.2. Học sinh THPT
Học sinh THPT là các em có độ tuổi từ 16 đến 18 tuổi, còn được gọi là lứa
tuổi thanh niên. Lứa tuổi thanh niên, là giai đoạn phát triển bắt đầu từ lúc dậy thì
và kết thúc khi bước vào tuổi người lớn. (Tuổi thanh niên là thời kỳ từ 15-25 tuổi
được chia làm 2 thời kỳ: thời kỳ từ 15-18 tuổi gọi là tuổi đầu thanh niên; thời kỳ
từ 18-25 tuổi là giai đoạn 2 của tuổi thanh niên). Lứa tuổi học sinh THPT thuộc
giai đoạn đầu của tuổi thanh niên. Tuổi học sinh THPT là thời kỳ đạt được sự
trưởng thành về mặt cơ thể. Sự phát triển thể chất đã bước vào thời kỳ phát triển
bình thường, hài hoà, cân đối. Sự phát triển của thể chất lứa tuổi này sẽ có ảnh
hưởng nhất định đến tâm lý và nhân cách của học sinh.
Trong gia đình, lứa tuổi THPT đã có nhiều quyền lợi và trách nhiệm như
người lớn. Cha mẹ bắt đầu trao đổi với con cái ở lứa tuổi này về một số vấn đề quan
trọng trong gia đình. Học sinh lứa tuổi này bắt đầu quan tâm đến nề nếp, lối sống,
sinh hoạt và điều kiện kinh tế của gia đình. Đây là lứa tuổi vừa học tập vừa lao động.
Ở nhà trường, lứa tuổi này đòi hỏi tính tự giác và độc lập hơn. Trong giai
đoạn này, nhà trường có vị trí quan trọng, đây là nơi không chỉ trang bị tri thức
mà còn tác động hình thành thế giới quan và nhân sinh quan cho mỗi học sinh.
Mặt khác, đối với lứa tuổi THPT, hoạt động lúc này đã vượt ra khỏi phạm
vi của nhà trường, ảnh hưởng của xã hội tới nhóm này rất mạnh. Lứa tuổi học
sinh THPT là lứa tuổi mơ mộng, khát khao sáng tạo, thích cái mới lạ, chuộng cái
đẹp hình thức nên dễ bị cái đẹp bề ngoài làm lung lay ý chí, có mới nới cũ

Đây cũng là lứa tuổi rất hăng hái nhiệt tình trong công việc, rất lạc quan
yêu đời nhưng cũng dễ bi quan chán nản khi gặp thất bại. Một số em ý chí phấn
đấu yếu, trình độ nhận thức về xã hội còn thấp, các em thường có thái độ coi
thường lao động chân tay, thích cuộc sống xa hoa lãng phí, đua đòi, ăn chơi.
Lứa tuổi THPT cũng là lứa tuổi đang phát triển về tài năng, tiếp thu cái mới
nhanh, rất thông minh sáng tạo nhưng cũng dễ sinh ra chủ quan nông nổi, kiêu
ngạo ít chịu học hỏi đến nơi đến chốn để nâng cao trình độ. Các em thích hướng
về tương lai, ít chú ý đến hiện tại và dễ quên quá khứ Giai đoạn này, học sinh
không chỉ tự ý thức về cái tôi của mình mà còn nhận thức vị trí của mình trong
tương lai. Xuất hiện khuynh hướng phân tích và tự đánh giá bản thân mình một
cách độc lập. Học sinh THPT có nguyện vọng thể hiện cá tính của mình trước
mọi người một cách độc đáo, tìm cách để người khác quan tâm đến mình hoặc
làm điều gì đó nổi bật. Vì thế môi trường văn hoá nhà trường có tác động rất lớn
đến việc phát triển nhân cách học sinh.
9
2. Thực trạng các hoạt động xây dựng nhà trường văn hoá ở trường THPT
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc thực hiện xây dựng NTVH, thực
hiện nghiêm túc Chương trình và kế hoạch giáo dục và đào tạo, trong những
năm qua, ở mỗi nhà trường nói chung và trường THPT nói riêng đã tiến hành
các nhiệm vụ để tiến tới xây dựng Nhà trường văn hoá, thực hiện phong trào thi
đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Đẩy mạnh phong trào
thi đua “Dạy tốt, học tốt”, đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao hiệu quả giáo
dục toàn diện; thực hiện cuộc vận động “Dân chủ - Kỷ cương- Tình thương-
Trách nhiệm”, triển khai cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và
bệnh thành tích trong giáo dục” trong nhà trường, xây dựng môi trường thân
thiện, học sinh hoạt động tích cực.
2.1. Đối với học sinh
Mỗi nhà trường đều phát động, triển khai các phong trào thi đua; tổ chức
thi tìm hiểu môi trường xung quanh, nhằm nâng cao thói quen lễ phép cho học
sinh trong toàn trường. Tổ chức chuyên đề giáo dục nhận thức thẩm mỹ và ứng

xử trong cuộc sống. Các hoạt động này tạo ra những sân chơi bổ ích, sinh hoạt
văn hoá lành mạnh nhằm phát triển con người toàn diện. Thông qua các hoạt
động này, mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh được cải thiện, kỷ cương trật
tự nhà trường được xây dựng, cũng cố. Sự nhận thức trong các em học sinh về
thói quen lễ giáo có sự chuyển biến tốt.
Đa số các em học sinh đều biết cư xử đúng mực trong giao tiếp với thầy
cô và bạn bè. Có thói quen giữ gìn vệ sinh thân thể, vệ sinh ăn uống, vệ sinh môi
trường, biết yêu thương kính trọng ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo và những người
gần gũi, biết vâng lời, biết tự nhận lỗi khi mắc lỗi.
Trong công tác xây dựng VHNT, các nhà trường luôn xác định mục tiêu
tổ chức giáo dục thể chất, giáo dục thẩm mỹ với các nhiệm vụ trọng tâm: dạy
đủ, dạy đúng chương trình môn giáo dục thể chất và thẩm mỹ - hình thành và
phát triển khả năng cảm nhận vẻ đẹp trong cuộc sống và nghệ thuật của học
sinh. Giúp các em bộc lộ cảm xúc phù hợp trước vẻ đẹp của các sự vật, hiện
tượng xung quanh và các tác phẩm nghệ thuật.
Để xây dựng NTVH, các nhà trường còn chú trọng, quan tâm chăm sóc
sức khỏe cho học sinh và y tế học đường. Có kế hoạch trang bị hoàn chỉnh hệ
thống nước uống sạch, đảm bảo đủ nước uống sạch, vệ sinh an toàn thực phẩm,
hệ thống chiếu sáng học đường hợp lý. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, mỗi nhà
10
trường luôn đề cao các biện pháp như: Phối kết hợp với trung tâm y tế xã tổ
chức cho 100% học sinh được chăm sóc sức khoẻ ban đầu.
Đẩy mạnh hoạt động Thể dục - thể thao, phong trào văn nghệ, phong trào ca
hát tập thể, câu lạc bộ “dân ca, dân vũ” trong nhà trường, tạo điều kiện thuận lợi
cho học sinh tham gia các hoạt động xã hội cũng như của ngành, của địa phương.
Trong năm học, trường luôn tổ chức sinh hoạt tập thể nhân những ngày lễ lớn.
2.2. Đối với giáo viên:
Thực hiện xây dựng NTVH, Cấp uỷ Đảng, Ban giám hiệu trường tiến hành
việc tăng cường giáo dục đạo đức, chính trị, tư tưởng: tổ chức học tập tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh cho cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh kết hợp phong trào

