MỤC LỤC
Công tác tổ chức, chỉ đạo thực hiện các chủ trương, chính sách liên quan đến đầu tư của chính
quyền nhiều nơi còn thiếu kiên quyết, chưa thực sự tâm huyết. Công tác cải cách thủ tục hành
chính thực hiện chậm, trong thời gian dài chưa có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa nhà đầu tư
với các cơ quan chức năng và giữa các cơ quan chức năng với nhau. Tình trạng ở trên thì
thông thoáng, ở các cấp cơ sở thì ách vẫn còn diễn ra 68
Công tác theo dõi, đánh giá thực hiện các dự án đầu tư, cấp phép xây dựng (nhất là các dự án
nằm ngoài các khu, cụm công nghiệp) còn chưa được chú trọng. Do đó, việc phát hiện và xử lý
các dự án vi phạm về tiến độ thực hiện dự án, vi phạm trong sử dụng đất đai và bảo vệ môi
trường còn chậm 69
Công tác quy hoạch các khu, cụm công nghiệp đã được chú trọng nhưng chưa thực sự ổn
định nhất là đối với cụm công nghiệp ở các huyện, quy hoạch thiếu đồng bộ và chưa có cơ chế
quản lý rõ ràng; tiến độ GPMB ở một số nơi chậm dẫn tới tỷ lệ hấp thụ vốn đầu tư của các dự
án còn thấp 69
II. KIẾN NGHỊ 104
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Công tác tổ chức, chỉ đạo thực hiện các chủ trương, chính sách liên quan đến đầu tư của chính
quyền nhiều nơi còn thiếu kiên quyết, chưa thực sự tâm huyết. Công tác cải cách thủ tục hành
chính thực hiện chậm, trong thời gian dài chưa có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa nhà đầu tư
với các cơ quan chức năng và giữa các cơ quan chức năng với nhau. Tình trạng ở trên thì
thông thoáng, ở các cấp cơ sở thì ách vẫn còn diễn ra 68
Công tác tổ chức, chỉ đạo thực hiện các chủ trương, chính sách liên quan đến đầu tư của chính
quyền nhiều nơi còn thiếu kiên quyết, chưa thực sự tâm huyết. Công tác cải cách thủ tục hành
chính thực hiện chậm, trong thời gian dài chưa có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa nhà đầu tư
với các cơ quan chức năng và giữa các cơ quan chức năng với nhau. Tình trạng ở trên thì
thông thoáng, ở các cấp cơ sở thì ách vẫn còn diễn ra 68
Công tác theo dõi, đánh giá thực hiện các dự án đầu tư, cấp phép xây dựng (nhất là các dự án
nằm ngoài các khu, cụm công nghiệp) còn chưa được chú trọng. Do đó, việc phát hiện và xử lý
các dự án vi phạm về tiến độ thực hiện dự án, vi phạm trong sử dụng đất đai và bảo vệ môi
trường còn chậm 69
Công tác theo dõi, đánh giá thực hiện các dự án đầu tư, cấp phép xây dựng (nhất là các dự án
nằm ngoài các khu, cụm công nghiệp) còn chưa được chú trọng. Do đó, việc phát hiện và xử lý
các dự án vi phạm về tiến độ thực hiện dự án, vi phạm trong sử dụng đất đai và bảo vệ môi
trường còn chậm 69
Công tác quy hoạch các khu, cụm công nghiệp đã được chú trọng nhưng chưa thực sự ổn
định nhất là đối với cụm công nghiệp ở các huyện, quy hoạch thiếu đồng bộ và chưa có cơ chế
quản lý rõ ràng; tiến độ GPMB ở một số nơi chậm dẫn tới tỷ lệ hấp thụ vốn đầu tư của các dự
án còn thấp 69
Công tác quy hoạch các khu, cụm công nghiệp đã được chú trọng nhưng chưa thực sự ổn
định nhất là đối với cụm công nghiệp ở các huyện, quy hoạch thiếu đồng bộ và chưa có cơ chế
quản lý rõ ràng; tiến độ GPMB ở một số nơi chậm dẫn tới tỷ lệ hấp thụ vốn đầu tư của các dự
án còn thấp 69
II. KIẾN NGHỊ 104
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Sau 15 năm tái lập tỉnh, Bắc Giang từ một tỉnh có điểm xuất phát thấp, cơ cấu
kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội yếu kém.
Với định hướng phát triển kinh tế - xã hội đúng đắn, định hướng thu hút đầu tư phù
hợp, đến nay tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Giang đã từng bước phát triển
và có tốc độ tăng trưởng khá cao, bình quân giai đoạn 2006-2010 là 9%/năm, cơ cấu
kinh tế chuyển biến tích cực, tỷ trọng công nghiệp - dịch vụ tăng, giảm tỷ trọng
nông nghiệp, tổng vốn đăng ký đầu tư giai đoạn 2006-2010 đạt 393,51 triệu USD và
25.275,7 tỷ đồng. Nghị quyết số 43-NQ/TU ngày 22/02/2011 của Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh Bắc Giang về về ban hành 5 Chương trình phát triển kinh tế - xã hội
trọng tâm, giai đoạn 2011-2015, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
XVII, có chương trình đẩy mạnh thu hút đầu tư, phát triển công nghiệp – dịch vụ,
đặt ra mục tiêu về tăng trưởng GDP bình quân hàng năm từ 11-12%/năm, trong đó
công nghiệp tăng 20,5-21,5%/năm, vốn đầu tư thực hiện giai đoạn 2011-2015 đạt
32.700 tỷ đồng, trong đó vốn doanh nghiệp trong nước đạt khoảng 18.900 tỷ đồng,
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt khoảng 13.800 tỷ đồng.
Trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, tình hình suy thoái kinh
tế thế giới ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế của
hầu hết các quốc gia, mà Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ, thì xu hướng
suy giảm nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
vào Việt Nam nói chung và tỉnh Bắc Giang nói riêng đang đặt ra nhiều thách
thức. Để đạt được mục tiêu trên, có nhiều giải pháp được đưa ra, trong đó giải pháp
cải thiện môi trường đầu tư có ý nghĩa quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư, đặc
biệt là nguồn vốn đầu tư nước ngoài FDI, nguồn vốn đầu tư trong nước của các
doanh nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Giang, tôi lựa
chọn đề tài: “Cải thiện môi trường đầu tư trên địa bàn tỉnh Bắc Giang trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ” sẽ đánh giá được thực trạng môi trường đầu
tư trên địa bàn tỉnh để từ đó đề ra định hướng, giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa
1
tính hấp dẫn của môi trường đầu tư đối với các nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh, đặc
biệt là các nhà đầu tư nước ngoài trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu
Bàn về vấn đề môi trường đầu tư, đã có một số công trình khoa học đề cập
đến. Song các công trình này mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu môi trường đầu tư
đối với từng lĩnh vực cụ thể, và ở một số tỉnh cụ thể. Đối với tỉnh Bắc Giang, hiện
nay chưa có các đánh giá, nghiên cứu một các tổng thể và khoa học về môi trường
đầu tư của tỉnh. Cụ thể:
Đề tài Cải thiện môi trường thu hút vốn đầu tư ở tỉnh Hoà Bình, Tác giả Đỗ
Hải Hồ, đưa ra cơ sở lý luận và thực tiễn về cải thiện môi trường thu hút vốn đầu tư
trong nền kinh tế thị trường, nêu ra thực trạng môi trường thu hút vốn đầu tư ở tỉnh
Hoà Bình từ đó đưa ra các giải pháp chủ yếu nhằm cải thiện môi trường thu hút vốn
đầu tư ở tỉnh Hoà Bình trong thời gian tới.