xây dựng “ Nhà trường văn hoá- nhà giáo mẫu mực- học sinh chăm ngoan”. Quá
trình thực hiện nhiệm vụ xây dựng nhà trường văn hoá được tiến hành theo cách
xây dựng và triển khai kế hoạch hoạt động, thông qua các khâu như:
- Giáo viên đóng góp ý kiến xây dựng kế hoạch.
- Ban giám hiệu có biện pháp quản lý chỉ đạo hoạt động.
- Ban chấp hành Công đoàn xây dựng khối đoàn kết nội bộ.
Hoạt động xây dựng NTVH được biểu hiện trong khối cán bộ, giáo viên như:
- Xây dựng nếp sống văn hoá và tác phong sư phạm: ra vào lớp, hội họp
đúng giờ, ghi chép đầy đủ, tập trung đóng góp ý kiến xây dựng…
- Thực hiện tốt kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên của trường, của Sở để
nâng cao trình độ, tạo điều kiện cho giáo viên đi học thạc sỹ, phấn đấu tỷ lệ đạt
trên chuẩn ngày càng tăng. Tổ chức cho giáo viên học tập và thực hiện các văn
bản, chỉ thị của ngành.
- Nhà trường phối kết hợp với Công đoàn hưởng ứng, thực hiện cuộc vận
động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”,
thực hiện tốt cuộc vận động “Dân chủ- Kỷ cương- Tình thương- Trách nhiệm”
và “Nếp sông văn hoá công sở”. Đề ra những tiêu chuẩn thi đua mang tính khả
thi được bàn bạc thống nhất một cách dân chủ động viên cán bộ giáo viên thực
hiện tốt nhiệm vụ năm học, tổ chức sơ kết, tổng kết và khen thưởng kịp thời.
Trong hoạt động xây dựng NTVH, nhà trường luôn nghiêm khắc xử lý đối
với giáo viên còn có những tồn tại như:
- Giáo viên chưa thực sự gương mẫu trong giao tiếp ứng xử với đồng
nghiệp, với học sinh và cha mẹ học sinh, tác phong, lời nói chưa chuẩn mực.
11
- Trong nghề nghiệp, khả năng sư phạm, phương pháp dạy học chưa thực
sự đáp ứng yêu cầu đổi mới, đánh giá học sinh chưa sát đúng, chưa thực sự làm
cho phụ huynh học sinh khâm phục về năng lực chuyên môn, khả năng thu hút
học sinh.
- Lối sống, giao tiếp, ứng xử và trang phục chưa chuẩn mực, hoặc cẩu thả
trong cách ăn mặc dẫn đến hạn chế trong việc hướng dẫn học sinh ăn mặc, ứng

xử giao tiếp có văn hoá.
- Việc tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chưa tích cực, chưa tự giác
dẫn đến việc thiếu kiến thức chuyên môn và cả kiến thức xã hội để dạy học và
giáo dục học sinh.
- Trong việc tham gia các hoạt động xã hội còn hạn chế về nhận thức hoặc
vì những toan tính cá nhân đã không tích cực tham gia các hoạt động xã hội
hoặc không coi trọng các hoạt động xã hội.
Qua tìm hiểu và khảo sát thực tế cho thấy hoạt động xây dựng Nhà trường
văn hoá tại trường THPT trong những năm qua đã đạt được một số thành tích
nhất định. Tuy nhiên do một số điều kiện khách quan, chủ quan từ xu thế toàn
cầu hoá và nền kinh tế thị trường dẫn đến nhiều hệ luỵ đang ngày một gia tăng
trong môi trường văn hoá học đường nhất là cấp THPT. Để phát huy những mặt
đã đạt được và khắc phục những tồn tại trong hoạt động xây dựng NTVH ở
trường THPT hiện nay, cần phải có những giải pháp cụ thể, và đó cũng chính là
nội dung mà đề tài sẽ triển khai trong phần tiếp theo.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NHÀ TRƯỜNG VĂN HOÁ Ở
TRƯỜNG THPT HIỆN NAY
1. Nguyên tắc đề xuất giải pháp
1.1. Nguyên tắc bảo đảm tính khoa học
Căn cứ vào lý luận khoa học, vai trò, tầm quan trọng của VHNT. Chúng tôi
thấy rằng muốn nâng cao chất lượng giáo dục ở trường THPT nhà quản lý cần
phải nắm vững quy luật vận động của văn hoá nói chung và văn hoá nhà trường
nói riêng để xây dựng NTVH, tạo môi trường văn hoá tốt nhất cho sự nghiệp
“trồng nguời” . Tránh tình trạng xây dựng kế hoạch quản lý theo kinh nghiệm cá
nhân, phải biết đổi mới cách nghĩ, cách làm, quản lý hoạt động xây dựng NTVH
một cách khoa học và phù hợp với tình hình cụ thể của đơn vị mình. Có như vậy
thì công tác quản lý hoạt động xây dựng NTVH mới thực sự đem lại hiệu quả và
thúc đẩy, nâng cao chất lượng dạy học trong các nhà trường.
12
1.2. Nguyên tắc bảo đảm tính thực tiễn

Tất cả các lý thuyết nói chung đều mang tính chất lý luận và được tổng kết,
đúc rút kinh nghiệm từ nhiều cơ sở khác nhau nên khi áp dụng vào một trường
THPT cụ thể thì lại phải hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện thực tiễn của trường đó.
1.3. Nguyên tắc bảo đảm tính khả thi
Nguyên tắc này đòi hỏi biện pháp đưa ra phải được sự đồng thuận của các
cấp quản lý giáo dục, địa phương, cha mẹ học sinh, học sinh và đặc biệt là của
toàn thể cán bộ, giáo viên trong nhà trường thì giải pháp mới có tính khả thi.
2. Một số giải pháp xây dựng NTVH ở trường THPT hiện nay
2.1. Giải pháp xây dựng “phần nổi” của NTVH
- Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng trường học “ Xanh- sạch- đẹp- an toàn”:
quan tâm xây dựng khung cảnh bên ngoài nhà trường như cổng trường, tường
rào, nhà để xe…; chủ động quy hoạch khuôn viên nhà trường, khu vực sân chơi,
bãi tập, khu học tập tạo không gian hợp lý mang tính giáo dục cao; tiếp tục đầu
tư trồng cây xanh, cây cảnh, cây bóng mát… đảm bảo tiêu chí môi trường học
đường an toàn, xanh, sạch đẹp. Tổ chức trang trí lớp học, hành lang các phòng
học, trang trí phòng làm việc, trang trí các bảng biểu tuyên truyền về tầm nhìn,
sứ mạng, mục tiêu và hệ thống các giá trị của nhà trường; tạo nên môi trường
nhẹ nhàng, hài hoà giảm bớt sự căng thẳng ở giáo viên và học sinh.
- Chú trọng xây dựng trang phục của CBGV NV và HS khi đến trường:
thực hiện mọi CBGV NV và HS thực hiện đúng quy định về trang phục khi đến
trường, về rèn luyện phong cách, phẩm chất cho phù hợp với mục tiêu của việc
xây dựng NTVH.
- Quan tâm đến các hoạt động văn hoá trong trường học: chú trọng đưa
vào trường học các hoạt động văn hoá có ý nghĩa thiết thực, phù hợp với truyền
thống văn hoá của dân tộc. Hình thành thói quen ứng xử có văn hoá trong
CBGV NV và HS: thói quen giữ vệ sinh trường lớp; tiết kiệm năng lượng;
không nói tục, chửi thề; không hút thuốc lá; không sử dụng điện thoại di động
khi hội họp và giảng dạy…; chống các biểu hiện thiếu công bằng, thiếu dân chủ,
thiếu trung thực; bắt tay, chào hỏi, tặng hoa…lúc nào cho phù hợp; đi lại, đứng
ngồi, xưng hô, nói năng, để xe… sao cho có văn hoá.

2.2. Giải pháp xây dựng “phần chìm” của NTVH
- Khuyến khích mối quan hệ hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm, học hỏi lẫn
nhau giữa giáo viên và học sinh, làm cho nhà trường thực sự là tổ ấm thứ hai sau
13
gia đình, mỗi giáo viên đều cảm thấy thoải mái, dễ dàng trao đổi, thảo luận, chia
sẻ kinh nghiệm, giúp đỡ nhau trong chuyên môn và cuộc sống.
- Tạo bầu không khí tin cậy, thúc đẩy giáo viên quan tâm đến chất lượng
và hiệu quả giảng dạy và học tập, tạo bầu không khí thân thiện, gắn bó nhưng
phải có sự phân cấp trong công việc, không nên đề cao uy quyền mà xác định
mỗi người phụ trách mỗi lĩnh vực, nhưng tất cả đều hướng đến mục đích chung
là chất lượng và hiệu quả công tác.
- Tạo môi trường học tập thuận lợi cho học sinh; môi trường làm việc
thân thiện cho CBGV NV. Phải xây dựng nhà trường là nơi thực sự an toàn, cởi
mở và chấp nhận các nhu cầu hoàn cảnh khác nhau của học sinh, khuyến khích
học sinh phát biểu bày tỏ quan điểm cá nhân của mình, xây dựng mối quan hệ
ứng xử tôn trọng, hiểu biết, học hỏi lẫn nhau giữa thầy và trò.
- Coi trọng dân chủ trong trường học, tổ chức các diễn đàn cho thanh niên
học sinh; tạo được tinh thần dân chủ thực sự để từng cá nhân và tập thể lớp được
đề xuất, được phản ánh được đóng góp ý kiến xây dựng nhà trường.
3. Các giải pháp cụ thể
3.1. Nâng cao nhận thức cho CBGV NV và HS về vai trò, tầm quan
trọng của nhiệm vụ xây dựng NTVH
Nhà giáo trong dạy học và giáo dục học sinh không chỉ là người truyền
đạt tri thức, rèn luyện kỹ năng mà còn phải là tấm gương về phẩm giá và cách
sống ở đời, do vậy như một lẽ tự nhiên, cũng là “nghiệp” của mình, nhà giáo
phải mẫu mực. Từ mẫu mực làm gương cho học trò, nhà giáo cũng tác động vào
cha mẹ học sinh, tạo dựng niềm tin của gia đình vào nhà trường.
Xây dựng NTVH cần phải huy động sức mạnh của toàn trường, trong đó
giải pháp giáo dục nhận thức cho giáo viên, cán bộ, công chức và học sinh là
cực kỳ quan trọng, nó mang tính chất bao quát các hoạt động nhằm tạo ra sự