Đề tài Cải thiện môi trường đầu tư ở tỉnh Thái Nguyên trong quá trình Công
nghiệp hoá, Hiện đại hoá. Tác giả Nguyễn Thu Hà đã đề cập đến cơ sở lý luận về
môi trường đầu tư, đưa ra thực trạng môi trường đầu tư tỉnh Thái Nguyên trên cơ sở
đó đề ra định hướng và giải pháp cải thiện môi trường đầu tư tỉnh Thái Nguyên
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đề tài Cải thiện môi trường đầu tư tỉnh Nghệ An. Tác giả Hoàng Anh Dũng đã
đề cập đến cơ sở lý luận về môi trường đầu tư, đưa ra thực trạng môi trường đầu tư
tỉnh Nghệ An. Phân tích tình hình hiện trạng các nhân tố môi trường đầu tư của tỉnh
Nghệ An giai đoạn 2006-2010, qua đó rút ra những kinh nghiệm cho giai đoạn
2011-2015; Đề xuất những giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư để thu hút
đầu tư vào phát triển kinh tế - xã hội của Nghệ An đến 2015.
Đề tài Cải thiện môi trường đầu tư để tăng cường thu hút vốn đầu tư nước
ngoài ở Việt Nam hiện nay. Tác giả Nguyễn Văn Hảo đã đề cập đến cơ sở lý luận về
môi trường đầu tư và thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, đưa ra
định hướng và giải pháp cỉa thiện môi trường đầu tư để tăng cường thu hút vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam.
2
Đề tài Hoàn thiện môi trường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở thành phố
Hà nội, tác giả Đinh Thi Phương Mai đã đề cập đến vấn đề thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài và hoàn thiện môi trường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, đưa ra
định hướng và giải pháp cơ bản hoàn thiện môi trường thu hút FDI và triển vọng
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở thành phố Hà Nội.
Tuy nhiên, dưới giác độ kinh tế chính trị chưa có công trình nào nghiên cứu
toàn diện về lý luận cũng như xem xét sự ảnh hưởng của môi trường đầu tư đến sự
phát triển kinh tế, xã hội của địa phương trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Vì vậy, Đề tài Cải thiện môi trường đầu tư ở tỉnh Bắc Giang trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế hy vọng sẽ đóng góp thêm vào lý luận và thực tiễn để tạo thêm
động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương trong thời kỳ hội nhập
kinh tế quốc tế
3. Mục đích nghiên cứu:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về môi trường đầu tư và cải thiện môi trường đầu tư.
- Phân tích những yếu tố của môi trường đầu tư ảnh hưởng đến hoạt động thu
hút đầu tư của tỉnh, từ đó đưa ra định hướng và đề xuất giải pháp cải thiện môi
trường đầu tư trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Các vấn đề liên quan đến cơ chế, chính sách, điều
kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực, các định
hướng, nghị quyết liên quan đến cải thiện môi trường đầu tư và tình hình thu hút
đầu tư trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu các vấn đề về cải thiện môi
trường đầu tư trên địa bàn tỉnh Bắc Giang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Phạm vi thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu về môi trường đầu tư và
hoạt động cải thiện môi trường đầu tư của tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn 2005-
2010, từ đó đưa ra định hướng và đề xuất giải pháp cải thiện môi trường đầu tư của
tỉnh Bắc Giang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
3
5. Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng để phân tích đánh giá môi trường
đầu tư tại tỉnh Bắc Giang. Kết hợp với phương pháp tổng hợp, phương pháp phân
tích, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp hệ thống để rút ra
những vấn đề chung nhất.
Sử dụng phương pháp khảo sát, điều tra thực tế để khẳng định những phân
tích, đánh giá và nhằm để xác định cơ sở thực tiễn, khẳng định hiện thực của những
giải pháp đề ra.
6. Những đóng góp của luận văn:
Thứ nhất: Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về môi trường đầu tư.
Thứ hai: Đánh giá được thực trạng môi trường đầu tư của tỉnh Bắc Giang
Thứ ba: Đưa ra định hướng và đề xuất giải pháp cải thiện môi trường đầu tư
nhằm tăng cường thu hút đầu tư phát triển tỉnh Bắc Giang.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn được kết cấu gồm 3 chương
- Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về cải thiện môi trường đầu tư trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Chương 2. Thực trạng môi trường đầu tư tỉnh Bắc Giang
- Chương 3. Định hướng và giải pháp cải thiện môi trường đầu tư trên địa bàn
tỉnh Bắc Giang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIẾN VỀ CẢI THIỆN MÔI
TRƯỜNG ĐẦU TƯ TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH
TẾ QUỐC TẾ
1.1. Những vấn đề cơ bản về môi trường đầu tư trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế
1.1.1. Môi trường đầu tư: Khái niệm và phân loại
1.1.1.1. Khái niệm môi trường đầu tư
Môi trường đầu tư là một thuật ngữ đã được đề cập nghiên cứu trong lĩnh vực
kinh tế và quản trị kinh doanh ở nhiều nước trên thế giới. Tại Việt Nam khi chuyển
đổi sang nền kinh tế thị trường, thực thi chính sách đổi mới mở cửa nền kinh tế hội
nhập với thế giới, thu hút vốn đầu tư nước ngoài thì vấn đề môi trường đầu tư mới
được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn và vấn đề cải thiện môi trường đầu tư được
đặt ra như là một giải pháp cho phát triển kinh tế, hội nhập kinh tế thế giới và thực
thi các cam kết của Việt Nam với quốc tế. Theo nghĩa chung nhất môi trường đầu
tư là tổng hoà các yếu tố bên ngoài liên quan đến hoạt động đầu tư.
Theo World Bank, môi trường đầu tư là tập hợp những yếu tố đặc thù địa
phương đang định hình cho các cơ hội và động lực để doanh nghiệp đầu tư có
hiệu quả tạo, tạo việc làm và mở rộng sản xuất. Tập hợp những yếu tố đặc thù
này bao gồm hai thành phần chính sách của Chính phủ và các yếu tố khác liên
quan đến quy mô thị trường và ưu thế địa lý. Hai thành phần này tác động đến ba
khía cạnh liên quan đến nhà đầu tư là: chi phí cơ hội của vốn đầu tư; mức độ rủi
ro trong đầu tư; những rào cản về cạnh tranh trong quá trình đầu tư
Tuy nhiên môi trường đầu tư được nghiên cứu và xem xét theo nhiều cách
khác nhau, tùy thuộc vào mục đích, phạm vi, đối tượng nghiên cứu và cách tiếp
cận vấn đề. Với phạm vi nhất định, có thể nghiên cứu môi trường đầu tư của một
doanh nghiệp, một ngành, môi trường đầu tư trong nước, môi trường đầu tư khu vực
và môi trường đầu tư quốc tế. Nhưng nếu tiếp cận môi trường đầu tư theo một khía
5
cạnh, một yếu tố cấu thành nào đó thì ta lại có môi trường pháp lý, môi trường công
nghệ, môi trường kinh tế… Chính vì vậy, trong thực tiễn và lý luận có nhiều quan
niệm khác nhau về môi trường đầu tư nhưng có thể hiểu môi trường đầu tư như sau:
Thứ nhất: Môi trường đầu tư là tổng hợp các yếu tố, điều kiện về pháp luật,
kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội, các yếu tố về cơ sở hạ tầng, năng lực thị trường
và cả các lợi thế của một quốc gia…có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động đầu tư
của các nhà đầu tư tại một quốc gia.