chính xác trong nhìn nhận đối với văn hoá, hiểu biết toàn diện hơn về văn hoá,
tầm quan trọng của văn hoá nhà trường trong dạy học và giáo dục. Từ đó biến
hoạt động xây dựng NTVH thành hoạt động mang tính chất tự giác, thường
xuyên của mỗi giáo viên và học sinh trong trường.
3.2. Định hình hệ thống các giá trị cốt lõi của NTVH
3.2.1. Xem xét các giá trị đặc trưng của nhà trường
Mỗi nhà trường đều có lịch sử tồn tại và phát triển. Sự tồn tại, phát triển
của nhà trường qua thời gian đã tạo ra những giá trị văn hoá nào đó. Cần có
14
những khảo sát đánh giá các giá trị văn hoá đang tồn tại trong nhà trường: đâu là
các giá trị tích cực, tiêu cực, đâu là các giá trị văn hoá được cán bộ giáo viên,
nhân viên và học sinh trong trường mong muốn.
Hiệu trưởng cần phải nhận ra đâu là những giá trị văn hoá đích thực, cốt
lõi có tính đặc trưng của nhà trường đang tồn tại tạo sự khác biệt về bản sắc với
các trường khác để nuôi dưỡng, vun trồng.
Những giá trị văn hoá không phải là cố định, bất biến, nó có thể thay đổi
tuỳ thuộc vào sự thay đổi của xã hội (có tính định kỳ, có thời hạn…), vì vậy hiệu
trưởng phải luôn luôn vun trồng những giá trị văn hoá nhà trường.
3.2.2. Định hình hệ thống các giá trị cốt lõi
Cần có những khảo sát, đánh giá về các giá trị cá nhân và các giá trị tổ chức
hiện đang tồn tại trong nhà trường, các giá trị văn hoá được mọi người mong muốn.
Hiệu trưởng chia sẻ các kết quả khảo sát đánh giá này với cán bộ, giáo viên,
nhân viên, học sinh và thu thập ý kiến của mọi người về những giá trị cốt lõi
nhất mà nhà trường cần tập trung vun trồng, phát triển.
Hiệu trưởng cùng với giáo viên, nhân viên hiện thực hoá các giá trị này trong
các giao tiếp ứng xử hàng ngày, trong quá trình xây dựng mục tiêu, kế hoạch giáo
dục năm học, quá trình đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của học sinh để mọi
thành viên trong trường cùng chia sẻ và tạo nên bản sắc của nhà trường.
3.3.Tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, hiệu quả quản lý của Ban
Giám hiệu trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng NTVH

Đây là giải pháp có tính chất quyết định tới việc nâng cao chất lượng và hiệu
quả của việc xây dựng NTVH ở trường THPT trong giai đoạn hiện nay. Xây
dựng NTVH nhằm đáp ứng những nhu cầu văn hoá, giáo dục, góp phần hình
thành và hoàn thiện nhân cách của học sinh. Xây dựng nhà trường văn hoá tốt
đẹp cần thiết có sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, sự chỉ đạo quản lý của Ban giám
hiệu nhà trường. Thực tế, hoạt động xây dựng NTVH ở trường THPT trong
những năm qua đã cho thấy sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng và quản lý của
Ban giám hiệu có vai trò đặc biệt quan trọng mang tính chất quyết định.
* Đối với cấp uỷ Đảng:
- Phối hợp cùng với chính quyền tổ chức học tập, quán triệt các chủ trương
nghị quyết của Đảng, chế độ chính sách, pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy
định của nhà trường, địa phương về giáo dục. Từ đó, nhận thức đầy đủ về nhiệm
vụ xây dựng NTVH trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Khắc phục sự nhìn
15
nhận phiến diện về xây dựng NTVH, coi xây dựng NTVH đơn thuần chỉ là các
hoạt động mang tính chất bề nổi, không quan tâm đến chiều sâu.
- Chỉ đạo cho BGH và BCHCĐ phối hợp triển khai và hướng dẫn Ban chỉ
đạo nhà trường vận động CBCC trong cơ quan đăng ký xây dựng đơn vị có đời
sống văn hóa: Văn minh - Sạch đẹp - An toàn.
- Chỉ đạo thành lập ban vận động xây dựng trường học có đời sống văn hoá
tốt hàng năm học.
Kinh nghiệm cho thấy, trường nào có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các
cấp uỷ Đảng, sự sâu sát của Ban giám hiệu thì ở đó hoạt động xây dựng NTVH
có sự chuyển biến tốt.
* Đối với BGH nhà trường:
- Thực hiện hình thức tuyên truyền, nhằm giáo dục cho cán bộ giáo viên, học
sinh về xây dựng nếp sống văn minh, đời sống văn hoá trong nhà trường, tham
mưu với phụ huynh trồng mới thêm nhiều cây xanh, tạo cảnh quan môi trường
luôn Xanh - Sạch - Đẹp.
- Vận động 100% CBCC đăng ký xây dựng đơn vị có đời sống văn hoá tốt và thực

hiện có hiệu quả phong trào xây dựng “Trường học thân thiện học sinh tích cực”.
- Chỉ đạo cho cán bộ y tế trường học vận động các em học sinh biết chăm sóc
sức khoẻ, giữ gìn vệ sinh chung và cá nhân, bảo vệ môi trường xanh- sạch- đẹp.
Tổ chức cho 100% học sinh khám sức khoẻ ban đầu, tuyên truyền phòng bệnh
học đường và các bệnh truyền nhiễm khác.
* Đối với BCH Công đoàn:
- Phối hợp tổ chức tốt các hoạt động văn hoá văn nghệ, thể dục - thể thao. Thông
qua các hoạt động này nhằm xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”;
ngăn ngừa và phong chống có hiệu quả các tệ nạn xã hội xâm nhập vào nhà trường;
hoàn thành tốt các chỉ tiêu thi đua của Nghị quyết đại hội Chi bộ, Đảng bộ, đại hội
Công đoàn và hội nghị cán bộ công chức từng nhiệm kỳ đề ra.
- Luôn có sự phối hợp chặt chẽ, đầy trách nhiệm, tất cả vì sự nghiệp Giáo dục
- Đào tạo của trường; chung vai gánh vác, chia sẻ trách nhiệm, tạo điều kiện
thuận lợi cho mỗi cá nhân phát triển.
- Vận động 100% Đoàn viên công đoàn, người lao động trong đơn vị đăng ký
xây dựng đơn vị có đời sống văn hoá tốt, mỗi Đoàn viên công đoàn là hạt nhân
tích cực hưởng ứng thực hiện xây dựng đời sống văn hoá ở nhà trường. Chỉ đạo
toàn thể đoàn viên đăng ký thực hiện các tiêu chí xây dựng gia đình văn hoá, cơ
16
quan văn hoá gắn liền với cuộc vận động “ Dân chủ- Kỷ cương- Tình thương-
Trách nhiệm” và cuộc vận động xây dựng người cán bộ “ Trung thành- sáng tạo-
tận tuỵ- gương mẫu”.
3.4. Xây dựng và thực hiện các quy tắc ứng xử văn hoá trong nhà trường
Nói tới văn hoá là nói tới hệ thống những giá trị chi phối cách ứng xử và
sự giao tiếp. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói “Văn hoá là hiểu biết, hiểu
biết làm người xử sự, xử thế với bản thân, gia đình, xã hội, thiên nhiên là đẹp đẽ
nhất của văn hoá”.
3.4.1. Xây dựng mối quan hệ thân thiện giữa thầy và trò
-Thầy cô giáo phải hết lòng thương yêu giúp đỡ học sinh, tạo nhiều cơ hội
để các em có điều kiện gần gũi, tâm sự;