Thứ hai: Môi trường đầu tư là một tập hợp các yếu tố có tác động tới các cơ
hội, các ưu đãi, các lợi ích của các doanh nghiệp khi đầu tư mới, mở rộng sản xuất
kinh doanh, các chính sách của chính phủ có tác động chi phối tới hoạt động đầu tư
thông qua chi phí, rủi ro, cạnh tranh…
Những yếu tố tác động đến lợi ích của các nhà đầu tư khi đưa ra quyết định
đầu tư là: Cơ sở thượng tầng hay vĩ mô nền kinh tế, ổn định chính trị, các chính
sách về ngoại thương và đầu tư nước ngoài, hệ thống luật pháp hiệu quả và minh
bạch, các thủ tục khi tiến hành hoạt động kinh doanh, nguồn nhân lực, quyền sở hữu
tài sản, hệ thống thuế, tài chính và một số quy định liên quan tới môi trường, y tế,
an ninh và các vấn đề khác liên quan tới cộng đồng, cơ sở hạ tầng kỹ thuật như
điện, nước, giao thông vận tải, thông tin liên lạc, dịch vụ tài chính ngân hàng, trình
độ lao động…
Như vậy môi trường đầu tư bao gồm tất cả các điều kiện liên quan đến kinh tế,
chính trị, hành chính, cơ sở hạ tầng tác động đến hoạt động đầu tư và kết quả hoạt
động của doanh nghiệp. Rất nhiều các vấn đề ảnh hưởng tới đầu tư đối với các
doanh nghiệp nhất là các vấn đề liên quan đến chính sách như tài chính, tín dụng,
chính sách thương mại, chính sách thị trường lao động, các quy định, cơ sở hạ tầng,
các vấn đề liên quan đến thu mua và tiêu thụ, chính sách thuế, chính sách phát triển
các khu công nghiệp và các vấn đề liên quan đến hỗ trợ kỹ thuật và tài chính khác.
1.1.1.2. Phân loại môi trường đầu tư
Quá trình đầu tư được tiến hành qua nhiều giai đoạn khác nhau và bị ảnh
hưởng bởi nhiều yếu tố kể từ lúc bắt đầu nghiên cứu xác định địa điểm đầu tư cho
6
đến khi vận hành sản xuất nhằm thu được lợi nhuận. Trong nghiên cứu tại Các vấn
đề ảnh hưởng tới đầu tư, Wim P.M Vijverberg đã đưa ra quan điểm về môi trường
đầu tư bao gồm tất cả các điều kiện liên quan đến kinh tế, chính trị, hành chính, kết
cấu hạ tầng tác động đến hoạt động đầu tư và kết quả hoạt động của doanh nghiệp…
Các vấn đề ảnh hưởng tới đầu tư đối với các doanh nghiệp nhất là các vấn đề liên
quan đến chính sách như: chính sách tài chính, tín dụng; chính sách thị trường lao
động; chính sách thuế; chính sách thương mại, các quy định, kết cấu hạ tầng và các
vấn đề liên quan đến thu mua, tiêu thụ; chính sách phát triển các khu công nghiệp và
các vấn đề liên quan đến hỗ trợ kỹ thuật và tài chính khác.
Chính vì thế xét về ảnh hưởng của môi trường đầu tư đến quyết định đầu tư
của các doanh nghiệp thì căn cứ theo tiêu chí phạm vi tác động đến đầu tư của các
doanh nghiệp có thể phân chia thành môi trường bên trong và môi trường bên
ngoài. Tuy nhiên theo nhiều nhà kinh tế, môi trường đầu tư có thể chia ra môi
trường cứng và môi trường mềm.
+ Môi trường cứng liên quan tới các yếu tố thuộc vị trí địa lý và điều kiện
tự nhiên; cơ sở hạ tầng phục vụ cho sự phát triển kinh tế, gồm: hệ thống hạ tầng
giao thông (đường sá, cầu cảng hàng không, cảng biển…), hệ thống thông tin
liên lạc, hệ thống hạ tầng các khu cụm công nghiệp, hệ thống điện, nước, kho
bãi, năng lượng…
+ Môi trường mềm bao gồm: Hệ thống các dịch vụ hành chính, dịch vụ
pháp lí có liên quan đến hoạt động đầu tư (đặc biệt các vấn liên quan đến chế độ
đối xử và giải quyết các tranh chấp, khiếu nại); hệ thống các dịch vụ tài chính -
ngân hàng, kế toán và kiểm toán…
1.1.2. Tính chất của môi trường đầu tư
- Thứ nhất, môi trường đầu tư có tính khách quan:
Mỗi một yếu tố cấu thành môi trường đầu tư đều vận hành theo một quy
luật nội tại của nó có thể tạo ra những điều kiện thuận lợi hoặc gây ra những rủi
ro cho hoạt động của doanh nghiệp. Do vậy, trong quá trình triển khai các hoạt
động, doanh nghiệp cần rà soát các yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp đến
7
hoạt động sản xuất, kinh doanh và dự báo mức độ ảnh hưởng để ứng phó kịp
thời. Có như vậy, doanh nghiệp mới tồn tại và phát triển đi lên nhằm tiến đến
mục tiêu đã đề ra. Môi trường đầu tư tồn tại một cách khách quan, một mặt tạo ra
các ràng buộc cho các hoạt động đầu tư, mặt khác lại tạo ra những cơ hội thuận
lợi cho các nhà đầu tư, vì vậy ở đâu có hoạt động sản xuất kinh doanh thì ở đó có
môi trường đầu tư.
- Thứ hai, môi trường đầu tư có tính tổng hợp:
Tính tổng hợp ở chỗ nó bao gồm nhiều yếu tố cấu thành có quan hệ qua lại
ràng buộc lẫn nhau. Số lượng và những bộ phận cấu thành cụ thể của môi trường
đầu tư tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trình độ quản lý và ngay
chính những bộ phận cấu thành môi trường đầu tư.
- Thứ ba, môi trường đầu tư có tính đa dạng:
Sự đan xen của các môi trường thành phần, các yếu tố của các môi trường thành
phần có tác động và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau, do đó khi nghiên cứu và phân tích môi
trường đầu tư phải xem xét tổng thể trong mối tương quan giữa các môi trường thành
phần và giữa các yếu tố với nhau, hơn nữa giữa các môi trường lại có đặc trưng riêng của
từng loại.
- Thứ tư, môi trường đầu tư có tính động:
Môi trường đầu tư bao gồm nhiều yếu tố cấu thành, bản thân các yếu tố đó
luôn có mối quan hệ qua lại và tương tác lẫn nhau theo từng cấp độ và phạm vi khác
nhau. Mỗi sự thay đổi của một yếu tố cấu thành đều tác động lên các yếu tố còn lại
và tác động đến hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Sự vận động và biến đổi này chịu tác động của các quy luật vận động nội tại
của từng yếu tố cấu thành môi trường đầu tư và của nền kinh tế, chúng vận động và
biến đổi bởi ngay nội tại của hoạt động đầu tư cũng là một quá trình vận động trong
một môi trường thay đổi không ngừng. Các yếu tố và điều kiện của môi trường đầu
tư tác động đến hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư hay doanh nghiệp một cách
thường xuyên vận động. Do đó, sự ổn định của môi trường đầu tư chỉ mang tính
tương đối hay ổn định trong sự vận động. Các nhà đầu tư muốn nâng cao hiệu quả
đầu tư cần có được một dự báo về sự thay đổi của môi trường đầu tư, để từ đó có
8
các quyết định đầu tư chuẩn xác phù hợp với môi trường đầu tư.
Mặt khác để cải thiện môi trường đầu tư ta phải tìm cách ổn định các yếu tố
của môi trường đầu tư trong xu thế luôn vận động của nó và phải cải thiện nó liên
tục. Nói cách khác là khi nghiên cứu và phân tích môi trường đầu tư phải đứng trên
quan điểm động, phải xem xét và phân tích các yếu tố của môi trường đầu tư trong
trạng thái vừa vận động vừa tác động tương hỗ lẫn nhau, tạo thành những tác lực
chính cho sự vận động và phát triển của môi trường đầu tư.
- Thứ năm, môi trường đầu tư có tính hệ thống:
Mối liên hệ và chịu tác động của các yếu tố thuộc môi trường rộng lớn hơn,
theo từng cấp độ như: môi trường đầu tư ngành, môi trường đầu tư quốc gia, môi
trường đầu tư quốc tế…Trong một môi trường ổn định, mức độ biến đổi của các
yếu tố thấp và có thể dự báo trước được, còn trong môi trường càng phức tạp thì các
nhà đầu tư càng khó đưa ra những quyết định hiệu quả.
Sự ổn định của môi trường đầu tư còn phụ thuộc vào tính phức tạp và tính biến
động của các môi trường tương tác, tính phức tạp của môi trường đầu tư còn có đặc
trưng của một loạt các yếu tố có ảnh hưởng đến các quyết định của nhà đầu tư. Do
đó tính phức tạp của môi trường đầu tư cần phải được coi trọng khi xem xét các yếu
tố, điều kiện của môi trường đầu tư kinh doanh tổng quát vì nó có nhiều yếu tố
ngoại cảnh và yếu tố khách quan tác động tới các nhà đầu tư.
1.1.3. Các yếu tố cấu thành môi trường đầu tư
Việc đưa ra quyết định đầu tư của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào các
nhân tố, song có thể nói căn cứ để doanh nghiệp so sánh lựa chọn đầu tư giữa các
quốc gia hay giữa các vùng, lãnh thổ trong cùng một quốc gia là: Yếu tố về môi
trường chính trị, pháp lý; yếu tố kinh tế vĩ mô; yếu tố cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật;
yếu tố công nghệ; điều kiện xã hội và chất lượng nguồn nhân lực…
1.1.3.1. Yếu tố về môi trường chính trị, pháp lý
Sự ổn định về chính trị thể hiện sự nhất quán trong chủ trương, đường lối chính
sách cơ bản của nhà nước luôn nhằm hướng tới một mục tiêu chiến lược của quốc
gia. Thực tế cho thấy sự thành công hay thất bại trong việc thu hút các nhà đầu tư phụ
9
thuộc rất nhiều vào sự ổn định về chính trị nhưng cũng tuỳ vào điều kiện kinh tế - xã
hội cụ thể của từng nước mà hệ thống luật pháp của mỗi nước có sự hấp dẫn đầu tư
khác nhau. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, sự ổn định này còn phụ thuộc
vào các mối quan hệ quốc tế thể hiện sự nhất trí, hợp tác hay đối đầu giữa quốc gia
với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới từ đó ảnh hưởng đến sự phân biệt đối
xử của quốc gia với “quốc tịch” của các nguồn vốn. Vì thế, nơi tiếp nhận đầu tư càng
ổn định về chính trị và thể chế thì càng có khả năng thu hút được nhiều vốn đầu tư,
đặc biệt là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Điều chỉnh hành vi kinh doanh của các nhà đầu tư, các quốc gia đều có một hệ
thống luật quy định rõ các nhà đầu tư hay các doanh nghiệp được đầu tư kinh doanh
sản phẩm hàng hóa, dịch vụ gì, cấm mặt hàng gì, nghĩa vụ và quyền lợi của các nhà
đầu tư. Hệ thống các công cụ chính sách và những quy định của nhà nước có liên
quan đến những hoạt động đầu tư kinh doanh như: chính sách tài chính, tiền tệ,
chính sách thu nhập, chính sách xuất nhập khẩu, chính sách phát triển kinh tế nhiều
thành phần… các cơ chế chính sách, cơ chế quản lý và các thủ tục hành chính để
thực hiện, các điều kiện cần đáp ứng đối với dự án đầu tư và cả các vấn đề về hành
lang pháp lý đảm bảo cho việc thực hiện được dự án đầu tư như:
Các yếu tố về cơ chế chính sách đầu tư, tạo hành lang pháp lý để thực hiện dự
án đầu tư bao gồm các bộ Luật và các văn bản pháp quy dưới luật do nhà nước ban
hành, văn bản pháp quy của các Bộ ngành Trung ương và UBND tỉnh ban hành.
Thủ tục hành chính là một yếu tố rất quan trọng góp phần tạo nên sự thành
công của môi trường đầu tư. Thủ tục hành chính càng đơn giản, gọn nhẹ, rõ ràng thì
sức hút của môi trường đầu tư đối với các nhà đầu tư nước ngoài càng lớn. Thủ tục
hành chính cũng như cách hành xử của mỗi địa phương là khác nhau, vì vậy mới có
những nơi mà nhà đầu tư gặp phải rất nhiều khó khăn trong việc xin cấp giấy phép
đầu tư, đăng ký kinh doanh…. Sự đơn giản hóa các thủ tục hành chính sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong quá trình đăng ký triển khai thực hiện dự án đầu
tư cũng như giảm các chi phí cả về vật chất và thời gian của nhà đầu tư, tạo dựng
được độ tin cậy của các nhà đầu tư; ngược lại, sẽ làm gia tăng sự quan ngại của các
10
doanh nghiệp, các nhà đầu tư.
1.1.3.2. Yếu tố kinh tế vĩ mô
Một nền kinh tế ổn định, có sức tăng trưởng thực dương, tỷ lệ lạm pháp thấp,
tài chính lành mạnh, thị trường lớn và khả năng tiêu thụ cao… là những điều kiện lý
tưởng để các nhà đầu tư yên tâm bỏ vốn đầu tư lâu dài. Trong môi trường kinh tế
thuận lợi, ổn định, nhà đầu tư có điều kiện mở rộng sản xuất, xây dựng chiến lược
dài hạn nhằm củng cố và phát triển doanh nghiệp của mình.
Tăng trưởng kinh tế được coi là việc mở rộng sản lượng tiềm năng của một
quốc gia trong một giai đoạn nhất định. Khi kinh tế tăng trưởng thì các yếu tố điều
kiện kinh tế sẽ rất thuận lợi cho các nhà đầu tư. Nó tạo ra nhiều cơ hội trong kinh
doanh và ngược lại nếu kinh tế kém phát triển với tỷ lệ lạm phát cao, nó sẽ tác động
tiêu cực tới nhà đầu tư. Chu kỳ phát triển kinh tế là sự thăng trầm về khả năng tạo ra
của cải cho nền kinh tế trong những giai đoạn nhất định.
Sức mua của thị trường là yếu tố gắn bó với đặc điểm của cộng đồng dân cư ở
từng địa phương, nó bao gồm các thành phần như cấu trúc dân số, dân tộc, tôn giáo,
trình độ văn hoá, giáo dục, đặc tính tâm lý, cơ cấu nghề nghiệp… là những yếu tố
cơ bản hình thành cầu thị trường và quy mô thị trường về sản phẩm hàng hoá hoặc
dịch vụ do đó ảnh hưởng trực tiếp đến sức mua của các sản phẩm kinh doanh.
Môi trường đầu tư lành mạnh đòi hỏi phải có một sự ổn định kinh tế vĩ mô
nhất định. Lạm phát thấp, thâm hụt ngân sách ở mức chấp nhận được và hệ thống tỷ
giá hối đoái thực là những chỉ số phản ánh sự ổn định kinh tế vĩ mô. Lạm phát cao
và sự thăng trầm của tỷ giá hối đoái là hai nhân tố của sự bất ổn kinh tế vĩ mô. Ảnh
hưởng của hai yếu tố này đặc biệt nghiêm trọng đối với những đối tượng có mức
thu nhập cố định, giá trị của tài sản và có rất ít các phương tiện để tự bảo vệ mình
trước sự giảm sức mua của đồng tiền, nó ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đối với
nhà đầu tư. Môi trường đầu tư Việt Nam được coi là tương đối hấp dẫn, an toàn và
có lợi thế lâu dài trong khu vực Châu Á- Thái Bình Dương. Việt Nam luôn được
đánh giá cao về một số yếu tố: ổn định về chính trị - xá hội, nhân công cần cù và chi
phí rẻ, vị trí địa lý thuận lợi cho thấy Việt Nam được coi là điểm đầu tư hấp dẫn đối
11
với các nhà đầu tư.
1.1.3.4. Yếu tố cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng bao gồm mạng lưới giao thông, vận tải, mạng lưới thông tin liên
lạc, bưu chính - viễn thông, hệ thống cung cấp năng lượng, cấp thoát nước, các công
trình công cộng phục vụ sản xuất kinh doanh như cảng biển, sân bay,…Cơ sở hạ
tầng tốt là một trong các yếu tố quan trọng giúp giảm chi phí gián tiếp trong sản
xuất kinh doanh của các nhà đầu tư. Thực tế phát triển tại các tỉnh cho thấy các
dòng vốn chỉ đổ vào nơi nào có hạ tầng phát triển, đủ khả năng phục vụ cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư.