- Thể hiện được sự công bằng trong đánh giá, giành nhiều cảm thông cho
học sinh bị hạn chế về học lực;
- Thầy cô, lãnh đạo nhà trường phải hoà mình vào các buổi sinh hoạt tập
thể, các buổi lao động, các hoạt động GDNGLL cùng với học sinh;
- Phải bình tĩnh, suy nghĩ chín chắn khi giải quyết các tình huống liên
quan đến học sinh, để làm sao sau khi giải quyết học sinh cảm thấy mến phục,
mang được tính giáo dục cao;
- Lãnh đạo nhà trường sắp xếp thời gian để tiếp xúc nhiều với học sinh,
kịp thời giải quyết mọi nguyện vọng chính đáng của học sinh.
3.4.2. Xây dựng môi trường quan hệ thân thiện giữa trò và trò
- Thầy cô giáo mà trước hết là GVCN phải kịp thời phát hiện và ngăn
chặn những mâu thuẫn xảy ra giữa học sinh với nhau
- Tạo môi trường để cho các em có điều kiện giao tiếp giữa các học sinh
trong lớp, giữa lớp này với lớp khác.
- Tạo điều kiện cho học sinh quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau khi có hoàn cảnh
khó khăn, trong học tập cũng như trong rèn luyện.
- Quan tâm rèn luyện ý thức tự giác cho học sinh.
- Luôn luôn tạo cơ hội cho mỗi học sinh sửa chữa lỗi lầm.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp đáng tin cậy, có uy tín.
3.4.3. Xây dựng mối quan hệ thân thiện giữa thầy với thầy
17
- Trước hết là thực hiện tốt quy chế dân chủ trường học, công khai minh
bạch các hoạt động, đặc biệt là nguồn tài chính.
- Xây dựng tốt mối quan hệ giữa các thành viên trong lãnh đạo nhà trường
và với tập thể CBGV NV.
- Lãnh đạo phải đối xử thật công bằng với mọi người.
- Lãnh đạo tạo mọi cơ hội để cho cán bộ, giáo viên có cơ hội giao tiếp, tâm sự.
- Lãnh đạo giải quyết công việc cần nhẹ nhàng, hợp tình hợp lý; phải lắng nghe
dư luận để chọn lọc, tôn trọng những ý kiến của đồng nghiệp, phải biết hy sinh.
- Kịp thời chia sẻ những hoàn cảnh khó khăn giữa đồng nghiệp với nhau.

- Phát huy vai trò “tổ ấm” của tổ công đoàn trong xây dựng mối quan hệ
giữa các thành viên trong nhà trường.
3.4.4. Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh
Tạo môi trường giao tiếp, tổ chức tốt các hoạt động tư vấn, các nội dung
GDNGLL. Cho học sinh tham quan, giao lưu với các trường bạn.
Quy định quy tắc ứng xử văn hoá trong trường đối với học sinh:
- Quan hệ bạn bè mật thiết, cởi mở trên tinh thần động viên tích cực học
tập, rèn luyện;
- Không phát ngôn bừa bãi, lời nói, diễn đạt có văn hoá;
- Hàng ngày đến trường, lớp, bạn bè chào hỏi thân thiện, vui vẻ;
- Có thái độ kính trên nhường dưới, sẵn sàng chia sẻ với mọi người;
- Khi gặp thầy cô giáo, cán bộ nhân viên chào hỏi niềm nở;
- Tuyệt đối không gây gỗ, xích mích, xâm phạm thân thể lẫn nhau;
- Có thái độ bình tĩnh khi đề nghị thầy cô giáo, cán bộ nhân viên trong
nhà trường giải quyết các vấn đề quyền lợi của bản thân;
- Tự giác sửa chữa lỗi lầm khi vi phạm các điều trong nội quy của nhà trường;
- Luôn có ý thức xây dựng và bảo vệ trường lớp ngày càng sạch đẹp hơn;
- Có ý thức tham gia bảo vệ các công trình văn hoá, di tích lịch sử của địa
phương;
- Khi có khách đến thăm trường phải biết chào hỏi lịch sự;
- Mỗi học sinh cần phải có ý thức học tập và rèn luyện kỹ năng sống.
18
- Thành lập văn phòng tư vấn các vấn đề trong đời sống của học sinh (tình yêu,
tình bạn, cuộc sống thực tại, cung cách ứng xử trong các mối quan hệ). Văn phòng do
Đoàn thanh niên phụ trách, mời các chuyên gia có uy tín và có kỹ năng tư vấn trong
từng lĩnh vực. Có như vậy, đối tượng tư vấn sẽ nghe theo, tin theo và làm theo.
3.5. Tăng cường vai trò của Hiệu trưởng trong việc xây dựng nhà trường
văn hoá
Muốn có được một NTVH Hiệu trưởng cần phải chú trọng: xây dựng cho
mỗi cá nhân GV và HS những ý thức và hành vi đạo đức mới phù hợp với