Mạng lưới giao thông đóng góp một phần quan trọng vào phát triển kinh tế.
Nó phục vụ cho việc cung ứng vật liệu, tiêu thụ sản phẩm, quan trọng nhất là các
đầu mối giao thông tiếp giáp với thế giới như cảng biển, cảng hàng không. Các
tuyến đường giao thông trọng yếu cũng là cầu nối giao lưu phát triển kinh tế giữa
các địa phương của một quốc gia. Một mạng lưới giao thông đa phương tiện và hiện
đại sẽ giúp các nhà đầu tư giảm được hao phí chuyên chở không cần thiết.
Hệ thống thông tin liên lạc là nhân tố quan trọng hàng đầu trong bối cảnh bùng
nổ thông tin như hiện nay, khi mà thông tin về tất cả các biến động trên thị trường ở
mọi nơi được truyền tải liên tục trên thế giới. Thiếu thông tin, nắm bắt thông tin
chậm, khai thác thông tin không đúng sẽ đánh mất cơ hội làm ăn. Môi trường đầu tư
hấp dẫn dưới con mắt của nhà đầu tư đó là môi trường có hệ thống thông tin liên lạc
và cước phí rẻ.
Ngoài ra hệ thống cung cấp năng lượng và nước sạch đảm bảo cho việc sản
xuất quy mô lớn và liên tục, các dịch vụ này không đáp ứng được nhu cầu sản xuất
liên tục thì sẽ gây rất nhiều trở ngại cho nhà đầu tư.
1.1.3.5. Yếu tố khoa học công nghệ
Một trong những yếu tố quan trọng tham gia vào hoạt động đầu tư là máy
móc, trang thiết bị phục vụ sản xuất, nhưng năng suất và hiệu quả sản xuất lại
phụ thuộc vào hàm lượng công nghệ tích tụ trong quá trình chế tạo ra chúng.
12
Cho nên công nghệ là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động và yếu
tố quyết định đến hiệu quả của dự án đầu tư. Nhà đầu tư cần tìm hiểu và lựa chọn
công nghệ có trình độ cao với giới hạn khả năng tài chính cho phép trên thị
trường công nghệ với mục tiêu là sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao
nhất để đáp ứng nhu cầu thị trường.
Trình độ phát triển khoa học công nghệ của nước ta đa số vẫn lạc hậu hơn
so với khu vực. Tiến bộ công nghệ chủ yếu thông qua chuyển giao công nghệ mà
phổ biến là nhập khẩu máy móc thiết bị và nhập khẩu nước ngoài. Hoạt động
chuyển giao khoa học công nghệ rất hạn chế. Hệ thống thông tin và dịch vụ
KHCN chưa làm tốt vai trò trung gian, thúc đẩy sự trao đổi thông tin giữa bên
cung cấp công nghệ và bên có nhu cầu đổi mới công nghệ.
1.1.3.6. Yếu tố nguồn nhân lực
Bên cạnh đó chính các yếu tố này ảnh hưởng đến trình độ nhận thức của con
người từ đó quyết định chất lượng của đội ngũ nhân lực - một trong những yếu tố
đầu vào quan trọng phục vụ cho quá trình đầu tư và quyết định kết quả đầu tư.
Trong giai đoạn vừa qua lợi thế về lao động giá rẻ, nguồn lao động dồi dào cũng là
một số đặc điểm thuận lợi để thu hút đầu tư. Tuy nhiên, với đặc điểm của các nhà
đầu tư này là sản xuất các mặt hàng thủ công, lao động chủ yếu là phổ thông, chưa
qua đào tạo, công nghệ thấp, chủ yếu là hàng gia công, giá trị kinh tế thấp… Vì vậy
mà đến nay nhiều địa phương đã không còn thu hút các nhà đầu tư trên mà có sự lựa
chọn theo hướng thu hút các nhà đầu tư có công nghệ cao, sản xuất các sản phẩm
đem lại giá trị kinh tế lớn, ít ảnh hưởng đến môi trường…
Một thị trường lao động dồi dào, trình độ của lực lượng lao động có tay nghề
cao có thể ảnh hưởng tạo nên một môi trường đầu tư tốt sẽ thu hút đầu tư nhiều, từ
đó nhu cầu lao động tăng và những yêu cầu đặt ra về trình độ năng lực của lực
lượng lao động cũng gia tăng. Yếu tố này sẽ có tác động đáng kể tới động cơ kích
thích công nhân đầu tư vào tăng cường kỹ năng của riêng mình. Hiệu quả của thị
trường lao động trong việc gắn con người với những công việc hữu ích là thiết yếu
13
cho tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Chính sách thị trường lao động là những biện pháp của Nhà nước và địa
phương đảm bảo khả năng cung ứng lao động cho các dự án đầu tư và cho các
doanh nghiệp. Đó là việc tiến hành các biện pháp giúp cho người lao động có điều
kiện tiếp cận dễ dàng với nhu cầu lao động của các doanh nghiệp, thực hiện hỗ trợ
đào tạo lao động có trình độ chuyên môn thấp hoặc chưa có trình độ và đảm bảo thu
nhập cũng như phúc lợi cho người lao động… Từ đó giúp cho các doanh nghiệp và
các dự án có được lực lượng lao động có chất lượng để tiến hành sản xuất, kinh
doanh và mang lại hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp và góp phần giải quyết việc
làm, nâng cao đời sống cho người dân địa phương, đồng thời cũng góp phần làm
giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp, tăng khả năng cạnh tranh
của sản phẩm trên thị trường, giúp cho doanh nghiệp có thể thu được nhiều lợi
nhuận hơn.
1.2. Nội dung, nhân tố ảnh hưởng và sự cần thiết cải thiện môi trường
đầu tư trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
1.2.1. Nội dung cải thiện môi trường đầu tư trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế
Sự thuận lợi từ môi trường đầu tư sẽ thu hút nguồn vốn đầu tư và nâng cao
hiệu quả của đầu tư vì các mục tiêu kinh doanh và phát triển kinh tế. Cải thiện môi
trường đầu tư là sự tác động có chủ đích của con người vào các yếu tố của môi
trường nhằm làm cho các yếu tố này vận động gây ra tác động tích cực đến quá
trình và kết quả đầu tư. Muốn cải thiện được môi trường đầu tư cần nắm được nội
dung, bản chất và quy luật vận động của từng yếu tố thuộc môi trường đầu tư, trên
cơ sở đó triển khai các hoạt động cụ thể để cải biến môi trường. Vì thế cải thiện môi
trường đầu tư được tiến hành trên cơ sở cải thiện từng yếu tố, cụ thể như sau:
1.2.1.1. Cải thiện môi trường pháp lý, tạo dựng môi trường cạnh tranh minh bạch
Tất cả các quan hệ (trong đó có quan hệ kinh tế) phát sinh cùng với hoạt động
của con người trong cộng đồng nhất định thường chịu chi phối bởi hệ thống các quy
tắc, quy định, luật pháp, chính sách, sự ổn định của thể chế và chính trị… của Nhà
14
nước và địa phương. Tất cả những yếu tố đó hình thành môi trường pháp lý. Môi
trường này có tính vĩ mô nên cũng ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp.
Với tư cách là một chủ thể tiến hành các hoạt động kinh tế, doanh nghiệp chịu
tác động của môi trường pháp lý. Những vấn đề có liên quan đến pháp lý của doanh
nghiệp như trách nhiệm pháp lý, quyền lợi hợp pháp, thực hiện các hợp đồng, khiếu
kiện, giải quyết tranh chấp…Vì lí do đó, chủ sở hữu vốn không những phải nắm
vững những yếu tố của môi trường này mà còn phải dự báo được những thay đổi có
thể xảy ra để điều chỉnh các hoạt động đầu tư. Những bất ổn định kinh tế, chính trị
không chỉ làm cho dòng vốn đầu tư bị chững lại, thu hẹp, mà còn làm cho dòng vốn
này từ trong nước, địa phương chảy ngược ra ngoài, tìm đến những nơi trú ẩn mới
an toàn và hấp dẫn hơn.
Để thu hút đầu tư, trước hết hệ thống luật pháp đầu tư của nước sở tại phải
đảm bảo sự an toàn về vốn và cuộc sống cá nhân cho nhà đầu tư nếu hoạt động đầu
tư của họ không làm phương hại đến an ninh quốc gia và môi trường cạnh tranh
lành mạnh
Đối với hệ thống luật pháp, thực tế cho thấy sự thành công hay thất bại trong
việc hấp dẫn các nhà đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống này. Tuy nhiên, tuỳ
vào điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể của từng nước mà hệ thống luật pháp của mỗi
nước có sự hấp dẫn đầu tư khác nhau. Nếu hệ thống pháp luật của một nước càng
đồng bộ, rõ ràng, chặt chẽ, không có sự chồng chéo, phù hợp với hệ thống luật pháp
và thông lệ quốc tế thì khả năng thu hút đầu tư của nước, địa phương đó sẽ càng cao
và ngược lại.
Cùng hoạt động trong một môi trường có rất nhiều doanh nghiệp hay dự án
vận hành có cả các doanh nghiệp, dự án cùng hoạt động trong một ngành hoặc có
những dự án, doanh nghiệp có sản phẩm có thể thay thế cho nhau hoặc có những dự
án, doanh nghiệp sử dụng giống nhau một số yếu tố đầu vào. Vì lẽ đó, giữa các dự
án hay các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động có thể xảy ra tình trạng tranh
giành khách hàng khi tiêu thụ sản phẩm hoặc tranh giành nhau những yếu tố đầu
vào. Các dự án, doanh nghiệp có thể thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đặc
15
biệt có những doanh nghiệp, dự án thuộc thành phần kinh tế Nhà nước hoặc có vốn
góp của nhà nước cho nên trong quá trình hoạt động sẽ được hưởng những đặc ân
và đặc quyền giúp họ luôn chiến thắng trong cạnh tranh vì lẽ đó sẽ làm méo mó các
quy tắc cạnh tranh và phương hại đến các thành viên khác trên thị trường sẽ không
khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác phát triển và làm
hạn chế nguồn vốn đầu tư.
Vì lí do đó, môi trường pháp lý thuận lợi phải thể hiện được vai trò đảm bảo
khả năng thực thi của hệ thống pháp luật thông qua việc bảo vệ những quyền và lợi
ích hợp pháp của các pháp nhân đối với tài sản của họ. Trong bối cảnh sự tiến bộ
của khoa học kỹ thuật ngày càng gia tăng, giá trị tài sản của doanh nghiệp tăng lên
nhanh chóng đặc biệt là các tài sản vô hình như nhãn hiệu, bản quyền, bằng phát
minh, sáng chế… do quá trình lao động trí óc tạo ra lại rất dễ bị đánh cắp và vi
phạm dưới sức ép cạnh tranh ở trên thị trường. Cho nên, một vấn đề đặt ra cho môi
trường pháp lý là việc thực hiện bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với tài sản của
doanh nghiệp. Do đó, cần phải xây dựng Luật bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và đưa ra
các quy định, chế tài phù hợp để thực hiện quyền này của các doanh nghiệp.
Nhận thức được tầm quan trọng của hệ thống luật pháp trong việc thu hút đầu
tư, nhiều nước trên thế giới đã liên tục thay đổi, bổ sung thêm các văn bản, luật
hướng dẫn, đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ cũng như tính công khai, minh bạch của
hệ thống luật pháp để hướng đến môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động đầu
tư. Chính sự cải biến hệ thống luật pháp, chính sách của các nước trên thế giới hiện
nay đang dần tiến đến các thông lệ chung và điều đó tạo ra điều kiện hoạt động dễ
dàng cho các nhà đầu tư ở mọi quốc gia trên thế giới. Hơn thế nữa, việc cải thiện
môi trường này còn mang tính chất cạnh tranh giữa các quốc gia trên thế giới.
1.2.1.2. Cải cách thủ tục hành chính, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
Thực hiện cải cách hành chính, cải tiến quy trình, thủ tục; chấn chỉnh, nâng
cao năng lực, trình độ, tinh thần phục vụ của đội ngũ cán bộ công chức; tuyên
truyền, vận động, tạo sự chuyển biến về nhận thức của các cấp, các ngành, các địa
phương và nhân dân đối với chủ trương thu hút đầu tư, từ đó tạo sự đồng tình ủng
16
hộ của toàn xã hội đối với các nhà đầu tư trong quá trình triển khai các dự án. Khi
đầu tư các nhà đầu tư đều được hưởng đầy đủ các chính sách ưu đãi ở mức cao nhất
mà Chính phủ quy định. Về tiếp cận quy hoạch và quỹ đất ở địa phương… Lãnh
đạo luôn coi những khó khăn của nhà đầu tư là khó khăn của chính mình, để các dự
án đầu tư được triển khai trong thời gian sớm nhất, mau chóng đi vào sản xuất, kinh
doanh và thu được kết quả như mong muốn, giúp nhà đầu tư yên tâm làm ăn.
Để đánh giá hiệu quả công tác cải thiện môi trường đầu tư cần có các tiêu chí
để đo lường sự thay đổi tích cực về môi trường đầu tư do sự quản lý, giám sát của
các cơ quan chức năng ở từng địa phương. Những tiêu chí đánh giá này sẽ đánh giá
sự nỗ lực của bộ máy hành chính trong việc cải biến môi trường đầu tư để thu hút
các tổ chức, cá nhân đến địa phương tiến hành hoạt động đầu tư. Các tiêu chí đó là:
Một là, sự nhạy cảm kinh tế và hiếu khách của lãnh đạo địa phương.
Hai là, có nơi cung cấp thông tin đầu tư ban đầu một cửa rõ ràng và tin cậy.
Ba là, thời gian cấp phép nhanh, các thủ tục đơn giản.
Bốn là, hỗ trợ hiệu quả của các cơ quan chức năng trong quá trình hoạt động.
Năm là, trả lời nhanh chóng của các cơ quan nhà nước đối với các yêu cầu của
nhà đầu tư và doanh nghiệp.
Sáu là, môi trường thân thiện giữa các Sở, ban ngành với doanh nghiệp.
Bảy là, thực hiện đối thoại chính sách thường xuyên và có hiệu quả giữa nhà
đầu tư, doanh nghiệp với lãnh đạo.
Tám là, có nhiều các nhà cung cấp dịch vụ phát triển kinh doanh.
1.2.1.3. Cải thiện môi trường kinh tế
Cải thiện môi trường kinh tế là yếu tố quan trọng quyết định tới môi trường
đầu tư, bất kỳ nền kinh tế nào cũng có chu kỳ, vì vậy cải thiện môi trường kinh tế
nhằm kéo dài chu kỳ phát triển kinh tế của một đất nước giúp cho các nhà đầu tư có
quyết định đầu tư phù hợp. Môi trường kinh tế phản ánh những đặc trưng của một
hệ thống kinh tế sẽ chi phối và tác động đến hoạt động của các nhà đầu tư. Trong
môi trường kinh tế, các yếu tố như tốc độ tăng trưởng kinh tế, các chính sách kinh
tế, chu kỳ kinh doanh, tỷ lệ lạm phát tỷ giá hối đoái, hệ thống tài chính, lao động,
17
cơ sở hạ tầng và tài nguyên giữ vai trò rất quan trọng.