những chuẩn giá trị của một xã hội văn minh và tiến bộ; xây dựng mối quan hệ
đạo đức trong sáng, nuôi dưỡng các giá trị nhân văn. Để làm được điều đó mỗi
Hiệu trưởng nhà trường phải không ngừng phấn đấu học hỏi vươn lên trong
cuộc sống để tiếp thu, tiếp cận những cái mới, cái tốt, cái hiện đại hơn, khoa học
hơn. Phải xây dựng và cụ thể hoá được các chương trình hành động và kế hoạch
hoạt động xây dựng nhà trường văn hoá của Nhà trường.
- Hiệu trưởng cần xây dựng bầu không khí dân chủ, cởi mở, hợp tác, cùng
chia sẻ hỗ trợ lẫn nhau; mọi người đều được tôn trọng, luôn được coi trọng và có
cơ hội thể hiện, phát triển các khả năng của mình, xây dựng cơ chế giám sát,
đánh giá, khen thưởng hợp lý thúc đẩy mọi người nỗ lực làm việc.
- Mỗi CBQL,GV,NV trong trường đều phải có bản mô tả công việc, nêu
rõ trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ của mình.
- Hiệu trưởng phải tăng cường dự giờ, trao đổi chuyên môn với giáo viên
đứng lớp về cách dạy và học, làm cho học sinh biết là các em được yêu thương,
được quan tâm chăm sóc. Cố gắng đảm bảo cho học sinh có một tương lai xứng
đáng với sự đầu tư của cha mẹ các em.
- Hiệu trưởng chia sẻ quyền lực, mạnh dạn trao quyền cho giáo viên trong đó
đề cao vai trò lãnh đạo hoạt động dạy và học của giáo viên, cho mọi người thấy một
hiệu trưởng đầy nhiệt tâm, luôn trách nhiệm và tình yêu thương học trò.
- Hiệu trưởng nên có mặt thường xuyên ở trường và trong lớp học; tham
dự càng nhiều những sinh hoạt của học sinh thì càng tốt.
- Hiệu trưởng thường xuyên trau dồi kỹ năng giao tiếp; lắng nghe tất cả mọi
người, khuyến khích phụ huynh học sinh tham gia vào các hoạt động giáo dục của
nhà trường và làm cho phụ huynh hiểu rõ vai trò của họ. Hiệu trưởng luôn suy nghĩ
để học hỏi, để đổi mới và nâng cao uy tín của mình trong nhà trường.
19
Nhà trường văn hoá là nhà trường mà ở đó các quy tắc ứng xử cao đẹp
được xã hội chấp nhận và mọi người tuân thủ một cách thường xuyên trở thành
chuẩn mực, niềm tin của cộng đồng. Xây dựng NTVH là tạo lập trong giáo viên
và học sinh nếp nghĩ, hành vi ứng xử và mối quan hệ tốt đẹp giữa người với

người; gắn việc kế thừa giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu giá trị văn
hoá mới của thời đại, chống lại cái xấu, cái giả dối. Khẳng định cái đúng, cái tốt
đẹp, xây dựng bầu không khí lành mạnh kích thích sự nỗ lực của mỗi cá nhân.
3.6. Tăng cường các biện pháp giáo dục hành vi văn hoá cho học sinh
Giáo dục hành vi văn hoá cho học sinh trong nhà trường là giáo dục cho họ
một tinh thần tự ý thức, tự đánh giá và vai trò điều chỉnh của lương tâm, trong
cách ứng xử và trong hoạt động thực tiễn.
3.6.1. Trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản về đạo đức, chuẩn
mực đạo đức mà xã hội yêu cầu; giúp các em nhận thức được những giái trị đạo
đức mà thời đại đang quan tâm. Cái chính yếu nhất là phải nêu cao các giá trị
của văn hoá học đường. Những khẩu hiệu “ Tiên học lễ, hậu học văn”, “ Tôn sư
trọng đạo”, “ Tất cả vì học sinh thân yêu” phải cấp thiết giữ gìn và nêu cao.
3.6.2. Coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng đạo đức cho học
sinh là nhiệm vụ hàng đầu trong nhà trường.
Ngày nay cùng với sự phát triển của xã hội, những chuẩn mực, giá trị đạo đức
đã có những thay đổi theo những chiều hướng khác nhau. Nhiều chuẩn mực đạo đức
mới được hình thành, nhiều giá trị truyền thống được bổ sung và ít nhiều có sự thay
đổi. Nếu không có sự định hướng đúng học sinh dễ bị mất phương hướng trong việc
lựa chọn các giá trị phù hợp với yêu cầu của xã hội. Giáo dục chính trị tư tưởng đạo
đức cho học sinh hướng vào việc làm cho học sinh nhận thức một cách rõ ràng và đầy
đủ những chuẩn mực đạo đức truyền thống và hiện đại phù hợp, cái gì gìn giữ, cái gì
cần bổ sung, tiếp thu để vừa phù hợp với con người Việt Nam nhưng không lỗi thời so
với sự phát triển của nhân loại.
3.6.3. Tổ chức rèn luyện cho học sinh thói quen hành vi phù hợp với những
chuẩn mực đạo đức xã hội.
Mục đích của quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh là biến sự hiểu biết
về đạo đức thành những hành vi đạo đức cụ thể và những hành vi ấy phải trở
thành thói quen, thành ý thức thường trực trong cuộc sống hàng ngày.
Những hiểu biết về đạo đức, những xúc cảm tình cảm đạo đức của học
sinh là cơ sở tâm lý để rèn luyện những thói quen về hành vi đạo đức cho họ. Để

làm được điều đó nhà giáo dục phải biết cách tổ chức và đặt ra những yêu cầu cụ
20
thể hướng học sinh rèn luyện thói quen theo những yêu cầu đó, đồng thời phải
thường xuyên theo dõi giám sát, kịp thời điều chỉnh những hành vi không phù
hợp, chuyển hoá những hành vi tự phát thành những hành vi đạo đức. Thường
xuyên tổ chức cho học sinh tham gia vào các hoạt động xã hội: các hoạt động về
nguồn, đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc người tàn tật, trẻ mồ côi… từ đó mà khơi
dậy tinh thần vì cộng đồng, vì con người của học sinh.
3.6.4. Tổ chức những sân chơi lành mạnh bổ ích, thu hút học sinh tham gia
như: câu lạc bộ thể dục thể thao, câu lạc bộ văn hoá văn nghệ, câu lạc bộ bộ
môn… góp phần ngăn chặn và chống lại các tệ nạn xã hội đang có nguy cơ lây
lan vào trường học.
3.6.5. Tăng cường xây dựng trật tự kỷ cương trong trường học: xử lý
nghiêm và công bằng những hành vi vi phạm đạo đức của học sinh. Làm cho
học sinh ngày càng tự hào về ngôi trường mà mình đang học tập và rèn luyện,
gắn bó suốt đời với tất cả lương tâm trách nhiệm và vì sự tôn vinh mà xã hội đã
dành cho họ.
3.6.6. Phối hợp chặt chẽ với gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo
dục văn hoá học đường cho học sinh.
Gia đình là môi trường xã hội đầu tiên giáo dục hình thành về các chuẩn
mực đạo đức, đặc biệt là các chuẩn mực truyền thống về trách nhiệm và nghĩa vụ
của một con người, của một thành viên xã hội (về cách ứng xử người với người).
Cần kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường, xã hội trọng việc giáo dục
đạo đức cho học sinh. Việc coi nhẹ một yếu tố nào đều làm suy giảm hiệu quả của
việc giáo dục học sinh. Bác Hồ đã nói: “Giáo dục nhà trường dù tốt đến đâu nhưng
thiếu giáo dục gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”.
Ở phạm vị xã hội, cần tạo nên một dư luận xã hội lành mạnh ủng hộ khuyến
khích các hành vi mang tính đạo đức và lên án mạnh mẽ các hành vi mang tính phi
đạo đức, lệch chuẩn của học sinh, sinh viên. Khi dư luận xã hội lên tiếng mạnh mẽ
thì các hành vi lệch chuẩn, phi đạo đức sẽ giảm và không xuất hiện.