Tăng trưởng kinh tế được coi là việc mở rộng sản lượng tiềm năng, và có
thể mở rộng quy mô sản xuất của một quốc gia trong một giai đoạn nhất định,
hay tăng trưởng kinh tế là một sự gia tăng khả năng sản xuất hàng hóa - dịch vụ
nhằm nâng cao mức sống của toàn xã hội. Khi kinh tế tăng trưởng thì các yếu tố
và điều kiện kinh tế sẽ rất thuận lợi cho các nhà đầu tư phát triển, nó sẽ tạo ra
rất nhiều cơ hội đầu tư và ngược lại nếu kinh tế kém phát triển sẽ có tác động
tiêu cực tới các nhà đầu tư.
Chính sách kinh tế thể hiện quan điểm, định hướng phát triển nền kinh tế của
cả nước, thông qua các chủ trương và chính sách nhà nước điều hành và quản lý
nền kinh tế và các doanh nghiệp hay các nhà đầu tư trên các phương diện quản lý
nhà nước về kinh tế. Các chính sách về kinh tế thể hiện những ưu đãi, khuyến khích
đối với một số khu vực, ngành, lĩnh vực kinh tế nào đó như Chính sách thương mại
cần phải được cải thiện thông thoáng theo hướng tự do hóa để đảm bảo khả năng
xuất - nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên liệu sản xuất, cũng như sản phẩm… tức
bảo đảm sự thuận lợi, kết nối liên tục các công đoạn hoạt động đầu tư. Chính sách
tiền tệ cần phải giải quyết được các vấn đề về chống lạm phát và ổn định tiền tệ.
Chính sách về lãi suất và tỷ giá tác động trực tiếp đến thu hút đầu tư, đó là những
yếu tố quyết định giá trị đầu tư và mức lợi nhuận thu được tại một thị trường xác
định. Một tỷ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế từng giai
đoạn thì khả năng thu lợi nhuận từ xuất khẩu càng lớn, sức hấp dẫn đầu tư càng lớn.
Chính sách về ưu đãi tài chính - tiền tệ dành cho vốn đầu tư nước ngoài trước
hết phải bảo đảm cho các chủ đầu tư tìm kiếm được lợi nhuận cao nhất trong điều
kiện kinh doanh chung của khu vực, của mỗi nước để khuyến khích họ đầu tư vào
trong nước và vào những nơi mà Chính phủ muốn khuyến khích đầu tư.
Chính sách ưu đãi về thuế chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong số các ưu đãi
tài chính dành cho các chủ đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy cần có
hệ thống thi hành rõ ràng, và đơn giản, dễ áp dụng và mức thuế không được quá
cao… Các thủ tục thuế cần phải được tinh giảm hợp lý, phải công khai và thuận lợi
18
cho đối tượng chịu thuế.
Chính sách tín dụng cùng với các dịch vụ tài chính, bảo lãnh của Chính phủ,
của các cơ quan tín dụng xuất khẩu và các tổ chức tài chính đa phương như Ngân
hàng thế giới (WB) đã, đang và sẽ đóng vai trò to lớn làm tăng dòng vốn đầu tư
nước ngoài, nhất là FDI tư nhân vào các nước có chính sách hấp dẫn. Ngược lại, tư
bản nước ngoài sẽ thận trọng hơn, thậm chí bỏ chạy nếu nước tiếp nhận đầu tư có
“độ tin cậy thấp về tín dụng”, rủi ro chính trị cao, phát triển kinh tế chậm, xuất khẩu
kém, nợ cao và bất ổn định về kinh tế vĩ mô…
1.2.1.4. Xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại và thúc đẩy ứng
dụng khoa học, công nghệ.
Cơ sở hạ tầng tốt sẽ kết nối doanh nghiệp với khách hàng và nhà cung ứng, cơ
sở hạ tầng tốt còn giúp các nhà cung ứng giảm được chi phí sản xuất, tạo ra được
những kỹ thuật sản xuất hiện đại. Tăng cường cơ sở hạ tầng như đường xá nông
thôn có thể giúp các doanh nghiệp đưa được hàng hóa của họ ra thị trường. Hệ
thống giao thông và cơ sở hạ tầng phát triển tạo thêm nhiều cơ hội để cho nhiều
doanh nghiệp có thể mua hàng hóa của các hộ nông dân. Trái lại, một cơ sở hạ tầng
yếu kém như hệ thống giao thông chưa hoàn chỉnh, phương tiện thông tin liên lạc
thiếu thốn và lạc hậu, hệ thống cung cấp năng lượng không đủ cho nhu cầu sẽ làm
nản lòng các nhà đầu tư. Những thiếu hụt trong cơ sở hạ tầng sẽ làm cản trở các
doanh nghiệp khai thác các cơ hội đầu tư. Chúng cũng là nguyên nhân cơ bản làm
tăng thêm chi phí cho các doanh nghiệp…do đó làm tăng thêm các nguy cơ rủi ro
mà doanh nghiệp phải gánh chịu.
Nhận thức được tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng trong thu hút vốn đầu tư nên
nhà nước ta luôn chú trọng tập trung cho việc cải thiện cơ sở hạ tầng theo hướng
ngày càng tạo thuận lợi hơn nữa cho các doanh nghiệp đầu tư. Nhà nước luôn dành
một tỷ trọng lớn vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng nhất là các công trình giao
thông vận tải. Các nguồn lực đầu vào phục vụ hoạt động của dự án đầu tư tuy được
trao đổi trên thị trường nhưng cung cấp thông qua hệ thống sơ sở hạ tầng sản xuất,
19
kỹ thuật cụ thể đó là: hệ thống năng lượng, giao thông, thông tin, cấp thoát nước,
ngân hàng, y tế, nhà xưởng và thiết bị…nhiều nguồn lực được nâng cấp như đường
giao thông, công trình điện, nước sạch, xây dựng hạ tầng các khu, cụm công nghiệp,
từng bước khắc phục những hạn chế về kết cấu hạ tầng, tạo chuyển biến tích cực
trong hoạt động thu hút đầu tư. Bên cạnh đó, lựa chọn các nhà đầu tư thực sự có
năng lực tài chính và công nghệ; hỗ trợ các doanh nghiệp trên địa bàn chủ động mở
rộng sản xuất, tìm kiếm thị trường đẩy mạnh xuất khẩu và tiêu thụ hàng hóa; có cơ
chế hỗ trợ di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường nằm xen kẽ trong các
khu dân cư và có cơ chế đặc thù đối với các dự án đầu tư xây dựng các trung tâm
thương mại.
Ngoài ra chính sách công nghệ cũng được phản ánh trong môi trường cơ sở hạ
tầng kỹ thuật thông qua các chỉ số như trình độ phát triển công nghệ, các yếu tố hạ
tầng công nghệ, hệ thống chính sách phát triển khoa học công nghệ, nguồn nhân lực
cho khoa học công nghệ…và hiện nay công nghệ là nhân tố có sự thay đổi mạnh mẽ
nhất trong môi trường kinh doanh có sực thách thức lớn và hấp dẫn mạnh đối với
các nhà đầu tư. Chính sách thu hút đầu tư các dự án lớn, các dự án sạch và các dự
án áp dụng khoa học công nghệ hiện đại như: điện tử, điện dân dụng, sản xuất ô
tô…là các dự án mang lại hiệu quả kinh tế lớn không chỉ cho nhà đầu tư mà cho cả
nền kinh tế.
1.2.1.5. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực và giá cả sức lao động, trình độ lao động và chính sách hỗ trợ
đào tạo và dạy nghề, trình độ giáo dục, chiến lược phát triển nguồn nhân lực của
chính phủ, của địa phương giữ một vai trò quan trọng tạo nên một môi trường tốt để
thu hút các nhà đầu tư. Vấn đề nguồn nhân lực và tay nghề của người lao động đang
là thách thức lớn đối với các nước đang phát triển. Ở các quốc gia đang phát triển
có lợi thế là nguồn nhân lực dồi dào, đội ngũ lao động trẻ, nhưng lại gặp phải một
khó khăn rất lớn đó là trình độ lao động qua đào tạo nghề chiếm tỷ trọng thấp. Do
vậy các nhà đầu tư rất khó khăn trong việc tuyển dụng lao động tại chỗ mà phải
20
thuê lao động từ các quốc gia khác, dẫn đến chi phí giá thành sản phẩm lên cao….