Giáo dục hành vi văn hoá học đường có vai trò to lớn trong việc hình
thành và phát triển nhân cách học sinh. Trong tình hình hiện nay, giáo dục hành
vi văn hoá cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và cấp bách. Đây là
một việc làm có tính chất lâu dài và không hề đơn giản trước những làn sóng
nhiễu của thời kỳ hội nhập và cơ chế thị trường. Tuy nhiên, nếu xác định đúng
và biết sử dụng hợp lý các biện pháp cùng với sự chung tay của cả cộng đồng thì
chúng ta sẽ có cả một thế hệ vừa hông vừa chuyên.
21
3.7. Tăng cường các nguồn lực và cơ sở vật chất các hoạt động xây dựng
NTVH
Tài chính là một trong những nhân tố quyết định tới kết quả của mọi hoạt động.
Muốn hoạt động xây dựng NTVH ở các trường THPT đạt kết quả cần
phải có sự đầu tư về kinh phí một cách hợp lý.
Nguồn lực, vốn đầu tư cho các hoạt động xây dựng nhà trường nói chung và
xây dựng NTVH nói riêng hiện nay ở các cơ sở giáo dục đều còn có nhiều khó
khăn. Để thực hiện được giải pháp này các nhà trường phải có kế hoạch huy động
vốn từ các nguồn: nguồn do Ngân sách Nhà nước và nguồn vốn huy động từ trong
nhân dân địa phương đóng góp. Cần chú trọng thực hiện tốt chủ trương xã hội hoá
các hoạt động văn hoá - giáo dục, khuyến khích nhân dân tích cực tham gia đóng
góp vào quỹ xây dựng trường và xây dựng các công trình văn hoá.
Trên thực tế, các nhà trường đã tập trung đầu tư kinh phí trang bị cơ sở
vật chất đảm bảo có đầy đủ phòng học cho học sinh, các phòng chức năng đạt
yêu cầu chuẩn với các thiết bị dạy học hiện đại, sân chơi có nhiều cây xanh bóng
mát tạo một khung cảnh sư phạm nhà trường luôn xanh- sạch- đẹp. Song so với
nhu cầu của giáo dục hiện đại thì cơ sở vật chất của các nhà trường ở ta vẫn
đang còn rất khiêm tốn vì vậy đây cũng là một vấn đề buộc các nhà quản lý các
cơ sở giáo dục phải quan tâm đầu tư.
3.8. Phát huy sức mạnh tổng hợp của giáo viên và học sinh trong trường
làm chuyển biến mạnh mẽ cuộc vận động xây dựng NTVH
Mỗi thành viên trong trường phải nhận thức được đầy đủ và đúng đắn xây

dựng NTVH không của riêng ai mà là trách nhiệm, nghĩa vụ, là trí tuệ, công sức
của mỗi thành viên trong trường.
- Thông qua hội thảo, sinh hoạt tổ chuyên môn, các đoàn thể, họp hội đồng
sư phạm hàng tháng, sinh hoạt chủ nhiệm, lồng ghép trong bộ môn…mỗi thành
viên trong trường góp ý kiến về các giải pháp cụ thể để xây dựng tốt các mối
quan hệ; mỗi người xây dựng cho mình lối sống trong sáng lành mạnh, trách
nhiệm, ngay thẳng, bao dung; lòng tự chủ, tự giác, tự trọng, tự chịu trách nhiệm
và biết hy sinh cho quyền lợi chung. Không ngừng học tập bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ; tác phong làm việc khoa học, nhanh nhẹn, kịp thời, nói đi đôi
với làm; hành vi, cử chỉ, điệu bộ mẫu mực mô phạm.
- Biết ứng xử với từng cá nhân: con người - con người; thầy- thầy, thầy -
trò, trò - trò, trong đó vai trò của người thầy là chủ đạo trong mọi ứng xử. Biết
22
ứng xử với tập thể: nhà trường - xã hội; nhà trường - phụ huynh; nhà trường -
với địa phương (với chính quyền, đoàn thể, di tích lịch sử, công trình công
cộng…). Biết ứng xử với môi trường: con người – môi trường; vệ sinh cá nhân,
vệ sinh công cộng, trồng và chăm sóc cây xanh, sử dụng và bảo vệ cơ sở vật
chất kỹ thuật, danh lam thắng cảnh…
Cụ thể hơn:
- Mỗi giáo viên phải tham gia có hiệu quả vào các phong trào thi đua “
giảng dạy tốt, học tập tốt, tổ chức quản lý và phục vụ đời sống tốt” theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh và cuộc vận động “ trung thành - sáng tạo - tận tuỵ
- gương mẫu”, “Kỷ cương - tình thương - trách nhiệm”, “ đền ơn đáp nghĩa”, “
Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”; “Xây
dựng nếp sống văn minh trong cơ quan”; “Không hút thuốc lá trong trường
học”; “Đảm bảo an toàn giao thông”; “An toàn vệ sinh lao động”; “An toàn vệ
sinh thực phẩm”; vệ sinh môi trường, xây dựng nhà trường “Xanh - Sạch -
Đẹp”, xây dựng gia đình văn hoá.
- Bên cạnh việc truyền thụ kiến thức văn hoá, mỗi giáo viên còn có nhiệm
vụ giáo dục rèn luyện học sinh về mặt phẩm chất, đạo đức để học sinh không chỉ