Chất lượng lao động là một lợi thế cạnh tranh đối với các nhà đầu tư vào lĩnh
vực có hàm lượng công nghệ cao hoặc có sử dụng công nghệ hiện đại. Ngoài ra yếu
tố văn hóa cũng ảnh hưởng tới yếu tố lao động như, sự cần cù trong lao động, tính
kỷ luật và ý thức trong lao động, hoạt động của các tổ chức cho người lao động như
công đoàn, hiệp hội…Như vậy, lao động là một trong những điều kiện thuận lợi hay
khó khăn cho các nhà đầu tư khi tiến hành kinh doanh, tuy nhiên để có một lực
lượng lao động tốt còn phụ thuộc vào hệ thống giáo dục và đào tạo, đào tạo nghề và
chiến lược phát triển nguồn nhân lực của chính phủ.
1.2.2. Nhân tố ảnh hưởng đến cải thiện môi trường đầu tư trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế
1.2.2.1. Xu hướng phát triển kinh tế quốc tế
Xu hướng phát triển kinh tế quốc tế là một trong những nội dung quan trọng
hàng đầu trong quá trình hội nhập quốc tế của nước ta. Nước ta là một nước đang
phát triển có trình độ kinh tế thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập,
doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé, sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch
vụ còn nhiều hạn chế, hệ thống chính sách kinh tế, thương mại chưa hoàn chỉnh
Phát triển kinh tế quốc tế ảnh hưởng đến sự phân công lao động đặt cơ sở cho
việc hình thành những nghề nghiệp chuyên môn, những ngành chuyên môn nhằm
nâng cao sức sản xuất. Sự phân công lao động trong xã hội khi đã phát triển đến
một trình độ nào đó thì sẽ dẫn đến sự phân công lao động ở tầm vi mô - các xí
nghiệp, các hãng sản xuất - điều này làm cho các giai đoạn sản xuất ra sản phẩm bị
chia nhỏ,sản phẩm được hoàn thiện về chất lượng, dễ dàng ứng dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật. Sự phân công lao động áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật làm việc sản
xuất đi vào chuyên môn hoá, nâng cao tay nghề của người sản xuất, tăng năng suất
lao động xã hội.
Sự phát triển kinh tế quốc tế đòi hỏi phải quan tâm đến Hiệp định về sở hữu trí
tuệ: có thể thấy rằng khi nộp đơn cho Tổ chức Thương mại thế giới, hệ thống sở
hữu trí tuệ của Việt Nam còn rất nhiều điểm chưa phù hợp. Quyền sở hữu trí tuệ
khuyến khích các hoạt động sáng tạo và đổi mới, chúng mang lại sự tin tưởng cho
21
chủ sở hữu khi chuyển giao kiến thức, công nghệ và bí quyết.
Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, sở hữu trí tuệ là một công cụ đắc lực đối
với việc phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia. Thực tiễn cho thấy, nhiều công
ty, nhiều doanh nghiệp trên thế giới đã rất thành công và trở nên nổi tiếng nhờ khai
thác có hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ. Đối với các doanh nghiệp nước ta, quyền sở
hữu trí tuệ cũng đóng một vai trò quan trọng, đặc biệt trong tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế hiện nay.
Xu hướng phát triển kinh tế quốc tế ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư, sử
dụng và quản lý ĐTNN, thực tế cho thấy việc quản lý đầu tư nhất là đầu tư nước
ngoài đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập. Đó là khả năng hấp thụ nguồn vốn còn
khiêm tốn, đồng nghĩa với việc chưa tận dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn này
trong khi Việt Nam đang có nhu cầu lớn về vốn; chất lượng của nguồn vốn chưa
cao; việc thu hút các dự án đầu tư công nghệ cao còn hạn chế; chuyển giao công
nghệ còn chậm; Hơn nữa trong giai đoạn hiện nay đánh giá của các nhà đầu tư quốc
tế đối với Việt Nam là thấp điểm hơn so với Thái Lan, Indonesia, Malaysia. Do đó,
Việt Nam đã và đang mất dần lợi thế cạnh tranh trong thu hút FDI so với các nước
trong khu vực.
Xu hướng phát triển kinh tế quốc tế ảnh hưởng đến sự phát triển của các ngành
công nghiệp hỗ trợ: Các ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam phát triển chậm,
chưa đáp ứng được nhu cầu về nguyên liệu đầu vào cho sản xuất của các doanh
nghiệp ĐTNN. Do đó, các doanh nghiệp phải nhập khẩu phần lớn các linh phụ kiện
đầu vào, làm tăng chi phí, giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
chưa đáp ứng được yêu cầu về việc hình thành chuỗi giá trị. Các dự án có công
nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường và tăng cường sự liên kết giữa các khu
vực; các ngành, lĩnh vực tạo ra các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm có khả
năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, như công nghệ cao, cơ khí,
công nghệ thông tin và truyền thông, dược, công nghiệp sinh học.
1.2.2.2. Hệ thống pháp luật minh bạch và phù hợp với sự phát triển của kinh
tế thị trường.
Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách liên quan đến đầu tư chưa đồng bộ, rõ
22
ràng, các văn bản pháp luật còn chồng chéo, tạo ra các cách hiểu khác nhau trong
quá trình áp dụng ở các cấp. Đi liền với những quy định chồng chéo, mâu thuẫn là
sự thường xuyên thay đổi, tính ổn định không cao của hệ thống văn bản dưới luật đã
làm giảm hiệu lực của văn bản luật, dẫn tới khó khăn trong việc thực hiện và tác
động xấu đến sự ổn định chính trị xã hội, nhất là quan hệ kinh tế và thu hút đầu tư.
Tính phù hợp của hệ thống pháp luật thể hiện ở nội dung của hệ thống pháp
luật luôn có sự tương quan với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Có
thể nói pháp luật là những nhu cầu cơ bản, điển hình và có tính phổ biến nhất của
đời sống kinh tế - xã hội được khái quát hoá, mô hình hoá dưới hình thức pháp lý cụ
thể thông qua hoạt động lý trí và ý chí của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do
vậy, sự phù hợp của các văn bản quy phạm pháp luật mà đặc biệt là của các văn bản
luật với các quy luật khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội là điều kiện vô
cùng quan trọng bảo đảm cho tính khả thi và hiệu quả của pháp luật. Phù hợp với
các quy luật và điều kiện kinh tế - xã hội sẽ làm cho pháp luật dễ dàng được thực
hiện, đồng thời cũng góp phần thúc đẩy, tạo điều kiện cho sự phát triển của kinh tế -
xã hội, trường hợp ngược lại, pháp luật khó được thực hiện trên thực tế, thậm chí có
thể cản trở hoặc gây ra những thiệt hại nhất định cho sự phát triển đó.
Một hệ thống pháp luật có chất lượng thì phải bảo đảm tính khả thi, nghĩa là
các quy định pháp luật phải có khả năng thực hiện được trong điều kiện kinh tế,
chính trị - xã hội hiện tại. Điều này đòi hỏi các quy định pháp luật phải được ban
hành phù hợp với trình độ phát triển của đất nước ở mỗi thời kỳ phát triển nhất
định. Nếu các quy định pháp luật được ban hành quá cao hoặc quá thấp so với các
điều kiện phát triển của đất nước thì đều có ảnh hưởng đến chất lượng của pháp
luật. Trong những trường hợp đó hoặc là pháp luật không có khả năng thực hiện
được hoặc là thực hiện không triệt để, không nghiêm, không phát huy hết vai trò tác
dụng của nó trong đời sống xã hội.
Quyền sở hữu trí tuệ đang khẳng định vai trò không thể thiếu trong quá trình
hình thành một nền kinh tế toàn diện và phát triển bền vững. Chứng chỉ về quyền sở
hữu trí tuệ là vật chứng bảo đảm cho thành công của mỗi doanh nhân tiến vào thị
trường thế giới. Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp nước ta
23