có kiến thức mà còn có cách sống, cách ứng xử văn hoá.
- Bản thân mỗi CBGV NV tích cực tham gia đăng ký xây dựng đơn vị có
đời sống văn hoá tốt, văn minh - sạch đẹp - an toàn; vận động phụ huynh tích
cực tham gia xây dựng nhà trường xanh - sạch - đẹp, văn minh.
- Mỗi CBGV NV đăng ký xây dựng ít nhất một điểm sáng văn hoá tại cơ
quan.
- Tích cực đăng ký xây dựng gia đình văn hoá ở khu dân cư, phấn đấu đạt
gia đình văn hoá tiêu biểu.
- Cùng với các phong trào thi đua xây dựng nếp sống văn minh cơ quan;
xây dựng cơ quan “ Xanh- Sạch-Đẹp” và các hoạt động xã hội khác. Qua đó mỗi
giáo viên đều nhận thức được rằng chỉ có thể bằng hành động mới làm cho
người lao động tự khẳng định được mình trong thực tiễn cuộc sống và công tác,
do vậy mỗi thành viên trong nhà trường đều được phân công đảm nhiệm những
công việc nhất định để phấn đấu vươn lên dần dần đạt tới mục tiêu “Trường ra
trường, lớp ra lớp”, là nguồn động viên, cổ vũ mọi người hết lòng vì sự nghiệp
“trồng người”.
23
4. Khảo sát mức độ cần thiết và tính khả thi của các giải pháp
Thăm dò sự cần thiết và tính khả thi của các giải pháp đề xuất tác giả tiến
hành trưng cầu ý kiến của 9 HT, PHT; 47 TTCM, TPCM; 100 GV của 3 trường
THPT tổng số phiếu trưng cầu ý kiến là 156. Phiếu trưng cầu đề nghị các HT,
PHT; TTCM, TPCM; GV đánh giá ở 3 mức độ: Rất cần thiết, cần thiết, không
cần thiết; Rất khả thi, khả thi, không khả thi. Kết quả được thể hiện như sau:
T
T
Nội dung giải pháp
Tính cần thiết
(%)
Tính khả thi
(%)

Rất
cần
thiết
Cần
thiết
Không
cần
thiết
Rất
khả
thi
Khả
thi
Không
khả
thi
1 Nâng cao nhận thức cho CBGV NV và HS về
vai trò, tầm quan trọng của nhiệm vụ xây
dựng NTVH
80,1 28,9 0 87,2 12,8
0
2 Định hình hệ thống các giá trị cốt lõi của
NTVH
82,7 17,3 0 86,5 13,5
0
3 Tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng,
hiệu quả quản lý của Ban giám hiệu trong
thực hiện nhiệm vụ xây dựng NTVH
82,7 17,3 0 80,1 28,9
0

4 Xây dựng và thực hiện các quy tắc ứng xử
văn hoá trong nhà trường
87,2 12,8 0 87,2 12,8
0
5 Tăng cường vai trò của Hiệu trưởng trong
việc xây dựng nhà trường văn hoá
86,5 13,5 0 86,5 13,5
0
6 Tăng cường các biện pháp giáo dục hành vi
văn hoá cho học sinh
82,7 17,3 0 80,1 28,9
0
7 Tăng cường các nguồn lực và cơ sở vật chất
các hoạt động xây dựng NTVH
86,5 13,5 0 73,7 26,3
0
8 Phát huy sức mạnh tổng hợp của giáo viên và
học sinh trong trường làm chuyển biến mạnh
mẽ cuộc vận động xây dựng NTVH
73,7 26,3 0 82,7 17,3
0
Qua kết quả thăm dò đánh giá ở bảng trên cho thấy các HT, PHT; TTCM,
TPCM; GV đa số nhất trí cao các giải pháp xây dựng NTVH mà chúng tôi đề
xuất. Hầu hết các đối tượng được khảo sát đều cho rằng các giải pháp đề xuất ở
trên đều rất cần thiết và đều mang tính khả thi.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
24
I. KẾT LUẬN:
Môi trường văn hoá nhà trường đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc
hình thành và phát triển nhân cách đạo đức học sinh. Văn hoá học đường gần

đây đang đứng trước những nguy cơ bị xâm hại bởi mặt trái của nền kinh tế thị
trường. Cụ thể, đạo đức trong học đường đang có nguy cơ xuống cấp. Học sinh
rơi vào những tệ nạn xã hội, bạo lực học đường; không kính trọng thầy cô, xem
thường bạn bè, mọi người xung quanh; không hiếu thảo với ông bà cha mẹ;
thiếu tính nhân đạo…Tất cả điều đó đặt ra cho mỗi nhà trường nhiệm vụ cấp
bách là phải xây dưng văn hoá nhà trường, để hướng tới xây dựng Nhà trường
văn hoá giáo dục và đào tạo toàn diện học sinh đáp ứng yêu cầu xã hội.
Qua nghiên cứu cơ sở lý luận và phân tích thực trạng hoạt động xây dựng
NTVH tác giả đề tài đã đề xuất 8 giải pháp xây dựng NTVH ở trường THPT gồm:
- Nâng cao nhận thức cho CBGV NV và HS về vai trò, tầm quan trọng
của nhiệm vụ xây dựng NTVH;
- Định hình hệ thống các giá trị cốt lõi của NTVH;
- Tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, hiệu quả quản lý của Ban
giám hiệu trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng NTVH;
- Xây dựng và thực hiện các quy tắc ứng xử văn hoá trong nhà trường;
- Tăng cường vai trò của Hiệu trưởng trong việc xây dựng NTVH;
- Tăng cường các biện pháp giáo dục hành vi văn hoá cho học sinh;
- Tăng cường các nguồn lực và cơ sở vật chất các hoạt động xây dựng NTVH;
- Phát huy sức mạnh tổng hợp của GV và HS trong mỗi nhà trường làm
chuyển biến mạnh mẽ cuộc vận động xây dựng NTVH;
Nội dung của các giải pháp, điều kiện và khả năng thực thi đều được phân
tích kỹ và đặt trong nhiều tương quan. Có thể thấy ở đây, có những vấn đề thuộc
về nhận thức của người quản lý, có những vấn đề thuộc về các hoạt động cụ thể
có thể lượng hoá. Từ kết quả nghiên cứu có thể kết luận đề tài đã thực hiện được
mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu và giả thuyết khoa học của đề tài.
II. KIẾN NGHỊ
1. Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo:
- Tổ chức các lớp tập huấn bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ quản lý và giáo
viên về giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
25

×